Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
LỜI CAM
TRƯỜNG
ĐẠIĐOAN
HỌC VINH

Tôi tên là Nguyên Văn Tâm, học viên lớp Cao học Luật khóa 25 Trường Đại
học Vinh, tôi xin cam đoan đây bản luận văn này là công trình của riêng tôi. Tất cả
kết quả nêu trong luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nàokhác. Các số liệu, ví dụ được nếu trong luận văn được lấy từ nguồn rõ ràng bảo
đảm tính trung thực chính xác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật và của Trường Đại học Vinh.
Vậy tôi viết lời cam đoan này kính đề nghị Khoa luật xem xét để tôi được bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT
ĐIỀUCAM
TRA CÁC
VỤ ÁN TÀNG
NGƯỜI
ĐOAN
TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM, TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, TỈNH LONG AN
NGUYỄN VĂN TÂM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn: ………………….

NGHỆ AN, 10 - 2019

1




LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi; Các kết quả
trong luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu khoa học
nào khác. Các số liệu, ví dụ, bảng kê, và trích dẫn trong luận văn bảo đảm tính
chính xác và trung thực, không gian dối hay bịa đặt. Tôi đã hoàn thành tất các
môn học và hoàn thành tất cá các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường
Đại học Vinh – Nghệ An.

NGƯỜI CAM ĐOAN

………………………..

2


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, em đã nhận
được sự động viên, giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện thuận lợi của các cấp lãnh
đạo, các thầy giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Em xin trân trọng cảm ơn tới các thầy cô trong Ban lãnh đạo, các Giáo sư,
Tiến sĩ, giảng viên của Trường Đại học Vinh.
Xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo trường, các anh, chị, đồng nghiệp
của các Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An đã cộng tác, cung cấp
thông tin, số liệu, cho ý kiến và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong quá
trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.

…………., Người hướng dẫn khoa học đã tận tâm bồi dưỡng kiến thức,

3


phương pháp nghiên cứu và trực tiếp giúp đỡ, động viên để em hoàn thành
luận văn này.
Mặc dù đã nỗ lực cố gắng rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, song luận
văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả kính mong nhận được những lời
chỉ dẫn của các thầy giáo, cô giáo, ý kiến đóng góp trao đổi của các bạn đồng
nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, ngày ....tháng .....năm 2020
Tác giả

………………………..

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu

KSĐT

BLHS

Viết đầy đủ

Kiểm sát điều tra

Bộ luật hình sự

4


CQCSĐT

Cơ quan cảnh sát điều tra

CQĐT

Cơ quan cảnh sát điều tra

CSĐT

Cảnh sát điều tra

ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

TAND

Tòa án nhân dân

TNHS

Trách nhiệm hình sự


TPVTTXH.

Tội phạm về trật tự xã hội

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

TTXH

Trật tự xã hội

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao
5


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Nhà
nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, do Đảng lãnh đạo. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên
tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND 2014
thì VKSND vẫn giữ chức năng kiểm sát điều tra. Việc áp dụng pháp luật trong
kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được điều tra, xử
lý kịp thời.
Thời gian qua, với sự vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ
chế định hướng xã hội chủ nghĩa, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự
hào.
Những thành tựu đã đạt được chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà
nước ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Cùng với
những chủ trương, chính sách phát triển toàn diện nền kinh tế xã hội, Nhà nước
ta luôn quan tâm đến các biện pháp bảo đảm quyền tự do, bình đẳng trước pháp
luật, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người kinh doanh, tăng cường hiệu
lực quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh. Nhà nước tạo sự tự
6


chủ cho các tổ chức và cá nhân, tập thể đăng ký, hoạt động kinh doanh ngoài
những ngành nghề gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt
Nam và sức khỏe của nhân dân.
Tại Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Như vậy, việc chống

