Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Luận văn Thạc sĩ: Nghiên cứu đề xuất giải pháp cải thiện chính sách hỗ trợ tiền sử dụng sản phẩm dịch vụ công ích thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.16 KB, 52 trang )

 ’’’’’’’’’’’’’’’’’’

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC………………………………..

======

……………………….

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CẢI THIỆN 
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TIỀN SỬ DỤNG SẢN 
PHẨM DỊCH VỤ CÔNG ÍCH THỦY LỢI TRÊN ĐỊA 
BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ 


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng những số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận  
văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi cũng cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn 
này đã được cảm  ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã 
được chỉ rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn

…………………………



LỜI CẢM ƠN



Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm  ơn sâu sắc tới thầy /cô   ­  PGS.TS 
…………… ­ là người trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình để 
tôi   có   thể   hoàn  thành  Luận  văn   này.  Xin  chân  thành  cảm   ơn  Ban  Chủ 
nhiệm Khoa Sau đại học, tập thể  g iảng viên, cán bộ, nhân viên Khoa Sau 
đại học, cùng toàn thể bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực  
hiện đề tài.
Tôi cũng xin trân trọng cảm  ơn sự  giúp đỡ  nhiệt tình của lãnh đạo, 
cán bộ  ngành thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi 
thu thập số  liệu và những thông tin cần thiết liên quan. Cảm  ơn gia đình, 
các anh chị  đồng nghiệp, bạn bè đã động viên và giúp đỡ  tôi hoàn thành  
Luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả luận văn

                                                                            ………………….


DANH MỤC VIẾT TẮT
TL

         Thủy lợi

CTTL

         Công trình thủy lợi

CSHT


        Chinh sách hỗ trợ

SP

        Sản phẩm 

DVCI TL
SPDV

                 Dịch vụ công ích thủy lợi
       Sản phẩm dịch vụ


MỤC LỤC

 LỜI CAM ĐOAN                                                                                     
 
....................................................................................
   
 2
 LỜI CẢM ƠN                                                                                          
 
.........................................................................................
   
 3
 DANH MỤC VIẾT TẮT                                                                         
 
........................................................................
   
 4

 Chương 2                                                                                                
 
...............................................................................................
    
 49
  Đánh giá thực trạng triển khai chính sách hỗ  trợ  kinh phí sử 
dụng sản  phẩm, dịch vụ  công  ích thủy lợi trên  địa bàn 
 Tỉnh Thái Nguyên                                                                      
 
.....................................................................
    
 49
 Chương 3                                                                                                
 
...............................................................................................
    
 50
 Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ tiền sử dụng sản  
phẩm dịch vụ  công ích thủy lợi và hiệu quả  QLKT công 
 trình thủy lợi trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên.                      
 
.....................
    
 50
 KÊT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ                                                               
 
..............................................................
    
 50
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO                                             

 
............................................
    
 51


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ KHAI THÁC QUẢN LÝ HỆ THỐNG 
CÔNG TRÌNH THỦY LỢI VÀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TIỀN SỬ 
DỤNG SẢN PHẨM DỊCH VỤ CÔNG ÍCH THỦY LỢI
1.1 Một số khái niệm
 

1.1.1. Hệ thống công trình thủy lợi 
Thủy lợi được hiểu là những hoạt động liên quan đến ý thức con  

người trong quá trình khai thác, sử  dụng tài nguyên nước để  phục vụ  lợi 
ích của mình. Những biện pháp khai thác nước bao gồm khai thác nước 
mặt và nước ngầm thông qua hệ thống bơm hoặc cung cấp nước tự chảy.
Công trình thủy lợi là công trình thuộc kết cấu hạ tầng nhằm khai thác 
mặt lợi của nước; phòng, chống tác hại do nước gây ra, bảo vệ môi trường 
và  cân  bằng  sinh   thái,   bao  gồm:  hồ   chứa  nước,   đập,  cống,  trạm  bơm, 
giếng, đường ống dẫn nước, kênh, công trình trên kênh và bờ bao các loại.
Hệ  thống công trình thủy lợi bao gồm các công trình thủy lợi có liên 
quan trực tiếp với nhau về mặt khai thác và bảo vệ trong một khu vực nhất 
định.
1.1.2. Tổ chức quản lý khai thác công trình thủy lợi
Quản lý công trình thuỷ lợi là quá trình điều hành hệ thống công trình 
thuỷ  lợi theo một cơ  chế  phù hợp, bao gồm công tác kế  hoạch hoá, điều 
hành bộ  máy, quản lý vận hành, duy tu công trình, quản lý tài sản và tài  

chính.
Khai thác công trình thuỷ  lợi là quá trình sử  dụng công trình thuỷ  lợi 
vào phục vụ  điều hoà nước phục vụ  sản xuất nông nghiệp, dân sinh, xã 
hội


Quản lý và khai thác công trình thuỷ  lợi có quan hệ  mật thiết với 
nhau: quản lý tốt là điều kiện để khai thác tốt. Khai thác tốt góp phần hoàn 
thiện hơn nữa công tác quản lý công trình thuỷ lợi.
Một hệ thống công trình thuỷ lợi sau khi xây dựng xong cần thiết lập  
một hệ thống quản lý để  khai thác phục vụ  tốt cho sản xuất nông nghiệp 
và phục vụ cho sự phát triển dân sinh, kinh tế, xã hội. Hệ thống quản lý là 
tập hợp và phối hợp theo không gian và thời gian của tất cả  các yếu tố 
như: hệ thống công trình, trang thiết bị, con người và các yếu tố chính trị ­ 
xã hội… mục tiêu để phục vụ tốt ba nhiệm vụ đó là: (i) quản lý công trình, 
(ii) quản lý nước và (iii) quản lý sản xuất kinh doanh.
1.2. Tổng quan về quản lý khai thác và chính sách hỗ trợ tiền sử 
dụng dịch vụ công ích thủy lợi ở nước ta
1.2.1 Hiện trạng hệ thống thủy lợi tưới ở nước ta
Theo số  liệu thống kê đánh giá chưa đầy đủ, các công trình thủy lợi  
đang được khai thác gồm: 5.656 hồ chứa; 8.512 đập dâng; 5.194 trạm bơm 
điện, cống tưới tiêu các loại; 10.698 các công trình khác và trên 23.000 bờ 
bao ngăn lũ đầu vụ hè thu ở ĐBSCL, cùng với hàng vạn km kênh mương và 
công trình trên kênh.
Tuy các hệ  thống thủy lợi đã phát huy hiệu quả  phục vụ  dân sinh, 
kinh tế nhưng trong quá trình quản lý vẫn còn một số tồn tại:
­        Đầu tư  xây dựng không đồng bộ  từ  đầu mối đến kênh mương 
nội đồng
­        Năng lực phục vụ  của các hệ  thống đạt bình quân 60% so với  
năng lực thiết kế. Hiệu quả phục vụ chưa cao, chất lượng việc cấp thoát  

