BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THỊ THẢO NGUYÊN
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
VẨN CHUYỂN, TÀNG TRỮ HÀNG CẤM, TỪ THỰC TIỄN VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, TỈNH LONG AN
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Nghệ An, năm 2020
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THỊ THẢO NGUYÊN
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
VẨN CHUYỂN, TÀNG TRỮ HÀNG CẤM, TỪ THỰC TIỄN VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, TỈNH LONG AN
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 8.38.01.06
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Đại
Nghệ An,2năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các kết quả
trong luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu khoa học
nào khác. Các số liệu, ví dụ, bảng kê, và trích dẫn trong luận văn bảo đảm tính
chính xác và trung thực, không gian dối hay bịa đặt. Tôi đã hoàn thành tất các
môn học và hoàn thành tất cá các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường
Đại học Vinh – Nghệ An.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thảo Nguyên
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
BLDS
VKSNDTC
VKSND
XHCN
KSĐT
BLHS
Bộ luật hình sự
Bộ luật dân sự
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Viện kiểm sát nhân dân
Xã hội chủ nghĩa
Kiểm sát điều tra
Bộ luật hình sự
CQCSĐT
CQĐT
CSĐT
ĐTV
KSV
TAND
Cơ quan cảnh sát điều tra
Cơ quan điều tra
Cảnh sát điều tra
Điều tra viên
Kiểm sát viên
Tòa án nhân dân
TNHS
TPVTTXH.
Trách nhiệm hình sự
Tội phạm về trật tự xã hội
TTATXH
Trật tự an toàn xã hội
4
TTXH
VKS
VKSND
VKSNDTC
TTHS
ADPL
Trật tự xã hội
Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Tố tụng hình sự
Áp dụng pháp luật
5
MỤC LỤC
Mở đầu
Chương 1: Lý luận về áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ
7
13
án tàng trữ, vẩn chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện
1.1. Khái niệm, đặc điểm vai trò áp dụng pháp luật trong kiểm sát
13
điều tra các vụ án tàng trữ, vẩn chuyển hàng cấm của Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện
1.2. Nội dung áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
26
tàng trữ, vẩn chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện
1.3. Các yếu tố bảo đảm áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra
36
các vụ án tàng trữ, vẩn chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ
41
án tàng trữ, vẩn chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện, tỉnh Long An
2.1. Các điều kiện ảnh hưởng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều
41
tra các vụ án tàng trữ, vẩn chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
48
tàng trữ, vẩn chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, tỉnh Long An
2.3. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra
57
các vụ án tàng trữ, vẩn chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện, tỉnh Long An
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo áp dụng pháp luật trong kiểm
70
sát điều tra các vụ án tàng trữ, vẩn chuyển hàng cấm của
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An
3.1. Quan điểm áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
70
tàng trữ, vẩn chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, tỉnh Long An
3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các
vụ án tàng trữ, vẩn chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân
6
72
dân cấp huyện, tỉnh Long An
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
83
84
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Nhà
nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
do Đảng lãnh đạo. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc
7
tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp
và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức
VKSND 2014 thì VKSND vẫn giữ chức năng kiểm sát điều tra. Việc áp dụng
pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được
điều tra, xử lý kịp thời.
Thời gian qua, với sự vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ
chế định hướng xã hội chủ nghĩa, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự
hào.
Những thành tựu đã đạt được chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước
ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Cùng với những
chủ trương, chính sách phát triển toàn diện nền kinh tế xã hội, Nhà nước ta luôn
quan tâm đến các biện pháp bảo đảm quyền tự do, bình đẳng trước pháp luật, bảo
hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người kinh doanh, tăng cường hiệu lực quản lý
của Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh. Nhà nước tạo sự tự chủ cho các
tổ chức và cá nhân, tập thể đăng ký, hoạt động kinh doanh ngoài những ngành
nghề gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội,
truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và sức
khỏe của nhân dân.