lại các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp đã được Nhà nước thể chế thành
nguyên tắc hiến định. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và văn bản
pháp luật nhằm phòng chống các tội phạm kinh tế nói chung, tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm nói riêng. Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam do Quốc hội
thông qua ngày 17/6/1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào năm 1989,
1990, 1992, 1997 có quy định về tội 2 buôn bán, tàng trữ hàng cấm trong
chương “Các tội phạm kinh tế”. BLHS 1999 đã đưa ra quy định điều chỉnh hành
vi liên quan đến hàng cấm rải rác ở các chương khác nhau quy định về các hành
vi liên quan đến hàng cấm và một số hàng cấm cụ thể khác như chất ma túy, vũ
khí quân dụng, vật liệu nổ, vũ khí hoặc công cụ hỗ trợ, chất phóng xạ, chất cháy,
chất độc. BLHS 2015 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều BLHS 2015 (ban
hành năm 2017) ngoài những nội dung cấu thành tội phạm trong BLHS 1999, bộ
luật còn có nhiều thay đổi về việc xây dựng cấu thành tội phạm tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm nên cần thiết phải có cách hiểu thống nhất để áp dụng pháp
luật đối với tội phạm này. Bên cạnh các quy định của Luật hình sự đối với hành
vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, còn có các quy định của các văn bản pháp luật
thuộc Ngành và lĩnh vực khác cũng điều chỉnh các quan hệ và hành vi liên quan
đến hàng cấm.
Tuy nhiên, do đặc thù của nền kinh tế thị trường, sức ép cạnh tranh và
những sơ hở, yếu kém trong quản lý kinh tế nên nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm
kinh tế ngày càng có môi trường phát sinh, phát triển, trong đó tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm đang ngày càng tăng về số lượng với nhiều mặt hàng cấm
nguy hiểm, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, hơn hết là tác động tiêu cực tới con
7


người, môi trường và xã hội, nó đã trở thành một vấn đề nhức nhối của xã hội.
Công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này cần phải quyết liệt mạnh mẽ,
để làm được điều đó cần có sự đánh giá chính xác, chi tiết, đầy đủ về tội phạm
này.

Long An là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hoạt động
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trên địa bàn tỉnh Long An
trong thời gian gần đây không chỉ có chiều hướng tăng về số lượng, chủng loại
mà còn diễn biến phức tạp về cả tính chất, quy mô. Đối tượng phạm tội có rất
nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, táo bạo và có tính chất rất quyết liệt. Trong
khi đó, hoạt động điều tra xử lý tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu trước tình hình
thực tế tại địa phương, làm ảnh hưởng tình hình an ninh trật tự và sự phát triển
toàn diện các mặt kinh tế xã hội. Tình hình trên đã đặt ra một vấn đề rất bức thiết
là phải có những giải pháp hữu hiệu, phù hợp với đặc điểm tình hình địa phương
nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Để xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật, góp
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo
trật tự an toàn xã hội, tạo lòng tin trong nhân dân và điều kiện thuận lợi cho quá
trình phát triển kinh tế xã hội tại địa phương cũng như của đất nước. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp
luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện vẫn chưa được thực hiện một cách có hệ thống và
chuyên sâu trên địa bàn tỉnh Long An
Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Áp dụng
pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An” làm luận văn thạc sĩ
Luật học.

8


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là nội dung
được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Trong thực tế đã có những công trình

nghiên cứu có liên quan đến đề tài ở nhiều góc độ khác nhau như:
Lục Thị Út (2014),“Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong
Luật Hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Cao Bằng)
[48].

