Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

LV Thạc sỹ_Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của ngân hàng BIDV trong tiến trình hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 112 trang )

1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BIDV
CCTG
GTCG
IMF
KHNN
NHNN
NHTM
NHTMQD
NHTMCP
Ngân hàng Đầu tư

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chứng chỉ tiền gửi
Giấy từ có giá
Quỹ tiền tệ quốc tế
Kế hoạch Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại quốc doanh
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam Ngân hàng

& Phát triển Việt

Đầu tư & Phát triển VN

Nam
TDH TM
TG CKH


TG KKH
TGTT
WB
WTO

Trung dài hạn thương mại
Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi thanh toán
Ngân hàng Thế giới
Tổ chức thương mại thế giới


2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập và phát triển, Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ
chức thương mại Thế giới - Tổ chức thương mại đa phương lớn nhất toàn cầu.
Ngành ngân hàng - kênh trung gian chuyển tải vốn ra thị trường và điều chỉnh
nguồn vốn của thị trường là một trong những lĩnh vực được mở cửa và phát
triển mạnh mẽ nhất. Điều này đồng nghĩa với thị trường tài chính - tiền tệ Việt
Nam sẽ là sân chơi chung cho các ngân hàng trong và ngoài nước. Khi đó các
ngân hàng nước ngoài sẽ được phép thiết lập sự hiện diện thương mại tại Việt
Nam và được hưởng quy chế đối xử không phân biệt như các ngân hàng
thương mại Việt Nam.
Như vậy, các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay đang và sẽ phải
đối mặt với cuộc cạnh tranh thực sự gay gắt không chỉ riêng ở thị trường
trong nước mà cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn với hệ thống ngân hàng
nước ngoài trên tất cả các phương diện. Để có thể thích ứng được với môi
trường cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng

thương mại Việt Nam cần phải chú trọng và nhanh chóng nâng cao năng lực
cạnh tranh nói chung và năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ nói riêng để có
thể giữ vững thị phần hoạt động và đảm bảo các chỉ tiêu hoạt động kinh
doanh.
Tuy nhiên trên thực tế, năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của các
ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và của Ngân hàng Đầu tư & Phát
triển Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng còn nhiều
hạn chế, chưa xứng với tiềm năng và uy tín trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Trong
bối cảnh đó, việc phân tích, đánh giá thực trạng để từ đó tìm ra những giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng


3
Đầu tư & Phát triển Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phất triển Việt Nam là
một nhu cầu cấp bách.
Với cách đặt vấn đề như vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Nâng cao năng
lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt
Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong tiến trình hội nhập"
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sản phẩm dịch vụ ngân hàng,
năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và các công trình này mới chỉ
đề cập đến một lĩnh vực hoạt động của ngân hàng như tín dụng, huy động
vốn, dịch vụ phi tín dụng...Luận văn của tác giả đã đưa ra được các tiêu chí
đánh giá tổng thể năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của ngân hàng
thương mại nói chung trên cơ sở đó phân tích, đánh giá một cách khoa học về
năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển
Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về sản phẩm dịch vụ và năng lực

cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của NHTM.
- Phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ tại Ngân hàng
Đầu tư & Phát triển Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, đánh giá
những mặt đạt được, những vấn đề còn tồn tại và tìm ra các nguyên nhân của
những tồn tại đó.
- Đề xuất các giải pháp và đưa ra một số kiến nghị với các cơ quan chức
năng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ tại Ngân hàng
Đầu tư & Phát triển Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.


4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của
Ngân hàng thương mại và lấy thực trạng cung cấp sản phẩm dịch vụ của Ngân
hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
giai đoạn 2005-2007 làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp. Trên cơ sở đó đề
xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ tại Ngân
hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học kinh
tế: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác
Lênin; phương pháp thống kê, tổng hợp so sánh và phân tích kinh tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục chữ viết tắt, danh
mục sơ đồ bảng biểu và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 03
chương:
Chương 1: Khái quát về ngân hàng thương mại và tính tất yếu của việc
nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ tại Ngân

hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ tại
Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam.
Mặc dù đã cố gắng, nhưng do việc đánh giá năng lực cạnh tranh sản
phẩm dịch vụ ngân hàng là một lĩnh vực rộng và phức tạp, với sự hiểu biết và
thời gian hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giải


5
chân thành và hy vọng dược những ý kiến đóng góp của bạn đọc để luận văn
có điều kiện hoàn thành tốt hơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2008
TÁC GIẢ
NGUYỄN MINH ĐỨC


6

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ TÍNH TẤT
YẾU CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN
PHẨM DỊCH VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm và chức năng của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm
Nguồn gốc ra đời của ngân hàng thương mại (NHTM) xuất phát từ
những người thợ vàng ở Luân Đôn - Anh vào thế kỷ 17. Do lợi thế của công
việc chế tác vàng, những người thợ vàng có điều kiện về cất giữ vàng tốt hơn
ai hết. Họ là những người đầu tiên nhận ký gửi vàng và theo thời gian và địa

điểm ghi trên giấy biên nhận. Do việc rút vàng của những người gửi vàng
nghĩ ra cách kiếm lời bằng việc cho vay số vàng của khách hàng chưa rút.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, các nghiệp vụ khác dần ra đời
như tài khoản ký gửi, chiết khấu thương phiếu, thanh toán, mua bán vàng nén,
ngoại tệ....
Từ khi ra đời đến nay, ngân hàng luôn chứng tỏ mình là một loại tổ chức
có vai trò quan trong trong nền kinh tế, khái niệm ngân hàng được hiểu dựa
trên những chức năng, nhiệm vụ đặc trưng của chúng. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế và sự giao thoa, xâm nhập giữa các ngành nghề,
ngày càng nhiều tổ chức không phải là ngân hàng đang tiến tới việc cung cấp
các sản phẩm trước đây vốn độc quyền thuộc về ngân hàng. Ngược lại, ngân
hàng hiện nay cũng đảm nhận những công việc mà ngân hàng truyền thống
không hề có. Theo quan điểm của Giáo sư Peter S.Rose: "Ngân hàng là tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng - đặc