Tại Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Như vậy, việc chống
lại các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp đã được Nhà nước thể chế thành
nguyên tắc hiến định. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và văn bản pháp
luật nhằm phòng chống các tội phạm kinh tế nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm nói riêng. Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam do Quốc hội thông qua
ngày 17/6/1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào năm 1989, 1990, 1992,
1997 có quy định về tội 2 buôn bán, tàng trữ hàng cấm trong chương “Các tội
phạm kinh tế”. BLHS 1999 đã đưa ra quy định điều chỉnh hành vi liên quan đến
8
hàng cấm rải rác ở các chương khác nhau quy định về các hành vi liên quan đến
hàng cấm và một số hàng cấm cụ thể khác như chất ma túy, vũ khí quân dụng, vật
liệu nổ, vũ khí hoặc công cụ hỗ trợ, chất phóng xạ, chất cháy, chất độc. BLHS
2015 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều BLHS 2015 (ban hành năm 2017)
ngoài những nội dung cấu thành tội phạm trong BLHS 1999, bộ luật còn có nhiều
thay đổi về việc xây dựng cấu thành tội phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
nên cần thiết phải có cách hiểu thống nhất để áp dụng pháp luật đối với tội phạm
này. Bên cạnh các quy định của Luật hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm, còn có các quy định của các văn bản pháp luật thuộc Ngành và lĩnh
vực khác cũng điều chỉnh các quan hệ và hành vi liên quan đến hàng cấm.
Tuy nhiên, do đặc thù của nền kinh tế thị trường, sức ép cạnh tranh và
những sơ hở, yếu kém trong quản lý kinh tế nên nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm
kinh tế ngày càng có môi trường phát sinh, phát triển, trong đó tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm đang ngày càng tăng về số lượng với nhiều mặt hàng cấm nguy
hiểm, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, hơn hết là tác động tiêu cực tới con người,
môi trường và xã hội, nó đã trở thành một vấn đề nhức nhối của xã hội. Công tác
đấu tranh phòng chống loại tội phạm này cần phải quyết liệt mạnh mẽ, để làm
được điều đó cần có sự đánh giá chính xác, chi tiết, đầy đủ về tội phạm này.
Long An là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hoạt động sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trên địa bàn tỉnh Long An trong
thời gian gần đây không chỉ có chiều hướng tăng về số lượng, chủng loại mà còn
diễn biến phức tạp về cả tính chất, quy mô. Đối tượng phạm tội có rất nhiều
phương thức, thủ đoạn tinh vi, táo bạo và có tính chất rất quyết liệt. Trong khi đó,
hoạt động điều tra xử lý tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng
cấm hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu trước tình hình thực tế tại địa
phương, làm ảnh hưởng tình hình an ninh trật tự và sự phát triển toàn diện các
mặt kinh tế xã hội. Tình hình trên đã đặt ra một vấn đề rất bức thiết là phải có
những giải pháp hữu hiệu, phù hợp với đặc điểm tình hình địa phương nhằm nâng
cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm. Để xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật, góp phần thực
9
hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo trật tự an toàn
xã hội, tạo lòng tin trong nhân dân và điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển
kinh tế xã hội tại địa phương cũng như của đất nước. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật trong kiểm
sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện vẫn chưa được thực hiện một cách có hệ thống và chuyên sâu trên địa
bàn tỉnh Long An
Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Áp dụng
pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, từ
thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An” làm luận văn thạc
sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là nội dung
được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Trong thực tế đã có những công trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài ở nhiều góc độ khác nhau như:
Lục Thị Út (2014),“Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong Luật
Hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Cao Bằng) [48].
Ở công trình này, tác giả nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về tội
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm hiện nay ở Việt Nam. Phân tích các quy
định của BLHS về tội tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Nghiên cứu thực
tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Hình sự đối với tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, buôn bán hàng cấm ở tỉnh Cao Bằng, làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng
loại tội phạm này, nêu lên những vướng mắc trong điều tra, truy tố, xét xử. Đưa
ra các kiến nghị hoàn thiện BLHS và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của BLHS về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm,
góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.
