Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

LV Thạc sỹ_Phát triển hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm ngân hàng BIDV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.71 KB, 102 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong lịch sử hơn 40 năm của mình, có lẽ chưa có thời điểm nào ngành
bảo hiểm Việt Nam sôi động như hiện nay. Đất nước đang đứng trước một thời
kỳ mới - thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện, đặc biệt là kể từ
khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nền
kinh tế Việt Nam đã có những bước biến chuyển nhanh chóng và thay đổi một
cách rõ rệt. Sự phát triển của nền kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập đã mở
ra cho thị trường bảo hiểm Việt Nam những cơ hội mới.
Số lượng các công ty bảo hiểm tham gia thị trường ngày một nhiều, tốc độ
tăng trưởng doanh thu bình quân của các công ty bảo hiểm là 20%/năm. Doanh
thu tăng đồng nghĩa việc số vốn nhàn rỗi mà các công ty bảo hiểm tạm thời sở
hữu cũng ngày một tăng. Đây chính là nguồn vốn quan trọng mà các công ty bảo
hiểm có thể sử dụng để đầu tư trở lại nên kinh tế để sinh lợi.
Trong điều kiện nền kinh tế mở và thị trường chứng khoán đang ngày càng
trở nên sôi động như hiện nay, cơ hội đầu tư vốn để tăng lợi nhuận cho các công
ty bảo hiểm là rất lớn. Kinh nghiệm từ các nước khác cho thấy, phần lớn lợi
nhuận mà các công ty bảo hiểm thu được là từ hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu
tư càng được chú trọng, lợi nhuận mang lại càng nhiều thì các công ty bảo hiểm
càng có điều kiện để giảm phí, tăng cường công nghệ, nâng cao chất lượng dịch
vụ để thu hút khách hàng mua bảo hiểm. Qua đó mà uy tín, hình ảnh và khả năng
cạnh tranh của công ty bảo hiểm càng được tăng cường.
Tuy nhiên, hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam hiện nay
hầu như vẫn chưa được quan tâm một cách thoả đáng. Chỉ trừ một số công ty
bảo hiểm lớn như Bảo Việt, Prudential… hoạt động đầu tư đã được thực hiện
một cách bài bản, còn phần lớn các công ty bảo hiểm khác, đặc biệt là các công
ty bảo hiểm phi nhân thọ trong đó có Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam, hoạt động đầu tư mới chỉ dừng lại ở đầu tư tiền gửi có kỳ



2

hạn hoặc kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu nên hiệu quả đầu tư chưa cao và không
bền vững.
Vì vậy, phát triển hoạt động đầu tư là xu thế, là yêu cầu đối với tất cả các
công ty bảo hiểm , trong đó có Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam. Do đó, tác giả luận văn chọn đề tài: “Phát triển hoạt động đầu
tư của Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” làm đề
tài nghiên cứu
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu về hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động đầu tư của Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp phát triển hoạt động đầu tư của Công ty Bảo hiểm
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động đầu tư của công ty Bảo hiểm
- Phạm vi nghiên cứu là hoạt động đầu tư của Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giai đoạn 2006-2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết kết hợp với thực
tiễn, sử dụng các phương pháp toán học trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Những phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử đi từ lý luận đến thực tiễn, phương pháp thống kê để phân
tích, tổng hợp, so sánh số liệu, hệ thống hoá…trên cơ sở tào liệu, số liệu thống
kê kinh tế và số liệu thống kê của Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học:

- Hệ thống hoá lý luận về hoạt động đầu tư trong công ty bảo hiểm, làm rõ
các đặc trưng về nguồn vốn, về hạn mức và lĩnh vực đầu tư của công ty bảo hiểm


3

cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới kết quả hoạt động đầu tư của công ty bảo
hiểm.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư của Công ty Bảo hiểm Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm phát triển hoạt
động đầu tư của Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
trên cả hai phương diện quy mô và hiệu quả.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương như
trình bày sau:
CHƯƠNG I: Hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm
CHƯƠNG II: Thực trạng hoạt động đầu tư của Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CHƯƠNG III: Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam


4

CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM
1.1.

Tổng quan về công ty bảo hiểm


1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty bảo hiểm
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, loài người luôn
phải đối mặt với rất nhiều rủi ro, bất trắc như thiên tai, địch hoạ, tai nạn, bệnh
tật… và cao hơn nữa là những biến động về kinh tế, chính trị, xã hội… gây sáo
trộn cuộc sống, thậm chí đe doạ tới tính mạng và của cải của mình. Chính vì vậy,
con người luôn luôn tìm cách để bảo vệ mình khỏi những tác động không mong
muốn đó cũng như dự trữ tài chính để bù đắp cho những thiệt hại có thể xảy ra
nhằm nhanh chóng ổn định cuộc sống và công việc.
Ngay từ xa xưa, con người đã biết dự trữ lương thực để đề phòng mất
mùa, hạn hán…, đóng góp thành lập các quỹ dữ trữ chung cho cộng đồng để đề
phòng những thảm hoạ hoặc những tổn thất lớn liên tiếp ngoài sự chống đỡ của
mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Đời sống kinh tế xã hội của loài người càng phát
triển, các rủi ro tiềm ẩn mà loài người có thể gặp phải càng phức tạp, khó lường
và vì thế mà nhu cầu được bảo vệ, được an toàn của con người ngày càng cao.
Ngành bảo hiểm ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu đó của con người. Vậy bảo
hiểm là gì và nó đã hình thành và phát triển như thế nào?
Trên thực tế, hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm. Tuy
nhiên, khái niệm có nội dung đầy đủ và logic nhất đó là: “Bảo hiểm là một sự
thoả thuận hợp pháp thông qua đó, một cá nhân hay một tổ chức (người được
bảo hiểm) chấp nhận đóng góp một khoản tiền nhất định (phí bảo hiểm) cho một
tổ chức khác (công ty bảo hiểm) để đổi lấy những cam kết về khoản bồi thường
hoặc chi trả khi có sự kiện quy định trong văn bản thoả thuận (hợp đồng bảo
hiểm) xảy ra”. Vậy thực chất của hoạt động bảo hiểm là quá trình phân phối lại
tổng sản phẩm xã hội giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài
chính phát sinh khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm.