7
biệt là tín dụng, tiết kiện, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức nào trong nền kinh tế" [5].
Ở Việt Nam, Luật tổ chức tín dụng đã xác định "tổ chức tín dụng là
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội
dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ
thanh toán" và trong các loại hình tổ chức tín dụng thì " ngân hàng là một tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền
gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho
vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định
chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với
nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh
toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối

đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
1.1.12. Chức năng
Sơ đồ 1.1: Chức năng của ngân hàng thương mại
Chức năng trung gian tài chính

Chức năng tạo tiền

NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI

Chức năng sản xuất

"Nguồn: Quản trị ngân hàng thương mại của Peter S. Rose"


8
- Chức năng trung gian tài chính: Thực hiện chức năng này, NHTM
đóng vai trò trung gian khi thực hiện các nghiệp vụ cấp tín dụng, thanh toán,
kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán và nhiều hoạt động môi giới
khác. Từ "trung gian" ở đây có thể được hiểu theo hai nghĩa:
+ Trung gian giữa các khách hàng với nhau: NHTM làm trung gian giữa
người gửi tiền và người vay tiền; trung gian giữa người trả tiền và người nhận
tiền; trung gian giữa người mua và người bán ngoại tệ...
+ Trung gian giữa Ngân hàng Trung Ương và công chúng: Ngân hàng
Trung Ương không giao dịch trực tiếp với công chúng mà chỉ giao dịch với
các NHTM trong khi các NHTM vừa giao dịch với NTTƯ vừa giao dịch với
công chúng.
- Chức năng tạo tiền:NHTM có chức năng tạo tiền tức là chức năng
sáng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền tệ phục vụ cho nhu cầu chu
chuyển và phát triển của nền kinh tế. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), khối

tiền tệ của một quốc gia bao gồm: tiền giấy, tiền kim loại và tiền gửi không kỳ
hạn tại các NHTM. Còn tiền gửi tiến kiệm và tiền gửi định kỳ không được
xem là bộ phận của khối tiền tệ mà chỉ được xem là "chuẩn tiền" vì tính chất
kém thanh khoản của bộ phận này. Nhưng từ thập niên 1980 trở đi nhiều nàh
kinh tế học bắt đầu xem "chuẩn tiền" là một thành phần của khối tiền tệ. IMF
và Ngân hàng thế giới (WB) gần như chấp nhận quan điểm này nhưng còn
ngần ngại nên phân biệt thành nhiều dạng khối tiền tệ như M1, M2, M3 và L,
trong đó:
+ M1 = Tiền mặt phát hành bao gồm tiền giấy và tiền kim loại cộng với
tiền gửi không kỳ hạn;
+ M2 = M1 + tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi định kỳ tại các NHTM;
+ M3 = M2 + tất cả các loại tiền gửi ở các định chế tài chính khác;


9
+ L = M3 + các loại trái phiếu, thương phiếu và công cụ khác ở thị
trường tiền tệ.
- Chức năng sản xuất: Chức năng sản xuất của NHTM bao gồm việc
huy động và sử dụng các nguồn lực để tạo ra sản phẩm dịch vụ ngân hàng
cung cấp cho nền kinh tế. Trên cơ sở sử dụng các yếu tố đầu vào đặc thù của
quá trình sản xuất, NHTM tạo ra sản phẩm dịch vụ đặc thù để cung cấp cho
khách hàng. Các sản phẩm và dịch vụ NHTM có thể cung cấp bao gồm:
+ Các sản phẩm huy động vốn như tiền gửi và chứng từ có giá các loại.
+ Các sản phẩm tín dụng như cho vay doanh nghiệp, cá nhân; cho vay
sản xuất, tiêu dùng, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án; thẻ ghi nợ, thẻ
ATM...
+ Các sản phẩm dịch vụ khác như chuyển tiền, thanh toán không dùng
tiền mặt, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ...
1.1.2. Khái niệm và đặc trưng sản phẩm dịch vụ của NHTM
1.1.2.1. Khái niệm sản phẩm dịch vụ

Cũng như các doanh nghiệp kinh doanh khác, sản phẩm dịch vụ luôn là
vấn đề quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên, do tính
chất hoạt động của NHTM là đa dạng, nhạy cảm nên khi đưa ra khái niệm sản
phẩm dịch vụ của NHTM, chúng ta có thể xem xét trên hai khía cạnh rộng và
hẹp.
- Theo nghĩa rộng, sản phẩm dịch vụ của NHTM là toàn bộ hoạt động
tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối...của hệ thống NHTM đối với doanh
nghiệp và công chúng. Quan niệm theo nghĩa rộng này được sử dụng để xem
xét lĩnh vực dịch vụ ngân hàng trong cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân.
- Theo nghĩa hẹp, sản phẩm dịch vụ của NHTM chỉ bao gồm những hoạt
động ngoài chức năng truyền thống của NHTM. Quan niệm này nên dùng
trong phạm vi hẹp khi xem xét hoạt động của một NHTM cụ thể, xem xét các