Nguyễn Thị Hạnh (2013), “Thực hành pháp luật trong giải quyết các vu
án buôn bán, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” Luận văn đã
trình bày một số vấn đề lý luận về thực hành pháp luật trong giải quyết các vụ án
buôn bán, vận chuyển hàng cấm. Phân tích thực trạng thực hành pháp luật trong
10
giải quyết các vụ án buôn bán, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh. Chỉ ra số hạn chế và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực
hành pháp luật trong giải quyết các vụ án buôn bán, vận chuyển hàng cấm trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, còn một số bài
viết đăng trong các báo Pháp Luật, các tạp chí TAND, VKSND, bài nghiên cứu
trao đổi trên website của Bộ Tư Pháp, TAND tối cao, VKSND tối cao. Ngoài ra,
còn một số sách tham khảo, chuyên khảo có đề cập nội dung rất nhỏ liên quan
đến đề tài luận văn như: Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999 (phần các tội
phạm), của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.ThS. Phạm Thanh
Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu
trên đây đã phân tích và làm sáng tỏ được những vấn đề liên quan đến công tác
kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, những giải pháp nâng
cao hiệu quả, chất lượng của công tác này, qua đó đã đưa ra những phương pháp,
cách làm để nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra.. Tuy nhiên tất cả các đề tài và
bài viết mới chỉ tập trung nghiên cứu ở một số khía cạnh cụ thể và nội dung
nghiên cứu đều ở những địa bàn khác nhau. Vì vậy, cho đến nay chưa có công
trình nào nghiên cứu chuyên sâu một cách đầy đủ và có hệ thống về áp dụng pháp
luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Long An. Chính vì vậy việc lựa
chọn và nghiên cứu đề tài “Áp dung pháp luật trong kiểm sát điều tra các vu án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện,
tỉnh Long An” theo tác giả là đề tài vừa đảm bảo được tính kế thừa các công trình
đã công bố, nhưng cũng đảm bảo được tính độc lập tương đối, tính mới và tính
cấp thiết của đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu việc áp dụng pháp luật trong kiểm
sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện, trên địa bàn tỉnh Long An. Từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu
11
quả công tác áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm trong thực tiễn hiện nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được các mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết các
nhiệm vụ sau: Phân tích cơ sở lý luận, khái niệm, thẩm quyền, căn cứ pháp luật
trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm; Nội dung áp
dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm;
các yếu tố ảnh hưởng đến việc dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An.
Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật về áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An trong thời gian
tới.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp
luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề
xung quanh chức năng trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh, các quy định
của các Bộ luật và những văn bản hướng dẫn khác có liên quan, kết hợp với việc
nghiên cứu đánh giá thực tiễn thực hiện công tác trên của VKSND cấp huyện.
Thông qua đó, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những
giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện trong thực tiễn.
Phạm vi không gian: Trên địa bàn tỉnh Long An
Phạm vi thời gian: Trong thời gian 05 năm (từ năm 2015 - 2019)
12
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Nhất là các quan điểm chỉ đạo của Đảng
về tăng cường áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn có sự kế thừa, tham khảo
những kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan đến việc áp dụng pháp
luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của các công
trình nghiên cứu trước.
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng như:
Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích và tổng
hợp; phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương
pháp của các bộ môn khoa học khác: Thống kê tội phạm, phương pháp hệ
thống…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về áp dung pháp luật trong kiểm sát điều tra các vu án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Chương 2: Thực trạng áp dung pháp luật trong kiểm sát điều tra các vu án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm áp dung pháp luật trong kiểm
sát điều tra các vu án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện.
Chương 1
13
LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò áp dụng pháp luật trong kiểm sát
điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm về áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
1.1.1.1. Khái niệm hàng cấm, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Khái niệm hàng cấm: Hàng cấm được rất nhiều người sử dụng trong đời
sống kinh tế. Tuy nhiên, hiểu một cách chính xác về bản chất của từ này trong
khoa học pháp luật hình sự thì chưa có cách hiểu và giải thích thống nhất. Để tìm
hiểu khái niệm hàng cấm chúng ta tìm hiểu thông qua ngữ nghĩa của hai từ cụ
thể: - “hàng” là sản phẩm để bán, - “cấm” là không cho phép làm việc gì đó hoặc
không cho phép tồn tại [51]. Từ đó hàng cấm được hiểu là những sản phẩm
không cho phép tồn tại.
Theo từ điển Luật học giải thích: “hàng cấm là hàng hoá bị Nhà nước cấm
kinh doanh [51, tr.319]. Một số từ điển hoặc các văn bản có liên quan có đề cập
đến hàng cấm là hàng hóa mà Nhà nước cấm buôn bán, kinh doanh [52, tr.16].
Hàng cấm còn được nhắc đến trong giải thích tội buôn lậu: buôn lậu là buôn bán
trốn thuế hoặc hàng cấm . Tuy được nhắc đến nhiều nhưng chưa có cách hiểu
thống nhất về thuật ngữ này.
