Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

LV Thạc sỹ_ hoạt động xuất khẩu của tỉnh hà tây thời kỳ đổi mới 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.84 KB, 92 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................5
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................5
1.Tính cấp thiết của đề tài......................................................................5
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................5
3. Phương pháp nghiên cứu....................................................................6
4. Những đóng góp chủ yếu của luận văn.............................................6
5. Kết cấu, nội dung của luận văn..........................................................6
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XUẤT
KHẨU VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG
NƯỚC VỀ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU................................................7
1.1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu....................................7
1.1.1....................................Khái niệm xuất khẩu
7
.1.2 Các lý thuyết về xuất khẩu trong thương mại quốc tế...................8
1.1.3 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự
phát triển kinh tế............................................14
1.1.4. ..............................Các hình thức xuất khẩu
18
1.1.5...........Một số công cụ chủ yếu của chính sách
thương mại quốc tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu.....20
1.1.5.1 Chính sách tỷ giá:............................................................20
1.1.5.2 Chính sách thuế xuất nhập khẩu...................................22
1.1.5.3 Hạn ngạch (Quota) xuất khẩu.......................................24
1.1.5.4 Quản lý ngoại tệ..............................................................25
1.1.5.5 Những công cụ mang tính hỗ trợ...................................25
1.1.5.6 Một số công cụ khác........................................................26
1



1.2. Kinh nghiệm phát triển hoạt động xuất khẩu của một số địa
phương trong nước..............................................................................26
1.2.1.....................Kinh nghiệm của Thủ đô Hà Nội
26
1.2.2. Kinh nghiệm của TP. Hồ Chí Minh..............29
1.2.3. Kinh nghiệm phát triển xuất khẩu của TP. Hải
phòng............................................................32
1.2.4. Bài học kinh nghiệm về hoạt động xuất khẩu
tỉnh Hà Tây từ một số địa phương trong nước......34
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA
HÀ TÂY TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 – 2007)......................35
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hà..........35
Tây tác động đến hoạt động xuất khẩu...............................................35
2.1.1. Những lợi thế của Hà Tây trong công tác xuất
khẩu..............................................................35
2.1.2. Những khó khăn của Hà Tây trong công tác
xuất khẩu.......................................................37
2.2. Chủ trương, chính sách của Nhà nước và tỉnh Hà Tây về xuất
khẩu ...................................................................................................38
2.2.1.

Chủ trương của Nhà nước.....................38

2.2.2. Chủ trương, chính sách của tỉnh...............41
2.3. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Hà Tây..............................43
2.3.1. Hoạt động xuất khẩu của Hà Tây trong thời kỳ
đầu đổi mới (1986-1995)..................................43
2.3.2. Hoạt động xuất khẩu của Hà Tây trong thời
kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới (1996-2007).......44
2.4. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu của Hà Tây trong thời kỳ

đổi mới (1986- 2007)............................................................................54
2.4.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân54
2


2.4.1.1 Những thành tựu cơ bản................................................55
2.4.1.2. Những nguyên nhân của thành tựu..............................56
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt
động xuất khẩu của Hà Tây...............................56
2.4.2.1. Những hạn chế................................................................56
2.4.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế.................................58
2.5. Bài học kinh nghiệm về hoạt động xuất khẩu của Hà Tây..........60
CHƯƠNG III.

QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA TỈNH
HÀ TÂY THỜI KỲ 2006-2020.............................................................62
3.1. Những thời cơ và thách thức tác động đến hoạt động xuất khẩu
của tỉnh Hà Tây trong thời gian tới.....................................................62
3.1.1. ............................................Những thời cơ
62
3.1.2........................................Những thách thức
62
3.2. Quan điểm phát triển xuất khẩu của Hà Tây trong thời gian tới 63
3.2.1. Phát triển thương mại, trong đó có xuất khẩu
phải đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội nhằm đạt
mức tăng trưởng cao và phát triển ổn định, bền
vững..............................................................63
3.2.2. Ưu tiên cao cho xuất khẩu.......................63

3.2.3. Quan điểm về thị trường..........................64
3.2.4. Quan điểm mặt hàng...............................64
3.2.5. Đa dạng hoá các chủ thế tham gia hoạt động
xuất khẩu, hoàn thiện các thiết chế thị trường phục
vụ phát triển xuất khẩu....................................65
3.3. Định hướng phát triển xuất khẩu của Hà Tây đến năm 2020....65
3.4. Mục tiêu phát triển xuất khẩu của Hà Tây đến năm 2020..........66
3


3.5. Một số giải pháp phát triển xuất khẩu của Hà Tây.....................67
3.5.1. Tăng cường đầu tư phát triển sản xuất hàng
hoá, tạo nguồn hàng xuất khẩu.........................67
3.5.2. Chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu........72
3.5.3. Chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực

74

3.5.4. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài 76
3.5.5. Phát triển thị trường xuất khẩu................77
3.5.6. Phát triển các chủ thể tham gia hoạt động
xuất khẩu, thành lập các hiệp hội ngành nghề, hỗ
trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường mặt hàng
xuất khẩu.......................................................80
3.5.7. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách đẩy
mạnh xuất khẩu .............................................83
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.................................................................86


4


Bảng 2.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá thời kỳ 19982007........................................................................................44
Bảng 2.2. Sản phẩm và giá trị TTCN - Làng nghề xuất
khẩu từ năm 1998-2005.......................................................46
Bảng 2.3. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài..........................48

5


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ sau Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986),

nền kinh tế nước ta bước sang một bước ngoặt mới, có ý nghĩa lịch sử,
đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trải qua hơn 20 năm đổi mới và phát triển, tình hình kinh tế xã
hội ở nước ta đã có những chuyển biến rõ rệt, nhất là trong hoạt động
thương mại quốc tế, quan hệ buôn bán giữa Việt Nam và các nước trên
thế giới ngày càng được đẩy mạnh, kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng
nhanh. Tỉnh Hà Tây cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển chung
của cả nước.
Hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây trong thời gian qua đã đạt
được những thành tựu đáng kể, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết
công ăn việc làm và nâng cao đời sống cho nhân dân.

Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Hà Tây có qui mô còn
nhỏ so với nhiều tỉnh, thành trong cả nước và so với tiềm năng của địa
phương; cơ cấu hàng xuất khẩu của tỉnh chuyển dịch còn chậm; sức cạnh
tranh của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường vẫn còn yếu.
Để đánh giá toàn diện về hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây
trong thời kỳ đổi mới, đánh giá thuận lợi, khó khăn và đưa ra các giải
pháp chủ yếu để đấy mạnh xuất khẩu của tỉnh trong thời gian tới, luận
văn lấy vấn đề : “Hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây thời kỳ đổi
mới (1986 - nay): Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu.
2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là hoạt động xuất khẩu của tỉnh

Hà Tây trong thời kỳ đổi mới (từ 1986 - 2007).

6


Hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây đã trải qua nhiều thời kỳ
biến động với việc mở rộng và thu hẹp về địa giới cho nên việc đánh giá
một cách hệ thống, toàn diện và chính xác là việc làm không đơn giản.
Mặt khác, việc đổi mới chỉ thực sự đi vào cuộc sống từ sau năm 1990
nên luận văn sẽ tập trung chủ yếu phân tích trong khoảng thời gian từ
năm 1991 trở lại đến năm 2007. Và ở đây, luận văn chủ yếu đề cập đến
xuất khẩu hàng hoá hữu hình.
3.

Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện


chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử kết hợp với
phương pháp logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
thống kê và phương pháp so sánh để nghiên cứu.
4.

Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Hệ thống hoá một số lý thuyết về xuất khẩu
- Khảo sát thực trạng quá trình hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà

Tây trong thời kỳ đổi mới. Phân tích những ưu nhược điểm và các vấn
đề tồn tại gây cản trở cho việc mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả
hoạt động xuất khẩu của Hà Tây. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm
- Đề xuất một số quan điểm và các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu của Hà Tây trong thời gian tới
5. Kết cấu, nội dung của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương:
CHƯƠNG I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu và kinh
nghiệm của một số địa phương trong nước về đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu
CHƯƠNG II. Thực trạng xuất khẩu của Hà Tây trong thời kỳ đổi
mới kinh tế (từ 1986 - 2007).
CHƯƠNG III. Quan điểm và các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu của Hà Tây thời kỳ 2006-2020
7


CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XUẤT
KHẨU VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA
PHƯƠNG TRONG NƯỚC VỀ ĐẨY MẠNH XUẤT

KHẨU
1.1

Một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu

1.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, xuất khẩu là việc bán hàng hoá
hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài; gồm hai loại hình là xuất khẩu
hàng hoá (còn gọi là xuất khẩu hàng hoá hữu hình) và xuất khẩu dịch vụ
(còn gọi là xuất khẩu hàng hoá vô hình).
Theo Điều 2 Nghị định 57/1998 NĐ-CP ngày 31/7/1998 của
Chính phủ, “hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động bán hàng hoá
của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp
đồng mua bán hàng hoá bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và
chuyển khẩu hàng hoá”.
-

Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó

hàng hoá và dịch vụ được bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Xét
dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức
cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc
tế, nhằm sử dụng khả năng vượt trội (hoặc những lợi thế) của doanh
nghiệp; giảm chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng
sản xuất; nâng cao được lợi nhuận và giảm rủi ro nhờ tối thiểu hoá sự
dao động của nhu cầu.
-

Xuất khẩu là một hoạt động thương mại quốc tế, một hoạt động


kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi
buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ buôn bán phức tạp
có tổ chức bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản
8


xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu, kinh tế ổn định và từng
bước nâng cao đời sống của nhân dân.
-

Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại những hiệu quả to

lớn nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với hệ thống kinh tế
khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không
dễ dàng khống chế được.
Như vậy, với khái niệm như trên xuất khẩu là một hoạt động kinh
doanh nhưng phạm vi kinh doanh vượt khỏi biên giới quốc gia hay nói
cách khác đó là hoạt động buôn bán với nước ngoài. Thông qua hoạt
động xuất khẩu, quốc gia có thể thu được những lợi ích to lớn cho nền
kinh tế trong nước.
.1.2

Các lý thuyết về xuất khẩu trong thương mại quốc tế
Một trong những tiền đề xuất hiện sự trao đổi hàng hoá là do sự

phân công lao động xã hội cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cho
nên thương mại quốc tế ngày càng phát triển thì sự phụ thuộc lẫn nhau
về kinh tế giữa các nhà sản xuất riêng biệt của mỗi quốc gia ngày càng
gia tăng. Điều đó được qui định bởi sự đa dạng về điều kiện sản xuất và
tiêu dùng của các nước.

Hoạt động xuất khẩu là một trong hai nội dung cốt lõi và hết sức
quan trọng của thương mại quốc tế. Tuy cách thức tiếp cận và nhìn nhận
vai trò của ngoại thương có khác nhau, nhưng ngay từ rất sớm các nhà
kinh tế đã thừa nhận vai trò quan trọng của ngoại thương nói chung và
xuất khẩu nói riêng đối với sự phát triển kinh tế.
-

Quan điểm của trường phái trọng thương
Lý thuyết trọng thương là lý thuyết nền tảng cho các tư duy kinh tế.

