Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

LV Thạc sỹ_Hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng tại tổng công ty tài chính cổ phần dầu khí việt nam PVFC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.15 KB, 90 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản của các tổ chức tín dụng và
rủi ro kinh doanh của các tổ chức trên có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục
tín dụng. Cùng với thời gian, tính chất của rủi ro tín dụng cũng thay đổi khi các
doanh nghiệp phải cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn trong việc đưa ra những sản
phẩm và dịch vụ mới nhằm chiếm lĩnh thị trường tài chính trong nước và quốc tế.
Các định chế tài chính phải đối mặt với mức độ rủi ro tín dụng ngày càng tăng
không chỉ ở các khoản cho vay mà còn ở những công cụ tài chính khác như giao
dịch liên ngân hàng, tài trợ thương mại, giao dịch ngoại hối, swaps, trái phiếu, cổ
phiếu…
Trong những năm qua, hoạt động tín dụng đã đạt được những thành tựu
không nhỏ đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Các định chế
tài chính nói chung đã quan tâm hơn tới việc kiểm soát tỷ lệ tăng trưởng tín dụng,
tập trung vào hiệu quả của các hoạt động tín dụng. Quy trình tín dụng được thực
hiện gần hơn với chuẩn mực quốc tế... Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trong
tổng dư nợ của các định chế này vẫn còn ở mức cao hơn so với khu vực và trên thế
giới. Vai trò của quản trị rủi ro trong các định chế này chưa lớn, chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập.
Trong khi đó, hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập thị trường tài
chính quốc tế nói riêng là xu thế tất yếu và là một yêu cầu khách quan đối với bất kỳ
quốc gia nào trong quá trình phát triển hiện nay. Thị trường tài chính mở rộng phạm
vi hoạt động, gần như không biên giới, vừa tạo điều kiện tăng cường hợp tác, vừa
làm sâu sắc thêm quá trình cạnh tranh. Việt Nam cũng thuộc xu thế đó, đang tích
cực tham gia vào các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, do
mới được hình thành còn rất non trẻ và trong quá trình hội nhập cho nên thị trường
tài chính Việt Nam cũng như từng định chế tài chính trong nước đã tỏ ra yếu kém
hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã hội nhập, cạnh
tranh ngày càng khốc liệt.




2

Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) cũng không nằm
ngoài xu thế phát triển đó. Trong những năm qua, PVFC đã có bước phát triển vượt
bậc về doanh thu, lợi nhuận... Tuy nhiên, hoạt động tín dụng, một hoạt động mang
tính nền tảng của PVFC đang có hướng giảm hiệu quả. Tỷ lệ dư nợ xấu có xu
hướng tăng, quản trị rủi ro đang bộc lộ nhiều điểm hạn chế... Do đó, một yêu cầu
bức thiết đặt ra đối với Tổng Công ty là làm sao nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro
mà trước hết là quản trị rủi ro tín dụng. Do vậy, học viên mong muốn được sử dụng
những kiến thức đã học và nghiên cứu đồng thời kết hợp với những kinh nghiệm
trong thời gian làm việc tại PVFC để thực hiện đề tài “Hoàn thiện quản trị rủi ro
tín dụng tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC)”.
2. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng nói chung và thực
tế tại PVFC.
- Mục tiêu nghiên cứu chủ yếu:
+ Làm rõ lý luận về rủi ro, quản trị rủi ro tín dụng
+ Tìm hiểu thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại PVFC, tìm ra bản chất,
nguồn gốc chủ yếu của rủi ro tín dụng; định lượng các tác động của rủi ro tín dụng
đối với hoạt động kinh doanh chung.
+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng tại PVFC
3. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung vào nghiên cứu, giải quyết các vấn đề lý luận và thực
tiễn về rủi ro và quản trị rủi ro đối với hoạt động tín dụng của PVFC trong các năm
2006-2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tổng hợp, nghiên cứu, phân tích các tài
liệu nhằm tìm hiểu những luận cứ trong lịch sử nghiên cứu như cơ sở lý thuyết liên

quan đến chủ đề nghiên cứu; chủ trương và chính sách liên quan đến chủ đề; thành
tựu lý thuyết đã đạt được liên quan đến chủ đề nghiên cứu...


3

Nguồn tài liệu cho nghiên cứu: Các sách, tạp chí và báo cáo cáo khoa học
trong ngành tài chính ngân hàng; internet; sách giáo khoa...
- Phương pháp chuyên gia: Tiến hành phỏng vấn các Lãnh đạo của PVFC và
các cán bộ quản trị rủi ro tại PVFC và các chuyên gia am hiểu về quản trị rủi ro...
- Phương pháp xử lý thông tin:
+ Đối với thông tin định lượng: Sử dụng phương pháp thống kê toán học để
xác định xu hướng của tập hợp số liệu thu thập được về tình hình phát triển tín dụng
tại PVFC.
+ Đối với thông tin định tính: Dùng phương pháp logic đưa ra những phán
đoán về bản chất các sự kiện, hiện tượng; những suy luận về những rủi ro tín dụng
trong quá khứ và phán đoán tình hình trong tương lai.
Số liệu thứ cấp được lấy từ các bản báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh
của Tổng Công ty. Số liệu này được sử dụng để phân tích, so sánh: Tình hình hoạt
động tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại PVFC.
5. Khung lý thuyết của đề tài nghiên cứu
- Lý thuyết rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro (dựa trên các nguyên tắc giám
sát liên quan đến đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và định giá khoản vay của
BASEL; một số mô hình đánh giá/định lượng rủi ro).
6. Kết cấu luận văn
Chương 1: Quản trị rủi ro tín dụng của Công ty tài chính
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại PVFC trong giai đoạn 2006-2009
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng tại PVFC



4

CHƯƠNG 1
QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1 Công ty Tài chính và hoạt động của công ty tài chính
1.1.1 Khái niệm công ty Tài chính
Theo điều 1 nghị định số 81/2008/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2008 về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 04 tháng 10
năm 2002 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty tài chính thì Công ty
tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn
tự có vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ
tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp
luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới một
năm.
1.1.2 Phân loại các công ty tài chính
Phân loại công ty tài chính theo chuyên ngành hoạt động: Công ty Tài chính
bao gồm loại hình Công ty Tài chính tổng hợp được thực hiện tất cả các chức năng,
nghiệp vụ theo quy định và Công ty Tài chính chuyên ngành hoạt động chủ yếu trên
một số lĩnh vực như tín dụng tiêu dùng hoặc phát hành thẻ tín dụng và các hoạt
động khác theo quy định của pháp luật, Nghị định này và hướng dẫn của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam”.
Phân loại theo hình thức thành lập Công ty Tài chính bao gồm Công ty Tài
chính trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; Công ty Tài chính trách nhiệm
hữu hạn một thành viên; Công ty Tài chính cổ phần.
1.1.3 Các hoạt động của công ty tài chính
Cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực
hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch
vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới một năm.