Hiện nay, nhiều tác giả đồng tình với cách giải thích: Hàng cấm là hàng hoá
Nhà nước cấm kinh doanh [52, tr.110]. Hàng cấm theo nghĩa rộng là loại hàng
hoá bị cấm kinh doanh dưới mọi hình thức. Bản chất của hàng cấm có thể được
nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ xã hội, hàng cấm được hiểu phổ biến nhất là những mặt hàng
đặc biệt do Nhà nước trực tiếp quản lý độc quyền, cấm sản xuất, kinh doanh.
Theo triết học Mác - Lê nin hàng hoá là sản phẩm của lao động thông qua hoạt
14
động trao đổi, mua bán. Hàng hoá có thể là hữu hình hoặc vô hình mà nhờ vào
tính chất của nó thoả mãn nhu cầu của con người. Trong nền kinh tế thị trường,
hàng hoá ngày càng trở nên đa dạng phong phú. Việc quản lý đối với các loại
hàng hoá và các hoạt động kinh doanh liên quan đến hàng hoá ngày càng phức
tạp, khó khăn hơn bởi sự xuất hiện ngày càng nhiều của các loại hàng hoá gây
ảnh hưởng xấu tới con người, môi trường và xã hội. Từ sự phát triển của tự do
thương mại mà Nhà nước thống nhất quản lý những mặt hàng có tính chất đặc
biệt, có những đặc tính riêng cần phải hạn chế cách ly các hoạt động sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán những mặt hàng đó trong xã hội. Pháp luật quy
định cấm tuyệt đối với những mặt hàng khi lưu thông hoặc sử dụng có thể gây
nguy hại cho an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, truyền thống văn hóa,
môi trường và sức khỏe nhân dân, vì vậy Nhà nước cần phải độc quyền quản lý
loại hàng hoá đó. Trong xã hội gọi những hàng hoá này là “ hàng cấm” hay
“hàng quốc cấm”.
Dưới góc độ kinh tế thì hàng cấm là hàng hoá nhưng thuộc loại do Nhà nước
thống nhất quản lý cấm các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển và buôn bán. Hàng hóa và sản xuất, buôn bán hàng hóa gắn
liền với hoạt động kinh doanh, phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong
quá trình kinh doanh như: phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất xã hội
nhằm mục đích thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu. Việc sản xuất
hàng hóa là bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, đồng thời
nó cũng phù hợp với xu thế vận động của quá trình hoạt động kinh doanh. Qua
các thời kỳ phát triển kinh tế, xã hội lượng hàng hóa sản xuất ngày một nhiều và
đa dạng. Có hàng hoá được tự do sản xuất, kinh doanh; có những mặt hàng do
tính chất đặc thù của nó mà Nhà nước phải cấm thực hiện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Tuy nhiên, do những lợi nhuận mà các mặt hàng này đem lại, các cá
nhân, tổ chức lén lút sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, nếu đủ yếu tố cấu
thành tội phạm (CTTP) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Mặc dù vậy, cho đến nay khái
niệm hàng cấm vẫn chưa có bất cứ văn bản pháp luật nào đưa ra một cách hiểu
15
thống nhất. Trong quá trình giải quyết về loại vụ việc liên quan đến hàng cấm,
một vấn đề đặt ra đối với các cơ quan chức năng là phải hiểu rõ thế nào là hàng
cấm và các loại hàng cấm để từ đó mới ra được những quyết định phù hợp, đúng
đắn phục vụ tốt cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về trật tự kinh tế
nói chung, tội phạm về tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng.
Dưới góc độ pháp lý, hàng cấm là đối tượng đặc biệt, được Nhà nước quản
lý và xử lý đối với hành vi liên quan đến nó. Trong pháp luật thương mại, đầu tư
đều có quy định những đối tượng cấm hoạt động kinh doanh đầu tư và có các chế
tài xử phạt đối với hành vi liên quan đến hàng cấm.
Khoản 1 Điều 25 Luật thương mại xác định: “Căn cứ vào điều kiện kinh tế xã hội của từng thời kỳ và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên, Chính phủ quy định cu thể danh muc hàng hoá cấm kinh
doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh doanh có điều kiện và điều
kiện để được kinh doanh hàng hoá đó”. Đối với pháp luật về thương mại đầu tư,
các nhà làm luật không định nghĩa hàng cấm là gì mà được quy định thành danh
mục cụ thể những mặt hàng cấm kinh doanh. Danh mục này do Chính phủ quy
định và từng thời kỳ khác nhau thì danh mục hàng hoá cấm kinh doanh cũng thay
đổi. [52, tr.5].