Ở công trình này, tác giả nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về
tội tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm hiện nay ở Việt Nam. Phân tích các
quy định của BLHS về tội tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm.Nghiên cứu
thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Hình sự đối với tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm ở tỉnh Cao Bằng, làm sáng tỏ thực tiễn áp
dụng loại tội phạm này, nêu lên những vướng mắc trong điều tra, truy tố, xét xử.
Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện BLHS và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định của BLHS về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng
cấm, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm

9


Nguyễn Thị Hạnh (2013), “Thực hành pháp luật trong giải quyết các vu
án buôn bán, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”
Luận văn đã trình bày một số vấn đề lý luận về thực hành pháp luật trong
giải quyết các vụ án buôn bán, vận chuyển hàng cấm. Phân tích thực trạng thực
hành pháp luật trong giải quyết các vụ án buôn bán, vận chuyển hàng cấm trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Chỉ ra số hạn chế và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả việc thực hành pháp luật trong giải quyết các vụ án buôn bán, vận
chuyển hàng cấm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, còn một số bài viết đăng trong các báo Pháp Luật, các tạp
chí TAND, VKSND, bài nghiên cứu trao đổi trên website của Bộ Tư Pháp,
TAND tối cao, VKSND tối cao. Ngoài ra, còn một số sách tham khảo, chuyên
khảo có đề cập nội dung rất nhỏ liên quan đến đề tài luận văn như: Bình luận

khoa học Bộ luật Hình sự 1999 (phần các tội phạm), của TS. Phùng Thế Vắc,
TS. Trần Văn Luyện, LS.ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS.
Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã phân tích và làm
sáng tỏ được những vấn đề liên quan đến công tác kiểm sát điều tra các vụ án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, những giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng
của công tác này, qua đó đã đưa ra những phương pháp, cách làm để nâng cao
chất lượng kiểm sát điều tra.. Tuy nhiên tất cả các đề tài và bài viết mới chỉ tập
trung nghiên cứu ở một số khía cạnh cụ thể và nội dung nghiên cứu đều ở
những địa bàn khác nhau. Vì vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên
cứu chuyên sâu một cách đầy đủ và có hệ thống về ap dụng pháp luật trong
kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh. Chính vì vậy việc lựa chọn và nghiên
cứu đề tài “Áp dung pháp luật trong kiểm sát điều tra các vu án tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An”là
quyết định phù hợp với lý luận và thực tiễn.
10


3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu việc áp dụng pháp luật trong kiểm
sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện, trên địa bàn tỉnh Long An. Từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm trong thực tiễn hiện nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Để thực hiện được các mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận, khái niệm, thẩm quyền, căn cứ pháp luật trong
kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm; Nội dung áp dụng

pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm; các
yếu tố ảnh hưởng đến việc dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm
- Làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long
An.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật về áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An trong thời gian
tới.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5.1. Đối tượng nghiên cứu

11


Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về Thực tiễn về
áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề
xung quanh chức năng trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh, các quy định
của các Bộ luật và những văn bản hướng dẫn khác có liên quan, kết hợp với việc
nghiên cứu đánh giá thực tiễn thực hiện công tác trên của VKSND cấp huyện.
Thông qua đó, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị
những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện trong thực tiễn.
- Phạm vi không gian: VKSND cấp huyện, tỉnh Long An
- Phạm vi thời gian: Dữ liệu được thu thập trong thời gian 05 năm (từ năm
2015 - 2019)

6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
6.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam về tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vì dân. Nhất là các quan điểm chỉ đạo của Đảng về tăng cường
áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
6.2. Phương pháp nghiên cứu

12


Luận văn có sự kế thừa, tham khảo những kết quả nghiên cứu của các
công trình liên quan đến việc áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của các công trình nghiên cứu trước.
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng
như: Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các
phương pháp của các bộ môn khoa học khác: Thống kê tội phạm, phương pháp
hệ thống…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ
án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long
An
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong

kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện

13


14


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU
TRA CÁC VỤ ÁN TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò áp dụng pháp luật trong kiểm sát
điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm về áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
1.1.1.1. Khái niệm về áp dung pháp luật trong kiểm sát điều tra các vu án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra (KSĐT) các vụ án tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm án là một dạng của áp dụng pháp luật nói chung. Áp dụng
pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc
trường hợp áp dụng pháp luật: Khi Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia bằng
hình thức giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia trong các quan hệ điều
tra, KSĐT các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Cơ sở phát sinh hoạt động
áp dụng pháp luật của VKSND đó là các quyết định của cơ quan điều tra, các
hành vi của những người tiến hành tố tụng trong hoạt động TTHS. Các quyết
15