5

1.1.4 Phân biệt hoạt động của công ty tài chính đa năng với ngân hàng thương
mại (NHTM)
+ Mức vốn pháp định
Công ty tài chính và ngân hàng đều phải có vốn pháp định, song vốn pháp
định của công ty tài chính thấp hơn ngân hàng. Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP,
ngày 22/11/2006 của Chính phủ, công ty tài chính được cấp giấy phép thành lập và
hoạt động sau ngày Nghị định 141/2006/NĐ- CP của Chính phủ có hiệu lực và
trước ngày 31/12/2008 thì phải có mức vốn pháp định là 300 tỷ đồng; công ty tài
chính được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày 31/12/2008 thì phải có
mức vốn pháp định là 500 tỷ đồng.
Nhưng vốn pháp định đối với một ngân hàng áp dụng cho đến năm 2008
không thấp hơn 1.000 tỷ đồng, tùy theo loại hình ngân hàng và áp dụng cho đến
năm 2010 trở đi không thấp hơn 3.000 tỷ đồng.
+ Loại hình tổ chức hoạt động
Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính phủ phân chia công
ty tài chính thành các loại: Công ty tài chính nhà nước, công ty tài chính cổ phần,
công ty tài chính trực thuộc các tổ chức tín dụng, công ty tài chính liên doanh và
công ty tài chính 100% vốn nước ngoài. Xét ở khía cạnh nào đó thì ngân hàng hoạt
động như một doanh nghiệp. Tuy nhiên, xét về tính chất và mục tiêu hoạt động,
ngân hàng lại chia thành ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng
đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
+ Thời hạn hoạt động
Thời hạn hoạt động của công ty tài chính tối đa là 50 năm. Trường hợp cần
gia hạn thời hạn hoạt động, phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận,
nhưng mỗi lần gia hạn không quá 50 năm. Trong khi đó, thời hạn hoạt động của các
ngân hàng không bị pháp luật khống chế.



6

+ Cơ hội cạnh tranh và lợi ích mang lại
Xét ở khía cạnh nào đó, các công ty tài chính sẽ chịu áp lực cạnh tranh ở
mức độ thấp hơn so với ngân hàng. Theo cam kết WTO, chỉ có ngân hàng thương
mại nước ngoài và công ty tài chính nước ngoài mới được thành lập công ty tài
chính liên doanh và công ty tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức tín
dụng nước ngoài chỉ được thành lập công ty tài chính liên doanh hoặc 100% vốn
đầu tư nước ngoài nhưng phải có tổng tài sản trên 10 tỷ USD vào cuối năm trước
thời điểm nộp đơn.
Trong khi ngân hàng hoạt động rộng và huy động vốn chủ yếu từ công chúng
thì công ty tài chính huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn và nhóm công ty. Vì
thế, rủi ro xảy ra đối với các công ty tài chính chủ yếu là do nội bộ tập đoàn hay
nhóm công ty gánh chịu, rất ít ảnh hưởng tới cộng đồng. Khi các quan hệ kinh tế
trong tập đoàn là minh bạch và tuân thủ đúng pháp luật thì khả năng xảy ra rủi ro là
không lớn.
Một trong những hạn chế của các công ty tài chính so với các tổ chức ngân
hàng là không được làm dịch vụ thanh toán và nhận tiền gửi dưới 1 năm. Tuy vậy,
các công ty tài chính hiện nay đã khắc phục bằng việc phát triển thêm nhiều sản
phẩm dịch vụ mới như dịch vụ nhận ủy thác vốn, nhận ủy thác đầu tư bao thanh
toán, thu xếp vốn,...v.v. cho cả ngắn hạn, trung và dài hạn. Những dịch vụ này đã
giúp công ty tài chính thực hiện được các dịch vụ khác tương tự như một ngân hàng
thương mại.
Như vậy, có thể thấy lợi ích của công ty tài chính mang lại cho các doanh
nghiệp là rất lớn. Chính vì thế mà Việt Nam hiện nay, các tập đoàn lớn thường có ít
nhất một công ty tài chính. Công ty tài chính là công cụ để tập đoàn điều tiết vốn và
sử dụng vốn một cách có hiệu quả và thuận lợi nhất. Trong phạm vi nội bộ tập đoàn
hoặc nhóm công ty có quan hệ lợi ích gắn bó, công ty tài chính có thể dễ dàng huy
động các nguồn vốn nhàn rỗi từ các công ty thành viên để tập trung vốn đầu tư. Với



7

tính nội bộ cao trong hoạt động nghiệp vụ công ty tài chính có thể kiểm soát rủi ro
và tập trung vốn lớn cho các dự án quan trọng trong nội bộ tập đoàn.
1.2. Quản trị rủi ro tín dụng của Công ty Tài chính

1.2.1 Hoạt động tín dụng của công ty tài chính
1.1.2.1 Đặc điểm của hoạt động tín dụng đối với tổ chức tín dụng
Tín dụng nói chung là quan hệ vay mượn, bao gồm cả cho vay và đi vay, là
hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng và các định chế tài chính. Tín dụng là hoạt
động tài trợ của tổ chức tín dụng (TCTD) cho khách hàng và phải hoàn trả cả gốc và
lãi. Hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản của các TCTD,
tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động có rủi ro cao nhất.
Có thể khẳng rằng, những thành tựu đạt được của hệ thống ngân hàng tài
chính cho đến nay có sự đóng góp quan trọng của hoạt động tín dụng, thể hiện vai
trò chủ lực trong hoạt động kinh doanh. Cụ thể là số dư cho vay và bảo lãnh chiếm
gần 60% tổng tài sản, mang lại gần 80% thu nhập và quyết định kết quả tài chính
hàng năm của hệ thống. Không dừng lại ở những con số nêu trên, tín dụng còn là
hoạt động khởi tạo để khách hàng sử dụng các dịch vụ khác như thanh toán trong
nước, thanh toán xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ..., đây là bức tranh phản ánh
chân thực ý nghĩa của chính sách tín dụng đối với sự phát triển của ngành tài chính
ngân hàng Việt Nam.
1.2.1.2 Quy trình hoạt động tín dụng
- Ý nghĩa của việc thiết lập qui trình tín dụng: Đảm bảo hoạt động cấp tín
dụng diễn ra thống nhất, khoa học, tạo cơ chế giám sát hiệu quả, hạn chế, phòng
ngừa rủi ro, xác định trách nhiệm của từng khâu, từng bước trong quy trình cấp tín
dụng và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng. Như vậy:
Về mặt hiệu quả, một quy trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng nâng
cao chất lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro tín dụng.

Về mặt quản lý, quy trình tín dụng có tác dụng làm cơ sở cho việc phân định
quyền, trách nhiệm cho các bộ phận trong hoạt động tín dụng và làm cơ sở để thiết
lập các hồ sơ, thủ tục vay vốn.