Nghị định 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 11 năm 2013 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán
hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có giải thích: “ Hàng
cấm” gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử dụng; hàng hóa
chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam.
Dưới góc độ pháp lý hình sự, hàng cấm được xác định là đối tượng của tội
phạm về kinh tế, bị xem là đối tượng: “bất hợp pháp”. Việc lưu thông và kinh
doanh đối với đối tượng này ở mức độ nhất định là hành vi tội phạm, bị pháp luật
hình sự nghiêm cấm. Để hiểu rõ về hàng cấm, ngoài việc xem xét khái niệm hàng
hóa nói chung, chúng ta cần thiết phải tìm hiểu các văn bản pháp luật quy định về
hàng cấm và dấu hiệu nhận biết hàng cấm. Tuy nhiên, cho tới trước khi BLHS
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 được ban hành, các quy định pháp lý về
16
hàng cấm còn chưa chỉ ra khái niệm hàng cấm và chưa quy định cụ thể dấu hiệu
nhận biết đối tượng hàng cấm đã được điều chỉnh tại các điều luật khác với Điều
155 BLHS năm 1999. Điều này đã gây những khó khăn nhất định cho việc
nghiên cứu, tìm hiểu để nhận thức cho đúng về hàng cấm dưới góc độ pháp lý.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đưa ra khái niệm
về hàng cấm mà hàng cấm chỉ được nhắc đến một cách chung chung. Để đưa ra
10 khái niệm đầy đủ nhất về hàng cấm dưới góc độ pháp luật hình sự cần chú ý
một số nội dung cơ bản sau:
Một là, hàng cấm là loại hàng hoá đặc biệt do nhà nước thống nhất quản lý
và quy định cụ thể danh mục hàng hoá thuộc loại này.
Hai là, danh mục hàng cấm không cố định mà có sự thay đổi theo từng thời
kỳ khác nhau. Có nhiều loại hàng hoá có tính chất cấm vĩnh viễn, cũng có những
hàng hoá chỉ cấm tạm thời.
Ba là, hàng cấm có tác hại về kinh tế, có khả năng gây hại cho tính mạng,
sức khoẻ con người và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị của
mỗi quốc gia.
Bốn là, tuỳ thuộc vào chế độ quản lý của mỗi quốc gia mà việc quy định các
mặt hàng cấm sản xuất kinh doanh khác nhau. BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017 có nhiều điều luật quy định hành vi phạm tội liên quan đến hàng cấm ở
các chương khác nhau, là đối tượng tác động của nhiều tội phạm khác nhau như:
hàng cấm là chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất phóng xạ, chất độc,
văn hoá phẩm đồi truỵ...Những hàng cấm còn lại chưa quy định cụ thể ở Điều
luật nào khác thì được quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017 quy định về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Như vậy, diện hàng cấm nói chung rộng hơn diện hàng cấm là đối tượng tác
động của Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nhìn nhận diện
hàng cấm theo nghĩa rộng chúng ta cần nhìn nhận diện hàng cấm trên tất cả các
lĩnh vực và có sự liên hệ với diện hàng cấm là đối tượng tác động của các tội
phạm cụ thể về hàng cấm kể trên. Vì vậy, từ những phân tích nêu trên và thực
tiễn áp dụng pháp luật chúng ta nhận thức: “Hàng cấm gồm hàng hóa cấm kinh
17
doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử dung; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử
dung tại Việt Nam”. [53, tr.205].
Khái niệm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm:
Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là hành vi cất giữ, chuyển dịch hàng hoá
mà Nhà nước cấm kinh doanh. Tàng trữ hàng cấm là hành vi cất giữ hàng cấm ở
bất kỳ chỗ nào một cách trái phép. Nơi tàng trữ có thể là nơi ở, nơi làm việc,
mang theo trong người, trong hành lý hoặc cách giấu bất kỳ một vị trí nào khác
mà người tàng trữ đã chọn, không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất ra hàng
cấm khác hoặc vận chuyển từ nơi này đến nơi khác. Thời gian tàng trữ dài hay
ngắn không có ý nghĩa đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lý. Nếu tàng trữ
hàng cấm cho người khác mà biết rõ người này buôn bán hàng cấm thì hành vi
cất giữ hàng cấm không phải là hành vi tàng trữ mà là hành vi giúp sức người
buôn bán hàng cấm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm
với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi buôn bán, vận chuyển đã được quy
định trong cùng một điều luật nên việc xác định chính xác hành vi tàng trữ, hành
vi vận chuyển hay hành vi buôn bán chỉ có ý nghĩa trong việc định tội theo hành
vi (một hoặc một số hành vi hay định tội theo hành vi đầy đủ), nếu cùng một loại
hàng cấm.