5


Ý niệm về dự trữ và nguồn gốc của bảo hiểm đã có từ hàng năm trước
công nguyên, nhưng hợp đồng bảo hiểm chính thức đầu tiên được phát hiện cho
đến nay được ký kết năm 1347 tại Italia. Đó là hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu
tiên. Sự ra đời của bảo hiểm và bảo hiểm hang hải đã có vai trò hỗ trợ rất lớn đối
với cuộc “cách mạng thương mại” diễn ra vào thế kỷ 15 khi châu Âu thực hiện
cuộc viễn chinh vào châu Á và châu Mỹ.
Tiếp theo bảo hiểm hàng hải, năm 1666, ở Anh đã xảy ra một vụ cháy lớn,
một thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử, đã thiêu huỷ trên 13.000 toà nhà, dẫn đến
nhu cầu bảo hiểm hoả hoạn trở nên cần thiết và đầu năm 1667, công ty bảo hiểm
hoả hoạn đầu tiên được thành lập tại nước Anh.
Dần dần, bảo hiểm đã được mở rộng với nhiều loại hình khác nhau như
bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm con người, bảo hiểm xe cơ
giới, bảo hiểm nông nghiệp…
Như vậy, bảo hiểm xuất hiện do sự tồn tại khách quan của các rủi ro và từ
mong muốn được bảo đảm an toàn về mặt tài chính của con người. Đó là một
hình thức phân tán rủi ro áp dụng theo nguyên lý cộng đồng. Bảo hiểm thực chất
là việc những người tham gia bảo hiểm đóng góp làm hình thành nên một quỹ
chung để từ đó thực hiện chi trả cho những trường hợp xảy ra rủi ro. Biến cố bất
trắc đối với các thành viên tham gia.
Ban đầu bảo hiểm ra đời một cách tự phát, một nhóm người đứng ra thu
phí và nhận trách nhiệm thanh toán bồi thường cho những người tham gia bảo
hiểm trong trường hợp rủi ro, quy mô bảo hiểm nhỏ và cũng chỉ ở một số lĩnh
vực hạn hẹp. Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, để đáp ứng các yêu
cầu bảo hiểm ngày càng đa dạng, với độ phức tạp ngày càng cao, đòi hỏi sự ra
đời của các công ty bảo hiểm có tổ chức khoa học, chặt chẽ và hoạt động ngày
càng chuyên nghiệp.
Ngày nay, Công ty bảo hiểm được hiểu là doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, được thành lập, tổ chức, hoạt động theo quy định



6

của pháp luật như Luật doanh nghiệp, Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định
khác của pháp luật có kiên quan đến loại hình kinh doanh bảo hiểm, tái bảo
hiểm, môi giới bảo hiểm.
Theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh bảo hiểm, công ty bảo hiểm được
phân thành hai loại là bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm. Công ty bảo hiểm gốc cung
cấp dịch vụ bảo hiểm trực tiếp cho khách hàng tham gia bảo hiểm, còn công ty
tái bảo hiểm thì không trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách hàng tham gia bảo
hiểm mà chỉ nhận tái bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm gốc.
Theo nghiệp vụ bảo hiểm thì công ty bảo hiểm được phân thành công ty
bảo hiểm phi nhân thọ và công ty bảo hiểm nhân thọ. Công ty bảo hiểm phi nhân
thọ thực hiện những nghiệp vụ bảo hiểm liên quan tới tài sản, trách nhiệm và
tính mạng của người tham gia bảo hiểm. Đặc điểm chính của loại hình bảo hiểm
phi nhân thọ là không mang tính chất tiết kiệm, nghĩa là khi hết hạn hợp đồng,
người tham gia bảo hiểm sẽ không được hoàn trả lại số phí bảo hiểm đã đóng
cho dù có hoặc không có tổn thất xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm. Trong khi
đó, công ty bảo hiểm nhân thọ thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm liên quan tới
sinh mạng và mang tính chất tiết kiệm. Các khoản phí đóng định kỳ của hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ được tích luỹ lại và được thanh toán vào thời điểm
đáo hạn của hợp đồng trên cơ sở số tiền bảo hiểm đã thoả thuận. Trong trường
hợp khách hàng tham gia bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm đúng số kỳ quy định
mà gặp phải những rủi ro không thể đóng phí bảo hiểm tiếp thì vẫn được bảo lưu
hợp đồng và đến hết hạn hợp đồng vẫn được thanh toán toàn bộ số tiền bảo hiểm
như đã thoả thuận. Trong trường hợp người tham gia bảo hiểm tử vong thì được
bồi hoàn toàn bộ số tiền đã quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm có các đặc điểm cơ bản sau:
a. Công ty bảo hiểm là doanh nghiệp chuyên ngành
Công ty bảo hiểm là doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng như các doanh
nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế quốc dân, do đó cũng mang đặc trưng



7

của một doanh nghiệp, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình và
trong khuôn khổ pháp luật. Tuy vậy, ngành bảo hiểm là một ngành đặc thù trong
nền kinh tế, gắn bó chặt chẽ với quốc tế dân sinh, được coi là một tổ chức kinh
doanh đặc biệt, giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế nên được nhà nước
kiểm soát chặt chẽ. Vì vậy, công ty bảo hiểm ngoài việc tuân thủ những quy định
của Luật doanh nghiệp và hệ thống pháp lý chung thì công ty bảo hiểm còn hoạt
động dưới sự điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng
dẫn thi hành luật này.
Nội dung kinh doanh của công ty bảo hiểm là những nghiệp vụ bảo hiểm.
Đây là sự khác nhau giữa công ty bảo hiểm với các doanh nghiệp thuộc loại hình
và ngành nghề kinh doanh khác. Nghiệp vụ bảo hiểm là một loại hoạt động kinh
doanh có tính chất giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức công ty sử dụng quỹ bảo
hiểm được lập ra bằng cách thu phí bảo hiểm từ những người có nhu cầu tham
gia bảo hiểm để bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm
hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Sự
khác nhau về bản chất giữa nghiệp vụ bảo hiểm với các nghiệp vụ khác là yếu tố
then chốt quyết định sự khác nhau giữa các công ty bảo hiểm với các doanh
nghiệp thuộc loại hình ngành nghề khác.
b. Công ty bảo hiểm là trung gian tài chính
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm có đặc thù riêng đó là sự đảo ngược chu
kỳ kinh doanh. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là phí bảo hiểm
được thanh toán trước, những cam kết thanh toán sẽ được thực hiện sau một
khoảng thời gian hoặc cũng có thể không thực hiện nếu không có sự kiện xảy ra.
Như vậy, từ việc thu được phí bảo hiểm, công ty bảo hiểm có trong tay một quỹ
tài chính rất lớn. Quỹ này không dùng để chi trả hết ngay nên công ty bảo hiểm
có thể sử dụng phần nhàn rỗi này để đầu tư trở lại nền kinh tế như đầu tư cổ

