Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

LV Thạc sỹ_Hoàn thiện hoạt động thanh tra của ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng thương mại cổ phần tại Hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.04 KB, 94 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập chung của nền kinh tế, NHNN Việt Nam với
chức năng là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng
đang đứng trước yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ. Trong tiến trình đổi mới của
NHNN, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra NHNN được xác
định là nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng một hệ thống thanh tra giám sát
ngân hàng hiện đại trên cơ sở đáp ứng các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế
nhằm phát huy vai trò là một công cụ để kiểm soát và bảo đảm sự an toàn, ổn
định của hệ thống NHTM.
Trong những năm gần đây, hoạt động của Thanh tra ngân hàng ở nước
ta đã có nhiều đổi mới và đang trong quá trình củng cố để phát triển. Tuy
nhiên, trước thực trạng về số lượng các NHTM, nhất là các NHTMCP ngày
càng tăng, hoạt động và dịch vụ ngày càng phong phú và hiện đại thì hoạt
động thanh tra của NHNN ở nước ta đã tỏ ra còn nhiều bất cập và kém hiệu
quả, chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý hệ thống ngân hàng hiện đại. Không ít
hoạt động và dịch vụ ngân hàng mà cơ quan thẩm quyền chưa thể quản lý và
giám sát một cách hữu hiệu. Một số thông lệ, chuẩn mực quốc tế về giám sát
ngân hàng đã được áp dụng ở Việt Nam, song chưa đồng bộ và không triệt để
dẫn đến cách nhìn nhận, đánh giá hệ thống ngân hàng chưa phản ánh đầy đủ
thực trạng tình hình. Mô hình tổ chức thanh tra ngân hàng và hệ thống pháp luật
về thanh tra, giám sát ngân hàng còn bất cập so với các thông lệ và chuẩn mực
quốc tế về giám sát ngân hàng, nhất là so với yêu cầu thanh tra giám sát dựa trên
cơ sở rủi ro. Trước tình hình này, hoạt động thanh tra của NHNN nếu không
được đổi mới kịp thời và đúng hướng sẽ khó đạt được mục tiêu ổn định, an toàn
cho các NHTM.


Nhận thức được sự cần thiết đó, tác giả đã chọn đề tài: "Giải pháp
hoàn thiện hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân
hàng thương mại cổ phần tại Hà Nội" với mong muốn tìm ra được những


giải pháp góp phần đổi mới hoạt động thanh tra NHNN nói chung và hoạt
động thanh tra Chi nhánh NHNN Hà Nội nói riêng cho phù hợp với thực tiễn
phát triển của các NHTMCP đồng thời đáp ứng được những chuẩn mực về
giám sát ngân hàng theo thông lệ quốc tế
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động thanh tra của NHNN
đối với các NHTM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thanh tra của NHNN đối với
các NHTMCP.
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện hoạt động thanh tra ngân hàng
đối với hoạt động của các NHTMCP tại Hà Nội .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động thanh tra của NHNN đối với
NHTMCP tại Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động thanh tra của NHNN đối với
NHTMCP ở Hà Nội (tập trung ở Hội sở chính) từ khi Luật NHNN và Luật
các TCTD được ban hành và có hiệu lực đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành nghiên cứu trên cơ sở sử dụng các phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để xem xét, ngoài ra còn vận dụng
các phương pháp logic, so sánh, phân tích , đánh giá đối chiếu với thực tiễn
5. Kết cấu của đề tài


Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn gồm 03 chương :
Chương 1 :Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà
nước đối với các ngân hàng thương mại .
Chương 2 : Thực trạng về tổ chức và hoạt động thanh tra của Ngân hàng
Nhà nước Chi nhánh Hà Nội đối với các ngân hàng thương mại

cổ phần tại Hà Nội .
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hoạt động thanh tra
của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại cổ
phần tại Hà Nội .


Chương 1
Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh tra của Thanh tra ngân hàng Nhà nước đối
với các ngân hàng thương mại

1.1 Thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động các ngân hàng
thương mại
1.1.1 Sự cần thiết hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với
các ngân hàng thương mại
a. Khái niệm về thanh tra ngân hàng
Thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước, là một trong
ba yếu tố cấu thành nên sự lãnh đạo, quản lý đó là: Ban hành quyết định; tổ chức
thực hiện quyết định và thanh tra kiểm tra việc thực hiện quyết định. Có thể nói
rằng ở đâu có sự lãnh đạo, quản lý thì ở đó có hoạt động thanh tra. Hoạt động
thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật;
phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến
nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy
nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý
nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Như vậy thanh tra là một khái niệm bao trùm lên các mặt kiểm tra, giám sát
các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm đưa các hoạt động đó theo định hướng các quy
trình, quy phạm đã được xác định trên các văn bản quản lý nhà nước và nghiệp vụ
quản lý kinh tế.
Để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về các lĩnh vực được giao,

bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền, phục vụ cho việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, Ngân
hàng Trung ương phải sử dụng nhiều công cụ để kiểm tra, kiểm soát, phân tích