định và các hành vi đó có thể được ban hành, thực hiện theo đúng hoặc không
đúng quy định của pháp luật. Khi đó Nhà nước thông qua hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của VKSND, nhằm phát hiện những sai phạm, kịp thời
đề ra các yêu cầu, kiến nghị các chủ thể trong quá trình điều tra các vụ án tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm, khắc phục, sửa chữa; đảm bảo cho việc giải quyết các
vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được tuân thủ theo các quy định của pháp
luật.
Dưới góc độ lý luận chung về áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật là một
hình thức thực hiện pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà
nước của các cơ quan có thẩm quyền nhằm cá biệt hóa những vi phạm pháp luật
vào từng trường hợp cụ thể đối với những cá nhân, đơn vị, tổ chức cụ thể. Áp
dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm có thể coi
là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của VKSND nhằm cá biệt hóa các
quy phạm pháp luật nói chung đối với các chủ thể trong quá trình giải quyết các
vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
1.1.1.2. Khái niệm hàng cấm, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
1.1.1.2.1.Khái niệm hàng cấm
Hàng cấm được rất nhiều người sử dụng trong đời sống kinh tế. Tuy nhiên,
hiểu một cách chính xác về bản chất của từ này trong khoa học pháp luật hình sự
thì chưa có cách hiểu và giải thích thống nhất. Để tìm hiểu khái niệm hàng cấm
chúng ta tìm hiểu thông qua ngữ nghĩa của hai từ cụ thể: - “hàng” là sản phẩm
để bán, - “cấm” là không cho phép làm việc gì đó hoặc không cho phép tồn tại
[51]. Từ đó hàng cấm được hiểu là những sản phẩm không cho phép tồn tại.
Theo từ điển Luật học giải thích: “hàng cấm là hàng hoá bị Nhà nước cấm
kinh doanh [51, tr.319]. Một số từ điển hoặc các văn bản có liên quan có đề cập
đến hàng cấm là hàng hóa mà Nhà nước cấm buôn bán, kinh doanh [5 2, tr.16].
Hàng cấm còn được nhắc đến trong giải thích tội buôn lậu: buôn lậu là buôn bán
16



trốn thuế hoặc hàng cấm [52]. Tuy được nhắc đến nhiều nhưng chưa có cách
hiểu thống nhất về thuật ngữ này.
Hiện nay, nhiều tác giả đồng tình với cách giải thích: Hàng cấm là hàng hoá
Nhà nước cấm kinh doanh [52, tr.110]. Hàng cấm theo nghĩa rộng là loại hàng
hoá bị cấm kinh doanh dưới mọi hình thức. Bản chất của hàng cấm có thể được
nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ xã hội, hàng cấm được hiểu phổ biến nhất là những mặt hàng
đặc biệt do Nhà nước trực tiếp quản lý độc quyền, cấm sản xuất, kinh doanh.
Theo triết học Mác - Lê nin hàng hoá là sản phẩm của lao động thông qua hoạt
động trao đổi, mua bán. Hàng hoá có thể là hữu hình hoặc vô hình mà nhờ vào
tính chất của nó thoả mãn nhu cầu của con người. Trong nền kinh tế thị trường,
hàng hoá ngày càng trở nên đa dạng phong phú. Việc quản lý đối với các loại
hàng hoá và các hoạt động kinh doanh liên quan đến hàng hoá ngày càng phức
tạp, khó khăn hơn bởi sự xuất hiện ngày càng nhiều của các loại hàng hoá gây
ảnh hưởng xấu tới con người, 8 môi trường và xã hội. Từ sự phát triển của tự do
thương mại mà Nhà nước thống nhất quản lý những mặt hàng có tính chất đặc
biệt, có những đặc tính riêng cần phải hạn chế cách ly các hoạt động sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán những mặt hàng đó trong xã hội. Pháp luật quy
định cấm tuyệt đối với những mặt hàng khi lưu thông hoặc sử dụng có thể gây
nguy hại cho an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, truyền thống văn hóa,
môi trường và sức khỏe nhân dân, vì vậy Nhà nước cần phải độc quyền quản lý
loại hàng hoá đó. Trong xã hội gọi những hàng hoá này là “ hàng cấm” hay
“hàng quốc cấm”.
Dưới góc độ kinh tế thì hàng cấm là hàng hoá nhưng thuộc loại do Nhà
nước thống nhất quản lý cấm các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển và buôn bán. Hàng hóa và sản xuất, buôn bán hàng
hóa gắn liền với hoạt động kinh doanh, phản ánh mối quan hệ giữa người với
người trong quá trình kinh doanh như: phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật

17


chất xã hội nhằm mục đích thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu.
Việc sản xuất hàng hóa là bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của sự phát triển
kinh tế, đồng thời nó cũng phù hợp với xu thế vận động của quá trình hoạt động
kinh doanh. Qua các thời kỳ phát triển kinh tế, xã hội lượng hàng hóa sản xuất
ngày một nhiều và đa dạng. Có hàng hoá được tự do sản xuất, kinh doanh; có
những mặt hàng do tính chất đặc thù của nó mà Nhà nước phải cấm thực hiện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, do những lợi nhuận mà các mặt
hàng này đem lại, các cá nhân, tổ chức lén lút sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự (TNHS) về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Mặc
dù vậy, cho đến nay khái niệm hàng cấm vẫn chưa có bất cứ văn bản pháp luật
nào đưa ra một cách hiểu thống nhất. Trong quá trình giải quyết về loại vụ việc
liên quan đến hàng cấm, một vấn đề đặt ra đối với các cơ quan chức năng là phải
hiểu rõ thế nào là hàng cấm và các loại hàng cấm để từ đó mới ra được những
quyết định phù hợp, đúng đắn phục vụ tốt cho công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm về trật tự kinh tế nói chung, tội phạm về tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
nói riêng.
Dưới góc độ pháp lý, hàng cấm là đối tượng đặc biệt, được Nhà nước quản
lý và xử lý đối với hành vi liên quan đến nó. Trong pháp luật thương mại, đầu tư
đều có quy định những đối tượng cấm hoạt động kinh doanh đầu tư và có các
chế tài xử phạt đối với hành vi liên quan đến hàng cấm.
Khoản 1 Điều 25 Luật thương mại xác định: “Căn cứ vào điều kiện kinh tế
- xã hội của từng thời kỳ và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên, Chính phủ quy định cu thể danh muc hàng hoá cấm kinh
doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh doanh có điều kiện và điều
kiện để được kinh doanh hàng hoá đó”. Đối với pháp luật về thương mại đầu tư,
các nhà làm luật không định nghĩa hàng cấm là gì mà được quy định thành danh