10
dịch vụ mới phát triển như thế nào, cơ cấu của chúng ra sao trong hoạt động
của NHTM.
Trong luận văn này, sản phẩm dịch vụ của NHTM được xem xét theo
nghĩa rộng, rất phong phú và đa dạng, bao hàm cả hoạt động truyền thống của
NHTM như nhận tiền gửi và cho vay. Theo Từ điển thuật ngữ tài chính tín
dụng: "Sản phẩm dịch vụ của NHTM là những nghiệp vụ mà NHTM thực hiện
trong việc huy động các nguồn vốn tiền tệ và đầu tư số vốn huy động được,
cấp tín dụng, phục vụ thanh toán cho khách hàng và làm các dịch vụ khác
theo sự ủy thác của khách hàng".
Sản phẩm dịch vụ của NHTM được phân thành ba nhóm:
- Sản phẩm dịch vụ tiền gửi - huy động vốn phản ánh quá trình hình
thành vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM, bao gồm nhận tiền gửi,
phát hành giấy tờ có giá (GTGT) và huy động khác.
- Sản phẩm dịch vụ tín dụng phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các
mục đích nhằm tìm kiếm lợi nhuận cũng như đảm bảo an toàn của NHTM.

- Sản phẩm dịch vụ phi tín dụng là các sản phẩm mà NHTM cung ứng
cho khách hàng để nhận phí, hoa hồng như dịch vụ thanh toán và các sản
phẩm khác theo yêu cầu, uỷ nhiệm của khách hàng.
1.1.2.2. Đặc trưng sản phẩm dịch vụ
NHTM không trực tiếp tham gia vào sản xuất và lưu thông hàng hóa như
các doanh nghiệp thông thường, NHTM thực hiện các chức năng trung gian
tín dụng, trung gian thanh toán và làm dịch vụ tiền tệ, tư vấn tài chính cho
khách hàng....Thông qua việc thực hiện các chức năng trung gian của mình,
NHTM nắm trong tay một bộ phận lớn nhất của cải của xã hội dưới dạng giá
trị nhưng không có quyền sở hữu chúng, mà chỉ có quyền sử dụng với những
người chủ sở hữu thực của các tài sản này.Có thể nói, nguyên liệu kinh doanh
chủ yếu của NHTM là "quyền sử dụng các khoản tiền tệ" - là loại nguyên liệu


11
có tính xã hội hóa và tính nhạy cảm cao - do vậy các sản phẩm dịch vụ của
NHTM có nhiều đặc điểm riêng biệt, cụ thể:
- Đề cao tính an toàn: Do NHTM hoạt động chủ yếu bằng vốn đi huy
động từ nền kinh tế và phải có trách nhiệm hoàn trả, việc thiếu khả năng thanh
toán sẽ nhanh chóng dẫn đến sự đổ vỡ, phá sản của NHTM nên khi thực hiện
cung ứng sản phẩm dịch vụ, NHTM cần đề cao các biện pháp đảm bảo an
toàn hoạt động kinh doanh, chẳng hạn duy trì mức vốn huy động hợp lý để
phù hợp với nhu cầu sử dụng của NHTM và ý muốn của người gửi tiền,
chống đỡ được những biến động của thị trường; lựa chọn khách hàng, lựa
chọn danh mục đầu tư; đa dạng hóa tài sản để phân tán rủi ro, nâng cao lợi
nhuận và đảm bảo thanh khoản....
- Hoàn toàn phụ thuộc vào khách hàng: Sản phẩm dịch vụ của NHTM
có tính phi vật chất, không thể dự trữ, không thể tồn kho để khi thị trường cần
thì đưa ra tiêu thụ như hàng hóa hữu hình. Sản phẩm dịch vụ của NHTM chỉ
bắt đầu khi khách hàng chuyển đến NHTM các uỷ nhiệm của họ phát sinh từ

hợp đồng giao dịch thương mại, tín dụng hoặc phải hoàn thành một nghĩa vụ
tài chính nào đó. Do vậy, khi thực hiện cung cấp các sản phẩm dịch vụ
NHTM phải quan tâm trước hết đến nhu cầu của khách hàng, phải xuất phát
từ khách hàng.
- Mức độ cạnh tranh quyết liệt giữa các NHTM khi cung cấp các sản
phẩm dịch vụ: Do NHTM bị chi phối bởi đặc điểm dùng nguyên liệu chính
là "tiền", loại nguyên liệu có tính xã hội hóa và tính nhạy cảm cao nên chỉ cần
sự thay đổi nhỏ về lãi suất cũng sẽ gây ra sự chuyển dịch của khách hàng từ
NHTM này sang NHTM khác. Tính nhạy cảm cao thể hiện rõ trong trường
hợp khi NHTM này tại ra một loại sản phẩm được xã hội ưu chuộng thì ngay
lập tức các NHTM khác cũng có thể tạo ra sản phẩm đó để cạnh tranh. Như
vậy, tính cạnh tranh quyết liệt giữa các NHTM phát sinh từ sự dễ thay đổi của