phiếu, trái phiếu, gửi ngân hàng, cho vay hay đầu tư bất động sản…


8

Vai trò trung gian tài chính của công ty bảo hiểm còn thể hiện ở việc
thông qua hoạt động kinh doanh bảo hiểm, công ty bảo hiểm có khả năng huy
động những nguồn vốn quy mô nhỏ, đối tượng sở hữu rộng thành những nguồn
vốn quy mô lớn, tập trung; từ những khoản phí bảo hiểm thu định kỳ trong
những thời hạn khác nhau thành những nguồn vốn quy mô lớn được đầu tư theo
thời hạn cụ thể thông qua hoạt động đầu tư.
c. Công ty bảo hiểm thường không vay vốn phục vụ kinh doanh bảo
hiểm
Không như những doanh nghiệp khác, trước khi tổ chức hoạt động kinh
doanh bảo giờ cũng cân đối những nguồn vốn tự có, phần vốn còn thiếu sẽ được
huy động từ những nguồn khác như vay vốn ngân hàng, những tổ chức tín dụng
khác… đối với công ty bảo hiểm, hoạt động vay vốn nhằm mục đích kinh doanh
bảo hiểm thường không xảy ra, trừ một số trường hợp đặc biệt như cần một
lượng tiền để thanh toán bồi thường lớn. Khi mới thành lập, công ty bảo hiểm
phải có vốn điều lệ nhất định không thấp hơn mức vốn pháp định. Thông thường,
công ty bảo hiểm phải ký quỹ một phần vốn điều lệ để đảm bảo khả năng thanh
toán. Phần còn lại sẽ được tích luỹ tại công ty để dùng cho những hoạt động ban
đầu và làm cơ sở đảm bảo cho những hợp đồng bảo hiểm mới. Sau khi những
hợp đồng bảo hiểm được cung cấp, số phí bảo hiểm thu được sẽ trích lập các quỹ
dự phòng nghiệp vụ theo quy định và một phần chuyển tái bảo hiểm. Như vậy,
khi bắt đầu hoạt động, công ty bảo hiểm đã có khoản thu từ phí bảo hiểm, là cơ
sở để trích lập các quỹ và chi phí cho hoạt động kinh doanh. Các quỹ này cùng
với vốn chủ sở hữu sẽ được phép đầu tư theo quy định nhằm thu lợi nhuận.
Nguồn lợi nhuận này chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ lợi nhuận của công ty bảo
hiểm. Theo thời gian hoạt động, quỹ này sẽ ngày càng lớn và công ty bảo hiểm

trở thành những nhà đầu tư hùng mạnh. Trừ trường hợp đặc biệt, khi có những
tổn thất xảy ra trên diện rộng, hậu quả nghiêm trọng, toàn bộ quỹ dự phòng của
công ty bảo hiểm không gánh vác nổichi phí bồi thường thì công ty bảo hiểm


9

mới phải vay vốn để bù đắp nhằm đảm bảo những cam kết với khách hàng.
Trường hợp này hầu như không xảy ra trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên
toàn thế giới.
d. Công ty bảo hiểm là pháp nhân có tính chất xã hội và có tính chất
liên hiệp
Công ty bảo hiểm tiếp nhận rủi ro, trách nhiệm với khách hàng rất lớn, vì
vậy trên thế giới không có công ty bảo hiểm tư nhân. Bời vì nếu cá nhân đó gặp
tai nạn, rủi ro thì khoong có người giải quyết tiếp các trách nhiệm đã nhận. Vì
vậy, công ty bảo hiểm phải là một pháp nhân liên hiệp một số cá nhân để luôn có
người gánh vác trách nhiệm của doanh nghiệp với các khách hàng của họ.
e. Hoạt động của công ty bảo hiểm được nhà nước kiểm soát chặt chẽ
Hoạt động của công ty bảo hiểm có ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm, tới thị trường tài chính và tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân
nên được nhà nước kiểm soát rất chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm, định hướng lưu chuyển các quỹ đầu tư và giảm nguy cơ tập
trung quyền lực trong lĩnh vực tài chính.
1.1.2 Các hoạt động của công ty bảo hiểm
Một công ty bảo hiểm chuyên nghiệp thực hiện các hoạt động chủ yếu
sau:
1.1.2.1 Hoạt động bảo hiểm
Trong hoạt động của công ty bảo hiểm, kinh doanh bảo hiểm gốc và kinh
doanh tái bảo hiểm đóng vai trò quan trọng. Kinh doanh bảo hiểm gốc là hoạt
động chính của công ty bảo hiểm. Công ty bảo hiểm chấp nhận những rủi ro của

người được bảo hiểm trên cơ sở người được bảo hiểm thanh toán phí bảo hiểm.
Tỷ lệ phí sẽ được hai bên thoả thuận trên cơ sở những điều kiện, điều khoản,
điều khoản bổ sung trong hợp đồng bảo hiểm. Đối với bảo hiểm phi nhân thọ,
khi có tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm thì công ty bảo hiểm sẽ bồi
thường cho người được bảo hiểm tương ứng với tỷ lệ tổn thất trên số tiền bảo


10

hiểm nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm. Đối với bảo hiểm nhân thọ, công
ty bảo hiểm sẽ thanh toán cho người được bảo hiểm toàn bộ số tiền bảo hiểm khi
hết hạn hoặc theo những thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Kinh doanh bảo hiểm phải luôn bảo đảm nguyên tắc “số đông” và “độ tích
tụ rủi ro”. Theo nguyên tắc này thì một mặt, phải thu hút nhiều khách hàng cùng
tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm để có thể chia sẻ rủi ro cho nhau, mặt khác,
tổng mức giữ lại tại một thời điểm của tất cả các hợp đồng bảo hiểm ứng với số
tiền bảo hiểm tương ứng không được vượt quá quy định so với quỹ dự phòng và
vốn kinh doanh của công ty bảo hiểm.
Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động mà công ty bảo hiểm chuyển một
phần hoặc toàn bộ rủi ro đã chấp nhận cho một hay nhiều công ty bảo hiểm khác
(nhượng tái bảo hiểm) và ngược lại, nhận một phần hoặc toàn bộ rủi ro mà một
hoặc nhiều công ty bảo hiểm khác đã chấp nhận (nhận tái bảo hiểm). Thông qua
nhận và nhượng tái bảo hiểm mà một dịch vụ bảo hiểm có thể được chia sẻ cho
nhiều công ty bảo hiểm. Hoạt động tái bảo hiểm giúp công ty bảo hiểm đảm bảo
được sự an toàn tài chính và mở rộng được mối quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế.
Mặt khác, tái bảo hiểm cũng làm tăng năng lực chấp nhận dịch vụ của công ty
bảo hiểm vì công ty bảo hiểm dù lớn đến đâu cũng luôn có giới hạn về tài chính
đối với mức độ rủi ro mà họ có thể chấp nhận. Do vậy, nếu không có tái bảo
hiểm thì nhiều dịch vụ sẽ bị từ chối hoặc chỉ được chấp nhận một phần, từ đó
ảnh hưởng đến khả năng hoạt động và hình ảnh của công ty.