Lý thuyết này cho rằng sự phồn vinh của một quốc gia được đo bằng
lượng tài sản mà quốc gia đó cất giữ, thường được tính bằng vàng. Các
nhà kinh tế ngoại thương mà tiêu biểu là Thomas Mun đã cho rằng "nội
thương là một hệ thống ống dẫn, ngoại thương là cái máy bơm, muốn
9


tăng của cải vật chất thì phải có ngoại thương nhập dẫn của cải qua nội
thương". Do đó, theo lý thuyết này, Chính phủ nên xuất khẩu nhiều hơn
nhập khẩu và nếu thành công họ sẽ nhận được giá trị thặng dư mậu dịch
tính theo vàng từ một nước hay nhiều nước bị thâm hụt. Sự phát triển
của sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chứng minh sự sai lầm phiến diện trong
việc tuyệt đối hoá vai trò của ngoại thương của trường phái này. Chủ
nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản trong giai đoạn
phương thức sản xuất phong kiến tan rã và chủ nghĩa tư bản mới ra đời.
Đây là giai đoạn chủ nghĩa tư bản đang trong thời kỳ tích luỹ nguyên
thuỷ tư bản, sẵn sàng dùng bạo lực để thực hiện cướp bóc tích luỹ. Ngoại
thương lúc đó là phương tiện để giai cấp tư sản thực hiện cách cướp bóc
ở thuộc địa thông qua việc trao đổi không ngang giá. Để tăng cường xuất
khẩu, các cường quốc thực dân không chỉ giữ độc quyền các quan hệ

thương mại mà còn ngăn cản các nước thuộc địa sản xuất. Do đó mà các
nước thuộc địa phải xuất khẩu nguyên liệu thô, kém giá trị hơn và nhập
khẩu các sản phẩm có giá trị cao hơn. Chính vì những hạn chế đó, lý
thuyết trọng thương đã nhường chỗ cho các học thuyết nghiên cứu kinh
tế tư bản chủ nghĩa một cách toàn diện hơn. Tuy vậy, chủ nghĩa trọng
thương đã có những cống hiến nhất định về mặt lý luận khi chỉ ra vai trò
của hoạt động ngoại thương đối với sự phát triển kinh tế của các quốc
gia.
-

Lý thuyết của Adam Smith về lợi thế tuyệt đối
Ông cho rằng những quốc gia khác nhau có thể sản xuất ra những

loại hàng hoá khác nhau có hiệu quả hơn những thứ khác, mỗi quốc gia
nếu chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt
đối, nghĩa là cho phép họ sản xuất ra những sản phẩm với chi phí thấp
hơn các nước khác, gia tăng hiệu quả của họ do người lao động sẽ lành
nghề hơn vì công việc được lặp đi lặp lại nhiều lần, không phải mất thời
gian chuyển từ công việc sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác và
10


do làm một công việc lâu dài sẽ nảy sinh ra các sáng kiến, đề xuất các
phương pháp làm việc tốt hơn.
Theo quan điểm về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, một nước
chỉ sản xuất các loại hàng hoá sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên của
quốc gia đó. Đây là cách giải thích đơn giản nhất về nguyên nhân của
thương mại quốc tế. Rõ ràng, việc tiến hành trao đổi giữa các quốc gia
phải tạo ra lợi ích cho cả hai bên. Nếu một quốc gia nào có lợi thì quốc
gia khác bị thiệt hại thì họ sẽ từ chối tham gia vào thương mại quốc tế.

Giả sử thế giới chỉ có hai quốc gia và mỗi quốc gia chỉ sản xuất
hai loại hàng hoá A và B. Quốc gia thứ nhất có lợi thế tuyệt đối trong
việc sản xuất ra hàng hoá A, còn quốc gia thứ hai có lợi thế tuyệt đối
trong việc sản xuất ra hàng hoá B. Nếu mỗi quốc gia đều tiến hành
chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng có lợi thế tuyệt đối, sau đó tiến hành
trao đổi thì cả hai bên đều có lợi. Trong quá trình này, các nguồn lực
được sử dụng một cách có hiệu quả nhất, do đó tổng sản phẩm của cả hai
nước sẽ tăng lên. Sự tăng lên về số lượng là nhờ vào chuyên môn hoá và
sẽ được phân bổ giữa hai quốc gia theo tỷ lệ trao đổi ngoại thương.
Có thể minh hoạ về lợi thế tuyệt đối qua ví dụ sau:
Bảng 1.1. Lợi thế tuyệt đối

Gạo (kg/1giờ công)
Thịt bò (kg/1 giờ công)

Việt Nam
6
4

Đài Loan
1
5

Từ bảng 1 cho thấy, giả sử cứ 1 giờ lao động ở Việt nam thì sản
xuất được 6kg gạo hoặc 4kg thịt bò, trong khi đó cứ 1 giờ lao động thì
Đài Loan sản xuất được 1kg gạo hoặc 5kg thịt bò. Như vậy, Việt Nam có
lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất gạo, còn Đài Loan có lợi thế tuyệt
đối trong sản xuất thịt bò. Sau đó, 2 nước trao đổi một phần sản phẩm
cho nhau. Nếu tỷ lệ trao đổi là 6kg gạo của Việt Nam đổi lấy 6kg thịt bò
của Đài Loan thì Việt Nam sẽ lãi được 2 kg thịt bò và tiết kiệm được ½