8

- Qui trình tín dụng căn bản: Một qui trình tín dụng căn bản bao gồm các
bước công việc như sau:
Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn
Bước 2: Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là xác định khả năng hiện tại và tương lại của khách hàng
trong việc sử dụng vốn vay và hoàn trả nợ vay.
Mục tiêu của bước 2 là tìm kiếm những tình huống có thể xảy ra dẫn đến rủi
ro cho ngân hàng, dự đoán khả năng khắc phục những rủi ro đó, dự kiến những biện
pháp giảm thiểu rủi ro và hạn chế tổn thất cho ngân hàng; Phân tích tính chân thực
của những thông tin đã thu thập được từ phía khách hàng trong bước 1, từ đó nhận
xét thái độ, thiện chí của khách hàng làm cơ sở cho việc ra quyết định cho vay.
Bước 3: Ra quyết định tín dụng
Trong bước này, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay đối
với một hồ sơ vay vốn của khách hàng. Khi ra quyết định, thường mắc 2 sai lầm cơ
bản mà cả 2 sai lầm đều ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng, thậm chí còn ảnh hưởng
đến uy tín của ngân hàng.
- Đồng ý cho vay với một khách hàng không tốt
- Từ chối cho vay với một khách hàng tốt
Bước 4: Giải ngân
Ở bước này, ngân hàng sẽ tiến hành phát tiền cho khách hàng theo hạn mức
tín dụng đã ký kết trong hợp đồng tín dụng. Nguyên tắc giải ngân là phải gắn liền sự
vận động tiền tệ với sự vận động hàng hóa hoặc dịch vụ có liên quan, nhằm kiểm tra
mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng và đảm bảo khả năng thu nợ. Nhưng

đồng thời cũng phải tạo sự thuận lợi, tránh gây phiền hà cho công việc sản xuất kinh
doanh của khách hàng.
Bước 5: Giám sát tín dụng
Nhân viên tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay thực tế của
khách hàng, hiện trạng tài sản đảm bảo, tình hình tài chính của khách hàng,... để
đảm bảo khả năng thu nợ.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng


9

1.2.2. Quản trị rủi ro tín dụng tại Công ty tài chính
1.2.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng
Khái niệm “rủi ro” (risk) hiện nay đã khá quen thuộc với giới kinh doanh
Việt Nam. Hiểu được rủi ro là gì để quản trị nó đã thu hút được sự quan tâm đích
đáng của cá doanh nhân, các công ty bảo hiểm, ngân hàng. Về mặt học thuật hiện
nay, hiện có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm này.
Frank Knight (Mỹ) cho rằng: “Rủi ro là những bất trắc có thế đo lường
được”. Allan Willet (Mỹ) thì “Rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến một biến
cố không mong đợi”. Còn theo Marilu Hurt MrCarty (Mỹ) thì “Rủi ro là một tình
trạng trong đó các biến cố xảy ra trong tương lai có thể xác định được”. Theo cuốn
từ điển Kinh tế học hiện đại thì “Rủi ro là hoàn cảnh trong đó một sự kiện xảy ra
với một xác suất nhất định hoặc trong trường hợp quy mô của sự kiện đó có một
phân phối xác suất”.
Như vậy, mặc dù có những cách định nghĩa khác nhau, nhưng có liên hệ với
nhau ở ba vấn đề: Thứ nhất, rủi ro liên quan đến những bất trắc, không chắc chắn,
sự bất định trong việc đạt mục tiêu kỳ vọng. Thứ hai, có mức độ rủi ro khác nhau và
có thể đo lường được bằng phân phối xác suất. Thứ ba, khi rủi ro xảy ra có thể để
lại những tổn thất không mong đợi, và do đó tránh hay giảm đi tổn thất này là mục
tiêu của quản trị rủi ro (QTRR).

Khi xem xét quá trình xảy ra rủi ro, cần chú ý đến hai giai đoạn: giai đoạn 1,
sự xuất hiện các nguy cơ rủi ro mà chúng được dự liệu là sẽ để lại hậu quả không
mong muốn; giai đoạn 2, các nguy cơ này thực sự xảy ra và để lại tổn thất.
Mặt khác, rủi ro có thể tiên liệu được bằng phân phối xác suất. Do đó chúng
ta có thể lựa chọn giữa không tham gia vào hoạt động có rủi ro hoặc tham gia bằng
cách chấp nhận rủi ro với xác suất dự kiến ấy.
Như vậy, có thể định nghĩa rủi ro tín dụng (RRTD) như đơn giản là khoản lỗ
tiềm tàng vốn có (được tạo ra) khi cấp tín dụng cho một khách hàng. Hay như theo


10

Timothy W.Koch thì RRTD là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của
vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn.
Theo NHNN “RRTD trong hoạt động ngân hàng của TCTD là khả năng xảy
ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện
hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. (Điều 2. Quyết
định số 493/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN).
Như vậy có thể thấy, các cách hiểu về RRTD là tương đối đồng nhất. Nó có
nội dung cơ bản là:
- RRTD khi người đi vay sai hẹn trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo
hợp đồng, bao gồm cả gốc và lãi. Sự sai hẹn này có thể là trễ hẹn hoặc không thanh
toán.
- RRTD sẽ dẫn đến tổn thất về tài chính, tức làm giảm thu nhập ròng và giảm
giá trị thị trường của vốn. Trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, mức độ
cao hơn có thể dẫn đến phá sản.
Ở Việt Nam, vấn đề rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và quản lý nó còn khá
mới mẻ, được nhắc đến nhiều trong khoảng hơn 10 năm nay. RRTD không chỉ là
nỗi ám ảnh của một TCTD đơn lẻ nào mà là nỗi lo chung của hệ thống ngân hàng
trên khắp thế giới. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực cải cách trong lĩnh vực dịch vụ tài

chính, RRTD vẫn là nguyên nhân chủ yếu gây phá sản ngân hàng.
RRTD xuất hiện từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể từ bản thân ngân
hàng, từ người vay hay những nguyên nhân khách quan khác. Hơn nữa, RRTD có
thể xuất hiện trước, trong và cả sau khi cho vay, HĐTD luôn luôn tiềm ẩn rủi ro nên
không thể loại bỏ hoàn toàn RRTD được. Ngân hàng có thể tránh rủi ro bằng cách
từ chối những khoản cho vay cụ thể nhưng không thể tránh rủi ro xét trên bình diện
cả danh mục tín dụng. Muốn loại bỏ hoàn toàn RRTD chỉ còn cách là ngừng cho
vay, và như vậy bản thân ngân hàng đã phủ nhận mình vì rằng cấp tín dụng luôn là
một chức năng cơ bản và quan trọng nhất của một TCTD.


11

Sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro là những mục tiêu mâu thuẫn muôn đời
trong quản trị ngân hàng. Điều không thể phủ nhận là các ngân hàng muốn kiếm
được lợi nhuận cần phải chấp nhận ít nhiều rủi ro. Rủi ro là cố hữu trong hoạt động
ngân hàng, ngân hàng không thể tránh được rủi ro nhưng có thể quản lý được nó.

1.2.2.2. Các loại rủi ro tín dụng
RRTD được chia thành rủi ro danh mục (Portfolio risk) và rủi ro giao dịch
(Transaction risks).
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu rủi ro tín dụng
Rủi ro
tín dụng

Rủi ro
danh mục

Rủi ro
giao dịch


Rủi ro
lựa chọn

Rủi ro
bảo đảm

Rủi ro
nghiệp vụ

Rủi ro
nội tại

Rủi ro
tập trung

- Rủi ro danh mục được phân thành hai loại là rủi ro nội tại và rủi ro tập
trung. Rủi ro nội tại (còn gọi là rủi ro bản chất) xuất phát từ các yếu tố mang tính
riêng biệt của người vay hoặc ngành kinh tế, làm cho một số loại doanh nghiệp và
ngành có độ rủi ro cao hơn so với các loại hình khác. Rủi ro tập trung là rủi ro gặp
phải khi thực hiện các khoản vay có mối tương quan mật thiết với nhau. Nó bắt
nguồn từ việc thiếu đa dạng hoá, dẫn đến mức dư nợ cho vay dồn quá nhiều cho
một số khách hàng, một số ngành kinh tế hoặc một số loại cho vay hoặc một khu
vực địa lý.