Quan hệ giữa công ty bảo hiểm gốc và công ty nhận tái bảo hiểm dựa trên
nguyên tắc tín nhiệm. Công ty nhận tái bảo hiểm bắt buộc phải chấp nhận mọi sự
giải quyết của công ty bảo hiểm gốc.
Điều cần lưu ý là công ty nhận tái bảo hiểm không có nghĩa vụ kinh tế
trực tiếp đối với người được bảo hiểm gốc. Do đó, trong trường hợp xảy ra tổn
thất hoặc sự kiện bảo hiểm, nếu nhà nhận tái bảo hiểm không thực hiện được
nghĩa vụ đối với công ty bảo hiểm gốc thì công ty bảo hiểm gốc vẫn phải thực


11

hiện nghĩa vụ thanh toán đầy đủ cho người được bảo hiểm. Vì vậy, để hạn chế
rủi ro này, công ty bảo hiểm gốc cần tìm kiếm những nhà nhận tái bảo hiểm lớn,
có uy tín trên thị trường.
Trong hoạt động tái bảo hiểm, công ty nhượng tái bảo hiểm sẽ được nhận
một khoản hoa hồng quản lý từ công ty nhận tái bảo hiểm (thường được tính
theo tỷ lệ phần trăm của phí tái bảo hiểm ) cũng như được quyền nhận tiền bồi
thường tái bảo hiểm từ công ty nhận tái bảo hiểm trong trường hợp xảy ra tổn
thất, từ đó làm giảm chi bồi thường của doanh nghiệp. Còn công ty nhận tái bảo
hiểm sẽ được nhận phí tái bảo hiểm theo tỷ lệ đã nhận tái bảo hiểm và có nghĩa
vụ phải chi trả bồi thường theo tỷ lệ đó khi xảy ra tổn thất hoặc sự kiện bảo hiểm
cho công ty nhượng tái bảo hiểm.
Trong một công ty bảo hiểm, hoa hồng nhượng tái bảo hiểm cũng là một
khoản thu đối với công ty, nhưng khi hoa hồng nhượng tái bảo hiểm càng lớn
cũng chứng tỏ lượng phí bảo hiểm chuyển đi cho công ty bảo hiểm khác càng
lớn, phí giữ lại tại công ty càng nhỏ. Mỗi công ty bảo hiểm cần căn cứ vào khả
năng tài chính của mình cũng như điều kiện của từng đơn bảo hiểm mà tính toán
tỷ lệ tái bảo hiểm thích hợp.
1.1.2.2 Hoạt động đầu tư
Do đặc điểm kinh doanh bảo hiểm là phí bảo hiểm thu trước còn trách

nhiệm giao kết trong hợp đồng được thực hiện sau, công ty bảo hiểm có một
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi khá lớn trong một khoảng thời gian nhất định từ lúc
thu phí bảo hiểm đến lúc thực hiện nghĩa vụ thanh toán với khách hàng. Đấy
chính là điều kiện tiền đề cho công ty bảo hiểm thực hiện hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm bao gồm việc quản lý quỹ đầu tư
hình thành từ vốn chủ sở hữu và các quỹ dự phòng nghiệp vụ sao cho thu chi
đúng nguyên tắc, hợp lý và mang lại hiệu quả cao nhất mà vẫn đảm bảo an toàn
tài chính cũng như khả năng thanh toán của công ty.


12

Một công ty bảo hiểm có thể thực hiện đầu tư vào các lĩnh vự đa dạng như
trái phiếu, cổ phiếu, đầu tư bất động sản, cho vay, góp vốn liên doanh… theo quy
định của pháp luật.
Việc đầu tư vốn nhàn rỗi vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của các công
ty bảo hiểm. Thực tế cho thấy, phần lớn lợi nhuận của công ty bảo hiểm được
hình thành từ hoạt động đầu tư. Có thể nói, hoạt động đầu tư có tầm quan trọng
sống còn đối với hoạt động kinh doanh của bất cứ công ty bảo hiểm nào.
1.1.2.3 Các hoạt động khác
Ngoài hai hoạt động chính là hoạt động kinh doanh bảo hiểm và hoạt
động đầu tư, công ty bảo hiểm còn thực hiện các dịch vụ đại lý như giám định
tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng
bồi thường 100%.
Trong hoạt động này, công ty bảo hiểm nhận sự uỷ quyền của cá nhân, tổ
chức khác thực hiện các dịch vụ giám định nguyên nhân và mức độ tổn thất, xét
giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ 3 bồi hoàn, xử lý tài sản bị tổn thất toàn
bộ… hộ cho các cá nhân, tổ chức đó. Qua đó, công ty sẽ nhận được một khoản
phí đại lý để làm tăng thu nhập công ty. Cũng nhờ những hoạt động này mà niềm
tin của khách hàng đối với công ty ngày càng được củng cố, chất lượng dịch vụ

không ngừng được cải thiện, uy tín và khả năng cạnh tranh của công ty vì thế
cũng được tăng cao.
Như vậy, giữa các hoạt động của công ty bảo hiểm có mối quan hệ hữu
cơ, tác động qua lại thúc đẩy lẫn nhau. Các dịch vụ đại lý giám định tổn thất, xét
giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn … giúp cho hoạt động kinh
doanh bảo hiểm diễn ra trơn tru, nhanh chóng, chính xác, thoả mãn nhu cầu
khách hàng. Trong khi đó, hoạt động kinh doanh bảo hiểm lại thu hút vốn cho
hoạt động đầu tư. Đến lượt mình, hoạt động đầu tư mang lại lợi nhuận, tạo điều
kiện để công ty bảo hiểm tăng năng lực cạnh tranh, giảm phí bảo hiểm, tăng chi
phí đề phòng hạn chế tổn thất, tạo điều kiện để hoạt động kinh doanh bảo hiểm


13

phát triển. Để trở thành một công ty bảo hiểm lớn, có uy tín trên thị trường, các
công ty bảo hiểm cần quan tấm đúng mức tới các hoạt động này để chúng hỗ trợ
và thúc đẩy lẫn nhau.
1.1.3 Vai trò của công ty bảo hiểm trong nền kinh tế
Với các hoạt động trên, rõ ràng các công ty bảo hiểm có một vai trò quan
trọng đối với mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội.
- Đối với mỗi cá nhân khi tham gia bảo hiểm, các công ty bảo hiểm giúp
khắc phục nhũng hậu quả tài chính của một số rủi ro nhất định, từ đó giúp ổn
định cuộc sống, đưa lại cho mỗi người cảm giác yên tâm. Việc trả tiền bảo hiểm
đỡ cho mỗi cá nhân gánh nặng tài chính để xử lý hậu quả của tai nạn, rủi ro, từ
đó làm tăng khả năng gánh chịu rủi ro, đặc biệt là nhưng rủi ro trầm trọng vượt
quá khả năng chống đỡ của mỗi cá nhân, gia đình.
- Các công ty bảo hiểm cũng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế.
Công ty bảo hiểm giúp đỡ các cá nhân, tổ chức đã tham gia bảo hiểm khắc
phục những hậu quả tài chính mà họ có thể gặp phải. Trước hết, công ty bảo
hiểm giúp các công ty khắc phục hậu quả khi xảy ra rủi ro, đảm bảo ổn định tài

chính, tránh được tình trạng gián đoạn sản xuất kinh doanh. Trong quá trình kinh
doanh, luôn có rất nhiều các rủi ro có thể dẫn tới thua lỗ, ảnh hưởng đến hoạt
động của công ty. Việc tham gia bảo hiểm cho phép chủ công ty chuyển giao
được một phần, một số rủi ro nhất định sang cho công ty bảo hiểm, từ đó thúc
đẩy các công ty mạnh dạn hơn trong việc đầu tư vào kinh doanh, qua đó, tăng
sản lượng hàng hoá, giảm thất nghiệp, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong năm 2003, các tổn thất về tài sản do thiên tai, thảm hoạ do con
người được bảo hiểm trên toàn thế giới lên mức gần 17 tỷ USD, con số này trong
năm 1992 là 36 tỷ USD và trong năm 2001 là 35 tỷ USD.
Bên cạnh đó, công ty bảo hiểm cũng góp phần vào việc hạn chế rủi ro.
Công tác đề phòng hạn chế tổn thất là một mặt hoạt động quan trọng, cần thiết
đối với các công ty bảo hiểm. Đặc điểm kinh doanh bảo hiểm đồi hỏi các công ty