11


giờ công lao động vì mỗi giờ Việt nam chỉ sản xuất được 4kg thịt bò.
Tương tự, nếu Đài Loan đổi 6 kg thịt bò lấy 6 kg gạo thì Đài Loan có lợi
được 24 kg thịt bò hoặc tiết kiệm được 5h công lao động. Như vậy, Đài
Loan sẽ có lợi nhiều hơn Việt nam và lợi ích đó sẽ thay đổi nếu thay đổi
tỷ lệ trao đổi. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là cả hai quốc gia đều có lợi.
Tỷ lệ trao đổi quốc tế sẽ là 6/4>tỷ lệ trao đổi quốc tế (gạo/thịt bò)>1/5.
Tuy vậy, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần nhỏ của
thương mại quốc tế là thương mại giữa các nước đang phát triển và các
nước phát triển. Không thể giải thích lý thuyết tuyệt đối khi phần lớn
thương mại quốc tế diễn ra giữa các nước phát triển với nhau.
-

Lý thuyết của David Ricardo về lợi thế tương đối
Trên cơ sở đưa ra mô hình kinh tế đơn giản, dựa trên 5 giả

thuyết: 1) Thế giới chỉ có hai quốc gia và chỉ sản xuất 2 mặt hàng, mỗi
quốc gia có một lợi thế về một mặt hàng. 2) Lao động là yếu tố sản xuất
duy nhất có thế di chuyển trong mỗi nước là cố định nhưng không thể di
chuyển giữa các nước. 3) Công nghệ sản xuất ở mỗi nước là cố định. 4)
Chi phí sản xuất cố định, không có chi phí vận chuyển. 5) Thương mại
hoàn toàn tự do giữa hai nước. David Ricardo đã đưa ra kết luận về sự
xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế là: Thứ nhất, mọi nước đều có
lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế. Khi tham gia vào
thương mại quốc tế, quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất
khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất hàng hoá đó ít bất lợi nhất (đó
là những hàng hoá có lợi thế tương đối) và nhập khẩu từ những nước
khác những hàng hoá mà sản xuất chúng bất lợi nhất (những hàng hoá

không có lợi thế tương đối). Thứ hai, những nước có lợi thế tuyệt đối
hoàn toàn hơn nước khác hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối hơn so với nước
khác trong việc sản xuất ra mọi sản phẩm thì vẫn có lợi thế khi tham gia
vào phân công lao động quốc tế. Ví dụ về lợi thế tương đối của David
Ricardo được minh hoạ ở bảng 2 như sau:
12


Bảng 1.2. Lợi thế tương đối

Việt Nam
Thép (kg/giờ công) 1
Vải (m/giờ công)
2

Đài Loan
6
4

Bảng trên cho thấy, Đài loan có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam
cả về hai loại hàng hoá. Nhưng khi năng suất lao động ở ngành thép của
Đài Loan gấp 6 lần của Việt Nam thì năng suất lao động của ngành dệt
chỉ gấp 2 lần. Như vậy, giữa hai hàng hoá thép và vải, Việt Nam có lợi
thế so sánh trong sản xuất vải. Theo qui luật của lợi thế so sánh, khi hai
quốc gia trao đổi một phần sản phẩm cho nhau, tỷ lệ trao đổi phải ở
khoảng giữa là 6/4>tỷ lệ trao đổi thép/vải>1/2.
Nếu tỷ lệ trao đổi gần với tỷ lệ trao đổi của Đài Loan thì Việt
nam càng có lợi và ngược lại. Tuy nhiên, lý thuyết của Ricardo chủ yếu
dựa vào lý luận giá trị lao động và cho rằng lao động là yếu tố đầu vào
duy nhất. Vì vậy, mô hình này chưa giải quyết được rõ ràng nguồn gốc

của thương mại quốc tế trong nền kinh tế hiện đại.
-

Lý thuyết của Eli Heckscher - Bertil Ohlin (H-O) về sự ưu đãi

của các yếu tố
Các lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế đều có chung một
hạn chế khi cho rằng thương mại quốc tế diễn ra trên cơ sở có sự chênh
lệch năng suất lao động giữa các quốc gia. Vào đầu thế kỷ 20, hai nhà
kinh tế học người Thuỵ Điển là Eli Heckscher và Bertil Ohlin đã nhận
thấy rằng chính mức độ sẵn có các yếu tố sản xuất ở các quốc gia khác
nhau và mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất để làm ra các mặt hàng khác
nhau mới là những nhân tố quan trọng quy định thương mại quốc tế. Lý
thuyết mà các ông xây dựng thường được gọi là lý thuyết HeckscherOhlin (viết tắt là lý thuyết H-O) hay lý thuyết tân cổ điển về thương mại
quốc tế.
13


Lý thuyết H-O được xây dựng dựa trên hai khái niệm cơ bản là
hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào các yếu tố. Một mặt hàng được
coi là sử dụng nhiều (một cách tương đối) lao động nếu tỷ lệ giữa lao
động và các yếu tố khác (như vốn, đất đai) sử dụng để sản xuất ra một
đơn vị hàng hoá đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng các yếu tố đó để sản xuất ra
một đơn vị mặt hàng thứ hai. Tương tự, nếu tỷ lệ giữa vốn và các yếu tố
khác là lớn hơn thì mặt hàng được coi là có hàm lượng vốn cao. Chẳng
hạn, nếu Lx, Ly là lượng lao động và Kx, Ky là lượng vốn cần thiết để
sản xuất ra hai mặt hàng X và Y, mặt hàng X được coi là có hàm lượng
lao động cao nếu:
Lx


Ly

Kx

Ky

Một quốc gia được coi là dồi dào tương đối về lao động (hay về
vốn) nếu tỷ lệ giữa lượng lao động (hay lượng vốn) và các yếu tố sản
xuất khác của quốc gia đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng của quốc gia khác.
LA