12

Khi thiếu sự đa dạng hoá, tổ chức tín dụng phải gánh chịu cả rủi ro tập trung
và rủi ro nội tại. Điều này cũng gợi ý một trong những cách kiểm soát rủi ro danh

mục là đa dạng hoá, đặt ra những giới hạn tập trung, đưa ra những giới hạn về tỷ lệ
dư nợ vay tối đa với ngành hoặc doanh nghiệp có độ rủi ro cao.
- Rủi ro giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp
vụ. Rủi ro lựa chọn xảy ra khi đánh giá, thẩm định, phân tích tín dụng diễn ra không
tốt dẫn đến việc lựa chọn dự án vay không hiệu quả, gây tổn thất cho ngân hàng.
Rủi ro bảo đảm xuất phát từ tiêu chuẩn bảo đảm và mức an toàn của nó (như cho
vay không có hay có bảo đảm một phần, hay định giá trị TSĐB không khách quan).
Rủi ro nghiệp vụ (rủi ro tác nghiệp) là rủi ro liên quan đến quản trị hoạt động cho
vay, như xây dựng và thực hiện CSTD để định hướng cho việc thực hiện cho vay và
kiểm soát danh mục cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và
kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề; nhân viên tín dụng làm sai quy chế cho
vay,...
1.2.2.3. Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng
a. Yêu cầu quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro đề ra những mục tiêu cụ thể giúp các tổ chức tín dụng đi đúng
hướng, có kế hoạch hành động cụ thể và hiệu quả phù hợp với mục tiêu đề ra. Quản
trị rủi ro bao gồm các khâu từ dự báo, phòng ngừa và khắc phục hậu quả rủi ro.
Trong đó, công tác quản trị cần chú ý công tác dự báo giúp phát hiện ra những biến
cố không có lợi để từ đó có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các tình huống đó để
ngăn chặn sự cố đó hoặc hạn chế các thiệt hại đối với tài sản và thu nhập của
TCTD. Dự báo và phòng chống được thực hiện bởi các nhân viên, lãnh đạo tổ chức
tín dụng. Tuy nhiên, quá trình quản trị có thể có các quan điểm và hành động trái
ngược nhau. Do đó, người lãnh đạo cần hướng các hành động và suy nghĩ của mọi
người sao cho thống nhất.
b. Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng
QTRRTD là một quá trình (TCTD) tác động đến HĐTD thông qua bộ máy
với các công cụ thích hợp để phòng ngừa, cảnh báo, đưa ra các biện pháp cần thiết
để hạn chế đến mức tối đa tổn thất do việc không thu hồi được nợ.



13

Như vậy, ngân hàng luôn phải tổ chức ra các thiết chế, bộ máy để vận hành
những phương pháp và các chính sách, công cụ thích hợp. QTRRTD nằm trong
khuôn khổ của QTRR chung của ngân hàng. Cấp quản trị cao nhất (HĐQT) có trách
nhiệm hoạch định chiến lược và chính sách, trong đó phải xác định được tương
quan giữa lợi nhuận kỳ vọng và mức rủi ro tương ứng. Ban điều hành cấp cao và bộ
máy giúp việc phải triền khai thành các chính sách cụ thể và các thủ tục cần thiết để
nhận diện, đo lường, giám sát và kiểm soát được RRTD. Cả bộ máy quản trị được
gắn kết với nhau thông qua hệ thống thông tin quản lý được tổ chức thông suốt,
hiệu quả.
Những vấn đề lớn của TCTD thường bắt nguồn từ nguyên nhân QTRRTD
kém hiệu quả. QTRR tốt cũng không ngăn được hết những điều tồi tệ xảy ra. Nhưng
khi những điều tồi tệ xảy ra, QTRR tốt đã dự báo trước được và giảm thiểu các ảnh
hưởng tiêu cực của chúng. Rủi ro lớn nhất là không biết tất cả các loại rủi ro và vấn
đề lớn nhất là có nhiều rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát.
Người ta lập luận rằng, các hãng sản xuất, như các công ty sản xuất ô tô
chẳng hạn, họ không phải bán ô tô, mà là bán các thuộc tính hữu ích của sản phẩm.
Như vậy, ta thấy hoạt động của TCTD không phải là nhận tiền gửi và cho vay. Việc
cho vay của TCTD đạt được thành công hay không tuỳ thuộc vào việc đưa ra các
khoản cho vay dựa trên việc tối thiểu hoá rủi ro trong việc thu lại chúng. Như vậy,
hoạt động hạt nhân thực tế của TCTD là QTRR một cách sinh lời. Khi cho vay
TCTD gộp ba yếu tố gồm tiền, thông tin về người vay và các dịch vụ tiện ích khác
để hình thành nên gói sản phẩm tín dụng cung ứng cho khách hàng, đồng thời phát
triển một hệ thống quản trị sao cho có thể tối đa hoá cơ hội của TCTD trong việc
thu lại số tiền đó.
c. Khung quản trị rủi ro tín dụng:
Theo Ủy ban Basel thì “QTRR là một quá trình liên tục cần được thực hiện ở
mọi cấp của tổ chức tài chính và là yêu cầu bắt buộc để các tổ chức tài chính có thể
đạt được các mục tiêu đề ra và duy trì khả năng tồn tại và sự minh bạch về tài



14

chính” Để đạt được các mục tiêu đó, khung QTRR bao gồm 8 thành phần tương hỗ
như sau:
Sơ đồ 1.2: Khung quản trị rủi ro tín dụng

Hoạch định chính
sách

Bộ máy thực hiện

Hệ thống văn bản
nội bộ

Đánh giá rủi ro cho
sản phẩm mới

QUẢN TRỊ RỦI
RO TÍN DỤNG

Công cụ đo lường
và định lượng

Hệ thống thông tin
quản trị

Quỹ dự phòng rủi
ro tín dụng


Quản lý giám sát
cho vay

* Cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng và cơ cấu quản lý, giám sát RRTD
- Cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng: Theo khuyến cáo của Ủy ban Basel thì
bộ máy tổ chức hoạt động tín dụng và quản lý RRTD phải được tác bạch. Chức
năng quản lý RRTD được giao cho bộ phận độc lập với các đơn vị hoạt động kinh
doanh và không tham gia vào các hoạt động tạo ra rủi ro. Thay vào đó, bộ phận này
sẽ thực hiện quản lý, giám sát RRTD của hệ thống. Cụ thể, các tổ chức sẽ tách bạch
chức năng ra quyết định tín dụng với chức năng quản lý tín dụng trên cơ sở phân
định trách nhiệm và chức năng rõ ràng giữa các bộ phận phê duyệt tín dụng, quản lý
tín dụng, thẩm định, quản lý RRTD...
- Cơ cấu giám sát và QTRRTD: Hội đồng quản trị có trách nhiệm phê duyệt
chiến lược và chính sách QTRR (bao gồm các chính sách, và quy trình để xác định,
đo lường, giám sát và kiểm tra RRTD) của tổ chức và giám sát quá trình thực hiện
chính sách.