14

bảo hiểm phải thực hiện nghiên cứu rủi ro, thống kê tai nạn, tổn thất, xác định
nguyên nhân và đề ra các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa, giảm thiểu rủi ro, từ
đó làm giảm chi phí bồi thường của công ty, nâng cao hiểu quả hoạt động kinh
doanh bảo hiểm, đồng thời mang lại hiệu quả về mặt xã hội.
Chính vì vậy các công ty bảo hiểm thường dùng một phần kinh phí đáng
kể trợ giúp, tư vấn, hướng dẫn cho các khách hàng tham gia bảo hiểm về các
biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro, cũng như hỗ trợ xây dựng các công trình
nhằm giảm thiểu rủi ro có thẻ xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm, qua đó, góp
phần làm hạn chế các tổn thất có thể xảy ra cho mỗi cá nhân, công ty cũng như
toàn xã hội.
Các công ty bảo hiểm cũng đóng vai trò là những trung gian tài chính
quan trọng. Bảo hiểm góp phần thúc đẩy hoạt động tiết kiệm, tập trung vốn, góp
phần đáp ứng các nhu cầu về vốn trong xã hội. Trước hết, bảo hiểm làm hình
thành nên ý thức, thói quen tiết kiệm của các cá nhân, chủ hộ gia đình và chủ

công ty về việc giành ra một phần thu nhập để đảm bảo một tương lai an toàn
hơn. từ nguồn phí bảo hiểm thu được của các loại hình bảo hiểm đa dạng, các
công ty bảo hiểm tập trung được một nguồn vốn khá lớn có thể đầu tư. Trong
quá trình thực hiện đầu tư, các công ty bảo hiểm có thể thực hiện đầu tư trực tiếp
vào tài sản hoặc thực hiện cho vay đối với chính phủ, các tổ chức quốc tế, cung
cấp vốn cho các tổ chức tài chính, các công ty,… qua việc cho vay trực tiếp hoặc
mua trái phiếu, cổ phiếu do các tổ chức này phát hành. Từ đó, không những đưa
lại lợi nhuận cho bản thân công ty bảo hiểm mà còn trợ giúp quan trọng vè tài
chính cho các tổ chức, công ty, góp phần kích thích nền kinh tế phát triển.
Về phía chính phủ, các công ty bảo hiểm có đóng góp khá lớn cho ngân
sách quốc gia. Đồng thời họ cũng đóng vai trò là người cho vay quan trọng đối
với chính phủ qua việc mua một lượng lớn trái phiếu chính phủ. Một số công
trình kinh tế trọng điểm được đầu tư bằng vốn vay của công ty bảo hiểm. Với tư
cách là một ngành kinh doanh ngày càng phát triển, các công ty bảo hiểm góp


15

phần tạo ra một lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động, bao gồm cả các
cán bộ kinh doanh trực tiếp, các bộ quả lý và các đại lý bảo hiểm. Vào năm
1999, ở Bắc Mỹ, khoảng hơn 1690 công ty bảo hiểm nhân thọ đã cung cấp việc
làm cho gần 2,3 tỷ người.
Các công ty bảo hiểm cũng là các nhà tài trợ lớn cho các hoạt động văn
hoá, thể thao, các hoạt động xã hội từ thiện. Các hoạt động này một mặt nhằm
quảng bá, khuyếch trương thương hiệu của các công ty bảo hiểm, một mặt cũng
đóng góp tích cực cho xã hội.
Như vậy, công ty bảo hiểm có vai trò rất to lớn đối với toàn xã hội nói
chung. Họ giúp các cá nhân ổn định cuộc sống, giúp các công ty ổn định sản
xuất kinh doanh khi có rủi ro xảy ra, đóng góp vào nguồn thu ngân sách của
ngân sách nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế,

thúc đẩy nền kinh tế hoạt động có hiệu quả và ngày càng phát triển nền kinh tế,
đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
1.2. Hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm
1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động đầu tư trong công ty bảo hiểm
Về bản chất, hoạt động bảo hiểm có tính chất hoàn trả (thanh toán bồi
thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho khách hàng). Đặc điểm hoạt động kinh doanh
bảo hiểm tạo cho công ty bảo hiểm một nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ lúc thu
phí bảo hiểm đến khi thực hiện nghĩa vụ thanh toán với khách hàng. Công ty bảo
hiểm có thể sử dụng nguồn vốn đó để thực hiện các hoạt động đầu tư. Hoạt động
đầu tư này đóng vai trò rất quan trọng đối với công ty bảo hiểm nói riêng và với
toàn nền kinh tế nói chung.
1.2.1.1 Đối với công ty bảo hiểm
Có thể nói, đầu tư là hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tồn
tại và phát triển của công ty bảo hiểm.
Thu nhập từ hoạt động đầu tư là một nguồn quan trọng tạo lợi nhuận cho
công ty bảo hiểm, nhất là công ty bảo hiểm nhân thọ. Ngày nay, trong điều kiện


16

cạnh tranh khốc liệt, các công ty bảo hiểm phải luôn tính đến một biểu phí cạnh
tranh với phạn vi bảo hiểm ngày càng được mở rộng. Thu nhập từ hoạt động đầu
tư dần trở thành cơ sở để trang rải các khoản chi phí và là nguồn gốc chính sản
sinh lợi nhuận của công ty. Ở các nước phát triển, lợi nhuận từ đầu tư thường
chiếm tới trên 70% tổng lợi nhuận trước thuế của công ty bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư ảnh hưởng đến trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của
công ty bảo hiểm.
Bên cạnh chính sách dịch vụ (thuờng là mối quan tâm hàng đầu ở các
khách hàng truyền thống) thì chính sách phí lại đóng vai trò quan trọng trong
việc thu hút các khách hàng mới. Một trong những điều kiện quan trọng để có

khả năng thực hiện giảm phí nhằm thu hút khách hàng là công ty bảo hiểm phải
có những biện pháp đầu tư hợp lý để tăng cường hiệu quả sử dụng vốn.
Đối với các công ty bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ, lợi nhuận từ
hoạt động đầu tư là cơ sở cho phép công ty bảo hiểm giảm chi phí, mở rộng
phạm vi bảo hiểm và các công ty bảo hiểm sử dụng thu nhập từ hoạt động đầu tư
để trả lãi hợp đồng (đối với các công ty bảo hiểm nhân thọ) thanh toán bồi
thường, trang trải các chi phí hoạt động, và tạo lợi nhuận.
Thông qua hoạt động đầu tư, công ty bảo hiểm cũng có thể xây dựng, thắt
chặt thêm các mối quan hệ với các khách hàng, từ đó, góp phần mở rộng quy mô
hoạt động của công ty. Ví dụ như qua việc cho một tổ chức nào đó vay tiền, hoặc
góp vốn vào một công ty, công ty bảo hiểm sẽ có thể thực hiện khai thác bảo
hiểm tại các công ty, tổ chức đó. Qua đó lại làm tăng quy mô phí bảo hiểm cũng
như quy mô nguồn vốn có thể đầu tư.
Hoạt động đầu tư cũng giúp các công ty bù đắp sự mất giá của đồng tiền,
bảo toàn quỹ tài chính bảo hiểm trước rủi ro lạm phát.
1.2.1.2 Đối với xã hội
Hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm có vai trò quan trọng trong việc
huy động vốn cho nền kinh tế quốc dân. Cùng với các trung gian tài chính khác