LB

KA

KB

Lý thuyết H-O được xây dựng dựa trên các giả thiết: i) thế giới chỉ
có hai quốc gia (A và B), 2 yếu tố sản xuất là lao động L và vốn K, 2 loại
hàng hoá (X và Y); ii) Cả hai quốc gia sử dụng cùng một công nghệ sản
xuất; iii) Hàng hoá X là loại sử dụng nhiều lao động và hàng hóa Y là
loại sử dụng nhiều vốn, không có sự hoán vị về hàm lượng các yếu tố
sản xuất tại bất kỳ mức giá cả của yếu tố tương quan nào; iv) Sản xuất
mỗi mặt hàng có hiệu suất không đổi theo quy mô, còn mỗi yếu tố sản
xuất thì có năng suất cận biên giảm dần; v) Có sự cạnh tranh hoàn hảo
trong thị trường hàng hoá và thị trường yếu tố sản xuất; vi) Chuyên môn
hoá sản xuất là không hoàn toàn; vii) Sở thích ở hai quốc gia là như
nhau; viii) Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc
14



gia, nhưng không thể di chuyển giữa các quốc gia; ix) thương mại quốc
tế là tự do, chi phí vận chuyển bằng 0.
Xuất phát từ các khái niệm và giả thiết trên thì nội dung của mô
hình H-O được phát biểu dưới dạng định lý như sau: Một quốc gia sẽ
xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một
cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào của quốc gia đó. Tức là, mỗi quốc
gia, chẳng hạn có nguồn nhân lực dồi dào, sẽ chuyển sản xuất và xuất
khẩu loại hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu các hàng hoá
sử dụng các yếu tố sản xuất mà trong nước khan hiếm. Kết quả là thương
mại quốc tế sẽ làm lợi nhuận tương đối cũng như tuyệt đối của cùng một
loại yếu tố sản xuất trở nên đồng đều nhau giữa các nước.
1.1.3 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển kinh
tế
Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt
động kinh tế đối ngoại, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, thể hiện ở những mặt sau:
- Xuất khẩu thúc đẩy phân công lao động và hợp tác đôi bên cùng
có lợi, tạo điều kiện mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của mỗi
quốc gia
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho
sản xuất và tăng nhanh khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Xuất khẩu
tiêu thụ một bộ phận lớn tổng sản phẩm xã hội ở thị trường nước ngoài
để thu ngoại tệ. Nó tạo điều kiện để nền kinh tế quốc dân có thể sản xuất
với quy mô lớn trên cơ sở chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế. Nhờ sản
xuất với quy mô lớn nên có thể tạo thuận lợi cho đầu tư, cho việc hiện
đại hoá kỹ thuật và công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, qua đó tăng năng
suất lao động và hạ giá thành sản phẩm.
Xuất khẩu tạo điều kiện khai thác triệt để lợi thế so sánh và các tiềm
năng kinh tế Việt Nam nói chung và Hà Tây nói riêng rất phong phú về

Tiềm năng thực tế được khai thác
=
Tổng tiềm năng đã được điều tra có khả năng

15


tiềm năng (các nguồn lực). Song điều đó chỉ mới là khả năng. Tính hiện
thực của nó lại được quyết định ở việc thực hiện hệ số khai thác tiềm
năng ngày một nâng cao.
Hệ số khác thác
tiềm năng

Hiệu suất sinh lợi kém nếu công nghệ khai thác, hình thức đối tác và bạn
hàng (nhất là bạn hàng nước ngoài) xác định không đúng và ngược lại
hiệu suất lợi nhuận cao nếu ta biết lựa chọn bạn hàng, đối tác khai thác
tiêu thụ các tiềm năng đem lại. Chính vì vậy, bằng cách đó, xuất khẩu
góp phần không nhỏ vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế và
hiệu suất tích luỹ có từ nội lực của tỉnh Hà Tây, một nhiệm vụ rất quan
trọng hiện nay.
- Xuất khẩu tạo nên nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như đầu
tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ ngoại
tệ, xuất khẩu sức lao động… Các nguồn từ đầu tư nước ngoài, vay nợ và
viện trợ… tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay
cách khác ở thời kỳ sau. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập
khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là xuất khẩu. Xuất
khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Thông qua việc lựa chọn bạn hàng, đối tác và các hình thức xuất

khẩu để thu ngoại tệ, tích luỹ vốn sẽ giúp Hà Tây nâng cao hiệu ích sử
dụng vốn, nhập khẩu các công nghệ mới từ bên ngoài, đồng thời phát
huy hiệu quả các nguồn lực từ bên trong và ngoại lực trong quá trình mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của tỉnh. Vai trò này ngày càng trở nên
16


quan trọng khi năng lực tích luỹ và huy động trong GDP của nền kinh tế
Việt Nam trong đó có Hà Tây còn hạn chế.
- Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển
Đẩy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản xuất, nhiều
ngành nghề mới ra đời gây phản ứng dây chuyền giúp các ngành khác
phát triển theo. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội
đầy đủ cho phát triển. Nó tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp
phần cho sản xuất phát triển và ổn định; tạo điều kiện mở rộng khả năng
cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Xuất khẩu còn tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và
nâng cao năng lực sản xuất trong nước; đòi hỏi các doanh nghiệp phải
luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh để
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới.
Thực tế vừa qua cho thấy, thắng lợi bước đầu của sự nghiệp đổi
mới sẽ chững lại hoặc tăng trưởng chậm nếu không tiếp tục đổi mới cơ
chế quản lý một cách đồng bộ, nếu không tập trung sức người sức của
vào đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Việc kết hợp hài hoà giữa chiến lược công nghiệp hoá thay thế hàng
nhập khẩu và chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu là một
quan điểm đúng đắn. Song quá trình này có thành công hay không thì
không thể thiếu vắng hoặc xem nhẹ vai trò của xuất khẩu.
- Xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết việc làm và cải

thiện đời sống nhân dân
Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt.
Trước hết, sản xuất xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm
việc và có thu nhập cao hơn. Xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu
vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một
phong phú nhu cầu tiêu dùng của người dân.
17