và đánh giá trên nhiều lĩnh vực, phương diện để tìm ra những điểm bất hợp lý,
những sai phạm trong hoạt động nghiệp vụ, từ đó đề ra các giải pháp, kiến nghị
kịp thời nhằm phục vụ cho mục tiêu quản lý. Trong đó thanh tra ngân hàng là
một công cụ có vị trí đặc biệt quan trọng.
Thanh tra ngân hàng là việc tổ chức thanh tra thực hiện chức năng kiểm
tra giám sát đối với các TCTD theo quy định của pháp luật về thanh tra nhằm
đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.
b. Sự cần thiết hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với
các ngân hàng thương mại
NHTM là một tổ chức kinh tế, do đó không thể tách rời sự quản lý của
Nhà nước. Điều đó cũng có nghĩa là mọi hoạt động của các NHTM đều phải
chịu sự kiểm tra, kiểm soát của các thiết chế thanh tra. Thanh tra đối với các
NHTM mục đích chủ yếu giúp đỡ các tổ chức này hoạt động đúng pháp luật;
phát hiện những sở hở sai lệch so với yêu cầu quản lý để sửa chữa, bổ sung và
hoàn thiện trên cơ sở đó để chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện cơ chế quản lý.
Trong nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, có nhiều loại hình
TCTD cùng tồn tại và phát triển, cũng như hoạt động tiền tệ, thanh toán, tín
dụng của các tổ chức khác. Do vậy, hoạt động thanh tra không chỉ bảo đảm
cho đối tượng được thanh tra hoạt động lành mạnh, kinh doanh có hiệu quả,
mà còn bảo đảm cho sự an toàn của hệ thống ngân hàng, phục vụ lợi ích của
cả cộng đồng và toàn xã hội.
Thông qua hoạt động thanh tra, tạo điều kiện để NHNN giám sát các
hoạt động thực thi chính sách tiền tệ của các TCTD, TCTD phi ngân hàng,
hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác được kịp thời, chính xác và mục
tiêu cuối cùng là bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.

1.1.2 Vai trò của thanh tra ngân hàng


Trong nền kinh tế thị trường hay các nền kinh tế đang trong quá trình
chuyển đổi theo cơ chế thị trường, các hoạt động ngân hàng, dịch vụ tài chính
có vị trí quan trọng hàng đầu, hơn thế nữa, Nhà nước ngày càng giảm sự can
thiệp sâu vào các hoạt động kinh doanh dịch vụ, thay vào đó là quản lý bằng
pháp luật nên thanh tra nói chung, thanh tra ngân hàng nói riêng càng có vị trí
quan trọng để NHNN thực thi có hiệu quả chức năng quản lý của mình. Có
thể phân tích cụ thể vai trò của thanh tra ngân hàng trên các mặt cụ thể sau
đây:
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước của NHNN về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, ổn định tiền tệ.
- Đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và chính sách kinh
tế vĩ mô:
Trong quá trình thanh tra các NHTM; NHNN thực hiện việc phân tích
đánh giá các khoản mục tài sả Nợ và tài sản Có của NHTM và toàn bộ hệ
thống TCTD. Thông qua đó, NHNN có thể phát hiện được những điểm chưa
phù hợp trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia (như tỷ lệ dự trữ bắt buộc
không hợp lý gây ra tình trạng căng thẳng về cung cầu vốn của TCTD, chính
sách lãi suất quá cao khiến các TCTD gặp khó khăn để mở rộng cho vay . . .);
từ đó, có cơ sở để đưa ra các giải pháp điều chỉnh thích hợp trong việc điều
hành chính sách tiền tệ, đảm bảo phù hợp với thực tế.
Cũng thông qua thanh tra, NHNN có thể phát hiện được những bất hợp
lý trong cơ chế, chính sách của Nhà nước liên quan đến hoạt động ngân hàng,
từ đó kiến nghị các cấp có thẩm quyền hoặc bản thân NHNN tự bổ sung, sửa
đổi tháo gỡ khó khăn cho hoạt động của các TCTD.
- Đối với hệ thống ngân hàng: bảo đảm sự phát triển ổn định, vững
chắc của toàn hệ thống, hội nhập hoạt động ngân hàng trong nước với khu



vực và quốc tế, phát triển thị trường vốn, tăng cường uy tín quốc tế và mở
rộng hợp tác quốc tế về hoạt động ngân hàng .
- Đối với mỗi ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng và hoạt động
ngân hàng của các tổ chức khác, phát hiện sớm những vi phạm, những lệch
lạc, giúp cho người quản lý, điều hành đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp
thời, đảm bảo sự phát triển bền vững, ổn định, kinh doanh có hiệu quả.
- Đối với dân cư, các doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho
họ, an toàn tài sản, tiền gửi, vay vốn hay được hưởng các dịch vụ ngân hàng
ngày càng có chất lượng cao.
1.1.3 Mục đích hoạt động của thanh tra ngân hàng
- Một là đảm bảo cho các TCTD hoạt động đúng pháp luật của Nhà nước
Tất cả các nước trên thế giới có hoạt động ngân hàng, thì đều phải có
một hệ thống pháp luật để điều chỉnh các hoạt động đó. Đối với những nước
khác nhau thì phạm vi cũng như đối tượng mà luật pháp điều chỉnh hoạt động
ngân hàng cũng khác nhau. Song, hệ thống pháp luật về ngân hàng có thể
được hình thành theo những thể loại sau:
+ Hạn chế việc tham gia vào hoạt động ngân hàng
+ Hạn chế bằng cách lập các chi nhánh và hợp nhất các ngân hàng
+ Giới hạn quy mô, số lượng và phần thành lập của ngân hàng
+ Yêu cầu tỷ lệ dự trữ bắt buộc
+ Các yêu cầu liên quan đến vốn của ngân hàng
+ Các yêu cầu về hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ
+ Các yêu cầu tối thiểu về quản trị rủi ro ngân hàng
Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ từng thời kỳ, đặc thù riêng đối với mỗi ngân
hàng mà thanh tra ngân hàng có thể đi sâu vào từng nội dung, nhưng nói
chung tất cả các mặt nghiệp vụ này đều phải được thanh tra giám sát nhằm
tăng cường sự tuân thủ pháp luật của các TCTD. Thông qua hoạt động thanh