17

như ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác…, công ty bảo hiểm đóng
vai trò cung ứng tài chính cho thị trường vốn. Do tập trung được nguồn vốn từ
các khách hàng tham gia bảo hiểm, bao gồm cả các khách hàng lớn quan trọng là
những pháp nhân đến những khách hàng nhỏ lẻ là những thể nhân, công ty bảo
hiểm tích cực đầu tư toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế bao gồm từ
đầu tư bất động sản, tham gia các hoạt động mua bán tín phiếu, trái phiếu, cổ
phiếu, gửi tiền vào ngân hàng hoặc đầu tư kinh doanh vào các dự án mang tính
chiến lược của nền kinh tế. Nhờ có hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm mà

việc tập trung, huy động, lưu chuyển và sử dụng vốn của nền kinh tế trở nên linh
hoạt và hiệu quả hơn.
1.2.2 Nguồn vốn đầu tư của công ty bảo hiểm
Vốn đầu tư của công ty bảo hiểm được huy động chủ yếu từ hai nguồn cơ
bản là vốn chủ sở hữu và nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
- Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc, quỹ dự trữ
tự nguyện, các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng và các quỹ được sử
dụng để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại của công ty.
Đây chính là một nguồn quan trọng để thực hiện các nghĩa vụ thanh toán
cho khách hàng trong trường hợp công ty làm ăn không hiệu quả. Nguồn vốn
này có ưu điểm là không phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật nên công
ty có thể sử dụng để đầu tư dài hạn vào các lĩnh vực có tỷ suất sinh lợi cao.
- Nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm là tổng dự
phòng nghiệp vụ bảo hiểm trừ các khoản tiền mà công ty bảo hiểm dùng để bồi
thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm phi nhân thọ và trả
tiền bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm nhân thọ.
Trong đó, dự phòng nghiệp vụ là khoản dự trữ liên quan đến từng nghiệp
vụ bảo hiểm, được trích lập và hạch toán vào chi phí kinh doanh nhằm mục đích
thanh toán các trách nhiệm đã được xác định trước và phát sinh từ hợp đồng bảo
hiểm đã ký kết.


18

Theo điều 13 Nghị định 46/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2007 thì
khoản tiền dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với công ty
kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ không thấp hơn 25% tổng dự phòng nghiệp
vụ bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Khoản
tiền dùng để trả tiền bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với công ty kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ không thấp hơn 5% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và

được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam.
Trong các nguồn vốn đầu tư trên, nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp
vụ bảo hiểm luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư của công ty bảo
hiểm và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật.
1.2.3 Các đặc trưng hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm
Không giống như phần lớn các nhà đầu tư, các công ty bảo hiểm phải tuân
theo các quy tắc về giới hạn loại hình và khối lượng các khoản đầu tư mà họ
thực hiện.
Các quy tắc này được đưa ra để yêu cầu các nhà bảo hiểm thực hiện sự
tôn trọng việc đa dạng hoá đầu tư và bảo vệ khách hàng khỏi sự đe doạ của sự vỡ
nợ của nhà bảo hiểm khi họ thực hiện các hoạt động đầu tư quá mạo hiểm nhằm
thu được lợi nhuận cao.
Để đảm bảo quyền lợi của khách hàng và cũng là xuất phát từ lợi ích của
bản thân công ty bảo hiểm, đảm bảo giữ uy tín của công ty, công ty bảo hiểm
phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh
bảo hiểm, đồng thời thực hiện các khoản đầu tư có độ an toàn cao với khả năng
sinh lời phù hợp. Công ty bảo hiểm được coi là có đủ khả năng thanh toán khi đã
trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ theo quy định và có biên khả năng thanh toán
không thấp hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu theo quy định của chính phủ.
Trong đó:
+ Biên khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm là phần chênh lệch giữa
giá trị tài sản và các khoản nợ phải trả của công ty bảo hiểm.


19

+ Biên khả năng thanh toán tối thiểu của công ty bảo hiểm được quy định
riêng cho bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ.
Thường các khoản đầu tư từ quỹ dự phòng nghiệp vụ phải chịu sự kiểm
soát khắt khe hơn của pháp luật so với các khoản đầu tư từ nguồn vốn chủ sở

hữu bởi vì bản chất của các quỹ này là các khoản nợ của công ty bảo hiểm đối
với khách hàng, được trích lập để đảm bảo việc thực hiện cam kết của công ty
bảo hiểm đối với người được bảo hiểm.
Ở Việt Nam, Chính phủ không hạn chế công ty bảo hiểm đầu tư vào trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh và gửi tiền tại các tổ chức
tín dụng. Các công ty bảo hiểm chỉ được đầu tư vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp
vụ bảo hiểm vào cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn
vào các doanh nghiệp khác tối đa 35% đối với công ty kinh doanh bảo hiểm phi
nhân thọ và 50% đối với công ty kinh doanh bảo hiểm nhân thọ; kinh doanh bất
động sản, cho vay tối đa 20% vốn nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
đối với công ty kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và 40% đối với công ty kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ.
1.2.4. Các lĩnh vực đầu tư của công ty bảo hiểm
Công ty bảo hiểm có thể tiến hành đầu tư vào các lĩnh vực sau:
1.2.4.1. Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng
Công ty bảo hiểm có thể mở các tài khoản thanh toán không kỳ hạn và các
tài khoản tiền gửi có kỳ hạn ở các tổ chức tính dụng để hưởng lãi suất theo như
thoả thuận. Đây là loại hình đầu tư đơn giản, có mức độ an toàn vốn cao. Nhà
đầu tư có thể tính tương đối chính xác các khoản thu nhập trong tương lai. Tính
thanh khoản của các khoản đầu tư này là rất lớn. Chính vì vậy, đây vẫn là hình
thức đầu tư chủ yếu đối với các công ty bảo hiểm ở các thị trường vốn chưa phát
triển như nước ta.
Tuy nhiên, hình thức đầu tư này lại chịu ảnh hưởng rất lớn của lạm phát,
của sự bất ổn định của lãi suất. Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng thương có lãi
suất không cao bằng loại hình đầu tư khác.