nước chưa chủ động và chưa đáp ứng được so với yêu cầu của sản xuất và 
đời sống.


­         Nhiều cơ  chế, chính sách quản lý khai thác hệ  thống thủy lợi  
còn bất cập, không đồng bộ, nhất là cơ  chế  chính sách về  tổ  chức quản 
lý,cơ chế tài chính.
­        Tổ chức quản lý các hệ thống chưa đồng bộ và cụ thể, đặc biệt 
quản lý các hệ thống thủy lợi nhỏ. Việc phân cấp tổ chức, quản lý ở nhiều 
địa phương còn chưa rõ ràng.
Để   ổn định và phát triển dân sinh kinh tế, trong những thập kỷ  qua  
công tác phát triển thuỷ  lợi đã được quan tâm đầu tư  ngày càng cao. Phát  
triển thuỷ  lợi đã nhằm mục tiêu bảo vệ, khai thác và sử  dụng tổng hợp  
nguồn nước nhằm bảo vệ dân sinh, sản xuất và đáp ứng nhu cầu nước cho 
phát triển tất cả các ngành kinh tế xã hội. Sự nghiệp phát triển thuỷ lợi đã 
đạt được những thành tựu to lớn,  góp phần vô cùng quan trọng cho sự phát 
triển của mọi ngành kinh tế  ­ xã hội trong thời gian qua và nhất là trong 
thời kỳ đổi mới của đất nước, đặc biệt là phát triển sản xuất lương thực. 
Về Tưới tiêu, cấp thoát nước : Đến nay cả nước có 75 hệ thống thủy  
lợi lớn, 800 hồ đập loại lớn và vừa, hơn 3.500 hố có dung tích trên 1 triệu  
m3 nước và đập cao trên  10 m, hơn 5.000 cống tưới­ tiêu lớn, trên 10.000 
trạm bơm lớn và vừa với tổng công suất bơm 24,8 triệu m3/h, hàng vạn  
công trình thủy lợi vừa và nhỏ. Các hệ  thống có tổng năng lực tưới trực  
tiếp cho 3,45 triệu ha, tạo nguồn cấp nước cho 1,13 triệu ha, tiêu cho 1,4  
triệu ha, ngăn mặn cho 0,87 triệu ha và cải tạo chua phèn cho 1,6 triệu ha   
đất canh tác nông nghiệp. Diện tích lúa, rau màu và cây công nghiệp ngắn 
ngày được tưới không ngừng tăng lên qua từng thời kì.
Cụ thể theo 7 vùng kinh tế như sau :
(i)Vùng Trung du và Miền núi Bắc bộ.
          Tưới tiêu, cấp nước: Hiện có 1.750 hồ chứa vừa và nhỏ, 40.190 

đập đâng, hàng trăm công trình thuỷ  điện, thuỷ  lợi, 379 trạm bơm điện,  


hàng vạn công trình tiểu thuỷ nông. Trong vùng có những công trình lớn lợi 
dụng tổng hợp điều tiết cấp nước, phát điện, chống lũ cho cả  vùng trung 
và hạ du là Hoà Bình, Thác Bà, Núi Cốc, Cấm Sơn. Diện tích tưới thiết kế 
263.067 ha, thực tưới được 206.037 ha và cấp nước sinh hoạt cho hơn 30 
vạn dân nông thôn, cấp nước cho các khu đô thị và công nghiệp ở các tỉnh.
          ­ Phòng chống thiên tai lũ lụt: Dọc các sông nhánh chính của hệ 
thống sông Hồng­Thái Bình đều đã có đê khép với các tuyến đê  ở  hạ  du, 
tạo thành hệ  thống đê hoàn chỉnh bảo vệ  cho cả  vùng trung du và đồng 
bằng sông Hồng, trong đó có 399 km đê sông, 194 cống dưới đê Trung  
ương quản lý và 120 km đê biển + cửa sông.
(ii)Vùng Đồng bằng sông Hồng
           ­ Tưới tiêu, cấp nước: Hiện có 55 hệ  thống thủy nông lớn và 
vừa gồm 500 cống, 1.700 trạm bơm điện chính và 35.000 trạm bơm nhỏ 
nội đồng, hơn 5 vạn kênh trục chính (cấp I, II, III), 35 hồ chứa (dung tích 
từ  0,5­230 triệu m3) và nhiều hồ chứa nhỏ có tổng diện tích tưới thiết kế 
khoảng 85.000 ha, kết hợp cấp nước sinh hoạt.
           ­ Phòng chống thiên tai lũ lụt: Đã hình thành một hệ  thống đê 
điều hoàn chỉnh gồm: 2.700 km đê sông, 1.118 cống dưới đê trung  ương 
quản lý, 310 km đê biển + cửa sông. Đê sông được thiết kế  chống lũ có 
mực nước tương  ứng +13,1m  ở  Hà Nội và +7,20 m tại Phả  Lại. Riêng  
đoạn đê hữu sông Hồng bảo vệ Hà Nội có mức nước thiết kế +13,4m.
(iii)Vùng Bắc Trung bộ
          ­ Tưới tiêu, cấp nước: Trong vùng đã xây dựng được 2 hệ thống 
thủy lợi lớn là Đô Lương và Bái Thượng, 20 hồ  chứa có dung tích trên 10  
triệu m3 và hàng nghìn công trình hồ, đập, trạm bơm vừa và nhỏ. Tổng 
diện tích tưới thiết kế  là 424.240 ha canh tác, thực tưới 235.600 ha lúa 