12
khách hàng trong quan hệ giao dịch với NHTM nhằm mục đích mua sản
phẩm dịch vụ với chi phí thấp nhất và bán nguyên liệu "tiền" với giá cao nhất.
- Phạm thuộc nhiều vào môi trường kinh doanh và công nghệ:
+ NHTM nằm trong số loại hình doanh nghiệp được giám sát chặt chẽ
nhất, buộc phải quản lý theo pháp luật và các quy định khác có liên quan.
Hoạt động kinh doanh của NHTM thường xuyên đổi mới với những điều kiện
kinh tế năng động và những điều chỉnh của pháp luật. Mặt khác, mối quan hệ
giữa NHTM và khách hàng (người gửi tiền, người vay tiền) là mối quan hệ
dựa trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau và tạo thuận lợi cho nhau, do vậy môi
trường kinh doanh (điều kiện kinh tế và luật pháp) mỗi nước đều ảnh hưởng
lớn đến việc thực hiện cung cấp các sản phẩm dịch vụ của NHTM.
+ Dưới sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật, công
nghệ ngân hàng có những bước tiến nhảy vọt và có khuynh hướng quốc tế
hóa, trở thành nguồn lực nội tại của mỗi NHTM về tư duy kinh doanh, tạo ra
các sản phẩm thích ứng với thị trường. Do vậy, hoạt động của NHTM không

thể tách rời với công nghệ ngân hàng.
1.1.3. Các loại sản phẩm dịch vụ của NHTM
1.1.3.1. Sản phẩm dịch vụ tiền gửi - huy động vốn
Sản phẩm dịch vụ tiền gửi - huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận
trực tiếp cho NHTM nhưng nó là một hoạt động chủ yếu để duy trì sự ổn định
và phát triển của NHTM. NHTM cung cấp sản phẩm dịch vụ tiền gửi - huy
động vốn để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Khác
với nhiều tổ chức kinh tế - tài chính khác, vốn điều lệ của NHTM thường
chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng tài sản của NHTM, thường chỉ đủ để tài trợ
cho tài sản cố định như trụ sở, văn phòng, máy móc thiết bị khi cần thiết cho
hoạt động.... Để có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh như cho vay và
cung ứng các sản phẩm dịch vụ khác đối với nền kinh tế thì NHTM phải huy


13
động vốn từ khách hàng, đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn của NHTM. Để huy động vốn, các NHTM đã đưa ra nhiều loại sản
phẩm dịch vụ tiền gửi khác nhau cho khách hàng lựa chọn. Mỗi sản phẩm
dịch vụ tiền gửi đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp
hơn với nhu cầu của khách hàng trong việc tiết kiệm và thực hiện thanh toán.
Các NHTM thực hiện nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức
tín dụng dưới các hình thức:
a. Tiền gửi không kỳ hạn (TGKKH) tiền gửi thanh toán (TGTT)
Là hình thức huy động vốn của NHTM bằng cách mở cho khách hàng tài
khoản gọi là tài khoản TGTT - Tài khoản này thường được mở cho các khách
hàng là tổ chức doanh nghiệp, doanh nghiệp có nhu cầu thực hiện thanh toán
qua ngân hàng. Số dư có trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng có
thể hình thành từ hai nguồn: do khách hàng nộp tiền mặt vào hoặc do khách
hàng nhận tiền chuyển khoản từ các đơn vị khác. Số dư này nhằm duy trì khả
năng thanh toán và chi trả của khách hàng ở bất cứ thời điểm nào.

Tuy nhiên, không phải lúc nào khách hàng cũng sử dụng số dư tài khoản
tiền gửi thanh toán của họ dẫn đến việc số dư tài khoản tạm thời nhàn rỗi và
các NHTM có thể sử dụng cho hoạt động của mình. Do tính chất không ổn
định của loại tiền gửi này - khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào mà
không cần báo trước cho ngân hàng - nên các NHTM thường trả lãi suất thấp
cho khách hàng.
b. Tiền gửi có kỳ hạn (TG CKH)
Là nguồn tiền của các tổ chức doanh nghiệp có được từ những khoản
thu, dùng để thanh toán sau một thời gian nhất định, tạm thời chưa sử dụng
gửi vào NHTM với mức lãi suất cao hơn suất tiền gửi không kỳ hạn, qua đó
tăng thêm phần thu từ tiền gửi. Đây là loại sản phẩm dịch vụ tiền gửi có sự
thoả thuận giữa NHTM và khách hàng về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc,


14
khách hàng chỉ có thể rút tiền theo thời hạn thoả thuận nhưng trên thực tế để
thu hút loại tiền gửi này với kỳ hạn dài các NHTM thường cho phép rút trước
hạn nhưng khách hàng chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn hoặc lãi suất
tương ứng với thời gian thực tập gửi theo quy định của ngân hàng.
Do đây là nguồn vốn có độ ổn định cao, tạo điều kiện cho các NHTM
chủ động trong quá trình sử dụng. Vì vậy, đề có thể thu hút nhiều hơn nguồn
tiền gửi này các NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau (1 tuần, 2
tuần, 3 tuần, 1 tháng, 2 tháng, ... 24 tháng, 36 tháng...) phù hợp với thời gian
vốn nhàn rỗi của khách hàng, mỗi kỳ hạn có một mức lãi suất tương ứng theo
nguyên tắc kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao.
c. Tiền gửi tiết kiệm dân cư.
Là một bộ phận thu nhập bằng tiền của các tầng lớp dân cư trong xã hội
gửi vào các NHTM nhằm mục đích tiết kiệm, kiếm lời và để thanh toán. Tiền
gửi tiết kiệm của dân cứ gồm các loại: tiết kiệm không kỳ hạn; tiết kiệm có kỳ
hạn/tiết kiệm định kỳ và tiết kiệm khác.

- Tiết kiệm không kỳ hạn: Là sản phẩm tiền gửi của các NHTM dành
cho đối tương khách hàng cá nhân, có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi vào
ngân hàng vì mục tiêu an toàn và sinh lời như không lập được kế hoạch sử
dụng tiền gửi trong tương lai. Do khách hàng không lập được kế hoạch sử
dụng tiền gửi trong tương lai nên tính ổn định của loại tiền gửi này không cao
dẫn đến các NHTM thường trả lãi suất thấp cho các khoản tiền gửi này.
- Tiết kiệm khác: Ngoài hai loại tiền gửi tiết kiệm trên, các NHTM đều
xây dựng và đưa ra các sản phẩm tiết kiệm khác như tiết kiệm tiện ích, tiết
liệm có thưởng, tiết kiệm an khang, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm rút dần...với
nhiều nét đặc trưng riêng nhằm làm cho sản phẩm luôn luôn đổi mới theo nhu
cầu của khách hàng và tạo ra sự khác biệt chống lại sự bắt chước của các đối
thủ cạnh tranh.