Khi xác định hành vi tàng trữ hàng cấm, cần phân biệt với hành vi chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu tài sản do người
khác phạm tội mà có là hàng cấm, người đó chứa chấp thì hành vi chứa chấp sẽ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ hàng cấm hoặc hành vi tiêu thụ sẽ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm.
Vận chuyển hàng cấm là hành vi đưa hàng cấm từ nơi này đến nơi khác một
cách trái phép. Hình thức vận chuyển có thể là trực tiếp mang hoặc gửi hàng cấm
từ địa điểm này đến địa điểm khác bằng bất cứ đường nào (đường bộ, đường
thủy, đường sắt, đường hàng không, đường bưu điện) bằng bất kỳ phuơng thức
nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích buôn bán, tàng
trữ. Tuy nhiên nếu vận chuyển hàng cấm qua biên giới thì thuộc trường hợp quy
định tại Điều 189 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Nếu vận
18
chuyển hàng cấm hộ cho người khác mà biết rõ mục đích buôn bán hàng cấm của
người mà mình nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận chuyển sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm với vai trò giúp sức. Nguyên
nhân cũng do việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và buôn bán hàng cấm mang lại
nguồn lợi kinh tế rất lớn nên nhiều người, nhiều cá nhân, tổ chức hám lợi mà bất
chấp những quy định của pháp luật để thực hiện. Đó đều là những hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội không chỉ vi phạm luật xử lý vi phạm hành chính mà còn
bị coi là tội phạm và buộc phải xử lý, áp dụng chế tài hình sự.
Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam chỉ xem hành vi sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, buôn bán hàng cấm là tội phạm khi hành vi đó ở mức độ nguy hiểm
đáng kể cho xã hội, cụ thể như: phải thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm với số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử
phạt hành chính, hoặc bị kết án về một số hành vi xâm phạm đến trật tự quản lý
kinh tế được quy định trong Bộ luật hình sự như trong phần nghiên cứu dưới đây.
Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm:
Tội phạm nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng đều là hiện
tượng tiêu cực của xã hội có nguồn gốc từ sự phát triển của xã hội. Mỗi quốc gia,
để bảo vệ lợi ích của đất nước mình và phù hợp với tập quán thương mại quốc tế
đều đưa ra những chính sách nhằm đấu tranh, phòng ngừa và giảm bớt tác hại của
loại tội phạm này. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo
quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Hành vi thoả mãn các yếu tố nêu trên mới được coi là tội phạm. Hành vi
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm để được coi là tội phạm cũng phải thoả mãn các
yếu tố theo quy định của pháp luật. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được quy
19
định tại Điều 191 thuộc chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
của BLHS năm 2015.
Để tìm ra khái niệm chính xác về tội này, cần tìm hiểu khái niệm của các
cụm từ, thuật ngữ tạo nên tội danh và nguồn gốc, bản chất của hành vi tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm. Từ trước đến nay các văn bản có liên quan hay các Từ
điển tiếng Việt có đề cập đến khái niệm hoặc giải thích các cụm từ: vận chuyển
hàng cấm, tàng trữ hàng cấm. Tổng kết lại người nghiên cứu hiểu một cách ngắn
gọn: Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong BLHS là các hành vi cất giữ hàng
cấm bằng bất kỳ hình thức nào, di chuyển hàng cấm từ nơi này đến nơi khác bằng
bất kỳ hình thức nào [51].