15

Bộ phận QTRR được thành lập độc lập với các đơn vị hoạt động kinh doanh
và không tham gia vào hoạt động tạo ra rủi ro có trách nhiệm quản lý, giám sát rủi
ro toàn hệ thống. Bộ phận này có chức năng cơ bản là nhận diện và phát hiện rủi ro;
phân tích đánh giá mức độ rủi ro đồng thời đề ra các biện pháp để phòng ngừa, ngăn
chặn giảm thiểu rủi ro xảy ra đồng thời có trach nhiệm thành lập một cơ chế hạn
mức rủi ro cho toàn hệ thống bao trùm cho các vấn đề trọng tâm như RRTD, rủi ro
thị trường, rủi ro tác nghiệp.
Bộ phận quản lý tín dụng chịu trách nhiệm xây dựng cơ chế, chính sách, chế độ,
quy trình tín dụng, bảo lãnh; giới hạn tín dụng, bảo lãnh; quản lý và xử lý nợ xấu.

Bộ phận kiểm tra kiểm toán nội bộ chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện công
tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ mọi mặt của TCTD. Bộ phận này xem xét việc tuân
thủ cơ cấu và nguyên tắc quản trị của TCTD, việc tách bạch các chức năng có phù
hợp và cố được vận hành hiệu quả không, cụ thể là có phát hiện được đa số các rủi
ro và đảm bảo các rủi ro đó được đo lường và quản lý thỏa đáng.
* Hệ thống văn bản nội bộ
Một trong những nguyên nhân quan trọng làm phát sinh RRTD thuộc về phía
đơn vị cho vay do việc xây dựng hệ thống văn bản, chế độ, quy trình thủ tục tín
dụng thiếu đồng bộ, không chặt chẽ. Để hạn chế rủi ro, các TCTD phải xây dựng,
ban hành, hướng dẫn đầy đủ, kịp thời văn bản nội bộ có liên quan đến HĐTD để áp
dụng thống nhất trong toàn hệ thống. Đồng thời tổ chức, nghiên cứu, tập huấn và
quán triệt để đảm bảo mọi cán bộ tín dụng đều nắm vững các văn bản chế độ và
thực thi tác nghiệp đầy đủ, chính xác.
* Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng được thực thi trên những nội dung cơ bản là cơ chế phân
cấp ủy quyền trong phê duyệt tín dụng; xác định thị trường và các lĩnh vực cho vay
cần ưu tiên trong từng thời kỳ cũng như các giới hạn an toàn trong hoạt động.
Xây dựng chính sách khách hàng trên cơ sở phân loại khách hàng theo các
tiêu chí tài chính và phi tài chính. Căn cứ vào kết quả phân loại, TCTD có chính


16

sách cụ thể áp dụng cho từng khách hàng và nhóm khách hàng theo hướng ưu đãi
cho các khách hàng được xếp hạng chất lượng cao và ngược lại.
Quy định về bảo đảm tiền vay bao gồm một số nội dung cơ bản như tỷ lệ cho
vay tối đa so với giá trị tài sản bảo đảm; các loại tài sản được nhận làm đảm bảo
khoản vay; cơ chế định giá, kiểm tra, giám sát và định giá lại tài sản.
Đa dạng hóa sản phẩm tín dụng, nghiên cứu phát triển các loại hình tín dụng
mới.

* Hệ thống các công cụ đo lường và định hạng RRTD
- Phân loại khách hàng: TCTD tiến hành phân loại khách hàng qua việc chấm
điểm các tiêu chí tài chính và phi tài chính từ đó có chính sách tín dụng phù hợp với
từng khách hàng và từng nhóm khách hàng.
- Phân loại khoản vay: Khoản vay được thực hiện phân loại theo chất lượng và
mức độ rủi ro. Khoản vay có chất lượng cao thì rủi ro thấp và ngược lại. TCTD thực
hiện phân loại thường xuyên để theo dõi phân tích và có phương án xử lý kịp thời với
các rủi ro phát sinh trong từng khoản vay để đảm bảo an toàn vốn và lợi nhuận.
- Định hạng rủi ro tín dụng Chi nhánh: Các Chi nhánh phải được thực hiện
phân loại về mức độ rủi ro trong HĐTD để giúp cho các cấp khắc phục kịp thời các
tồn tại, đối phó với các rủi ro tiềm ẩn.
- Xây dựng các mô hình, công cụ đo lường RRTD.
* Quản lý, giám sát danh mục cho vay
Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của TCTD là xây dựng được một
danh mục cho vay an toàn hiệu quả. Vốn cho vay phải được phân bổ một cách hợp
lý vào các lĩnh vực ngành nghề theo giới hạn quy định, tránh tập trung tín dụng quá
mức, thực hiện phân tán rủi ro nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất và hạn chế tối đa
RRTD.
Danh mục cho vay phải được rà soát và có báo cáo định kỳ về xu hướng rủi
ro, các lĩnh vực rủi ro cao của danh mục và các biện pháp áp dụng để hạn chế rủi ro.


17

Trên cơ sở kết quả rà soát, phân tích rủi ro danh mục, TCTD thực hiện điều
chỉnh danh mục cho vay một cách kịp thời, hợp lý nhằm tạo ra sự cân đối của danh
mục giữa các tài sản có độ rủi ro cao và tài sản có độ rủi ro thấp, tạo ra thu nhập
hợp lý và điều tiết được rủi ro.
* Trích lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro
TCTD trích lập và sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động tín

dụng nhằm chủ động xử lý rủi ro sảy ra nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính của
mình. Hiện nay, các TCTD đang thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng quỹ dự
phòng theo quyết định 493 của NHNN.
* Hệ thống thông tin QTRRTD
Hệ thống thông tin QTRRTD được xây dựng để đảm bảo cung cấp thông tin,
cơ sở dữ liệu về hoạt động tín dụng một cách đầy đủ, rõ ràng, chính xác; thường
xuyên cập nhật nhằm giúp cho các cấp lãnh đạo quản trị hiệu quả HĐTD, hạn chế
các tổn thất do thiếu thông tin.
* Đánh giá rủi ro đối với sản phẩm tín dụng mới
Để nâng cao tính cạnh tranh, các ngân hàng luôn phải nghiên cứu ra các sản
phẩm tín dụng mới. Điều này là thiết yếu và phù hợp với mục tiêu cơ cấu lại dư nợ
tín dụng, đa dạng hóa sản phẩm, góp phần giảm thiểu rủi ro của HĐTD. Tuy nhiên,
bất cứ sản phẩm tín dụng nào cũng có những rủi ro yêu cầu phải được nhận diện rõ
ràng và thiêt lập quy trình quản trị chúng một cách thỏa đáng.
1.2.2.4. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
a. Nhận diện rủi ro
Để quản trị rủi ro trước hết phải nhận diện (hay phát hiện) được rủi ro. Nhận
diện rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro nảy sinh trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động nhận dạng rủi ro nhằm thu thập
các thông tin về các đối tượng có thể gặp rủi ro (con người, tài sản, trách nhiệm
pháp lý của doanh nghiệp), các nguồn phát sinh rủi ro, các yếu tố mạo hiểm, hiểm
hoạ, các loại tổn thất mà rủi ro có thể gây cho doanh nghiệp. Hoạt động nhận dạng
rủi ro được thực hiện thông qua việc theo dõi, nghiên cứu, xem xét môi trường xung