20

Hơn nữa, thời hạn đầu tư thường ngắn do các ngân hàng thương mại

thường chỉ thực hiện huy động vốn bằng tiền gửi với thời hạn ngắn, trong vòng
24 tháng để có thể điều chỉnh kịp thời lãi suất huy động cho phù hợp với lãi suất
thị trường nên không phù hợp với các nhà đầu tư từ nguồn vốn dài hạn.
Ở các nước phát triển, hình thức đầu tư này chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ
trong tổng nguồn vốn đầu tư, bởi hiệu quả không cao. Nó chỉ là hình thức giữ
tiền tạm thời của các nhà bảo hiểm trong lúc tìm các hình thức đầu tư hiệu quả
khác. Như ở Mỹ, tỷ trọng khoản mục này trong tổng vốn đầu tư của các công ty
bảo hiểm nhân thọ chỉ là 5,7%, còn ở Canada là gần 8%.
Khi thị trường vốn phát triển, công ty bảo hiểm chuyển một phần đáng kể
vốn từ hình thức tiền gửi kỳ hạn sang đầu tư chứng khoán để tăng hiệu quả đầu tư.
1.2.4.2. Đầu tư chứng khoán
Công ty bảo hiểm có thể mua các chứng khoán mới phát hành qua việc
chào bán công khai hoặc phát hành riêng lẻ hoặc các loại chứng khoán đã phát
hành thông qua cơ sở giao dịch chứng khoán và qua các thị trường mua bán
thẳng.
Chứng khoán mà công ty bảo hiểm đầu tư chủ yếu là cổ phiếu và trái
phiếu.
a. Trái phiếu
Trái phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng
chỉ hoản bút toán ghi sổ, xác nhận nghĩa vụ trả nợ (gồm vốn gốc và lãi) của tổ
chức phát hành trái phiếu đối với người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu là một công
cụ nợ do chính phủ hoặc doanh nghiệp phát hành.
Nhìn chung trái phiếu là một loại đầu tư lớn nhất trong danh mục đầu tư
của các công ty bảo hiểm trên thế giới vì nó là một khoản đầu tư tương đối an
toàn với các ưu thế sau:


21

Một là có được một khoản thu nhập thường xuyên ổn định. Người nắm

giữ trái phiếu có thể có thu nhập từ lãi trái phiếu và khoản chênh lệch giá từ việc
bán trái phiếu trước hạn.
Lãi suất của trái phiếu thường được ấn định ngay từ đầu và cố định trong
suốt vòng đời của trái phiếu nên có thể coi trái phiếu là một loại đầu tư có thu
nhập cố định. Đặc điểm này tạo điều kiện cho nhà đầu tư có thể tính được dòng
thu nhập dự kiến trong tương lai. Hơn nữa, lãi suất này thường là cao hơn lãi
suất tiền gửi ngân hàng cùng kỳ hạn, đặc biệt đối với trái phiếu công ty.
Người nắm giữ trái phiếu có thể bán trái phiếu trước khi đến thời hạn
thanh toán nhằm hưởng chênh lệch giá.
Khả năng chuyển đổi của trái phiếu trước ngày đáo hạn cũng đảm bảo cho
khả năng huy động vốn dài hạn của người phát hành và thu hồi vốn nhanh chóng
của người mua. Trong trường hợp cần thiết, công ty bảo hiểm có thể bán trái
phiếu một cách nhanh chóng để thực hiện nghĩa vụ với khách hàng. Tuy nhiên,
để thực hiện được việc chuyển nhượng trái phiếu dễ dàng, nhanh chóng đồi hỏi
phải có thị trường chứng khoán phát triển.
Hai là trái phiếu có độ an toàn cao. Trái phiếu trên thị trường thường do
chính phủ hoặc các tập đoàn lớn, các công ty có uy tín phát hành. Do vậy việc
thanh toán gốc và lãi trái phiếu thường được đảm bảo khá chắc chắn. Nếu người
phát hành trái phiếu không thể thanh toán đúng hạn, người nắm giữ trái phiếu có
quyền khiếu nại trên số tài sản của người phát hành. Và trong trường hợp các
công ty bị giải thể hoặc thanh lý thì trái phiếu lại được ưu tiên thanh toán trước
các cổ phiếu.
Hơn nữa, đối với mục tiêu mua và lưu giữ trái phiếu thì việc biến động giá
trái phiếu không ảnh hưởng đến dòng thu nhập từ lãi trái phiếu và số vốn thu
hồi. Đặc điểm này rất phù hợp với các công ty đầu tư bằng nguồn vốn dài hạn.
Một công ty bảo hiểm có thể nắm giữ nhiều loại trái phiếu với các kỳ hạn
khác nhau chờ đến ngày đáo hạn và sử dụng tiền để thanh toán cho các hợp đồng
đến hạn và cung cấp tỷ lệ thu nhập đã hứa cho các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.



22

Với các ưu điểm trên, trong những năm gần đây, đầu tư vào trái phiếu
đang chiếm tỷ trọng khá lớn trong danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm
trên thế giới. Ví dụ như ở Mỹ, khoản đầu tư vào trái phiếu chiếm tới 71,7% tổng
vốn đầu tư, còn ở Canada, tỷ lệ này là 44,3%.
Tuy nhiên, khi thực hiện đầu tư vào trái phiếu, các nhà đầu tư phải chịu
những rủi ro nhất định đó là:
Rủi ro về giá: Giá trái phiếu thường biến dộng và chịu tác động rất lớn của
lãi suất trên thị trường. Do tỷ lệ lãi vay đã được ấn định trước còn lãi suất lại
thường xuyên thay đổi nên sẽ ảnh hưởng đến giá trái phiếu. Trong trường hợp
công ty đầu tư trái phiếu bằng nguồn vốn ngắn hạn thì khi lãi suất tăng sẽ làm
giá trái phiếu giảm, khi đó nhà đầu tư khó có thể thu hồi được vốn và thu được
lợi nhuận trong thời gian ngắn. Rủi ro này thường có ảnh hưởng lớn đến các loại
trái phiếu có kỳ hạn dài.
Rủi ro vỡ nợ: Còn được gọi là rủi ro tín dụng, là rủi ro mà nhà phát hành
trái phiếu không có khả năng thanh toán các khoản gốc và lãi đúng kỳ hạn khi họ
gặp khó khăn về tài chính. Các nhà phát hành có tiềm năng tài chính mạnh ít có
khả năng vỡ nợ trái phiếu hơn các nhà phát hành có tiềm năng tài chính yếu, và
vì thế ít rủi ro hơn và có thẻ đưa ra mức thu nhập thấp hơn trái phiếu phát hành
bởi các nhà phát hành có khả năng tài chính yếu. Trái phiếu an toàn nhất là trái
phiếu chính phủ vì chính phủ luôn có thể tăng thuế hoặc thậm chí in tiền để
thanh toán các khoản nợ.
Các nhà đầu tư cần thận trọng tìm hiểu tình hình tài chính, từ đó dự đoán
khả năng thanh toán của người phát hành trước khi quyết định mua trái phiếu.
Rủi ro lạm phát: Trái phiếu không có khả năng chống lại tác động của lạm
phát. Khi lạm phát tăng cao có thể làm cho thu nhập thực nhận từ trái phiếu sau
khi điều chỉnh bởi lạm phát là âm.