đông­xuân, 159.700 ha lúa hè­thu và 219.700 ha lúa mùa, cung cấp và tạo  
nguồn cấp cho dân sinh và các khu đô thị trong vùng.
          Các hệ thống tiêu được thiết kế với hệ số tiêu 4,2­5,6 l/s.ha, có  
diện tích tiêu thiết kế 163.200 ha (tiêu động lực 48.330 ha), thực tiêu được 
132.880 ha (tiêu động lực được 35.210 ha).
          ­ Phòng chống thiên tai lũ lụt:  Dọc các hệ thống sông Mã, sông 
Cả  và ven biển đã có đê chống lũ và ngăn sóng, triều. Riêng 3 tỉnh Thanh  
Hoá, Nghệ  An, Hà Tĩnh có 512 km đê sông, 259 cống dưới đê trung  ương 
quản lý và 784 km đê biển + cửa sông.  Đê sông Mã, sông Cả có thể chống 
lũ chính vụ lớn như lũ lịch sử (P » 2­2,5%) không bị tràn, đê các sông khác  
chỉ chống được lũ sớm, lũ tiểu mãn và lũ muộn (P » 10­20%) bảo vệ sản  
xuất vụ đông­xuân và hè­thu.
(iv)Vùng Duyên hải Nam Trung bộ
           ­ Tưới tiêu, cấp nước: Có 891 công trình thuỷ  lợi cấp nước,  
gồm 16 đập dâng, 32 hồ  chứa   154 trạm bơm, 683 công trình nhỏ. Tổng 
năng lực tưới thiết kế 181.930 ha, thực tưới được 106.440 ha.
          ­ Phòng tránh bão lũ: Các giải pháp phòng chống lũ chủ  yếu là 
bố  trí sản xuất tránh lũ chính vụ, mới có một số  hệ thống bờ  bao bảo vệ 
sản xuất vụ  hè­thu. Riêng đê biển  ở  tỉnh Quảng Nam và Thành phố  Đà 
Nẵng có chiều dài 214 km.
(v)Vùng Tây Nguyên
          ­ Tưới tiêu, cấp nước: Có 972 công trình thuỷ  lợi lớn nhỏ  tưới 
cho 34.224 ha lúa Đông xuân và 87.148 ha cây cà phê. Trong đó, ở tỉnh Kon 
Tum có 150 công trình, tưới cho 4.900 ha lúa đông­xuân, 5.000ha cà phê; 
tỉnh Gia Lai có 165 công trình, tưới cho 11.650 ha lúa đông xuân, 9.600 ha cà 
phê;  tỉnh  Đắc Lắc có  476 công  trình, tưới cho 9.864 ha  lúa  đông­xuân, 


46.878 ha cà phê; Lâm Đồng có 180 công trình, tưới 7.830 ha lúa đông xuân,  

31.870 ha cà phê.
          ­ Công trình chống lũ chưa được đầu tư  nhiều, mới có một vài 
tuyến đê nhỏ, bờ bao chống lũ sớm và lũ tiểu mãn ở một số vùng nhỏ.
(vi)Miền Đông Nam bộ
          ­ Tưới tiêu, cấp nước, thuỷ điện:  Đã xây dựng được nhiều công 
trình lớn lợi dụng tổng hợp như: Trị An trên sông Đồng Nai, Thác Mơ trên 
Sông Bé, Dầu Tiếng trên sông Sài Gòn, Hàm Thuận ­ Đa Mi (công suất 475 
MW, điện lượng 1550 Gwh/năm); đập Nha Trinh, Hồ  Sông Quao, hồ  Đá 
Bàn, Đa Tôn, Sông Mây…cùng các công trình có quy mô vừa khác có tổng 
công suất 1.188 MW, điện lượng trung bình 4,498 tỷ Kwh/năm. Công trình 
Dầu tiếng có diện tích tưới thiết kế khoảng 93.000 ha và chuyển sang sông 
Vàm Cỏ  khoảng 10 m3/s. Ngoài ra còn nhiều công trình vừa và nhỏ  khác 
tưới cho hàng chục ngàn hecta. Các hồ  chứa đã điều tiết tăng lưu lượng 
kiệt  ở  hạ  lưu, ranh giới mặn  được đẩy lùi về  hạ  lưu: sông Đồng Nai  
khoảng 18­20 km; sông Vàm Cỏ Đông 8­10 km.
          Nước ngầm được khai thác chủ yếu cấp cho sinh hoạt, một số 
nơi được khai thác để  tưới cho cây công nghiệp, chủ  yếu là cà phê. Tổng 
lượng nước ngầm khai thác  ước tính khoảng 750.000 m3/ngày, trong đó 
cấp cho sinh hoạt 700.000 m3/ngày (gồm các trạm bơm Hoóc Môn  ở  TP. 
Hồ Chí Minh 20.600 m3/ngày và Hòa An, Suối Vàng, Sông Dinh).
          ­ Phòng chống lũ:
          Hiện nay, công trình phòng chống lũ chủ  yếu là các hồ  chứa  ở 
thượng lưu tham gia chống lũ cho bản thân công trình và một phần giảm lũ 
cho hạ du. Ở hạ du chỉ có một vài tuyến đê nhỏ.
 (vii)Vùng Đồng bằng sông Cửu long


          ­ Tưới tiêu, cấp nước: Đã cải tạo và đào mới trên 4.430 km kênh 
trục và kênh cấp I  tạo  nguồn cách nhau khoảng 5 km/kênh (có chiều rộng 
từ 8­40 m, cao trình đáy từ ­2,0 ¸ ­4,0 m); trên 6.000 km kênh cấp II (khoảng 