Tài nguyên và lực lượng lao động (nhất là lao động trí tuệ) là
nguồn lực rất quan trọng đòi hỏi phải được sử dụng hợp lý. Muốn khai
thác nguồn lực điều quan trọng là phải có điều kiện nhất định như: vốn,
khoa học-công nghệ cao, cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế hợp lý.
Các điều kiện đó không tách rời vai trò của hoạt động kinh tế đối ngoại
nói chung và xuất khẩu nói riêng. Ở đây cần nhấn mạnh các khía cạnh
sau:
+ Việc hình thành các khu công nghiệp, các khu chế xuất nằm
trong địa bàn tỉnh nhằm thu hút tiềm năng của Hà Tây và các tỉnh lân cận
tạo lực lượng hàng hoá được tinh chế và tái chế làm tăng nhanh kim
ngạch xuất khẩu. Từ đó, tăng công ăn việc làm cho người lao động.
+ Thông qua việc mở rộng và hiện đại hoá các ngành dịch vụ thu
ngoại tệ trên địa bàn – hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.
Bằng cách này, Hà Tây từng bước có nguồn thu ngoại tệ lớn, cho phép
tăng nhanh kim ngạch nhập khẩu vật tư, khoa học kỹ thuật và công nghệ
hiện đại mà Hà Tây rất cần nhưng vẫn còn thiếu. Mặt khác, làm tăng
thêm công ăn việc làm cho người lao động mà Hà Tây đang phải chịu
sức ép lớn cần phải giải toả.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế
đối ngoại
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại

phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có
thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại
khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất
khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng,
đầu tư và mở rộng vận tải quốc tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế
đối ngoại nêu trên tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu.
Xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và
khả năng hội nhập của quốc gia vào thị trường quốc tế. Do đó, đẩy mạnh
18


xuất khẩu luôn là chiến lược quan trọng của mỗi quốc gia. Đối với tỉnh
Hà Tây, hoạt động xuất khẩu đang ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng
trong sự phát triển kinh tế xã hội, có đóng góp nhất định vào sự nghiệp
công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh
về qui mô và tốc độ đã góp phần tăng trưởng GDP của tỉnh.
1.1.4. Các hình thức xuất khẩu
-

Xuất khẩu trực tiếp: xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các

hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc đặt mua từ
các doanh nghiệp sản xuất trong nước sau đó xuất khẩu những sản phẩm
này ra ngoài với danh nghĩa là hàng của mình. Hình thức này có ưu điểm
là lợi nhuận thu được của doanh nghiệp thường cao hơn các hình thức
khác. Với vai trò là người bán hàng trực tiếp doanh nghiệp có thể nâng
cao uy tín của mình thông qua quy cách và phẩm chất hàng hoá, tiếp cận
thị trường, nắm bắt nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. Tuy vậy, hình thức
này đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng trước lượng vốn lớn để sản xuất
hoặc thu mua hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp có thể gặp rủi ro như không

xuất được hàng, không thu mua được hàng, rủi ro do thay đổi tỷ giá hối
đoái…
-

Xuất khẩu gia công uỷ thác: theo hình thức này các doanh

nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra nhập nguyên vật liệu hoặc
bán thành phẩm cho các doanh nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành
phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Doanh nghiệp sẽ hưởng phí uỷ
thác theo thoả thuận với các bên doanh nghiệp trực tiếp chế biến. Hình
thức này có ưu điểm là không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu
được lợi nhuận, ít rủi ro, việc thanh toán được đảm bảo đầu ra chắc chắn.
Song nó cũng đòi hỏi nhiều thủ tục xuất và nhập khẩu. Do đó để thực
hiện tốt hình thức này các doanh nghiệp cần có cán bộ kinh doanh có
kinh nghiệm về nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Hình thức này là đơn vị sản
19


xuất phải tự tìm lấy nguồn nguyên liệu để sản xuất sản phẩm theo đúng
đơn đặt hàng.
-

Xuất khẩu uỷ thác: Trong hình thức này các doanh nghiệp kinh

doanh hàng xuất khẩu đứng ra đóng vai trò là trung gian xuất khẩu làm
thay cho các đơn vị sản xuất (bên có hàng) những thủ tục cần thiết để
xuất khẩu hàng và hưởng phần trăm theo giá trị hàng xuất khẩu đã được
thoả thuận. ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, ít trách
nhiệm, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm
cuối cùng. Đặc biệt không cần bỏ vốn để mua hàng, nhận tiền nhanh, ít

thủ tục và tương đối tin cậy
-

Buôn bán đối lưu: Đây là phương thức giao dịch mà xuất khẩu

kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua,
lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương nhau. Mục đích của hình thức
này không phải nhằm thu ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng có
giá trị tương đương giá trị của lô hàng đã xuất. Có nhiều loại hình thức
buôn bán đối lưu như: hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lưu,
chuyển giao nghĩa vụ, mua lại sản phẩm….
-

Xuất khẩu theo nghị định thư: Xuất khẩu theo nghị định thư là

xuất khẩu hàng hoá trả nợ được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính
phủ. Ưu điểm của hình thức này là được đảm bảo thanh toán (do Nhà
nước là người thanh toán cho doanh nghiệp).
-

Xuất khẩu tại chỗ: Đó là hình thức cung cấp hàng hoá và dịch vụ

cho ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế… Hoạt động xuất khẩu
tại chỗ có thể đạt hiệu quả cao do giảm chi phí đóng gói, chi phí bảo
quản, vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh.
-