tra, NHNN đã góp phần giữ cho các TCTD hoạt động một cách lành mạnh,
đúng khuôn khổ nhà nước.
- Hai là, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền
Do yêu cầu thực tế đòi hỏi, sự thỏa mãn nhu cầu gặp nhau nên người
gửi tiền có nơi gửi, đó là ngân hàng, và người nhận tiền gửi được phép sử
dụng số tiền này để cho vay hay đầu tư kiếm lời . . .
Trên nguyên tắc có vay có trả kèm theo những thỏa thuận khác, song có
một lý do mang tính chủ quan từ phía ngân hàng dẫn đến người gửi tiền bị
thiệt thòi, thậm chí bị tước đoạt đó là hậu quả của những ngân hàn bị đổ vỡ,
mất khả năng thanh toán. Lý do suy cho cùng là do sự quản lý yếu kém của
chính ngân hàng hoặc chính ngân hàng đã có dụng ý lừa đảo ngay từ khi nhận
món tiền đầu tiên của khách hàng hoặc cũng có khi người gửi tiền chịu thua
thiệt do những nguyên nhân liên quan đến đạo đức nghề nghiệp của chủ ngân
hàng. Ngân hàng sử dụng vốn để kinh doanh mang tính “cờ bạc” phiêu lưu
mạo hiểm nhằm thu lời cao, cuối cùng gặp rủi ro, dẫn đến khả năng thanh
toán khó khăn. Lúc đầu còn nhờ vào uy tín, ngân hàng lấy nguồn tiền gửi mới
trả cho khoản tiền cũ đã đến hạn và vẫn tiếp tục huy động vốn mới trả vốn cũ
trong khi đó khoản tiền bất chính không có gì thả nổi. Cuối cùng dẫn đến khả
năng chi trả suy sụp hoàn toàn, ngân hàng đổ vỡ và thiệt thòi tìm đến người
gửi tiền. Chỉ một sự thiệt thòi nhỏ thoi đến với người gửi tiền do lỗi chủ quan
của chính ngân hàng nhận tiền cũng gây ra một tác hại lớn vô cùng đối với
ngân hàng khác và cả hệ thống ngân hàng. Đó là, gửi tiền vào ngân hàng
không yên tâm, không những không có lợi như cam kết ban đầu mà còn có
nguy cơ mất hết vốn.
Để bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền hợp pháp và cũng chính vì an
toàn hệ thống ngân hàng một trong những biện pháp là NHNN phải thường
xuyên thanh tra các TCTD và hoạt động ngân hàng của tổ chức khác theo



những nội dung: vốn; chất lượng tài sản có, thu nhập, chi phí; khả năng điều
hành; khả năng sinhlời, khả năng thanh toán và quản lý rủi ro hoạt động.
Qua thanh tra phát hiện được những sai lầm, vi phạm nguyên tắc thể lệ
chế độ của Nhà nước, để từ đó ngăn chặn, kiến nghị, xử lý theo thẩm quyền;
phát hiện những điểm bất hợp lý giữa các văn bản chỉ đạo với thực tế nảy
sinh, qua đó giúp cho việc ban hành các văn bản của cấp trên phù hợp với
thực tế hơn. Chỉ có như vậy thì quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền mới
đảm bảo, và người gửi tiền mới thực sự an tâm khi gửi tiền vào bất cứ ngân
hàng nào mà họ muốn.
- Ba là, phối hợp trong việc bảo hiểm tiền gửi
Rất nhiều nước trên thế giới, Chính phủ có quỹ bảo hiểm tiền gửi ngân
hàng. Nếu ngân hàng bị thua lỗ, dẫn đến phá sản không trả được nợ cho khách
hàng thì Chính phủ phải dùng quỹ bảo hiểm tiền gửi hoặc các biện pháp khác
để bồi hoàn thiệt hại cho khách hàng. Trước khi thực hiện biện pháp này thì
phải tiến hành thanh tra để xác định lại thực tại tài chính của ngân hàng, xác
định nợ với khách hàng, thanh lý tài sản ngân hàng. Người gửi tiền được bồi
thường thiệt hại từ số tài sản được thanh lý và quỹ bảo hiểm tiền gửi.
ở Việt Nam, Luật các TCTD quy định: “TCTD có trách nhiệm: tham
gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi; mức bảo toàn hoặc bảo hiểm do
Chính phủ quy định”, nhưng vai trò thanh tra của NHNN đối với TCTD
không chỉ như vậy mà nó còn được thực hiện từ khi ngân hàng còn đang hoạt
động một cách “mạnh khỏe”. Công tác thanh tra mang tính phòng ngừa là
chính do đó nó có điều kiện để kết hợp chặt chẽ nhằm mục đích phát hiện và
ngăn chặn mọi vấn đề có thể xảy ra trước khi phát sinh hậu quả nghiêm
trọng.
- Bốn là, phòng ngừa hoảng loạn ngân hàng


Hoảng loạn ngân hàng, đó là một hiện tượng kinh tế đặc biệt đáng quan
tâm, nó phản ánh sự vỡ nợ của một số ngân hàng xảy ra cùng một lúc hay ở

một khoản thời gian ngắn. Một hiện tượng có ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Khởi đầu là sự đổ vỡ hay mất khả năng thanh toán của một ngân hàng
riêng lẻ, sẽ làm lan truyền trong toàn hệ thống ngân hàng. Người gửi tiền vì lý
do nào đó (có hoặc không có cơ sở) nghi ngờ việc chi trả tiền gửi cho mình,
họ rút tiền của họ. Khi đó ngân hàng lập tức mất đi khoản tiền dự trữ và thậm
chí còn tổn thất. Những người gửi tiền khác thấy hiện tượng họ đó lại rút tiền
và cứ thế ngân hàng mất tiền dự trữ và tổn thất và sự ổ vỡ sẽ xảy ra. Để cứu
vãn ngân hàng đến nhờ sự trợ giúp của ngân hàng khác và rồi người gửi tiền ở
ngân hàng thứ hai lại nghi ngờ sự đổ vỡ của ngân hàng mình, rồi lại đổ xô đến
rút tiền. Như vậy gây nên sự rút tiền một cách thái quá, từng dòng người,
dòng tiền. Do vậy, đẩy hàng loạt ngân hàng vào tình trạng mất cân đối nghiêm
trọng. Toàn bộ quá trình có thể nhân lên tới khi có một vụ hoảng loạn ngân
hàng hàng trọn vẹn, trong đó một số lớn các ngân hàng vỡ nợ.
1.1.4 Chức năng của thanh tra ngân hàng
Theo Luật NHNN và Luật Thanh tra, thanh tra ngân hàng là thanh tra
chuyên ngành về ngân hàng, thực hiện chức năng thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành về ngân hàng .
Thanh tra hành chính về ngân hàng là hoạt động thanh tra của NHNN
theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ
của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của NHNN .
Thanh tra chuyên ngành hoạt động ngân hàng là hoạt động thanh tra
của NHNN đối với các cơ quan, tổ chức cá nhân trong việc chấp hành pháp
luật, những qui định về chuyên môn, quy tắc quản lý của ngành ngân hàng.
Như vậy, thanh tra hành chính về ngân hàng gắn liền với quan hệ hành
chính, chủ yếu tập trung vào kỷ luật hành chính, trách nhiệm tổ chức và cá