1­2 km có 1 kênh), đưa nước ngọt tưới sâu vào nội đồng và tăng cường khả 
năng tiêu úng, xổ phèn cho đồng ruộng và 105 trạm bơm điện quy mô lớn 
và vừa, hàng vạn máy bơm nhỏ  để  tưới tiêu với năng lực tưới thiết kế 
81.620 ha (thực tưới được 23.380 ha).
           ­ Xây dựng khoảng 80 cống rộng từ  5 m trở  lên trong đó có  
nhiều cống rộng từ 10­30 m, hàng trăm cống có bề rộng 2­4 m và hàng vạn 
cống nhỏ để ngăn mặn, ngăn lũ, lợi dụng thuỷ triều tưới tiêu. Lớn nhất là 
cống đập Ba Lai có chiều rộng 84m.
          ­ Kiểm soát lũ:
          ­ Xây dựng khoảng 23.000 km bờ  bao chống lũ tháng 8 bảo vệ 
lúa hè­thu.
          ­ Đã xây dựng 450 km đê biển, 1.290 km đê sông để  ngăn mặn 
cho vùng ven biển.
          ­ Xây dựng hơn 200 km đê bao cho các khu rừng chàm tập trung  
để giữ nước mưa chống cháy rừng trong mùa khô.
1.2.2 Tổ  chức quản lý khai thác hệ  thống công trình thủy lợi  ở 
nước ta
Theo số liệu của Cục Thuỷ lợi, hiện nay cả nước có 93 Công ty quản 
lý khai thác công trình thuỷ lợi (trong đó có 3 công ty liên tỉnh trực thuộc Bộ 
NN&PTNT, còn lại là các Công ty trực thuộc UBND cấp tỉnh), một số tổ 
chức   sự   nghiệp   và   hàng   vạn   Tổ   chức   hợp   tác   dùng   nước   (TCHTDN).  
Trong những năm qua, tiếp tục thực hiện lộ  trình sắp xếp, đổi mới hoạt  
động của doanh nghiệp các địa phương tiếp tục đổi mới, kiện toàn các tổ 
chức quản lý khai thác công trình thuỷ  lợi và củng cố  tổ  chức hoạt động 


của các tổ  chức hợp tác dùng nước. Một số  tỉnh đã kiện toàn hệ  thống tổ 
chức quản lý nhà nước về  thuỷ  lợi như  Thừa Thiên Huế, Hà Giang, Bắc  
Cạn, Phú Yên đã thành lập các Chi cục Thuỷ lợi hoặc kiện toàn về tổ chức 
như Quảng Ngãi. Các địa phương khác chưa có Chi cục Thuỷ lợi cũng đang  

trong quá trình xây dựng Đề  án thành lập Chi cục Thuỷ  lợi. Các doanh 
nghiệp KTCTTL thường xuyên chịu tác động của các chủ  trương, chính 
sách mới, dẫn đến việc thường xuyên đưa vào diện được xem xét tách, 
nhập, tổ chức lại. Một số tỉnh đã thực hiện đổi mới, sắp xếp lại hệ thống  
doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi (KTCTTL) trong tỉnh như TP.Hà 
Nội sau khi sáp nhập còn 4 doanh nghiệp KTCTTL liên huyện: Sông Đáy, 
Sông   Tích,   Sông   Nhuệ   và   Quản   lý,   đầu   tư   thuỷ   lợi   Hà   Nội;   tỉnh   Hải  
Dương sát nhập các Công ty KTCTTL huyện thành Công ty KTCTTL tỉnh.  
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp việc tách, nhập là do ý chí chủ quan, tuỳ 
tiện thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn.
Việc thực hiện sắp xếp, đổi mới và chuyển đổi hình thức hoạt động 
của các doanh nghiệp KTCTTL theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 còn 
chưa thống nhất giữa các địa phương, còn lúng túng trong việc lựa chọn 
loại hình doanh nghiệp để  chuyển đổi cho phù hợp. Các tổ  chức quản lý  
khai thác công trình thuỷ lợi của Nhà nước đang tồn tại, về bản chất hoạt  
động cơ  bản là như  nhau, song được khoác nhiều tên gọi khác nhau như: 
Công ty KTCTTL, Trung tâm khai thác Thuỷ  lợi, Ban quản lý công trình 
thuỷ lợi, Công ty cổ phần... Sự khác biệt về tên gọi không có ý nghĩa nhiều 
về thực thi chủ trương đa dạng hoá quản lý công trình thuỷ lợi. Nhìn chung  
tiến độ đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp KTCTTL còn chậm. Theo 
báo cáo của Cục thuỷ lợi, đến nay hầu hết các doanh nghiệp, đơn vị quản  
lý KTCTTL chưa thực hiện đổi mới tổ  chức và giảm bớt được số  lượng  
công nhân quản lý thuỷ nông. 


Nhiều địa phương chưa thành lập các TCHTDN để  quản lý các công  
trình thuỷ lợi nhỏ  và công trình thuỷ lợi nội đồng ở  những hệ  thống công  
trình   thuỷ   lợi   vừa  và   lớn  (Bắc   Cạn,  Lai  Châu,   Hà  Giang,   Cà   Mâu,   Hà 
Tĩnh...). Ở một số địa phương, UBND xã hoặc thôn quản lý các công trình 
thuỷ  lợi nhỏ  và công trình thuỷ  lợi nội đồng trong địa    bàn xã, trong khi 

UBND xã và thôn không phải là các TCHTDN. Nhiều địa phương  ở  vùng  
Đông Nam Bộ  và Đồng bằng Sông Cửu Long các tổ  thuỷ  nông quản lý 
công trình thuỷ  lợi nội đồng trong địa bàn xã. Các tổ  thuỷ  nông này chưa  
phải là các tổ  chức hợp tác dùng nước hoàn chỉnh. Việc thực hiện Nghị 
định 115/2009/NĐ­CP của Chính phủ  về  miễn giảm thuỷ  lợi phí còn gặp 
nhiều vướng mắc  ở  các địa phương. Đối với phần kinh phí cấp cho các 
doanh nghiệp KTCTTL không có nhiều vướng mắc, tuy nhiên việc triển 
khai phân bổ  kinh phí cho các tổ  chức hợp tác dùng nước và các đơn vị 
quản lý KTCTTL không phải là doanh nghiệp còn gặp nhiều vướng mắc.