15
d. Phát hành GTCG
Ngoài việc huy động vốn từ các sản phẩm dịch vụ tiền gửi trên, các
NHTM còn có thể huy động vốn bằng các phát hành GTCG. Nói cách khác,
GTcG là chứng nhận của NHTM phát hành để huy động vốn trong đó xác
nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện
trả lãi và các điều khoản cam kết khác với NHTM và khách hàng (người mua
GTCG). Hiện tại, các NHTM thường phát hành các loại GTCG để huy động
vốn như kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu...
Đối tượng mua GTCG của các NHTM là các tổ chức và cá nhân. Khi
phát hành GTCG các NHTM có khả năng tập trung một khối lượng lớn trong
thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động trong sử dụng. Hình thức này thường
được các NHTM thực hiện khi tiếp nhận được những dự án vay vốn lớn với
thời hạn giải ngân nhanh của khách hàng hoặc sau khi đã cân đối giữa nguồn
vốn và sử dụng vốn mà vẫn còn thiếu nguồn.
1.1.3.2. Sản phẩm dịch vụ tín dụng.

Bảng việc huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế
tạo cho các NHTM khả năng cung cấp tín dụng, qua đó thúc đẩy nền kinh tế
phát triển, tạo ra lợi nhuận cho NHTM. Đối với các NHTM truyền thống, việc
cung cấp các sản phẩm dịch vụ tín dụng có ý nghĩa gần như quyết định tới sự
tồn tại, phát triển và tạo ra doanh thu, lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM.
Bằng việc cung cấp sản phẩm dịch vụ tín dụng, NHTM thực hiện điều hòa
vốn trong nền kinh tế dưới hình thức phân phối nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
huy động được từ trong xã hội để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất
kinh doanh và đời sống.
Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm dịch vụ tín dụng của các NHTM
rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau, cụ thể:


16
a. Cho vay ngắn hạn: Là hình thức NHTM cấp tín dụng cho khách hàng
có thời hạn cho vay đến một năm (đến 12 tháng). Loại tín dụng này nhằm đáp
ứng các nhu cầu về vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đời sống của khách
hàng. Theo mục đích sử dụng tiền vay, cho vay ngắn hạn bao gồm cho vay
kinh doanh và cho vay tiêu dùng.
- Cho vay kinh doanh: là hình thức cho vay của các NHTM nhằm mục
đích tài trợ vốn kinh doanh cho nhiều đối tượng khách hàng chủ yếu là các
doanh nghiệp.
+ Cho vay bổ sung vốn lưu động: Các NHTM cho vay để tài trợ thêm
vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Khi vay
tiền, khách hàng dùng chính thu nhập thu được từ việc sử dụng vốn vay để trả
nợ ngân hàng.
+ Cho vay trên tài sản:
Chiết khấu GTCG: là việc NHTM mua GTCG chưa đến hạn thanh toán
của khách hàng. NHTM thực hiện chiết khấu GTCG cho mọi khách hàng và
đối tượng chiếu khấu là các GTCG bao gồm tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ

tiền gửi. sổ tiết kiệm, thương phiếu, bộ chứng từ hàng xuất, các trái phiếu, các
GTCG khác trị giá bằng tiền.
Cho vay trên bộ chứng từ hàng xuất: là hình thức các NHTM cho vay
căn cứ vào bộ chứng từ hàng xuất của khách hàng được gửi đi thanh toán theo
phương thức thư tín dụng hoặc nhờ thu. Hình thức cho vay này cho phép nhà
xuất khẩu nhận trước được phần lớn khoản tiền sẽ thu từ ngân hàng trả tiền
hoặc người nhập khẩu nước ngoài sau khi gửi bộ chứng từ đi đòi tiền.
Bao thanh toán: là hình thức cấp tín dụng của các NHTM cho bên bán
hàng thông qua việc mua lại các khoản thu phát sinh từ việc mua, bán hành
hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp đồng mua,
bán hàng. Trong bao thanh toán, đơn vị bao thanh toán đúng ra thanh toán


17
ngay cho bên bán hàng một phần tiền về hàng hóa đã bán cho bên mua và sau
đó sẽ đòi lại ở bên mua.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: là hình thức cho vay theo đó các
NHTM chấp thuận cho khách hàng chi vượt số dư có trên tài khoản tới một
hạn mức nhất định trong thời hạn quy định. Đây là một hình thức cho vay ứng
trước đặc biệt, tiền vay được khách hàng rú trực tiếp từ tài khoản tiền gửi. các
khoản tiền khách hàng rút trên tài khoản khách hàng xuất hiện dư nợ, khoảng
tiền đó mới là tiền vay. Lãi tiền vay phải trả được tính theo số dư nợ thực tế
trên tài khoản và khách hàng có thể hoàn trả số tiền vay vào bất kỳ thời điểm
nào bằng việc gửi tiền vào tài khoản.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Là việc NHTM cam kết
đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng
nhất định trong một thời hạn nhất định. Khách hàng phải trả phí cam kết cho
ngân hàng trên cơ sở hạn mức tín dụng được sử dụng.
+ Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:
NHTM chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi

hạn mức tín dụng của thẻ để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền
mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của các NHTM.
+ Cho vay kinh doanh chứng khoán: Là hình thức cho vay theo đó các
NHTM cung cấp cho khách hàng có ý định mua bán chứng khoán nhưng
không đủ tiền. NHTM có thể cho khách hàng vay tiền hoặc vay chứng khoán.
- Cho vay tiêu dùng: là hình thức cho vay của các NHTM nhằm mục
đích tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của các hộ gia đình và cá nhân.
+ Cho vay cầm đồ: là hình thức NHTM cho khách hàng vay tiền và giữ
tài sản của khách hàng để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ của khách hàng
trong hợp đồng cầm đồ. Thông thường tài sản cầm đồ là động sản, có giá trị
mua bán trao đổi và phải thuộc sở hữu hợp pháp của người vay hoặc nếu