nhân trong quan hệ chấp hành, điều hành của Thống đốc NHNN. Trong khi
đó, thanh tra chuyên ngành ngân hàng chủ yếu tập trung vào việc chấp hành
những qui định về chuyên môn của ngành ngân hàng. Phạm vi đối tượng của

thanh tra chuyên ngành ngân hàng rộng hơn đối tượng thanh tra hành chính về
ngân hàng .
1.1.5 Nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra ngân hàng
a. Nhiệm vụ của thanh tra ngân hàng
- Giám sát và thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động
ngân hàng, việc thực hiện các quy định trong giấy phép hoạt động ngân hàng
đối với các đối tượng quy định và theo quy định của pháp luật về thanh tra.
- Thẩm tra, xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo liên quan đến tổ chức và hoạt
động ngân hàng; tham mưu giúp Thống đốc NHNN chỉ đạo công tác phòng
ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong ngành ngân hàng.
- Phát hiện, ngăn ngừa và xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm
quyền; kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về tiền
tệ và hoạt động ngân hàng.
- Kiến nghị Thống đốc NHNN, Giám đốc chi nhánh NHNN tỉnh, thành
phố và các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác thực hiện các biện pháp bảo
đảm thi hành pháp luạt về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
b. Quyền hạn của thanh tra ngân hàng:
Để đảm bảo đúng pháp luật, hoạt động đúng nguyên tắc, phát huy đúng
vai trò của mình thì thanh tra ngân hàng cũng có những quyền hạn nhất định
và trách nhiệm rõ ràng. Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi tiến hành
thanh tra, thanh tra ngân hàng có các quyền hạn sau:
- Yêu cầu đối tượng thanh tra và các bên có liên quan cung cấp tài liệu,
chứng cứ và trả lời những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra;


- Lập biên bản thanh tra, kết luận thanh tra và kiến nghị các biện pháp
giải quyết; áp dụng biện pháp ngăn chặn và xử lý vi phạm hành chính theo
quy định của pháp luật.
- Thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật về thanh tra.

Bên cạnh quyền hạn được giao để thực thi công vụ, Nhà nước cũng quy
định cụ thể trách nhiệm của thanh tra ngân hàng, đó là:
- Khi tiến hành thanh tra, thanh tra ngân hàng có trách nhiệm xuất trình
quyết định thanh tra đối với trưởng đoàn thanh tra và thẻ thanh tra viên;
- Thực hiện đúng trình tự, thủ tục thanh ra theo quy định của Thống đốc
NHNN, của Tổng thanh tra Nhà nước và các văn bản pháp luật về thanh tra,
không gây phiền hà, sách nhiễu làm cản trở hoạt động ngân hàng bình thường
và gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra;
- Báo cáo người ra quyết định thanh tra về kết quả thanh tra và kiến
nghị biện pháp giải quyết;
- Tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước người ra quyết định thanh tra
và trước pháp luật về kết luận thanh tra và mọi hành vi quyết định của mình.
Ngoài các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nêu trên, ngày 27/5/2009,
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan thanh tra, giám sát
ngân hàng, trong đó Cơ quan thanh tra còn thực hiện chức năng phòng chống,
rửa tiền theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, Quyết định trên cũng quy
định, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng có quyền trình Thống đốc
NHNN quyết định việc cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các
TCTD; việc cấp, thu hồi giấy phép mở chi nhánh, văn phòng đại diện của
TCTD nước ngoài tại Việt Nam và các loại giấy phép hoạt động ngân hàng
khác; việc giải thể, chia, tách, hợp mhất, sáp nhập, mua lại các TCTD; chấp


thuận việc mở, chấm dứt hoạt động sở giao dịch, chi hánh, văn phòng đại diện
...
1.2 Các phương thức hoạt động của thanh tra Ngân hàng Nhà nước đối
với các ngân hàng thương mại ở Việt Nam .
1.2.1 Giám sát từ xa
Giám sát từ xa (còn gọi là thanh tra trên các báo cáo) là việc thanh tra

ngân hàng tổ chức phân tích, đánh giá tình hình của NHTM dựa trên cơ sở các
bảng cân đối kế toán, các chỉ tiêu thống kê định kỳ do NHTM gửi đến thanh
tra ngân hàng theo quy định, dựa trên cơ sở đó báo động cho NHTM những
vấn đề cần thiết hoặc kiến nghị biện pháp khắc phục kịp thời.
Mục tiêu giám sát từ xa hoạt động của các NHTM là:
- Giám sát việc các ngân hàng có bảo đảm an toàn trong hoạt động hay
không? từ đó giúp các ngân hàng giữ uy tín với khách hàng.
- Giám sát việc ngân hàng có thực hiện nghiêm túc luật pháp và quy
chế ngân hàng hay không? trong đó, quan trọng nhất là các quy chế phục vụ
cho công tác quản lý vĩ mô và các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ
của Ngân hàng trung ương.
- Giám sát việc các ngân hàng kinh doanh có hiệu quả hay không? Bởi
vì đã kinh doanh là phải có lãi, nếu bị thua lỗ dẫn đến việc cổ đông không
những không được hưởng quyền lợi mà còn bị hụt vốn, ảnh hưởng đến quá
trình kinh doanh. Nếu lỗ nặng và kéo dài, sẽ dẫn đến sự sụp đổ ngân hàng.
Phương thức giám sát từ xa được ra đời từ hệ thống ngân hàng Mỹ vào
những năm cuối thập kỳ 70. ở Việt Nam, phương thức thanh tra thông qua
việc giám sát từ xa được áp dụng từ đầu năm 1991, nó được quy định cụ thể
trong “chế độ thanh tra của Ngân hàng Nhà nước” và hiện nay, việc giám sát
từ xa được thực hiện theo Quyết định số 398/1999/QĐ-NHNN 3 ngày
9/11/1999 của Thống đốc NHNN việc ban hành Quy chế giám sát từ xa đối