Thực tiễn phân cấp quản lý khai thác công trình thuỷ lợi
Đến nay nhiều tỉnh đã thực hiện phân cấp quản lý khai thác công trình  
thuỷ  lợi  cho các   địa phương hoặc cho các  tổ  chức  hợp tác dùng nước 
(TCHTDN). Theo kết qủa điều tra của đề  tài có 25 tỉnh đã ban hành quy  
định (kể  cả  quy định tạm thời) về  phân cấp quản lý khai thác công trình  
thuỷ lợi. Từ năm 1996, Tuyên Quang đã thực hiện chuyển giao toàn bộ các  
công trình thuỷ lợi trong tỉnh cho các TCHTDN. Năm 2007 tỉnh Thái Bình là  
tỉnh đầu tiên đã thực hiện Đề án phân cấp quản lý khai thác công trình thuỷ 
lợi và tổ chức thực hiện chuyển giao các trạm bơm nhỏ trong 1 xã cho các 
Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) trên quy mô toàn tỉnh. Kết quả  thực 
hiện đề  án phân cấp quản lý  ở  Thái Bình [4] là đã chuyển giao được 285 


trạm bơm nhỏ  quy mô tưới tiêu cho 1 xã cho các HTXNN. Kết quả  đánh  
giá ban đầu cho thấy sau khi được chuyển giao cho các HTXNN thì hiệu  
quả  tưới tiêu của các trạm bơm này đã được nâng cao, nhân dân rất phấn  
khởi, đồng tình với chủ trương phân cấp quản lý khai thác công trình thuỷ 
lợi của tỉnh.
Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định 115/2008/NĐ­CP quy định 
về miễn giảm thuỷ lợi phí, quy định miễn thuỷ lợi phí đối với trường hợp  

sử  dụng nước từ  công trình thuỷ  lợi được đầu tư  xây dựng bằng nguồn 
vốn ngân sách nhà nước và cả trường hợp công trình thuỷ lợi đầu tư bằng 
nguồn vốn không thuộc ngân sách nhà nước. Chính sách này quy định các 
tổ  chức được ngân sách cấp, sử  dụng kinh phí bù miễn thuỷ  lợi phí bao 
gồm cả các công ty KTCTTL, các tổ chức sự nghiệp và các TCHTDN. Đây 
là chính sách thuận lợi cho việc phân cấp quản lý khai thác công trình thuỷ 
lợi cho các TCHTDN. Khi thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ  lợi phí 
theo Nghị định 115/2009/NĐ­CP của Chính phủ, do được sử dụng kinh phí 
bù miễn thuỷ lợi phí nên một số địa phương đang có xu hướng chuyển giao 
ngược các công trình thuỷ  lợi nhỏ  cho Công ty KTCTTL. Tỉnh Vĩnh Phúc 
đang thực hiện thí điểm mô hình tổ  chức quản lý khai thác và điều hành 
một đầu mối theo phương thức: Thực hiện bàn giao toàn bộ các công trình 
thuỷ lợi trên địa bàn làm thí điểm (kể cả các công trình do các xã, HTXNN  
quản lý) cho các công ty KTCTTL quản lý phục vụ  tưới từ  đầu mối tới 
mặt ruộng [5]. Trước mắt, trong năm 2007 đã thực hiện thí điểm mô hình 
này cho các hệ  thống thuỷ  lợi của công ty KTCTTL Tam Đảo, Liễn Sơn, 
Lập Thạch và Mê Linh. Hiệu quả quản lý khai thác công trình thuỷ lợi của 
các mô hình thí điểm tổ chức quản lý khai thác và điều hành một đầu mối  
này cần được điều tra, đánh giá một cách khách quan để khẳng định sự phù  
hợp của mô hình.


Nhìn chung, các tỉnh đều có chủ  trương phân cấp công trình thuỷ  lợi 
nhỏ, phạm vi tưới cho 1 xã, mức độ quản lý đơn giản cho các tổ chức hợp 
tác dùng nước. Một số tỉnh đã đề ra các tiêu chí phân cấp quản lý theo quy 
mô công trình (diện tích tưới, công suất trạm bơm, dung tích hồ  chứa, 
chiều cao đập), ranh giới hành chính và mức độ phức tạp về quản lý công  
trình. Các loại tiêu chí phân cấp quản lý khai thác công trình thuỷ  lợi thực 
tế   ở  các địa phương điều tra được trình bầy tóm tắt  ở  Bảng 1 và định 
lượng một số tiêu chí phân cấp quản lý ở các tỉnh điển hình được trình bày 

ở Bảng 2.
Bảng 1. Các loại tiêu chí phân cấp quản lý khai thác công trình 
thuỷ lợi đượ áp dụng ở các tỉnh điều tra

T

Dung 

1
Hà Giang

x

 

 

 

 

x

2
 Sơn La

 

 


 

x

x

x

3
Tuyên Quang

 

 

 

 

x

x

4
Hoà Bình

x

 


x

 

 

 

5
x
 
Thái Nguyên
I
Vùng Đồng bằng sông Hồng

 

 

x

 

6

 

 

x


 

I

I

Ranh  Tính   chất 

Diện 

giới  phức   tạp 
kênh/loại 
tích tưới tích hồ cao đập
hành  của   công 
kênh
chính trình
Vùng miền núi phía Bắc

T
Vùng/tỉnh

 

 

Chiều 

Cấp 



Thái Bình

II

7
Nam Định

 

 

 

 

x

 

8
Ninh Bình

x

 

 

x


x

 

 

 

 

x

 

x

x

 

x

 

9
x
Hải Phòng
I
Vùng Bắc Trung Bộ

1

0
I
V
1
2
3

4
5

Hà Tĩnh

Vùng Nam Trung Bộ

1
Ninh Thuận

 