18
không phải có giấy uỷ quyền hợp pháp của những người sở hữu cho khách
hàng mang đi cầm đồ, uỷ quyền cho ngân hàng xử lý tài sản khi khách hàng
vi phạm hợp đồng.
+ Cho vay đảm bảo bằng lương hay thu nhập: là hình thức NHTM cho
khách hàng vay tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu trên cơ sở thế chấp bằng
lương. Sản phẩm này chủ yếu được áp dụng đối với khách hàng có việc làm
ổn định, thu nhập ngoài việc đủ trang trải các chi tiêu thường xuyên còn đủ
tích luỹ để trả nợ vay.
+ Cho vay có đảm bảo bằng tài sản hình thành từ tiền vay: sản phẩm này
được các NHTM áp dụng chủ yếu đối với các tài sản có giá trị lớn, thời gian
sử dụng dài như cho vay sửa chữa, mua nhà, mua quyền sử dụng đất, cho vay
mua sắm phương tiện đi lại....
b. Cho vay trung và dài hạn: Là hình thức NHTM cấp tín dụng cho
khách hàng có thời hạn trên một năm (trên 12 tháng).
Do đây là hình thức cho vay với thời hạn dài, độ rủi ro cao nên ngoài
việc quy định khách hàng phải có vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình sản

xuất, kinh doanh và đời sống. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tham gia tuỳ thuộc vào
tính chất của từng dự án, mức độ rủi ro và hiệu quả của dự án.
Thời hạn trả nợ vốn vay phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của dự án đầu
tư nhưng thời hạn trả nợ cũng có thể rút ngắn trong trường hợp hiệu quả của
dự án mang lại cao. Các khoản cho vay trung dài hạn được dùng chủ yếu cho
nhu cầu mua sắm tài sản cố định và tài sản lưu động thường xuyên nên nguồn
trả nợ của các khoản vay này là từ nguồn khấu hao và một phần lợi nhuận do
dự án đầu tư mang lại.
Các NHTM có thể giải ngân một lần hoặc nhiều lần nhằm đảm bảo cho
khách hàng sử dụng tiền vay đúng mục đích. NHTM không cho khách hàng
rút vốn khi các nhu cầu chi tiêu liên quan đến dự án chưa phát sinh.


19
Lãi suất cho vay thường cao, có thể cố định trong suốt thời kỳ vay vốn
hoặc có thể biến đổi tuỳ thuộc vào sự biến động của thị trường.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Là hình thức NHTM cấp tín dụng trung
dài hạn cho khách hàng trên cơ sở bộ hồ sơ vay vốn bao gồm dự án đầu tư.
Dự án đầu tư gồm các nội dung chính như giới thiệu chung về khách hàng vay
mặt tài chính của dự án; phân tích các yếu tố kinh tế xã hội của dự án - là căn
cứ quan trọng để NHTM xem xét và quyết định có cho khách hàng vay vốn
hay không. Thông qua việc thẩm định dự án đầu tư, NHTM đánh giá chính
xác về tính khả thi, tính hiệu quả và khả năng hoàn trả nợ của dự án đầu tư;
xác định số tiền cho vay tối đa, thời hạn cho vay, vấn đề bảo đảm tiền vay tạo
điều kiện thuận lợi cho khách hàng hoạt động hiệu quả.
- Cho thuê tài chính: là một sản phẩm tín dụng trung dài hạn của
NHTM thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và
các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa NHTM (bên cho thuê)
với khách hàng thuê. NHTM cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của khách hàng thuê và nắm quyền

sở hữu đối với tài sản cho thuê. Khách hàng thuê sử dụng tài sản thuê và
thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê được hai bên thoả thuận.
- Cho vay tiêu dung: Các NHTM cung cấp sản phẩm này nhằm giúp
cho khách hàng có nguồn tài chính để trang trải các nhu cầu về nhà ở, đồ
dùng cho gia đình và phương tiện đi lại,...Theo các thức hoàn trả, cho vay tiêu
dùng gồm cho vay tiêu dùng trả một lần, cho vay trả góp, cho vay tiêu dùng
tuần hoàn.
- Cho vay hợp vốn: là hình thức cho vay trong đó có từ 2 hay nhiều
NHTM tham gia vào một dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh
của khách hàng vay vốn.