Gia công quốc tế: là hình thức trong đó bên nhận gia công nhập

nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để chế biến ra

thành phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công. Ưu điểm của hình thức
20


này là giúp cho bên nhận gia công tạo công ăn việc làm cho người lao
động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất.
Đây là hình thức được áp dụng khá phổ biến ở các nước đang phát triển
có nguồn nhân công dồi dào. Đối với nước đặt gia công cũng có lợi khi
khai thác nguồn nhân công dồi dào với giá rẻ, nguồn nguyên liệu sẵn có
của các nước nhận gia công.
-

Tạm nhập tái xuất: là hình thức xuất khẩu đi những hàng hoá đã

nhập khẩu trước đây và chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Mục đích
của hình thức này là thu về lượng ngoại tệ lớn hơn số bỏ ra ban đầu.
Hàng hoá có thể đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất sang nước nhập
khẩu hoặc đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Sau đó nước
tái xuất sẽ thu tiền của nước nhập khẩu và trả tiền cho nước xuất khẩu.
1.1.5. Một số công cụ chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế
nhằm thúc đẩy xuất khẩu
1.1.5.1 Chính sách tỷ giá:
Trong cơ chế thị trường, giá cả hàng hoá và tỷ giá hối đoái là hai
mặt để xác định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền trong nước.
Tỷ giá hối đoái được gọi là một công cụ tác động tới thương mại quốc tế,
trước hết là tác động đến xuất nhập khẩu, trong hai trường hợp nâng
hoặc giảm đồng nội tệ
- Nâng giá đồng nội tệ:
Khi đồng nội tệ được nâng giá tức là cần ít đồng nội tệ hơn để có
thể đổi được một đồng ngoại tệ dẫn đến nhập khẩu hàng hoá sẽ có lợi

hơn. Điều này giúp các nhà sản xuất trong nước có cơ hội nhập khẩu
nguyên vật liệu, thiết bị trung gian để sản xuất hàng hoá cuối cùng. Vì
vậy, các nước đang phát triển theo đuổi chính sách thay thế nhập khẩu để
giữ tỷ giá đồng nội tệ luôn luôn cao hơn cộng với hàng rào thuế quan đối
với sản phẩm sẽ tạo điều kiện để hàng hoá trong nước được tồn tại. Tuy
nhiên, hàng hoá trong nước sẽ mất khả năng cạnh tranh với hàng hóa
21


nước ngoài, giá bán cao dẫn đến xuất khẩu giảm sút. Vì vậy, việc nâng
giá đồng nội tệ sẽ dẫn đến hiện tượng giảm xuất khẩu.
- Hạ giá đồng nội tệ:
Những nước theo đuổi chính sách hướng về xuất khẩu thường
dùng chính sách hạ giá (phá giá) đồng nội tệ để thúc đẩy xuất khẩu. Khi
đồng tiền nội tệ giảm giá, giá cả hàng hoá xuất khẩu ra nước ngoài sẽ rẻ
tương đối so với hàng hoá cùng loại trên thế giới. Vì vậy, cầu về sản
phẩm xuất khẩu sẽ cao hơn, thúc đẩy các nhà sản xuất tăng cường xuất
khẩu, tăng quy mô sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh
tranh.
Việc giảm giá đồng nội tệ sẽ bất lợi cho việc nhập khẩu. Các nhà
sản xuất trong nước có cơ hội cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Từ đó cải
thiện cán cân thương mại.
Tuy nhiên tỷ giá hối đoái thấp không phải lúc nào cũng tăng
được xuất khẩu. Nguyên nhân:
+ Hoạt động xuất khẩu còn phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh
của sản phẩm về chất lượng, chủng loại hàng hoá, khả năng nắm bắt cơ
hội kinh doanh của các nhà xuất khẩu, thị hiếu thói quen tiêu dùng, môi
trường thương mại quốc tế, chính sách của các nước…
+ Tác động phá giá đồng nội tệ phụ thuộc vào điều kiện sản xuất
và thương mại của mỗi nước. Tác động tích cực của phá giá đồng tiền

nhiều khi bị vô hiệu hoá hoàn toàn, nhất là sản xuất trong nước phụ
thuộc quá nhiều vào các điều kiện sản xuất nhập khẩu.
+ Đôi khi sau một thời gian nhất định khi giảm đồng nội tệ, nước
nhập khẩu cũng thực hiện chính sách phá giá đồng tiền và khi đó xuất
khẩu sẽ không có cơ hội tăng trưởng.
Một số hạn chế khi phá giá đồng nội tệ:
+ Nguy cơ làm tăng tỷ lệ lạm phát
+ Hậu quả về tâm lý
22


Nhìn chung, trước năm 1989, đặc trưng của chính sách ngoại hối
của Việt Nam có đặc điểm sau:
+ Nhà nước độc quyền quản lý và không có thị trường ngoại tệ tự
do
-

Nhà nước quy định tỷ giá hối đoái theo nguyên tắc định giá của cơ

chế hành chính, bao cấp. Do đó, tỷ giá thường bị méo mó, không phán
ánh đúng sức mua của đồng VND so với USD hoặc đồng RUP. Mức
chênh lệch tỷ này thực chất làm xuất khẩu đi vào ngõ cụt, trong một thời
gian dài không khuyến khích được việc sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy
mạnh xuất khẩu, tạo cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng,
không kích thích được cán cân thương mại quốc tế phát triển theo hướng
tích cực.
Từ năm 1989, tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp đã bị xoá bỏ và đã
chuyển sang trạng thái thả nổi cho đến năm 1991. Từ 1992 đến nay, tỷ
giá hối đoái đã được hình thành theo phương pháp ổn định có điều chỉnh.
Việc chuyển từ chế độ tỷ giá theo mục tiêu sang chế độ tỷ giá sát với thị

trường hối đoái là một bước đi có tính chất mở đầu trong chính sách mở
cửa ở nước ta. Chế độ tỷ giá này đã mang lại những thành tựu đáng kể
trong việc đẩy mạnh xuất khẩu. Có thể nói, kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam tăng rất nhanh.
1.1.5.2 Chính sách thuế xuất nhập khẩu
Thuế quan là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu hoặc quá cảnh.
Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào mỗi đơn vị nhập khẩu theo đó
người mua trong nước phải trả cho những hàng hoá nhập khẩu một
khoản lớn hơn mức mà người xuất khẩu ngoại quốc thu được.
Thuế xuất khẩu là thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu.
Thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu đều tác động đến giá cả hàng
hóa có liên quan. Nhưng thuế xuất khẩu khác thuế nhập khẩu ở 2 điểm:
23