Để tìm ra khái niệm chính xác về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, bên
cạnh việc tìm hiểu những cụm thuật ngữ tạo nên tội danh, người nghiên cứu cũng
cần tìm hiểu nguồn gốc và bản chất của tội danh này. Các hoạt động sản xuất,
kinh doanh liên quan đến hàng cấm xuất hiện trước hết là do sự phát triển kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội dẫn đến sự phát triển của những hoạt động sản xuất,
kinh doanh hàng hoá trong nội địa không đồng nhất cả về sức sản xuất (nguồn
cung), nhu cầu tiêu dùng (nguồn cầu). Một số mặt hàng với tính chất đặc biệt có
nguy cơ gây nguy hại cho nền kinh tế và cho sức khoẻ con người. Các loại hàng
hoá này mang lại lợi nhuận lớn khiến các cá nhân, tổ chức bất chấp sự quản lý
của Nhà nước để lưu thông hàng hoá loại này. Đây chính là nguyên nhân sâu xa
khiến hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tồn tại và phát triển như một tất yếu
khách quan.
Với bản chất là hoạt động kinh tế mang tính xã hội, hoạt động lưu thông
hàng cấm luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế. Việc quan niệm về tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của từng quốc gia trong từng giai đoạn và điều
kiện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội cũng vì thế mà khác nhau. Những quốc gia
có nền kinh tế phát triển có hệ thống quy phạm pháp luật về thương mại, đầu tư,
kinh doanh trong nước rất chặt chẽ, do đó hệ thống mặt hàng lưu thông nội địa
quy định nghiêm ngặt, chế tài xử phạt đối với những hoạt động lưu thông hàng
hoá kém chất lượng, hàng hoá không được kinh doanh rất nghiêm khắc, do đó
20
những mặt hàng cấm vĩnh viễn mới được áp dụng trong chế tài của luật hình sự
theo hướng quy định đối với hành vi lưu thông loại hàng hoá cụ thể như ma tuý,
chất phóng xạ...Đối với các quốc gia khác, các quốc gia có nền kinh tế kém phát
triển hơn, ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn hạn chế hơn, các hành vi
lưu thông hàng cấm phức tạp và tinh vi hơn, do đó các quốc gia này áp dụng biện
pháp nghiêm khắc nhất là hình phạt đối với các hành vi lưu thông hàng hoá thuộc
danh mục hàng cấm do Chính phủ quy định.
Với những đặc điểm nêu trên, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
quy định tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tại Điều 191: “Người nào tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc
trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254,
304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng
đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...”
Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm về tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm như sau: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là những hành vi
cất giữ trái phép, vận chuyển trái phép những mặt hàng Nhà nước cấm kinh
doanh, cấm lưu hành, cấm sử dung, chưa được phép lưu hành, chưa được phép
sử dung với số lượng, trọng lượng hoặc giá trị cu thể mà pháp luật quy định, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện với
lỗi cố ý, xâm phạm chế độ của nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một
số loại hàng hóa nhất định. [53, tr.205].
Các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm:
Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học
pháp lý hình sự. Luật hình sự Việt Nam khẳng định:
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại [46, tr.86].
Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi xâm hại đến một trong các quan hệ xã
hội được Luật hình sự bảo vệ quy định tại Điều 8 BLHS. Khách thể của tội phạm
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội cũng như đối với việc định tội danh và quyết định hình phạt trên
21
thực tế. Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là trật tự quản lý kinh
tế, chế độ độc quyền của nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số
loại hàng cẩm mà pháp luật quy định.
Hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm bao gồm hành vi
tàng trữ hàng cấm và hành vi vận chuyển hàng cấm. Tàng trữ hàng cấm như đã
phân tích ở trên là hành vi cất giữ trái phép những mặt hàng Nhà nước cấm kinh
doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử
dụng...trong người, trong nhà hoặc ở bất kỳ nơi nào không phụ thuộc và thời gian
cất giữ dài hay ngắn [6, tr.301].
Vận chuyển hàng cấm là hành vi đưa những mặt hàng Nhà nước cấm kinh
doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử
dụng...dưới bất kỳ hình thức nào từ địa điểm này đến địa điểm khác mà không
nhằm mục đích bán [4, tr.301].