mục cụ thể những mặt hàng cấm kinh doanh. Danh mục này do Chính phủ quy

18


định và từng thời kỳ khác nhau thì danh mục hàng hoá cấm kinh doanh cũng
thay đổi.
Nghị định 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 11 năm 2013
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất,
buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có giải thích:
“Hàng cấm” gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử dụng;
hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam.
Dưới góc độ pháp lý hình sự, hàng cấm được xác định là đối tượng của tội
phạm về kinh tế, bị xem là đối tượng: “bất hợp pháp”. Việc lưu thông và kinh
doanh đối với đối tượng này ở mức độ nhất định là hành vi tội phạm, bị pháp
luật hình sự nghiêm cấm. Để hiểu rõ về hàng cấm, ngoài việc xem xét khái niệm
hàng hóa nói chung, chúng ta cần thiết phải tìm hiểu các văn bản pháp luật quy
định về hàng cấm và dấu hiệu nhận biết hàng cấm. Tuy nhiên, cho trước khi
BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 được ban hành, các quy định pháp
lý về hàng cấm còn chưa chỉ ra khái niệm hàng cấm và chưa quy định cụ thể dấu
hiệu nhận biết đối tượng hàng cấm đã được điều chỉnh tại các điều luật khác với
Điều 155 BLHS năm 1999. Điều này đã gây những khó khăn nhất định cho việc
nghiên cứu, tìm hiểu để nhận thức cho đúng về hàng cấm dưới góc độ pháp lý.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đưa ra khái niệm
về hàng cấm mà hàng cấm chỉ được nhắc đến một cách chung chung. Để đưa ra
10 khái niệm đầy đủ nhất về hàng cấm dưới góc độ pháp luật hình sự cần chú ý
một số nội dung cơ bản sau:
Một là, hàng cấm là loại hàng hoá đặc biệt do nhà nước thống nhất quản lý
và quy định cụ thể danh mục hàng hoá thuộc loại này.
Hai là, danh mục hàng cấm không cố định mà có sự thay đổi theo từng thời

kỳ khác nhau. Có nhiều loại hàng hoá có tính chất cấm vĩnh viễn, cũng có những
hàng hoá chỉ cấm tạm thời.
19


Ba là, hàng cấm có tác hại về kinh tế, có khả năng gây hại cho tính mạng,
sức khoẻ con người và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị của
mỗi quốc gia.
Bốn là, tuỳ thuộc vào chế độ quản lý của mỗi quốc gia mà việc quy định
các mặt hàng cấm sản xuất kinh doanh khác nhau. BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017 có nhiều điều luật quy định hành vi phạm tội liên quan đến hàng
cấm ở các chương khác nhau, là đối tượng tác động của nhiều tội phạm khác
nhau như: hàng cấm là chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất phóng
xạ, chất độc, văn hoá phẩm đồi truỵ...Những hàng cấm còn lại chưa quy định cụ
thể ở Điều luật nào khác thì được quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Như vậy, diện hàng cấm nói chung rộng hơn diện hàng cấm là đối tượng
tác động của Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nhìn nhận
diện hàng cấm theo nghĩa rộng chúng ta cần nhìn nhận diện hàng cấm trên tất cả
các lĩnh vực và có sự liên hệ với diện hàng cấm là đối tượng tác động của các tội
phạm cụ thể về hàng cấm kể trên. Vì vậy, từ những phân tích nêu trên và thực
tiễn áp dụng pháp luật chúng ta nhận thức: “Hàng cấm gồm hàng hóa cấm kinh
doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử dung; hàng hóa chưa được phép lưu hành,
sử dung tại Việt Nam”.
1.1.1.2.2. Khái niệm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là hành vi cất giữ, chuyển dịch hàng hoá
mà Nhà nước cấm kinh doanh. Tàng trữ hàng cấm là hành vi cất giữ hàng cấm ở
bất kỳ chỗ nào một cách trái phép. Nơi tàng trữ có thể là nơi ở, nơi làm việc,
mang theo trong người, trong hành lý hoặc cách giấu bất kỳ một vị trí nào khác
mà người tàng trữ đã chọn, không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất ra hàng

cấm khác hoặc vận chuyển từ này đến nơi khác. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn
không có ý nghĩa đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lý. Nếu tàng trữ hàng
cấm cho người mà khác biết rõ người này buôn bán hàng cấm thì hành vi cất giữ
20