18

quanh doanh nghiệp (vi mô và vĩ mô), toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, nhằm
thống kê được tất cả những rủi ro, không chỉ những rủi ro đã và đang xảy ra mà cả
những rủi ro mới có thể xảy ra đối với doanh nghiệp. Trên cơ sở những thống kê đó

sẽ tiến hành phân tích rủi ro nhằm xác định nguyên nhân gây ra các rủi ro cũng như
các nhân tố làm gia tăng khả năng xảy ra rủi ro cho doanh nghiệp.
Các phương pháp nhận dạng (phát hiện) rủi ro:
Phương pháp dựa trên những rủi ro đã xảy ra trong quá khứ: Phương pháp
này dựa trên những rủi ro doanh nghiệp đã gặp phải trong quá khứ để xác định
những rủi ro mà doanh nghiệp có thể sẽ phải đối mặt trong tương lai. Việc nghiên
cứu các rủi ro đã gặp phải trong quá khứ không chỉ giới hạn ở những nguyên nhân
gây ra rủi ro mà cả những nhân tố làm gia tăng khả năng xảy ra rủi ro. Cho đến nay,
đây vẫn là phương pháp chủ yếu được các nhà quản trị sử dụng để phát hiện rủi ro.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào những nghiên cứu về rủi ro trong quá khứ thì sẽ không
đủ vì có những rủi ro mà doanh nghiệp chưa gặp phải bao giờ. Để đảm bảo phát
hiện được đầy đủ các rủi ro, các nhà quản trị phải sử dụng kết hợp với phương pháp
thứ hai.
Phương pháp hệ thống an toàn (Systems safety): Phương pháp này do các
nhà khoa học phát triển các chương trình vũ trụ của Mỹ phát minh ra. Do những rủi
ro trong lĩnh vực này hầu hết chưa được biết tới trong quá khứ nhưng lại đòi hỏi
phải ngăn ngừa tối đã nên các nhà khoa học của Cơ quan Hàng không vũ trụ MỹNASA đã phải xây dựng các mô hình mô phỏng rủi ro trên cơ sở những phân tích
về quy trình hoạt động và môi trường hoạt động, qua đó sẽ phát hiện những rủi ro
nảy sinh trong môi trường giả lập đó. Các mô hình như vậy thường rất phức tạp, cần
có sự trợ giúp của các công cụ máy tính. Tuy nhiên, với những doanh nghiệp có
phạm vi hoạt động rộng, quy mô lớn như các tập đoàn đa quốc gia, việc sử dụng
phương pháp này là không thể thiếu để hỗ trợ trong việc phát hiện những rủi ro tiềm
tàng ở những môi trường kinh doanh mới.
Các công cụ phát hiện rủi ro
Để hỗ trợ cho việc phát hiện rủi ro, nhà quản trị thường sử dụng các công cụ sau:


19

Bảng câu hỏi phân tích rủi ro (Risk analysis questionaires):

Đây là công cụ chủ yếu được sử dụng trong phát hiện rủi ro. Các câu hỏi có
thể được sắp xếp theo nguồn gốc rủi ro hoặc theo môi trường tác động (vi mô, vĩ
mô, bên trong, bên ngoài)...xoay quanh các vấn đề như các rủi ro mà doanh nghiệp
đã gặp phải, mức độ tổn thất, số lần xuất hiện rủi ro trong một thời gian nhất định,
những biện pháp phòng ngừa đã sử dụng và hiệu quả của chúng. Cần lưu ý, đây
không phải là hệ thống các câu hỏi dùng để phỏng vấn hay khảo sát như các bảng
điều tra thông thường mà là một hệ thống các vấn đề cần tìm hiểu để giúp nhà quản
trị định hướng trong quá trình xác định rủi ro.
Danh mục các nguy cơ (Exposure checklists): liệt kê các rủi ro thường gặp.
Tuy nhiên, nó không thể bao quát hết các rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải,
cho nên phải dùng kết hợp với các công cụ khác.
Danh mục các rủi ro được bảo hiểm (Insurance policy checklists): danh mục
này có thể lấy từ các công ty bảo hiểm nhằm xác định những rủi ro nào có thể di
chuyển hay chia sẻ bằng các hợp đồng bảo hiểm. Những thống kê của các công ty
bảo hiểm về các rủi ro có thể gặp phải cũng là cơ sở tốt cho việc xác định các rủi ro
của doanh nghiệp.
Các hệ thống chuyên gia (Expert systems): đây là các quy trình phát hiện rủi
ro được xây dựng sẵn cho từng lĩnh vực nhất định, là sự kết hợp cả 3 công cụ trên.
Tuy nhiên, các hệ thống này không phải lúc nào cũng sẵn có, hơn nữa có thể không
phù hợp hoàn toàn với doanh nghiệp.
Quy trình phát hiện rủi ro:
Công tác phát hiện rủi ro thường được tiến hàng qua các bước sau:
Định hướng (Orientation): Đây là bước đầu tiên phải thực hiện để phát hiện
các rủi ro. Mục đích là có được hiểu biết bao quát, tổng thể về doanh nghiệp và các
hoạt động của doanh nghiệp để định hướng trong việc phát hiện rủi ro.
Phân tích tài liệu (Analysis of document): là việc phân tích các tài liệu liên
quan đến doanh nghiệp bao gồm những tài liệu lưu hành nội bộ doanh nghiệp lẫn
những tài liệu về doanh nghiệp do bên ngoài cung cấp. Ví dụ: phân tích các báo cáo