1.1.1.2. Khái niệm về áp dung pháp luật trong kiểm sát điều tra các vu án
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra (KSĐT) các vụ án tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm án là một dạng của áp dụng pháp luật nói chung. Áp dụng pháp
luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc trường
hợp áp dụng pháp luật: Khi Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia bằng hình thức
giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia trong các quan hệ điều tra, KSĐT
các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Cơ sở phát sinh hoạt động áp dụng
pháp luật của VKSND đó là các quyết định của cơ quan điều tra, các hành vi của
những người tiến hành tố tụng trong hoạt động TTHS. Các quyết định và các
hành vi đó có thể được ban hành, thực hiện theo đúng hoặc không đúng quy định
của pháp luật. Khi đó Nhà nước thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của VKSND, nhằm phát hiện những sai phạm, kịp thời đề ra các yêu
cầu, kiến nghị các chủ thể trong quá trình điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm, khắc phục, sửa chữa; đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm được tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
22
Dưới góc độ lý luận chung về áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật là một
hình thức thực hiện pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà
nước của các cơ quan có thẩm quyền nhằm cá biệt hóa những vi phạm pháp luật
vào từng trường hợp cụ thể đối với những cá nhân, đơn vị, tổ chức cụ thể. Áp
dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm có thể coi
là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của VKSND nhằm cá biệt hóa các
quy phạm pháp luật nói chung đối với các chủ thể trong quá trình giải quyết các
vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Như vậy, áp dung pháp luật trong kiểm sát điều tra các vu án tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện là hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước của VKSND nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật nói
chung đối với các chủ thể trong quá trình giải quyết các vu án tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm của VKSND có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm là hoạt động chỉ do VKSND tiến hành theo pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật thì VKSND các cấp là cơ quan có chức năng
thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thông qua việc thực
hiện chức năng này, VKSND góp phần thực hiện quyền lực nhà nước, trực tiếp
thực hiện quyền tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ
XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bảo đảm
mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, của tập thể và lợi ích hợp pháp
của công dân phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và một số cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Hoạt động thực hành quyền
23
công tố và KSĐT các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được quy định tại
Điều 12, 13, 14 Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Tại Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND trong giai đoạn điều tra:
- Khởi tố vụ án, khởi tố bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay
đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực
tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
- Yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định
của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về
hình sự.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và
các biện pháp ngăn chặn khác; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của
cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.
- Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; tạm đình chỉ
điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Với những quy định của pháp luật như trên thì VKSND có quyền áp dụng
mọi biện pháp cần thiết trong hoạt động kiểm sát điều tra nhằm đảm bảo cho hoạt
động điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được tuân thủ đầy đủ các
quy định của pháp luật. Đảm bảo cho việc khởi tố điều tra các vụ án tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm được tuân theo quy định của pháp luật; bảo đảm việc truy tố
đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Thứ hai, áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm của VKSND phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định.
Hoạt động điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của cơ quan
điều tra; hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
của VKSND, đây là một quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hai cơ
quan: Công an - VKS, là những hoạt động rất quan trọng có tính quyết định trong
quá trình giải quyết những vụ án hình sự. Chính hoạt động KSĐT có vai trò quan
24
trọng như vậy nên pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hiện hành nói riêng
đã quy định rất chặt chẽ việc áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra
các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Pháp luật TTHS quy định chặt chẽ trình
tự, thủ tục của các hoạt động điều tra, hoạt động giám sát như: khởi tố vụ án;
khởi tố bị can; các biện pháp điều tra; các biện pháp ngăn chặn; nhập, tách vụ án
hình sự; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; thời hạn điều tra.
Tóm lại, tất cả các bước trong quá trình điều tra các vụ án tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND đều
được quy định chặt chẽ theo các trình tự thủ tục do pháp luật TTHS hiện hành
quy định.
Thứ ba, quyết định áp dụng pháp luật trong KSĐT của VKSND được pháp
luật bảo đảm thi hành.
Việc tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật đã ban hành là giai
đoạn cuối của quá trình áp dụng pháp luật, nó có ý nghĩa hết sức quan trọng. Khi
một quyết định áp dụng pháp luật sau khi ban hành mà không được thi hành trên
thực tế thì cũng đồng nghĩa với việc vô hiệu hóa pháp luật, vô hiệu hóa cơ quan
thực thi và bảo vệ pháp luật, gây tổn hại nghiêm trọng đến pháp chế XHCN.
Các quyết định áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm đã được Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 quy định chặt chẽ và đầy đủ. Việc thực hiện các quyết định áp dụng pháp
luật của VKSND sẽ đảm bảo cho quá trình giải quyết những vụ án hình sự được
đúng theo quy định của pháp luật; đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm
chỉnh và thống nhất.
Tại Điều 23, khoản 2 BLTTHS năm 2003 quy định: Viện kiểm sát, kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi
phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp
dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật
của những cơ quan hoặc cá nhân này.
1.2.3. Vai trò áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
25