với các ngân hàng và TCTD hoạt động trên địa bàn. Tại quy chế này quy
định: “Giám sát từ xa là việc gián tiếp kiểm tra thông qua tổng hợp và phân
tích các báo cáo để đánh giá hoạt động của TCTD”.
Nội dung giám sát từ xa đối với hệ thống NHTM được tiến hành theo 6
bước sau:
+ Giám sát về cơ cấu tài sản Nợ, tài sản Có
+ Giám sát chất lượng tài sản nợ, tài sản có

+ Giám sát tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh
+ Giám sát vốn tự có
+Giám sát việc đảm bảo khả năng chi trả
+ Giám sát một số chỉ số tài chính chủ yếu của NHTM
Quy trình giám sát từ xa:
Hàng tháng, thanh tra NHNN nhận được các báo cáo cân đối tài khoản
kế toán, các chỉ tiêu thống kê ngoài cân đối và các loại báo cáo do NHTM gửi
đến (bằng file, văn bản) theo chế độ báo cáo thống kê với TCTD, thanh tra
NHNN xử lý số liệu, tổng hợp và phân tích tình hình hoạt động đối với từng
NHTM và toàn bộ hệ thống ngân hàng (theo nội dung nêu ở trên).
Hàng tháng, căn cứ vào kết quả giám sát từ xaa đối với từng NHTM
được phân công giám sát theo khoản 1 Điều 5 Quy chế giám sát từ xa, Thanh
tra NHNN thông báo đến Tổng Giám đốc (Giám đốc) NHTM những vấn đề
có liên quan trong việc thực hiện các quy định của pháp luật của toàn hệ
thống NHTM và những kiến nghị về biện pháp khắc phục và xử lý vi phạm
như: phản ảnh chất lượng hoạt động kinh doanh, đặc biệt là những biến động
không bình thường trong hoạt động của TCTD; việc chấp hành chế độ thông
tin; báo cáo thống kê; những kiến nghị, biện pháp chấn chỉnh và hình thức xử
lý của Thanh tra nhà nước.
1.2.2 Thanh tra tại chỗ


Thanh tra tại chỗ thông thường là tổ chức các đoàn thanh tra tại đơn vị
trong một thời gian nhất định. Thanh tra tại chỗ có thể tiến hành định kỳ hoặc
đột xuất. ở nước ta, việc thanh tra tại chỗ thường được tiến hành một năm một
lần tại mỗi NHTM. Thời gian tiến hành một cuộc thanh tra tại chỗ khoảng 15
ngày đến 30 ngày làm việc. Nếu có vấn đề phức tạp thì có thể kéo dài thời
gian thanh tra theo quy định của pháp luật về thanh tra.
Mục tiêu của thanh tra tại chỗ
- Đánh giá tình hình chấp hành chính sách, pháp luật, các chế độ, thể lệ

của ngành ngân hàng;
- Giúp các TCTD thấy được những mặt tích cực, những mặt còn tồn tại
để tiếp tục phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tồn tại và kiến nghị
những biện pháp chấn chỉnh, bảo đảm TCTD hoạt động đúng chính sách,
pháp luật, chế độ, thể lệ và hoạt động có chất lượng, hiệu quả hơn .
- Phát hiện những vấn đề mới phát sinh, những qui định chưa hợp lý để
kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo qui định hiện hành .
Nội dung của thanh tra tại chỗ :
- Thanh tra quản trị điều hành;
- Thanh tra nguồn vốn
- Thanh tra chất lượng tín dụng;
- Thanh tra nghiệp vụ bảo lãnh;
- Thanh tra hoạt động kinh doanh ngoại tệ;
- Thanh tra hùn vốn liên doanh
- Thanh tra nghiệp vụ tài chính, kế toán . . .
ở Việt nam hoạt động thanh tra tại chỗ của NHNN đối với NHTM thực
sự được chú trọng từ khi Pháp lệnh thanh tra và Pháp lệnh ngân hàng được
ban hành. Đây là bước ngoặt quan trọng mang tính lịch sử của thanh tra ngân
hàng sang vận hành theo cơ chế thị trường .


1.2.3 Kết hợp giữa thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa
Giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ luôn bổ sung cho nhau. Dù đó là
giám sát từ xa hay thanh tra tại chỗ, mục đích đều giống nhau, đó là giám sát
các NHTM và phòng ngừa các rủi ro thông qua việc phát hiện kịp thời các rủi
ro không được quản lý tốt. Mỗi phương thức thanh tra (giám sát từ xa, thanh
tra tại chỗ) đều có những hạn chế riêng. Sự kết hợp giữa chúng chính là để bổ
trợ cho nhau giúp hoạt động thanh tra ngân hàng đạt kết quả tốt hơn. Khi
thanh tra ngân hàng thực hiện phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro, sự kết
hợp giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ thể hiện rõ nét trong việc lập báo

cáo giám sát CAMELS (giám sát từ xa đảm nhiệm các nội dung định lượng;
thanh tra tại chỗ đảm nhiệm nội dung đánh giá định tính).