hàng cấm không phải là hành vi tàng trữ mà là hành vi giúp sức người buôn bán
hàng cấm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm với vai
trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi buôn bán, vận chuyển đã được quy định
trong cùng một điều luật nên việc xác định chính xác hành vi tàng trữ, hành vi
vận chuyển hay hành vi buôn bán chỉ có ý nghĩa trong việc định tội theo hành vi
(một hoặc một số hành vi hay định tội theo hành vi đầy đủ), nếu cùng một loại
hàng cấm.
Khi xác định hành vi tàng trữ hàng cấm, cần phân biệt với hành vi chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu tài sản do người
khác phạm tội mà có là hàng cấm, người đó chứa chấp thì hành vi chứa chấp sẽ
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ hàng cấm hoặc hành vi tiêu thụ sẽ
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm. Vận chuyển hàng
cấm là hành vi đưa hàng cấm từ nơi này đến nơi khác một cách trái phép.
Hình thức vận chuyển có thể là trực tiếp mang hoặc gửi hàng cấm từ địa
điểm này đến địa điểm khác bằng bất cứ đường nào (đường bộ, đường thủy,
đường sắt, đường hàng không, đường bưu điện) bằng bất kỳ phuơng thức nào
(trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích buôn bán, tàng trữ.
Tuy nhiên nếu vận chuyển hàng cấm qua biên giới thì thuộc trường hợp quy
định tại Điều 189 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Nếu vận
chuyển hàng cấm hộ cho người khác mà biết rõ mục đích buôn bán hàng cấm
của người mà mình nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận chuyển sẽ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm với vai trò giúp sức.
Nguyên nhân cũng do việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và buôn bán hàng cấm
mang lại nguồn lợi kinh tế rất lớn nên nhiều người, nhiều cá nhân, tổ chức hám

lợi mà bất chấp những quy định của pháp luật để thực hiện. Đó đều là những
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội không chỉ vi phạm luật xử lý vi phạm hành
chính mà còn bị coi là tội phạm và buộc phải xử lý, áp dụng chế tài hình sự.

21


Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam chỉ xem hành vi sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, buôn bán hàng cấm là tội phạm khi hành vi đó ở mức độ nguy hiểm
đáng kể cho xã hội, cụ thể như: phải thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm với số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử
phạt hành chính, hoặc bị kết án về một số hành vi xâm phạm đến trật tự quản lý
kinh tế được quy định trong Bộ luật hình sự như trong phần nghiên cứu dưới
đây.
1.1.1.2.3.Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Tội phạm nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng đều là
hiện tượng tiêu cực của xã hội có nguồn gốc từ sự phát triển của xã hội. Mỗi
quốc gia, để bảo vệ lợi ích của đất nước mình và phù hợp với tập quán thương
mại quốc tế đều đưa ra những chính sách nhằm đấu tranh, phòng ngừa và giảm
bớt tác hại của loại tội phạm này. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Hành vi thoả mãn các yếu tố nêu trên mới được coi là tội phạm. Hành vi
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm để được coi là tội phạm cũng phải thoả mãn các
yếu tố theo quy định của pháp luật. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được quy

định tại Điều 191 thuộc chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế của BLHS năm 2015.

22


Để tìm ra khái niệm chính xác về tội này, cần tìm hiểu khái niệm của các
cụm từ, thuật ngữ tạo nên tội danh và nguồn gốc, bản chất của hành vi tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm. Từ trước đến nay các văn bản có liên quan hay các Từ
điển tiếng Việt có đề cập đến khái niệm hoặc giải thích các cụm từ: vận chuyển
hàng cấm, tàng trữ hàng cấm. Tổng kết lại người nghiên cứu hiểu một cách ngắn
gọn: Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong BLHS là các hành vi cất giữ hàng
cấm bằng bất kỳ hình thức nào, di chuyển hàng cấm từ nơi này đến nơi khác
bằng bấy kỳ hình thức nào [52].
Để tìm ra khái niệm chính xác về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, bên
cạnh việc tìm hiểu những cụm thuật ngữ tạo nên tội danh, người nghiên cứu
cũng cần tìm hiểu nguồn gốc và bản chất của tội danh này. Các hoạt động sản
xuất, kinh doanh liên quan đến hàng cấm xuất hiện trước hết là do sự phát triển
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội dẫn đến sự phát triển của những hoạt động sản
xuất, kinh doanh hàng hoá trong nội địa không đồng nhất cả về sức sản xuất
(nguồn cung), nhu cầu tiêu dùng (nguồn cầu). Một số mặt hàng với tính chất đặc
biệt có nguy cơ gây nguy hại cho nền kinh tế và cho sức khoẻ con người. Các
loại hàng hoá này mang lại lợi nhuận lớn khiến các cá nhân, tổ chức bất chấp sự
quản lý của Nhà nước để lưu thông hàng hoá loại này. Đây chính là nguyên nhân
sâu xa khiến hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tồn tại và phát triển như
một tất yếu khách quan.
Với bản chất là hoạt động kinh tế mang tính xã hội, hoạt động lưu thông
hàng cấm luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế. Việc quan niệm về tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của từng quốc gia trong từng giai đoạn và điều
kiện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội cũng vì thế mà khác nhau. Những quốc gia