Một là, thuế xuất khẩu đánh vào hàng hoá xuất khẩu chứ không phải
đánh vào hàng hoá nhập khẩu, Hai là, thuế xuất khẩu làm cho giá cả
quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vượt quá xa giá cả trong nước, hay nói
cách khác nó hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hoá có
thể xuất khẩu so với giá quốc tế. Điều này sẽ làm cho sản lượng trong
nước của hàng hoá có thể xuất khẩu giảm đi và sản xuất trong nước sẽ
thay đổi bất lợi cho mặt hàng này. Vì vậy, các nước phát triển hiện nay
hầu như không áp dụng thuế xuất khẩu. Còn thuế nhập khẩu được áp
dụng phổ biến ở các nước đang phát triển, tuy rằng mức thuế khác nhau.
Đương nhiên kết quả kinh tế của thuế nhập khẩu và chính người tiêu
dùng trong nước phải trang trải gánh nặng giá nhập khẩu. Vì vậy việc
quy định thuế nhập khẩu là vấn đề quan tâm từ mọi phương diện.
Thuế xuất nhập khẩu tác động đến hoạt động xuất khẩu như sau:
+ Miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu ở một nước sản xuất nhỏ, khi

không có thuế: nếu chính phủ giảm thuế nhập khẩu giá cả trong nước sẽ
giảm xuống dẫn đến sản xuất trong nước giảm và khuyến khích xuất
khẩu.
+ Miễn hoặc giảm thuế xuất khẩu: Khi đánh thuế xuất khẩu, giá
cả trong nước thấp hơn giá cả quốc tế dẫn đến sản xuất trong nước giảm,
tiêu dùng trong nước tăng và xuất khẩu sẽ giảm xuống. Ngược lại, nếu
Chính phủ miễn hoặc giảm thuế xuất khẩu, sản xuất trong nước tăng lên
và khuyến khích xuất khẩu.
Ở Việt Nam, bên cạnh chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách thuế
xuất nhập khẩu có vai trò rất quan trọng trong điều hành hoạt động xuất
nhập khẩu. Thời gian qua, chính sách thuế nói chung và thuế xuất nhập
khẩu nói riêng đã được Chính phủ rất quan tâm. Hàng loạt những thay
đổi, những quy định mới đã được ban hành để hoàn thiện theo hướng mở
cửa, dần hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, thuế
xuất nhập khẩu nhìn chung còn cao chưa phù hợp với xu thế chung của
24


quá trình hội nhập đòi hỏi phải tích cực sửa đổi cho phù hợp với tình
hình mới.
1.1.5.3 Hạn ngạch (Quota) xuất khẩu
Hạn ngạch xuất khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc
giá trị của một mặt hàng hoặc nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu. Đây
là hình thức quan trọng nhằm hạn chế xuất khẩu hay nhập khẩu. Thường
hạn ngạch được ban hành cho các mặt hàng xuất khẩu và những mặt
hàng nhập khẩu mà có sự ký kết hiệp định giữa hai nước. Hạn ngạch
được áp dụng ở các nước là khác nhau, đối với từng thời gian, mặt hàng
khác nhau. Cũng như thuế quan, hạn ngạch xuất khẩu ít được sử dụng
hơn hạn ngạch nhập khẩu.
Trong thời kỳ đổi mới, chính sách hạn ngạch xuất nhập khẩu có

tầm quan trọng rất lớn trong việc ổn định tình hình sản xuất, tiêu dùng
trong nước , bảo vệ những ngành công nghiệp, sản xuất non trẻ của Việt
nam trước sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại. Ví dụ, sử dụng hạn
ngạch xuất khẩu gạo, hàng dệt may là do bắt buộc để đảm bảo tình hình
an ninh lương thực trong nước và cam kết Chính phủ Việt Nam với chính
phủ các nước.
Hạn ngạch nhập khẩu là chính sách để quản lý thị trường, thông
qua xác định nhu cầu thực tế về chủng loại, số lượng hàng hoá mà thị
trường cần, từ đó lên kế hoạch nhập khẩu. Tuy nhiên, khi Việt Nam tham
gia các tổ chức thương mại thế giới như WTO, APEC, AFTA thì đây là
trở ngại lớn. Nếu quản lý hạn ngạch xuất nhập khẩu không tốt sẽ xảy ra
nhiều cơn sốt hàng như “sốt nóng”, tức là thiếu hàng và “sốt lạnh” tức là
thừa hàng đối với một số mặt hàng, còn đối với hàng xuất khẩu thì các
doanh nghiệp tranh mua tranh bán, ép giá người sản xuất. Nếu quản lý
hạn ngạch không tốt sẽ xảy ra hiện tượng mua bán hạn ngạch, tiêu cực
trong cơ chế cấp hạn ngạch, thậm chí nhiều doanh nghiệp khi có hạn
ngạch thu mua hàng để xuất khẩu không có kế hoạch trước nên thu mua
25


×