 

 

 

x

 


1
Quảng Nam

 

 

 

x

x

 

1
Quảng Ngãi

 

x

 

 

x

 


V
Vùng Tây Nguyên
1
Đắc Lắc
 

x

x

 

x

x

1
Kon Tum

x

x

 

x

 


 

 

 

 

x

x

x

 

 

x

x

 

V
I

7

Tầu

1
Tây Ninh
V

 

Vùng Đông Nam Bộ

1Bà   Rịa­Vũng 
6

 

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long


II
8
9
0
1

1
Tiền Giang

x

 

 


 

x

x

1
Đồng Tháp

 

 

 

x

x

x

2
An Giang

x

 

 


 

x

 

2
Bạc Liêu

 

 

 

x

x

x

  Ghi chú: x ­ áp dụng
Bảng 2. Định lượng các tiêu chí phân cấp quản lý theo quy mô
công trình thuỷ lợi ở các tỉnh điều tra
 
T
T
1


 
Tỉnh

Diện 
tích tưới
(ha)

Dung 

3

)

Chiều 

Cấp 
cao   đập 
(106 m
kênh/loại kênh
(m)

tích hồ

<30

 

 

 


<30

 

<12

 

   
3
Thái Nguyên

<50

 

 

 

4

Vĩnh Phúc

 

 

 


5

Hải Phòng

 

 

 

 

<1

<10

2

6

Hà Giang
Hoà Bình

Hà Tĩnh

Kênh cấp 
III
Kênh cấp 
III



7 Quảng Nam

 

 

 

8
Quảng Ngãi

 

<0.5

 

9

 

<0.5

<8

 

<1


<10

1

Đắc Lắc
Kon Tum

1

Tây Ninh

<50

 

 

1

An Giang

<100

 

 

Kênh loại 
III


Kênh cấp 
III, IV
Kênh cấp 
III

 
Hầu hết các tỉnh đều áp dụng tiêu chí ranh giới hành chính để  phân 
cấp công trình thuỷ  lợi. Các tỉnh đều có chủ  trương phân cấp công trình  
thuỷ  lợi nhỏ, phạm vi tưới, tiêu cho 1 xã cho các tổ  chức hợp tác dùng  
nước. Một số tỉnh đã đề ra các tiêu chí phân cấp quản lý theo quy mô công 
trình (diện tích tưới, công suất trạm bơm, dung tích hồ  chứa, chiều cao 
đập). Trong đó, tiêu chí phân cấp quản lý về diện tích tưới là khoảng 30 ­ 
50 ha, dung tích hồ chứa từ 0.5 ­ 1 triệu m 3 và chiều cao đập đất từ 8 ­10m. 
Một số tỉnh đã đưa vào tiêu chí về mức độ quản lý phức tạp của công trình  
như các tỉnh Đắc Lắc, Hà Giang, Tiền Giang, Ninh Thuận. Tiêu chí quy mô 
công trình thuỷ  lợi (lớn, vùa và nhỏ) được áp dụng  ở  các tỉnh như  Thái 
Bình, Ninh Thuận, tuy nhiên chưa xác định tiêu chí cụ  thể  phân loại các 
công trình thuỷ  lợi lớn, vừa và nhỏ. Một số  tỉnh đưa ra tiêu chí phân cấp 
kênh, như tỉnh Vĩnh Phúc, Hải Phòng, trong khi đó tiêu chí loại kênh được  
áp dụng ở tỉnh Quảng Nam. Trong đó, kênh loại 1 là kênh tưới liên huyện, 
kênh loại 2 là kênh tưới liên xã và kênh loại 3 là kênh tưới trong 1 xã. Theo 
tiêu chí phân loại kênh, tỉnh Quảng Nam đã phân cấp quản lý kênh loại III  
cho các HTXNN. Nhiều tỉnh đưa ra tiêu chí phân cấp kênh nội đồng cho các 


tổ chức thuỷ nông cơ sở. Tuy nhiên tiêu chí kênh nội đồng chưa được định  
lượng cụ thể.
Các tồn tại, vướng mắc khi thực hiện phân cấp quản lý khai thác công 
trình thuỷ lợi như sau:

­ Một số tỉnh chỉ có Công ty KTCTTL tỉnh, mà không thành lập các xí 
nghiệp khai thác thuỷ  lợi huyện (tỉnh Bạc Liêu, Hậu Giang), thực tế  cho  
thấy Công ty cũng chỉ quản lý được các công trình đầu mối, công trình xây 
đúc, còn toàn bộ  hệ  thống kênh mương, nhất là các tuyến kênh liên xã 
không quản lý được, nên hệ  thống này không có chủ  quản lý đích thực.  
Việc phân công trách nhiệm vận hành, duy tu bảo dưỡng hệ  thống công 
trình thuỷ lợi giữa các công ty KTCTTL và các TCHTDN không rõ ràng, là 
nguyên nhân chủ  yếu gây nên hiệu quả  quản lý thấp  ở  nhiều hệ  thống  
thuỷ lợi.
­ Một số tỉnh, đến nay chưa có Công ty KTCTTL cấp tỉnh, nhất là các 
tỉnh ở vùng miền núi phía Bắc và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều  
tỉnh miền núi đến nay chỉ thành lập các trạm thuỷ lợi cấp huyện, như tỉnh  
Lai Châu, Lào Cai….ở  tỉnh Đồng Tháp, do chưa có Công ty KTCTTL nên 
việc quản lý khai thác công trình thuỷ  lợi là do UBND tỉnh, huyện và các  
Tổ  chức hợp tác thực hiện. Tỉnh Long An chưa có Công ty KTCTTL cấp 
tỉnh mà chỉ  có các Trạm thuỷ  lợi huyện, do vậy nên gặp khó khăn trong  
việc quản lý khai thác các công trình, tuyến kênh tưới, tiêu liên huyện.  Ở 
một số tỉnh các cơ quan quản lý nhà nước về thuỷ lợi như Chi cục quản lý 
thuỷ  nông tỉnh Bà Rịa­Vũng Tầu và Chi cục thuỷ  lợi tỉnh Cần Thơ  thực  
hiện nhiệm vụ quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.
­ Do thiếu cơ  chế  hỗ  trợ kỹ  thuật, hỗ trợ  tài chính nên mặc dù thấy  
được hiệu quả song nhiều địa phương vẫn còn dè dặt trong phân giao quản 