20

tài chính, quy trình nghiệp vụ, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, các hợp đồng kinh tế,
bảo hiểm doanh nghiệp đã tham gia, các báo cáo về tổn thất...
Phỏng vấn (Interview): Nhiều thông tin không thể tìm thấy trong các văn
bản, tài liệu mà chỉ có thể có được thông qua phỏng vấn các nhà quản lý hoặc các
nhân viên. Việc phỏng vấn nhằm làm rõ những thông tin trong các tài liệu hoặc bổ
sung những thông tin còn thiếu. Các đối tượng thường được phỏng vấn bao gồm các
nhà quản lý tác nghiệp, giám đốc tài chính hoặc các vị trí tương đương, cố vấn pháp
luật của doanh nghiệp, giám đốc nhân sự, bộ phận phụ trách mua, bán hàng, đốc công,
nhân viên...và cả bên ngoài như công ty tư vấn luật hoặc kiểm toán của công ty.
Khảo sát, điều tra trực tiếp (Inspection): Việc điều tra trực tiếp tại hiện
trường sẽ giúp cung cấp những thông tin nhiều khi rất có giá trị, giúp phát hiện ra
những rủi ro mà trước đó có thể không phát hiện ra. Việc khảo sát cần được thực
hiện cùng với một người phụ trách có khả năng trả lời những câu hỏi phát sinh.
Có thể nói, công tác nhận dạng và phân tích rủi ro là một công việc không
bao giờ kết thúc bởi vì các rủi ro mới liên tục xuất hiện. Hơn nữa, không doanh
nghiệp nào có thể chắc chắn rằng mình đã phát hiện được hết rủi ro. Để hỗ trợ cho
công tác này, doanh nghiệp cần xây dựng một hệ thống thông tin hỗ trợ có khả năng
cung cấp luồng thông tin liên tục về những thay đổi trong hoạt động của doanh
nghiệp, việc mua sắm các tài sản mới, cá dự án xây dựng mới cũng như những thay
đổi trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với bên ngoài. Hệ thống cũng phải đảm
bảo đưa đến cho những bộ phận liên quan đến rủi ro những thông tin cần thiết để
phòng tránh rủi ro. Hệ thống này thường bao gồm:
* Hướng dẫn về chính sách quản lý rủi ro của doanh nghiệp:
Hướng dẫn này bao gồm những thông tin về các hoạt động quản lý rủi ro mà
doanh nghiệp đang theo đuổi. Nó cần được phát cho các bộ phận có liên quan để
biết được mình cần phải làm gì để đóng góp vào hoạt động quản lý rủi ro của doanh
nghiệp cũng như biết được những hoạt động đó giúp gì cho bộ phận mình.
* Hệ thống các ghi chép về các hoạt động quản trị rủi ro của doanh nghiệp:

bao gồm những thông tín về các tổn thất xảy ra cũng như những chi phí cho các


21

hoạt động quản trị rủi ro. Những thông tin này đặc biệt có giá trị vì nó giúp hoàn
thiện hơn những hoạt động quản trị rủi ro.
* Hệ thống thông tin nội bộ: bao gồm các thông tin về kế hoạch đầu tư, mua sắm tài
sản, sản phẩm mới...
b. Đánh giá (đo lường) rủi ro
Nhận dạng được rủi ro là bước khởi đầu của quản trị rủi ro. Tuy nhiên, rủi ro
có rất nhiều loại, một doanh nghiệp không thể cùng một lúc kiểm soát, phòng ngừa
mọi loại rủi ro, bởi lẽ khả năng của mỗi doanh nghiệp đều có hạn. Từ đó, cần phân
loại các rủi ro, cần biết được đối với doanh nghiệp, loại rủi ro nào có tần suất xuất
hiện nhiều, loại rủi ro nào xuất hiện ít, loại rủi ro nào gây hậu quả nghiêm trọng,
loại nào ít nghiêm trọng hơn..., từ đó có biện pháp quản trị rủi ro thích hợp. Muốn
vậy, doanh nghiệp cần tiến hành việc đo lường các rủi ro.
Việc đo lường rủi ro là đánh giá mức độ nghiêm trọng của rủi ro để đưa ra
mức độ ưu tiên đối phó. Căn cứ vào mức độ nghiêm trọng, rủi ro thường được phân
loại thành ba nhóm:
Nhóm nguy hiểm (Critical risks): Bao gồm những rủi ro mà hậu quả của nó
có thể dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp.
Nhóm quan trọng (Important risks): Bao gồm những rủi ro mà hậu quả của
nó không phải là nguyên nhân chủ yếu làm cho doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá
sản nhưng sẽ phải vay mượn để tiếp tục hoạt động.
Nhóm không quan trọng (Unimportant risks): Bao gồm những rủi ro mà
doanh nghiệp có thể tự khắc phục hậu quả mà không khó khăn về tài chính.
Để phân loại như vậy, đòi hỏi phải đánh giá được mức độ nghiêm trọng của
rủi ro cũng như khả năng chịu đựng của TCTD khi xảy ra rủi ro. Việc đánh giá mức
độ nghiêm trọng của rủi ro giúp nhà quản trị quyết định doanh nghiệp có thể tự

mình gánh chịu rủi ro hay chuyển giao bớt rủi ro (mua bảo hiểm), nếu phải chuyển
giao rủi ro thì điều kiện bảo hiểm nào là thích hợp để vừa tiết kiệm được chi phí vừa
đảm bảo được an toàn cho doanh nghiệp. Để đánh giá mức độ nghiêm trọng hay


22

quy mô tồn thất của mỗi rủi ro, nhà quản trị thường sử dụng hai chỉ tiêu là mức độ
tổn thất tối đa và khả năng xảy ra tổn thất.
Thứ nhất là mức độ tổn thất tối đa mà rủi ro có thể gây ra cho doanh
nghiệp. Ví dụ đối với một dự án đầu tư ra nước ngoài, tổn thất tối đa mà doanh
nghiệp có thể phải gánh chịu là toàn bộ số tiền bỏ ra để đầu tư vào dự án đó. Tuy
nhiên trên thực tế, tổn thất không đến mức như vậy vì doanh nghiệp có thể bán lại
dự án (bao gồm quyền đầu từ, giá trị máy móc, nhà xưởng...) với giá rẻ, chấp nhận
thua lỗ nhưng vẫn thu hổi được một phần vốn đầu tư.
Ngoài ra, khi rủi ro xảy ra, nó không chỉ gây ra thiệt hại trực tiếp mà còn kéo
theo nhiều thiệt hại liên quan, do vậy việc đánh giá thiệt hại do rủi ro gây ra đối với
doanh nghiệp không chỉ bao gồm các thiệt hại trực tiếp mà phải bao gồm cả những
thiệt hại gián tiếp do rủi ro gây ra. Những thiệt hại gián tiếp này không chỉ bao gồm
những thiệt hại xảy ra ngay khi đó mà cả những thiệt hại còn diễn ra sau này. Ví dụ:
toà nhà bị cháy là thiệt hại trực tiếp của doanh nghiệp nhưng các chi phí liên quan
đến phá dỡ toàn nhà đó là thiệt hại gián tiếp xảy ra đồng thời, thiệt hại gián tiếp đó
xảy ra sau đó là doanh nghiệp không thể cho thuê toà nhà đó tiếp dẫn đến dự giảm
sút các khoản thu nhập từ việc cho thuê.
Thứ hai là mức độ, khả năng xảy ra tổn thất
Chỉ tiêu này phản ánh tần suất xuất hiện của rủi ro – số lần xảy ra tổn thất
hay khả năng xảy ra biến cố nguy hiểm đối với doanh nghiệp trong một khoảng thời
gian nhất định (năm, quý, tháng...)
Để đo lường rủi ro, các doanh nghiệp có thể sử dụng kết hợp các phương
pháp đo lường định lượng và các phương pháp đánh giá định tính.