1.3 Phương pháp thanh tra
1.3.1 Thanh tra trên cơ sở tuân thủ
a. Khái niệm
Thanh tra trên cơ sở tuân thủ là phương pháp thanh tra chủ yếu tập
trung vào việc phát hiện, đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật, các quy định có
liên quan của đối tượng thanh tra, coi đây là mục tiêu hàng đầu và cũng là
mục tiêu quan trọng nhất.
b. Đặc điểm
- Thanh tra tuân thủ kiểm tra các thông tin, các sự kiện đã xảy ra trong
quá khứ của NHTM như: vi phạm các quy định an toàn hoạt động ngân hàng,
thất thoát tài sản...
- Thanh tra tuân thủ chỉ đánh giá trên phạm vi hạn chế. Ngay cả khi tiến
hành thanh tra toàn diện các mặt hoạt động của TCTD thì thanh tra tuân thủ
vẫn bỏ sót việc đánh giá hoạt động của TCTD trong mối tương quan với thị
trường trong nước và trên toàn cầu. Kết quả thanh tra tuân thủ bị giới hạn
trong phạm vi đánh giá, kết luận các NHTM trong việc chấp hành pháp luật ở
mức độ nào đó và có biện pháp xử lý tương ứng. Đặc biệt, thực hiện thanh tra
tuân thủ khi thanh tra tại chỗ thì chỉ đánh giá, kết luận trong phạm vi nội
dung, đối tượng, hành vi được thanh tra trên cơ sở các hồ sơ, tài liệu cụ thể;
không đánh giá chung cho cả tổng thể hệ thống. Vì vậy, đôi khi người ta còn
gọi thanh tra tuân thủ là thanh tra định lượng.
- Thực hiện phương pháp thanh tra tuân thủ, thanh tra viên chưa chỉ ra
được những kẽ hở trong quản lý, chưa đưa ra những khuyến cáo về khả năng
có thể xảy ra tổn thất của NHTM do những biến động của thị trường, môi
trường kinh tế, chính trị, xã hội.
- Yêu cầu để thực hiện thanh tra tuân thủ là không cao so với thanh tra

trên cơ sở rủi ro. Thanh tra tuân thủ chủ yếu đòi hỏi khả năng phát hiện của


thanh tra viên đối với các hành vi vi phạm của TCTD.
- Thanh tra tuân thủ thực hiện phương pháp luận phản ứng. Căn cứ vào
các quy định của pháp luật, thanh tra ngân hàng sẽ đánh giá phản ứng của các
TCTD: thực hiện hay không thực hiện các quy định bắt buộc đó. Qua đó,
thanh tra ngân hàng sẽ có biện pháp xử lý thích hợp.
1.3.2 Thanh tra trên cơ sở rủi ro
a. Khái niệm
Thanh tra trên cơ sở rủi ro là phương pháp thanh tra trong đó tập trung
vào việc đánh giá mức độ rủi ro một NHTM gặp phải khi không tuân thủ các
quy định, quy trình đã có và khi không có các thủ tục, quy trình hoạt động
phù hợp; đồng thời cũng trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro, nguồn lực để kiểm
soát, cảnh báo, xử lý rủi ro của NHTM; đưa ra những giải pháp buộc các
NHTM phải có hành động phù hợp để phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro; duy
trì an toàn hệ thống các NHTM.
b. Đặc điểm của phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro
- Tập trung vào việc đánh giá tổng thể NHTM thông qua việc xem xét,
kiểm tra hồ sơ tài liệu, các chính sách, quy trình, hệ thống và thực tiễn công
tác quản lý của NHTM. Thanh tra trên cơ sở rủi ro đánh giá các yếu tố định
lượng, định tính trong đó các yếu tố định tính là chủ yếu; đối lập với thanh tra
tuân thủ là thanh tra các yếu tố định lượng. Khái niệm thanh tra trên cơ sở rủi
ro có nội dung rộng hơn nhiều so với thanh tra trên cơ sở tuân thủ.
- Cho phép định hướng thanh tra, giám sát vào những lĩnh vực, những
NHTM có mức độ rủi ro cao và rủi ro có khả năng tác động tới sự an toàn của
hệ thống NHTM. Cho phép cơ quan thanh tra có thể chủ động phân bổ nguồn
lực vào những lĩnh vực cần thanh tra, giám sát nhiều hơn.
- Dựa rất nhiều vào báo cáo kiểm toán nội bộ của NHTM.
- Kết hợp cả đánh giá khách quan và chủ quan của thanh tra viên.



- Đòi hỏi thanh tra ngân hàng thực hiện cả việc dự báo. Thực hiện việc
dụ báo được thể hiện rõ nét nhất khi thanh tra ngân hàng lập báo cáo giám sát
vĩ mô phải lập ra các giả thuyết và kiểm tra bằng việc sử dụng các mô hình,
thuật toán với sự trợ giúp của công nghệ thông tin.
1.4 Hiệu quả hoạt động thanh tra và các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả
hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước
1.4.1 Hiệu quả hoạt động thanh tra
Hiệu quả cuộc thanh tra không tính bằng giá trị hiện vật thu được sau
một cuộc thanh tra mà là những biện pháp chấn chỉnh, sửa chữa và ngăn ngừa
các sai phạm trong quản lý của đơn vị.
Qua thực tế khẳng định, nếu thanh tra ngân hàng ở quốc gia nào phát
huy được vai trò của mình thì có thể giảm thiểu các cuộc đổ vỡ hay các tổn
thất, vì sự yếu kém dẫn đến đỗ vỡ hay phá sản của ngân hàng nguyên nhân
chủ yếu do làm ăn trái pháp luật, không tuân thủ các quy định về an toàn của
cơ quan quản lý, trong đó có phần trách nhiệm của thanh tra ngân hàng trong
việc giám sát, kiểm tra, và xử lý. Cái giá phải trả khi khủng hoảng tài chính –
tiền tệ xảy ra do giám sát yếu kém là rất lớn. Do vậy, tăng cường, hoàn thiện
hoạt động thanh tra ngân hàng tức là phải đổi mới về nội dung, phương thức
thanh tra để làm sao đánh giá chính xác, nhanh chóng, thường xuyên, toàn
diện hoạt động của NHTM.
1.4.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động thanh tra của Ngân
hàng Nhà nước
a. Nhân tố chủ quan
+ Nguồn nhân lực.
Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thanh tra là
nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động này. Cán bộ thanh tra ngân hàng phải
nắm vững nghiệp vụ ngân hàng, các quy định của pháp luật có liên quan đến