có nền kinh tế phát triển có hệ thống quy phạm pháp luật về thương mại, đầu tư,
kinh doanh trong nước rất chặt chẽ, do đó hệ thống mặt hàng lưu thông nội địa
quy định nghiêm ngặt, chế tài xử phạt đối với những hoạt động lưu thông hàng
hoá kém chất lượng, hàng hoá không được kinh doanh rất nghiêm khắc, do đó
những mặt hàng cấm vĩnh viễn mới được áp dụng trong chế tài của luật hình sự
23


theo hướng quy định đối với hành vi lưu thông loại hàng hoá cụ thể như ma tuý,
chất phóng xạ...Đối với các quốc gia khác, các quốc gia có nền kinh tế kém phát
triển hơn, ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn hạn chế hơn, các hành
vi lưu thông hàng cấm phức tạp và tinh vi hơn, do đó các quốc gia này áp dụng
biện pháp nghiêm khắc nhất là hình phạt đối với các hành vi lưu thông hàng hoá
thuộc danh mục hàng cấm do Chính phủ quy định.
Với những đặc điểm nêu trên, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
quy định tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tại Điều 191: “Người nào tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc
trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254,
304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng
đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...”
. Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm về tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm như sau: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là những hành vi
cất giữ trái phép, vận chuyển trái phép những mặt hàng Nhà nước cấm kinh
doanh, cấm lưu hành, cấm sử dung, chưa được phép lưu hành, chưa được phép
sử dung với số lượng, trọng lượng hoặc giá trị cu thể mà pháp luật quy định, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
với lỗi cố ý, xâm phạm chế độ của nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh
một số loại hàng hóa nhất định.
1.1.1.2.4. Các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học

pháp lý hình sự. Luật hình sự Việt Nam khẳng định:
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại [46, tr.86].
Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi xâm hại đến một trong các quan hệ
xã hội được Luật hình sự bảo vệ quy định tại Điều 8 BLHS. Khách thể của tội
24


phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội cũng như đối với việc định tội danh và quyết định hình
phạt trên thực tế. Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là trật tự
quản lý kinh tế, chế độ độc quyền của nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh
doanh một số loại hàng cẩm mà pháp luật quy định.
Hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm bao gồm hành
vi tàng trữ hàng cấm và hành vi vận chuyển hàng cấm. Tàng trữ hàng cấm như
đã phân tích ở trên là hành vi cất giữ trái phép những mặt hàng Nhà nước cấm
kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được
phép sử dụng...trong người, trong nhà hoặc ở bất kỳ nơi nào không phụ thuộc và
thời gian cất giữ dài hay ngắn [6, tr.301].
Vận chuyển hàng cấm là hành vi đưa những mặt hàng Nhà nước cấm kinh
doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép
sử dụng...dưới bất kỳ hình thức nào từ địa điểm này đến địa điểm khác mà
không nhằm mục đích bán [4, tr.301].
- Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là người từ đủ 16 tuổi trở
lên có năng lực trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương mại.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được
thực hiện với lỗi cố ý.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án tàng trữ, vận chuyển

hàng cấm của VKSND có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm là hoạt động chỉ do VKSND tiến hành theo pháp luật quy định.

25


×