lý các công trình thuỷ  lợi nhỏ, kỹ  thuật đơn giản cho các tổ  chức hợp tác 
dùng nước và cá nhân quản lý.
­ Một số  tỉnh không thực hiện phân cấp quản lý trực tiếp cho các tổ 
chức hợp tác dùng nước mà phân cấp cho các huyện. Nhưng một số huyện 
không thành lập được các trạm khai thác thuỷ lợi hoặc các tổ chức hợp tác  
dùng nước, nên huyện tạm thời cử cán bộ  của phòng kinh tế  huyện quản 

lý. Các phòng kinh tế huyện là các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước  
vừa kết hợp quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Hơn nữa, các cán bộ của 
huyện không đủ nhân lực để quản lý, vận hành các công trình thuỷ lợi, dẫn 
đến tình trạng thực chất là các công trình thuỷ lợi chưa có chủ quản lý đích 
thực, không đảm bảo tính hiệu quả và bền vững của công trình thuỷ lợi. Ví  
dụ   ở  tỉnh Đắc Lắc, UBND tỉnh phân cấp quản lý một số  công trình thuỷ 
lợi   nhỏ   cho   UBND   huyện,   sau   đó   UBND   huyện   giao   cho   phòng   nông 
nghiệp địa chính hoặc UBND xã quản lý một số công trình dẫn đến không 
thực sự  có chủ  quản lý bởi vì không có người quản lý trực tiếp. Một số 
người được giao nhiệm vụ quản lý công trình này được hưởng chế độ như 
là công chức do ngân sách huyện hoặc xã trả hoàn toàn không phải tổ chức 
thu thuỷ lợi phí để có kinh phí quản lý và sửa chữa thường xuyên.
­  Ở  nhiều địa phương, hiện nay các công trình thuỷ  lợi nhỏ  và các  
kênh nội đồng (kênh loại III) trong 1 xã vẫn do các Công ty KTCTTL quản 
lý, ví dụ như  ở tỉnh Quảng Nam, Hải Dương, Nghê An. Trong khi đó, đối  
với các công trình thuỷ  lợi nhỏ   ở  nhiều tỉnh miền núi phía Bắc (Sơn La,  
Hoà Bình...) về danh nghĩa các Công ty KTCTTL chịu trách nhiệm quản lý  
công trình đầu mối và tuyến kênh chính còn các tổ  chức thuỷ  nông cơ  sở 
(thôn, bản) quản lý hệ  thống kênh nội đồng, nhưng thực tế các công trình 
đầu mối và kênh chính cũng do các thôn, bản quản lý vận hành.


­ Các tiêu chí phân cấp quản lý khai thác công trình thuỷ lợi thực hiện  
khác nhau ở các địa phương. Tiêu chí phân cấp hệ thống công trình thuỷ lợi 
có quy mô nhỏ, vừa và lớn chưa được thống nhất trong các văn bản pháp 
quy cũng như  trong các báo cáo khoa học. Tiêu chí về  quy mô công trình 
thuỷ  lợi nội đồng không thống nhất  ở  các địa phương. Tiêu chí phân loại 
cấp kênh không thống nhất  ở  các văn bản khác nhau, dẫn đến tình trạng  
thực hiện phân cấp quản lý công trình thuỷ  lợi cùng khác nhau  ở  các địa  
phương. Có tỉnh phân loại cấp kênh theo tiêu chí kênh chính, kênh nhánh 

cấp 1, 2,3, kênh nội đồng, trong khi đó có tỉnh phân loại kênh theo tiêu chí 
kênh loại 1, 2 và 3.
­ Nhiều tỉnh khuyến khích phân cấp quản lý khai thác công trình thuỷ 
lợi cho các tổ  chức hợp tác dùng nước, nhưng chưa đề  ra các tiêu chí cụ 
thể để thực hiện việc phân cấp quản lý. Hầu hết các tỉnh chưa đưa ra tiêu 
chí phân cấp quản lý công trình thuỷ  lợi đầu mối là các trạm bơm điện 
hoặc đập dâng nước.
 
1.2.3. Phương thức hỗ  trợ  tiền sử  dụng sản phẩm dịch vụ công 
ích thủy lợi 
Tại Nghị  định 96/2018/NĐ­CP đã quy định chi tiết về  giá sản phẩm, 
dịch vụ  thủy lợi và phương thức hỗ  trợ  tiền sử  dụng sản phẩm, dịch vụ 
công ích thủy lợi.
Trong đó, đối tượng và phạm vi được hỗ trợ tiền sử dụng sản phẩm,  
dịch vụ công ích thủy lợi gồm:
1­ Hộ  gia đình, cá nhân sử  dụng đất nông nghiệp để  sản xuất cây  
lương thực bao gồm: Toàn bộ  diện tích giao để  sản xuất cây lương thực, 
bao gồm cả đất được thừa kế, cho tặng, nhận chuyển quyền sử dụng đất; 
toàn   bộ   diện   tích   đất   nông   nghiệp   phục   vụ   nghiên   cứu,   sản   xuất   thử 


nghiệm; diện tích đất trồng cây hàng năm có ít nhất một vụ lúa trong năm. 
Diện tích đất trồng cây hàng năm có ít nhất một vụ lúa trong năm bao gồm  
đất có quy hoạch, kế hoạch trồng ít nhất một vụ lúa trong năm hoặc diện 
tích đất có quy hoạch, kế  hoạch trồng cây hàng năm nhưng thực tế  có  
trồng ít nhất một vụ lúa trong năm.
2­ Hộ  gia đình, cá nhân nghèo theo quy định được Nhà nước giao sử 
dụng đất nông nghiệp.
3­ Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất để làm muối.
4­ Hộ  gia đình, cá nhân sử  dụng đất nông nghiệp trong hạn mức để 