Cụ thể, các phương pháp đo lường định lượng: Để đánh giá khả năng xảy ra
tổn thất có thể được thực hiện thông qua các phân tích lượng hoá trên cơ sở lý
thuyết xác suất. Ba biến số về rủi ro mà nhà quản trị thường tính toán phân phối xác
suất là số tổn thất mà doanh nghiệp gặp phải trong một khoảng thời gian nhất định,
mức độ thiệt hại của từng tổn thất, và tổng giá trị tổn thất mà doanh nghiệp phải


23

chịu trong một khoảng thời gian cho trước. Để xác định phân phối xác suất của
những biến số này, nhà quản trị rủi ro thường sử dụng hai phương pháp sau:
Phương pháp thứ nhất: Xây dựng các mô hình tính xác suất xảy ra tổn thất
trên cơ sở các số liệu quá khứ về tồn thất đó
Phương pháp này có hạn chế là chỉ áp dụng được với những rủi ro đã từng
xảy ra và số lần quan sát được rủi ro phải đủ lớn để những ước lượng về xác suất
đáng tin cậy. Hơn nữa, phương pháp này không tính đến những thay đổi của môi
trường xung quanh, nói cách khác, nó dựa trên giả thiết là phân phối xác suất xảy ra
tổn thất là không thay đổi trong thời gian ngắn, trong khi trên thực tế những thay
đổi về môi trường xung quanh có thể đưa đến những thay đổi đáng kể đến phân
phối xác suất xảy ra tổn thất. Mô hình nhị thức và mô hình Poisson hay được sử
dụng để xác định phân phối xác suất của số rủi ro doanh nghiệp gặp phải, còn các
phân phối logarit chuẩn, phân phối luỹ thừa và phân phối Pareto hay được sử dụng
để tính phân phối xác suất của mức độ thiệt hại mỗi lần tổn thất. Phân phối xác suất
của tổng giá trị các tổn thất sẽ xác định trên cơ sở kết hợp phân phối xác suất của số
rủi ro doanh nghiệp gặp phải và phân phối xác suất của mức độ thiệt hại của mỗi
tổn thất.
Phương pháp thứ hai: Sử dụng các mô hình giả lập (simulation models) để
tích hợp cả những thay đổi của môi trường vào các phân phối xác suất cần xác
định.
Các mô hình được sử dụng chủ yếu trong phương pháp này là giả lập Monte

Carlo (Monte Carlo simulation), phân phối Gamma (Gamma distribution)...
Cũng cần lưu ý là việc sử dụng các lý thuyết xác suất để đánh giá khả năng
xảy ra rủi ro không dễ triển khai ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong những
trường hợp này, tư vấn của các công ty bảo hiểm về các rủi ro mà doanh nghiệp cần
đánh giá sẽ hiệu quả hơn. Tuy nhiên, với những doanh nghiệp lớn việc tự đánh giá
sẽ hiệu quả hơn vì đánh giá rủi ro từ góc độ công ty bảo hiểm không phải lúc nào
cũng phù hợp với doanh nghiệp.


24

Bên cạnh các phương pháp trên, hiện nay, ngày càng nhiều doanh nghiệp
trên thế giới áp dụng các phương pháp đo lường rủi ro của ngân hàng, công ty tài
chính và thu được kết quả khả quan. Chẳng hạn như doanh nghiệp đã sử dụng
phương pháp” xác suất vỡ nợ” của R.Merton (1974) để đo lường xác suất vỡ nợ của
doanh nghiệp, phương pháp VAR để đo lường khoản lỗ lớn nhất mà doanh nghiệp
sẽ phải chịu nếu các biến số kinh tế thay đổi theo hướng bất lợi với một độ tin cậy
nào đó (thường là trên 90%) và trong khoảng thời gian nhất định trong tương lai,
hay mô hình AC Shapiro để đo lường ảnh hưởng của sự biên động tỷ giá, lạm phát,
lãi suất đến giá trị của doanh nghiệp và cho biết trị giá hiện tại của doanh nghiệp sẽ
biến động như thế nào khi các yếu tố trên thay đổi...
Phương pháp đo lường định lượng có ưu điểm lớn, chúng cung cấp các thông
tin định lượng giúp các nhà quản trị dễ hình dung hơn về khả năng xảy ra và mức
độ ảnh hưởng của các rủi ro. Tuy nhiên, các phương pháp này cũng có những hạn
chế như:
- Mô hình rất phức tạp và dựa trên nhiều giả định về các đối tượng đo lường.
- Yêu cầu một cơ sở dữ liệu đủ lớn.
- Việc kiểm tra tính xác thực kết quả của một số mô hình chỉ được thực hiện
sau một vài năm.
- Mô hình rất nhạy cảm đối với sự biến động của môi trường kinh tế. Việc

mô hình sử dụng nhiều giả định để tạo lập cơ sở dữ liệu khiến một sự thay đổi nhỏ
trong môi trường kinh tế sẽ ảnh hưởng đến tiêu chí tạo lập cơ sở dữ liệu, làm thay
đổi cơ sở dữ liệu và do đó làm thay đổi kết quả của mô hình.
Những hạn chế trên cho thấy việc áp dụng mô hình định lượng không phải là
công việc đơn giản mà yêu cầu một nguồn lực lớn từ việc chọn gói phần mềm, xây
dựng cơ sở dữ liệu và liên tục chỉnh sửa các giả định để có thể liên tục cập nhật các
kết quả đo lường.
Tuy nhiên, trong thực tế không phải rủi ro nào cũng có thể lượng hoá được.
Đối với những rủi ro khó quan sát, khó lượng hoá, thay vì xây dựng mô hình lượng


25

hoá, các doanh nghiệp trên thế giới có xu hướng sử dụng phương pháp đánh giá
định tính dựa trên các ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực quản tri rủi ro.
Như vậy, phương pháp đánh giá định tính là phương pháp dựa trên những
đánh giá của các chuyên gia để từ đó xếp hạng các rủi ro và đưa ra báo cáo tổng
hợp. Phương pháp này được sử dụng đối với những rủi ro khó đo lường.
Bảng 1.1: Khả năng đo lường của một số rủi ro
Rủi ro

Khả năng đo lường mức

Khả năng đo lường tần số

độ nghiêm trọng
Rủi ro liên quan đến tổ

Thấp


Thấp

Thấp

Thấp

Rủi ro công nghệ

Cao

Cao

Rủi ro về nhân sự

Cao

Cao

Rủi ro do các yếu tố bên

Cao

Cao

chức hoạt động
Rủi ro liên quan đến chiến
lược và thực hiện chiến
lược

ngoài khác gây nên

Nguồn: Credit Suisse Group 2000

Phương pháp đánh giá định tính giải quyết được hai vấn đề của phương pháp
đo lường định lượng. Thứ nhất, phương pháp này đánh giá được các rủi ro khó đo
lường được. Thứ hai, khi môi trường kinh doanh thay đổi, phương pháp này cho kết
quả nhanh hơn mô hình định lượng vì khi đó mô hình định lượng phải được điều
chỉnh rất nhiều bước mới có thể cập nhật được kết quả. Khác với mô hình định
lượng, phương pháp định tính không đưa ra một giá trị tuyệt đối của tổn thất gây ra
bởi một loại rủi ro nào đó mà chỉ theo dõi sự biến đổi của các yếu tố này.
Phương pháp đánh giá đơn giản nhất là xin ý kiến chuyên gia để xếp hạng
các rủi ro. Thông qua việc xếp hạng, các yếu tố định tính có thể được chuyển thành
định lượng. Công việc đánh giá trải qua 3 bước:
(1) Liệt kê và đánh giá định kỳ các rủi ro


×