hoạt động ngân hàng mới có khả năng phát hiện sai sót, khuyết điểm của các
ngân hàng và đưa ra cảnh báo sớm cho các NHTM. Mặt khác, thanh tra ngân
hàng là người hiểu và nắm rõ nhất về tình hình hoạt động của ngân hàng, họ
không chỉ đưa ra cảnh báo sớm cho các NHTM mà còn tham mưu cho Thống
đốc NHNN trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt động của NHTM.
Bên cạnh đó, số lượng cán bộ thanh tra cũng là yếu tố không kém phần
quan trọng. Do đối tượng thanh tra là các NHTM ngày càng tăng về số lượng,
quy mô và địa bàn hoạt động, các dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển nên
yêu cầu khối lượng, chất lượng công việc thanh tra ngân hàng cũng phải tăng
theo. Vì vậy, đội ngũ cán bộ thanh tra ngân hàng không những cần được nâng
cao về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp mà còn cần tăng
cường cả về số lượng thì mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao .
+ Điều kiện hoạt động.
Cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh tra cũng như
cơ chế đãi ngộ đối với thanh tra viên có tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt
động thanh tra.
Cơ sở vật chất và trang thiết bị lạc hậu, không đồng bộ sẽ cản trở quá
trình thu thập và xử lý thông tin. Thông tin về NHTM có thể cập nhật không
đầy đủ và thiếu chính xác dẫn đến việc phân bổ nguồn lực thanh tra không
hợp lý. Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ dưới các hình thức tiền lương, phụ cấp và
chế độ khen thưởng đều cần cho tất cả mọi người làm công ăn lương. Riêng
đối với cán bộ làm công tác thanh tra thì chế độ đãi ngộ có ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng và hiệu quả công việc. Sở dĩ như vậy là vì không có kết
quả công việc đồng nhất giữa việc thực hiện thanh tra đơn vị này với đơn vị
khác, giữa đoàn thanh tra này với đoàn thanh tra khác nên việc đánh giá chất
lượng hoạt động thanh tra khó hơn so với ngành nghề khác. Hơn nữa, trong
môi trường hoạt động thanh tra dễ bị cám dỗ mua chuộc. Vì vậy, nếu có biện



pháp khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần phù hợp thì sẽ phát huy được
tinh thần trách nhiệm của cán bộ thanh tra và hạn chế được hiện tượng tiêu
cực trong công tác thanh tra. Nhờ đó mà hoạt động thanh tra có hiệu quả hơn .


b. Nhân tố khách quan
+ Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật.
Mọi hoạt động thanh tra đều được dựa trên một khuôn khổ pháp luật
nhất định, bao gồm các luật điều chỉnh hoạt động thanh tra nói chung, hoạt
động thanh tra ngân hàng nói riêng; hoạt động ngân hàng và các hoạt động có
liên quan. Hệ thống chính sách này do các cơ quan lập pháp, các cơ quan có
thẩm quyền khác và chính cơ quan thanh tra ngân hàng ban hành.
Một khuôn khổ pháp lý đầy đủ, rõ ràng và phù hợp với thực tiễn sẽ tạo
tiền đề và là công cụ sắc bén của hoạt động thanh tra. Ngược lại, với một hệ
thống luật và quy chế thiếu đồng bộ, không rõ ràng và không phù hợp với
thực tiễn sẽ gây ra sự lãng phí nguồn lực thanh tra, làm giảm hiệu quả công
tác thanh tra.
+ Chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh phải là cơ sở cho một hệ thống
tài chính ổn định. Nếu các chính sách kinh tế vĩ mô thiếu lành mạnh, không
phù hợp với điều kiện thực tiễn hoạt động của nền kinh tế và mang tính áp
đặt, hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng sẽ phải đối diện với một hệ thống
công việc không thích hợp với thực tế và đôi khi kết quả hoạt động thanh tra
bị méo mó.
+ Sự độc lập của thanh tra ngân hàng.
Với chức năng thanh tra hoạt động của các NHTM, cơ quan thanh tra
phải thực sự chủ động và độc lập trong việc phân bổ các nguồn lực thanh tra,
trong quá trình ra các quyết định và thực hiện các hành động ứng xử đối với
ngân hàng khi cần thiết.
Trường hợp cơ quan thanh tra không thể độc lập trong các hoạt động
của mình, đặc biệt khi chịu các áp lực về mặt chính trị, hoạt động thanh tra sẽ

chỉ mang tính hình thức và không thể đảm bảo thực hiện các mục tiêu của nó.
+ Sự phát triển của các ngân hàng thương mại.