20
1.1.3.3. Sản phẩm dịch vụ phi tín dụng
a. Sản phẩm dịch vụ bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng là một sản phẩm dịch vụ hiện đại của các NHTM.
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết của NHTM (bên bảo lãnh) với bên có quyền
(bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng
(bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và
hoàn trả cho NHTM số tiền đã được trả thay và phí bảo lãnh.
Sản phẩm dịch vụ bảo lãnh của NHTM được sử dụng ngày càng rộng rãi
trong giao dịch quốc tế giữa các nước và quan hệ thương mại giữa các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế trong thị trường nội địa. Dịch vụ bảo lãnh là điều
kiện cần thiết để khách hàng (bên được bảo lãnh) được mua hàng hóa, dịch vụ
trả chậm nhằm giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng. Căn cứ vào mục đích bảo lãnh, các NHTM cung cấp dịch vụ bảo lãnh
dưới nhiều hình thức khác nhau:
- Bảo lãnh vay vốn: là bảo lãnh do NHTM phát hành cho bên nhận bảo
lãnh về việc cam kết trả nợ và thay cho khách hàng trong trường hợp khách

hàng không trả nợ hoặc không trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
- Bảo lãnh thanh toán: là bảo lãnh do NHTM phát hành cho bên nhận
bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến
hạn.
- Bảo lãnh dự thầu: là bảo lãnh do NHTM phát hành cho bên mời thầu
để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách
hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ
tiền phạt cho bên mời thầu thì NHTM thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.


21
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là bảo lãnh NHTM phát hành cho bên
nhận bảo lãnh đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng
với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trường hợp khách hàng
không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, NHTM thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết,
- Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm: là bảo lãnh do NHTM phát
hành cho bên nhận bảo lãnh đảm bảo khách hàng thực hiện đúng các thoả
thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo
lãnh. Trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả
thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà
không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, NHTM thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
- Các sản phẩm dịch vụ bảo lãnh khác:
+ Bảo lãnh đối ứng: là bảo lãnh do một NHTm (bên phát hành bảo lãnh
đối ứng) phát hành cho một NHTM khác (bên bảo lãnh) về việc đề nghị bên
bảo lãnh thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát
hành bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi
phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa

vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh.
+ Xác nhận bảo lãnh: là bảo lãnh do NHTM (bên xác nhận bảo lãnh)
phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh của NHTM được xác nhận bảo lãnh (bên được xác nhận bảo lãnh)
đối với khách hàng. Trường hợp bên được xác nhận bảo lãnh không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình đã cam kết với bên nhận bảo
lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được xác
nhận bảo lãnh.


22
+ Đồng bào lãnh: là việc NHTM cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ của
khách hàng thông qua một NHTM làm đầu mối.
b. Sản phẩm dịch vụ thanh toán và chuyển tiền.
Nếu như mọi khoản thanh toán của các tổ chức và cá nhân trong xã hội
được thực hiện ngoài ngân hàng thì chi phí sẽ rất lớn, bao gồm các chi phí do
phát hành tiền mặt của ngân hàng như in, đúc, bảo quản, vận chuyển
tiền....Với sự ra đời và phát triển của NHTM, đại bộ phận chi trả về hàng hóa
và dịch vụ của các tổ chức thậm chí một bộ phận các khoản chi trả của cá
nhân được chuyển giao cho NHTM thực hiện. Điều này có ý nghĩa rất lớn
trong việc thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế, tiết kiệm
chi phí lưu thông, đồng thời tạo điều kiện hỗ trợ cho các sản phẩm dịch vụ
tiền gửi và tín dụng của NHTM. Các NHTM thực hiện cung cấp sản phẩm
dịch vụ thanh toán trên cơ sở nắm giữ các tài khoản thanh toán của các tổ
chức, cá nhân và có mối liên hệ thanh toán liên ngân hàng với nhau qua các
kênh thanh toán được thiết lập dành riêng cho hoạt động ngân hàng.
- Thanh toán và chuyển tiền trong nước
Thanh toán trong nước là một sản phẩm dịch vụ mà NHTM thực hiện
theo lệnh của khách hàng, chuyển tiền cho một người thụ hưởng nhất định,
hay NHTM trích một khoản tiền từ tài khoản theo lệnh của khách hàng, để ghi

có cho tài khoản của người khác và NHTM thu được một khoản phí nhất
định.
Để thực hiện yêu cầu thanh toán của khách hàng, NHTM sử dụng các
phương thức thanh toán giữa các ngân hàng như thanh toán bù trừ giữa các
ngân hàng; thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước; thanh
toán thu hộ, chi hộ giữa các ngân hàng; thanh toán điện tử liên ngân hàng;
thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại các NHTM khác....với các công cụ thanh
toán chủ yếu:


23
+ Thanh toán séc: Séc là phương tiện thanh toán do người ký phát lập
dưới hình thức chứng từ theo mẫu in sẵn, lệnh cho NHTM (người thực hiện
thanh toán) trả không điều kiện một số tiền nhất đinh cho người thụ hưởng có
tên trên séc hay cho chính người cầm tờ séc. Séc được dùng để thanh toán tiền
hàng, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ....hoặc để rút tiền mặt tại các NHTM với nhiều
loại: séc ký danh, séc vô danh, séc tiền mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi,
séc du lịch....
+ Thanh toán bằng lệnh chi hoặc uỷ nhiệm chi: Lệnh chi hoặc uỷ nhiệm
chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản yêu cầu NHTM phục vụ mình trích một
số tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên
lệnh chi hoặc uỷ nhiệm chi.Lệnh chi hoặc uỷ nhiệm chi được áp dụng trong
thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ hoặc chuyển tiền của người
sử dụng dịch vụ thanh toán tại một chi nhánh NHTM hoặc giữa các chi nhánh
NHTM cùng một hoặc khác hệ thống trong phạm vi cả nước.
+ Thanh toán bằng nhờ thu hoặc uỷ nhiệm thu: Uỷ nhiệm thu là giấy uỷ
nhiệm do người thụ hưởng lập nhờ NHTM thu hộ tiền trên cơ sở khối lượng
hàng hóa đã giao, dịch vụ đã cung ứng. Uỷ nhiệm thu được sử dụng để thanh
toán hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể mở tài khoản tại cùng một NHTM
hoặc các chi nhánh NHTM cùng hệ thống hoặc khác hệ thống trên cơ sở có

thoả thuận bằng hợp đồng về điều kiện thu hộ giữa bên trả tiền và bên thụ
hưởng.
+ Thanh toán bằng thẻ ngân hàng: Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán
do NHTM phát hành và bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng sử dụng
để trả tiền hàng hóa, dịch vụ, các khoản thanh toán khác hoặc rút tiền mặt tại
các máy rút tiền tự động. Để được sử dụng thẻ ngân hàng, khách hàng phải
thực hiện thủ tục đăng ký sử dụng thẻ và đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo


24
quy định của NHTM phát hành thẻ. Các NHTM ngày nay đang phát hành và
thực hiện thanh toán các loại thẻ:
Thẻ ghi nợ: Là loại thẻ gắn liền với tài khoản tiền gửi thanh toán hay tài
khoản séc của khách hàng. Khách hàng có thể sử dụng thẻ để thanh toán, chi
trả tiền mua hàng hóa, dịch vụ ở bất kỳ điểm bán hàng nào có đặt máy đọc thẻ
của NHTM, không phải trực tiếp đến NHTM hoặc chi nhánh của nó. Khi
khách hàng sử dụng loại thẻ này để thanh toán thì giá trị giao dịch được khấu
trừ ngay vào tài khoản của khách hàng đồng thời ghi có ngay vào tài khoản
của người thụ hưởng thông qua mạng máy tính điện tử tự động.
Thẻ tín dụng: Là loại thể được sử dụng phổ biến, NHTM cho phép chủ
thẻ không cần có số dư trên tài khoản và được sử dụng một hạn mức nhất
định. Thẻ tín dụng được dùng để mua hàng hóa và các dịch vụ trả tiền sau.
Việc thanh toán hàng hóa, dịch vụ được thực hiện tại những nơi có máy đọc
thẻ và tại các điểm bán lẻ có các ký hiệu của loại thẻ tín dụng mà chúng chấp
nhận. Các NHTM cấp thẻ tín dụng cho các khách hàng có quan hệ thường
xuyên, có tình hình tài chính tốt, luôn đảm bảo khả năng thanh toán.
Thẻ rút tiền mặt: Với chức năng chuyên biệt để rút tiền mặt dùng thẻ
phải ký quỹ một số tiền bằng số tiền trên thẻ. Hiện nay thẻ rút tiền mặt dùng
để rút tiền tại các máy ATM và chủ thẻ có thể thực hiện các giao dịch thanh
toán các chi phí điện, nước, điện thoại...

+ Các dịch vụ thanh toán hiện đại khác:
Dịch vụ ngân hàng trực tiếp: Các NHTM đã ứng dụng công nghệ tin học
trong việc thực hiện cung cấp các dịch vụ thanh toán ngân hàng trực tuyết như
thanh toán cước phí điện thoại, phí bảo hiểm, phí Internet, tiền điện, tiền nước
hoặc chuyển tiền điện tử. Dịch vụ ngân hàng trực tiếp được tiến hành nhờ
kênh nối trực tiếp giữa hệ thống phần mềm thanh toán của các NHTM với hệ
thống của các nhà cung cấp dịch vụ.


25
Dịch vụ trả lương tự động:Các NHTM cung cấp dịch vụ này gắn liền với
việc sử dụng tài khoản cá nhân của khách hàng tại ngân hàng và sử dụng công
cụ thanh toán hiện đại là thẻ thanh toán cùng với sự hỗ trợ của hệ thống máy
rút tiền tự động ATM.
Dịch vụ trả gốc và lãi vay tự động: Hiện nay ở một số NHTM đã áp
dụng phần mềm tự động tính toán và thu nợ gốc, lãi vay tự động đối với các
khoản vay của khách hàng. Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, NHTM và
khách hàng xác nhận kế hoạch trình tự trả nợ gốc và lãi trên cơ sở đã tính toán
nghĩa vụ trả nợ của người đi vay ở từng kỳ của thời kỳ trả nợ. Đến thời điểm
trả nợ thoả thuận, NHTM căn cứ kế hoạch trả nợ (gốc, lãi) ở kỳ đó tự động
trích tài khoản của khách hàng số tiền bằng nghĩa vụ trả nợ của người đi vay ở
kỳ đó để thu nợ, sau đó lập và gửi thông báo cho người đi vay biết.
Dịch vụ ngân hàng điện tử: Khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán
mở tại NHTM muốn sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử phải có thoả
thuận trước với NHTM về việc yêu cầu NHTM cung cấp dịch vụ ngân hàng
điện tử. NHTM sẽ cung cấp cho khách hàng qua mạng Internet hoặc mạng
điện thoại di động, trong đó khách hàng chỉ cần truy cập theo Menu do
NHTM hướng dẫn và khi các điều kiện đã thoả mãn thì các dịch vụ ngân hàng
mà khách hàng yêu cầu sẽ được thực hiện. NHTM cung cấp các dịch vụ ngân
hàng điện tử như Iternet Banking, Telephone Banking, Homebanking...với các

giao dịch về tiền tệ như thanh toán tiền điện, nước sinh hoạt, trả tiền cước phí
điện thoại, thông tin về tài khoản của khách hàng, tỷ giá, biểu phí, lãi suất, sao
kê tài khoản theo yêu cầu, các phát sinh nợ, có trong ngày....
- Thanh toán và chuyển tiền quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc chi trả các nghĩa vụ và yêu cầu về tiền tệ phát
sinh từ các quan hệ kinh tế, tài chính giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa
các doanh nghiệp, giữa các các nhân của các nước khác nhau để kết thúc một


×