trồng rau, màu, mạ; cây công nghiệp dài ngày, cây công nghiệp ngắn ngày 
kể  cả  cây vụ  đông; cây ăn quả; hoa; cây dược liệu; nuôi trồng thủy sản  
(trừ nuôi trồng tại hồ, đập, sông, suối, đầm...); chăn nuôi.
5­ Hộ  gia đình, cá nhân là nông trường viên đã nhận đất trong hạn 
mức được giao khoán ổn định của công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp 
(nông, lâm trường quốc doanh) để sản xuất nông nghiệp theo quy định của  
pháp luật.
6­ Tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ tiêu, thoát nước khu vực nông thôn 
và đô thị trừ vùng nội thị.
7­ Tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ thoát lũ, ngăn lũ, ngăn triều cường, 
ngăn mặn, đẩy mặn, rửa mặn, rửa phèn, giữ ngọt tại địa bàn.
Căn cứ vào thị trường tại thời điểm định giá trong điều kiện thời tiết 
bình thường, chủ  quản lý công trình thủy lợi hoặc tổ  chức, cá nhân khai 
thác công trình thủy lợi thực hiện xây dựng mức giá sản phẩm, dịch vụ 
công ích thủy lợi theo phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch 
vụ do Bộ Tài chính quy định và theo công thức: mức giá sản phẩm, dịch vụ 
công ích thủy lợi = giá thành toàn bộ sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi +  


lợi nhuận dự kiến (nếu có) + các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp  
luật (nếu có).
Từ đó, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định phương án giá và 
quy định giá tối đa, giá cụ thể sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi.
Giá thành toàn bộ  của sản phẩm, dịch vụ  công ích thủy lợi bao gồm  
các chi phí vận hành, chi phí bảo trì, chi phí khấu hao tài sản cố  định, chi 
phí quản lý và các chi phí thực tế  hợp lý khác của toàn tổ  chức khai thác 
công trình thủy lợi theo từng biện pháp tưới tiêu hoặc loại hình sản phẩm,  
dịch vụ hoặc nội dung công việc.
Giá tối đa sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi giai đoạn 2018 – 2020  
trong thời kỳ ổn định ngân sách nhà nước giai đoạn 2017 – 2020 bằng mức  

giá tối đa đã thực hiện năm 2017.
Từ năm 2021 trở đi, căn cứ vào phương pháp định giá sản phẩm, dịch 
vụ công ích thủy lợi, chủ quản lý công trình thủy lợi hoặc tổ chức, cá nhân 
khai thác công trình thủy lợi xây dựng phương án giá sản phẩm, dịch vụ 
công ích thủy lợi theo quy định của Nghị định.
Căn cứ  tình hình thực tế  biến động của các yếu tố  hình thành giá và  
khả năng ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Nông 
nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương quy định và thông báo 
mức giá tối đa sản phẩm dịch vụ  công ích thủy lợi cho thời kỳ   ổn định 
ngân sách mới.
Nghị  định cũng quy định giá và lộ  trình thực hiện giá sản phẩm, dịch 
vụ  thủy lợi khác; lập phương án giá và điều chỉnh giá sản phẩm, dịch vụ 
công ích thủy lợi và sản phẩm, dịch vụ thủy lợi khác.
Theo Nghị  định này, hỗ  trợ  100% tiền sử  dụng sản phẩm, dịch vụ 
công ích thủy lợi đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp để 


sản xuất cây lương thực, sử  dụng đất để  làm muối; hộ  gia đình cá nhân  
nghèo theo quy định được Nhà nước giao sử dụng đất nông nghiệp…
  1.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả  chính sách hỗ  trợ  tiền sử  dụng 
dịch vụ công ích thủy lợi.
1.3.1. Mô hình quản lý và tổ chức bộ máy
Hiện nay các hệ thống công trình thuỷ  lợi được hai cấp quản lý, đó 
là cấp các công ty Thuỷ lợi (doanh nghiệp nhà nước) và tổ chức thuỷ nông 
cơ sở (thông qua các tổ chức Hợp tác xã dùng nước, Hội dùng nước, tổ đội 
thuỷ nông ...) Các công ty Thuỷ lợi: Nhà nước thành lập các công ty Thuỷ 
lợi để quản lý các công trình thuỷ lợi, khai thác, bảo vệ các công trình. Các 
công ty hoạt động công ích tuỳ theo quy mô mà tổ  chức thành công ty hay  
xí nghiệp cho phù hợp. Đối với các hệ thống công trình lớn, phục vụ tưới 
tiêu cho nhiều tỉnh thì tổ chức thành lập công ty Thuỷ lợi liên tỉnh. Công ty  

này có thể trực thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT hay trực thuộc tỉnh do Bộ 
uỷ  quyền. Các hệ  thống thuỷ  nông có quy mô vừa, phục vụ  tưới tiêu cho  
nhiều huyện và chỉ nằm trong phạm vi một tỉnh thì thành lập công ty Thuỷ 
lợi tỉnh. Còn các hệ thống công trình nhỏ, phục vụ tưới, tiêu nằm gọn trong 
một huyện, thì thành lập xí nghiệp khai thác công trình thuỷ  lợi. Ngoài ra 
các hệ thống công trình thuỷ lợi liên tỉnh phải thành lập Hội đồng quản lý  
hệ  thống, Hội đồng quản lý hệ  thống thành viên gồm đại diện Bộ  Nông 
nghiệp và PTNT, lãnh đạo các tỉnh, thành phố, doanh nghiệp thuỷ nông, các 
ngành có liên quan. Hội đồng tham mưu cho Bộ  Nông nghiệp và PTNT 
quyết định các chủ  trương, chính sách, kế  hoạch khai thác và giám sát các 
hoạt động của các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi, tổ chức hợp  
tác dùng nước nhằm điều hoà lợi ích giữa các tổ  chức, cá nhân hưởng lợi 
từ hệ thống. 
Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuỷ lợi:


×