Trình độ phát triển và điều kiện hiện tại của các NHTM tác động tới
hiệu quả của hoạt động thanh tra. Một hệ thống ngân hàng phát triển lành
mạnh xét về cả quy mô hoạt động, quy mô vốn, trình độ công nghệ, trình độ
quản lý, năng lực tài chính sẽ làm giảm đáng kể chi phí cho hoạt động thanh
tra. Ngược lại, hệ thống ngân hàng với năng lực cạnh tranh yếu và thiếu sẽ đòi
hỏi một nguồn lực thanh tra lớn.
+ Kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại
Kiểm soát nội bộ là xem xét, đối chiếu và đánh giá tính tuân thủ của
các hoạt động, nghiệp vụ, quyết định, chính sách, v.v so với luật và các qui
định của cơ quan quản lý nhà nước. Tại các NHTM, kiểm soát nội bộ là tổng
thể hệ thống các văn bản và các qui định về ngân hàng, các cơ chế kiểm soát
được cài đặt trong tất cả các nghiệp vụ thuộc hệ điều hành của ngân hàng, hệ
thống thông tin báo cáo. Cơ chế kiểm soát nội bộ được thiết lập do nhu cầu
kiểm soát các hoạt động quản lý, điều hành, tác nghiệp và đảm bảo tính tuân
thủ nhằm hạn chế và kiểm soát những rủi ro có thể phát sinh trong qui trình
nghiệp vụ và hoạt động của ngân hàng. Một hệ thống kiểm soát nội bộ phù
hợp là nhân tố quan trọng đảm bảo hoạt động kinh doanh của ngân hàng an
toàn và hiệu quả.
Như vậy giữa mục tiêu của kiểm soát nội bộ và mục tiêu của hoạt động
thanh tra có những điểm chung, đó là nhằm phòng ngừa, phát hiện và giảm
thiểu rủi ro cho ngân hàng. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất là kiểm soát
nội bộ NHTM chỉ phục vụ lợi ích của bản thân ngân hàng; trong khi hoạt
động thanh tra lại quan tâm tới lợi ích của hệ thống ngân hàng và trên hết là
của nền kinh tế. Chính vì vậy, trong quá trình thanh tra, NHNN luôn chú ý
đặc biệt đến hoạt động kiểm soát nội bộ cũng như sử dụng hoạt động này như
một kênh thông tin quan trọng hỗ trợ cho hoạt động thanh tra. Một mặt,

NHNN đưa ra yêu cầu tối thiểu mà kiểm soát nội bộ phải đáp ứng, mặt khác


tạo ra động lực khuyến khích các NHTM hướng tới việc áp dụng những
chuẩn mực cao hơn trong hoạt động kiểm soát. Qua đó, NHNN sử dụng kiểm
soát nội bộ NHTM như một căn cứ quan trọng để đánh giá mức độ rủi ro và
năng lực quản trị rủi ro của NHTM đồng thời là căn cứ để tiến hành phân bổ
nguồn lực thanh tra.
+ Kiểm toán độc lập
Kiểm toán độc lập là một đơn vị làm việc theo hợp đồng với tổ chức,
các NHTM có thể chủ động lựa chọn cơ quan kiểm toán để phục vụ cho
những nhu cầu nhất định như mục tiêu tăng vốn, mở rộng hoạt động hay để
tăng niềm tin của công chúng, của đối tác hoặc đáp ứng các yêu cầu của cơ
quan quản lý.
NHNN sử dụng kiểm toán độc lập như là một nguồn thông tin tham
chiếu cho hoạt động thanh tra. Cơ quan thanh tra có thể sử dụng một số kết
quả kiểm toán của cơ quan kiểm toán như kết quả báo cáo tài chính, công tác
hạch toán, kế toán...để bổ sung căn cứ cho việc định hướng hoạt động thanh
tra NHTM.
1.5 Một số kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động thanh tra Ngân hàng
Nhà nước tại một số nước trên thế giới
1.5.1 Về mô hình tổ chức
Trên thế giới hiện nay tồn tại 2 kiểu mô hình tổ chức về thanh tra ngân hàng:
Thanh tra ngân hàng thuộc cơ cấu bộ máy của NHNN. Đây là mô hình
truyền thống, nhiều quốc gia áp dụng. Cơ sở để áp dụng mô hình này là
NHNN là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng
và thanh tra ngân hàng là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà
nước của NHNN.
Thanh tra ngân hàng không thuộc cơ cấu bộ máy của NHNN, hoạt động
độc lập với NHNN. Cơ sở để áp dụng mô hình này nhằm đảm bảo tính độc



lập, khách quan trong hoạt động thanh tra, đồng thời khắc phục sự trì trệ của
mô hình truyền thống. Đại diện cho các quốc gia áp dụng này là Trung Quốc
cũng đã quyết định chuyển vai trò kiểm tra của NHTM từ NHNN sang một cơ
quan kiểm soát độc lập, có tên là ủy ban kiểm soát ngân hàng Trung Quốc, ủy
ban này hoạt động độc lập với NHNN Trung Quốc.
Tại Hàn Quốc: Tổng Thanh tra ngân hàng theo sự phân công của Bộ
Trưởng Bộ Tài chính tiến hành thanh tra giám sát hoạt động các TCTD báo
cáo Bộ Tài chính và Hội đồng Tiền tệ quốc gia. Hiện nay, Hàn Quốc đang xây
dựng tổ chức thanh tra độc lập như tổ chức thanh tra thị trường vốn ở Hungari
và một số nước khác.
Tại Nhật Bản: Bộ trưởng Bộ Tài chính bổ nhiệm Tổng Kiểm soát ngân
hàng để giám sát hoạt động của các TCTD.
1.5.2 Về hoạt động thanh tra
- ở Tây Ban Nha: Việc giám sát hoạt động ngân hàng được giao cho
một Vụ độc lập, Ngân hàng Trung ương sử dụng hệ thống CAMEL để tổng
hợp, phân tích và đưa ra những kết luận về tình trạng tài chính và khả năng
đứng vững của một TCTD. Dựa vào điều kiện và mức độ của các vấn đề mà
tổ chức thanh tra tại chỗ một đến hai lần trong một năm. Việc giám sát từ xa
thường xuyên được bảo đảm thông qua việc phân tích thông tin phòng ngừa
từng quý do chính nhóm thanh tra viên chịu trách nhiệm về thanh tra tại chỗ
thực hiện.
- ở Thụy Điển: Các cuộc thanh tra tại chỗ là phương tiện chủ yếu của
giám sát các ngân hàng. Các cuộc thanh tra như vậy được Vụ tín dụng và Vụ
Kế toán của Uỷ ban Thanh tra ngân hàng chỉ đạo. Các cuộc thanh tra định kỳ
được tiến hành 3 năm 1 lần.
- ở Mỹ: Hoạt động thanh tra tại chỗ được coi là “ hòn đá tảng” của việc
giám sát, phòng ngừa. Việc kiểm tra được tiến hành bởi 3 cơ quan gồm: Cơ



×