23

Hơn nữa, thu nhập từ trái phiếu vẫn phải chịu thuế thu nhập. Vì việch
thanh toán lãi trái phiếu được tính vào phần chi sử dụng vốn và chưa nộp thuế
thu nhập của người đi vay. Thu nhập ròng của đầu tư trái phiếu chỉ còn là:
= (1 - Thuế suất thu nhập) x
Vì vậy nếu thu nhập dự kiến từ trái phiếu trừ đi phần thuế phải nộp và loại
bỏ tác động của lạm phát dự kiến bằng không hoặc nhỏ hơn không thì không nên
đầu tư.
Rủi ro về điều khoản được quyền mua lại. Một số trái phiếu có quyền
buộc những người nắm giữ trái phiếu phải bán lại trái phiếu cho người phát hành
ở một thời điểm trước ngày đáo hạn. Điều khoản này xác định khi nào một trái
phiếu có thể được mua lại và giá mà nhà đầu tư có thể nhận được nếu trái phiếu
được mua lại. Điều khoản được quyền mua lại làm tăng rủi ro với các nhà đầu tư
vì các nhà đầu tư có thể bị buộc phải nhượng lại trái phiếu ở một thời điểm
không thích hợp. Vì rủi ro này, trái phiếu với điều khoản được quyền mua lị
thường có lãi suất cao hơn so với các trái phiếu tương đương không có điều
khoản này.
b. Cổ phiếu
Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ
xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.
Khi đầu tư cổ phiếu, trong trường hợp công ty làm ăn có lãi, nhà đầu tư có
thể thu được lợi nhuận dưới dạng cổ tức, và lãi càng lớn thì cổ tức được chia
càng nhiều, từ đó tăng thu nhập cho nhà đầu tư. Ngoài ra người giữ cổ phiếu
nhận được thu nhập từ cổ phiếu thông qua khoản chênh lệch giá khi bán cổ
phiếu.
Ngoài ra, khả năng chuyển nhượng của cổ phiếu cho phép nhà đầu tư có
thể bán một phần hoặc toàn bộ số cổ phần mình sở hữu khi cần thiết để đáp ứng
nhu vầu về vốn tại một thời điểm nhất định. Tuy nhiên để thực hiện được điều
này cũng đòi hỏi phải có một thị trường chứng khoán phát triển.



24

Ngoài ra thu nhập từ cổ phiếu không bị đánh thuế thu nhập vì cổ tức được
chia từ phần lợi nhuận sau thuế của công ty cổ phần.
Bên cạnh những ưu thế trên, việc đầu tư cổ phiếu cũng có một số bất lợi
sau:
Một là chi phí để thu thập thông tin khi tiến hành đầu tư cao ảnh hưởng
đến lợi nhuận đầu tư. Trước khi mua cổ phiếu của một công ty nào đó, nhà đầu
tư thường phải tìm hiểu tình hình hoạt động của công ty đó. Các chi phí này
thường lớn, đặc biệt đối với các công ty nhỏ hoặc mới thành lập.
Hai là sự không ổn định của nguồn thu nhập từ cổ phiếu. Do lượng cổ tức
được hưởng phụ thuộc chủ yếu vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
phát hành và chính sách chia cổ tức của công ty. Trong trường hợp công ty làm
ăn không có lãi hoặc ban quản trị công ty quyết định giữ lại toàn bộ lợi nhuận để
tăng vốn thì nhà đầu tư sẽ không được chia cổ tức. Do vậy, nhà đầu tư khó dự
đoán được chính xác nguồn thu nhập dự kiến trong tương lai.
Thứ ba, người giữ cổ phiếu có quyền ưu tiên thấp hơn người giữ trái phiếu
đối với các tài sản của công ty trong trường hợp công ty phá sản. Người giữ cổ
phiếu sẽ chỉ được trả tiền nếu quỹ còn lại sau khi thanh toán cho người giữ trái
phiếu và các chủ nợ khác.
Bốn là sự biến động bất thường của giá cổ phiếu do tác động của rất nhiều
yếu tố khác nhau làm nhà đầu tư không thể dự đoán trước được. Giá cổ phiếu
thường có xu hướng biến động nhiều hơn giá trái phiếu vì cổ phiếu không có
ngày đáo hạn và không có giá trị đáo hạn. Điều này làm cho kinh doanh cổ phiếu
được xếp vào một trong những lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, không phù hợp với
các nhà đầu tư cần một lợi suất chắc chắn như các công ty bảo hiểm nhân thọ.
Hơn nữa, trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa phát triển sẽ ảnh
hưởng đến tính thanh khoản của cổ phiếu. Trong trường hợp này nếu đầu tư cổ

phiếu nên đầu tư bằng nguồn vốn dài hạn, với mục tiêu chính là để hưởng cổ tức.


25

Và khi đầu tư vào cổ phiếu đòi hỏi các nhà đầu tư phải tìm hiểu thật kỹ về
tình hình tài chính cũng như khả năng vỡ nợ cũng như tính thanh khoản của cổ
phiếu vì cổ phiếu của một công ty có tình hình tài chính tốt sẽ được chuyển
nhượng dễ dàng hơn.
Vì mức độ rủi ro cao hơn và đặc điểm dòng tiền không đều của cổ phiếu
nên các nhà bảo hiểm bị luật pháp hạn chế về tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu.
Ngoài ra để đa dạng hoá danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro đầu tư, công
ty bảo hiểm cũng thực hiện đầu tư vào các công cụ tài chính khác như các hợp
đồng quyền chọn mua, quyền chọn bán, các hợp đồng kỳ hạn… Tuy nhiên, việc
đầu tư vào các công cụ này chỉ được thực hiện tại các nước có thị trường tài
chính phát triển.
1.2.4.3. Đầu tư bất động sản
Đầu tư bất động sản đưa lại cho các công ty bảo hiểm khoản thu nhập
dưới dạng thu nhập cho thuê bất động sản và cơ hội tăng giá của khoản đầu tư.
Trong trường hợp cho thuê được bất động sản, đây sẽ là một nguồn thu nhập cao,
thường xuyên, khá ổn định. Tỷ lệ thu nhập hiện tại nhận được từ đầu tư bất động
sản thường lớn hơn tỷ lệ cổ tức được chia khi đầu tư cổ phiếu thường.
Đối với các công ty đầu tư từ nguồn vốn dài hạn thì đây là một loại hình
đầu tư hiệu quả.
Đầu tư bất động sản cũng là một hình thức khuyếch trương, quảng cáo
hình ảnh của công ty qua việc cung cấp những toà nhà cao cấp, chất lượng cho
khách hàng.
Đầu tư bất động sản cũng tạo cho nhà bảo hiểm thu nhập dưới dạng thu
nhập cho thuê. Tỷ lệ thu nhập hiện tại nhận được từ bất động sản thường vượt tỷ
lệ cổ tức trả cho cổ phiếu thường.

Tuy nhiên dòng thu nhập nhận được từ đầu tư bất động sản thường thường
khó dự đoán được vì khả năng không cho thuê được.


×