Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của đảng ta trong cuộc kháng chiến chống mỹ (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.41 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

======

NGUYỄN THỊ HÓA

NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP
BẰNG LỰC, THẾ, THỜI CỦA ĐẢNG TA
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Người hướng dẫn khoa học

Thượng tá: ThS. PHẠM VĂN DƯ

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy Phạm Văn
Dư người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em tận tình và chu đáo để em hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong trường Đại học sư
phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong Trung tâm Giáo dục quốc phòng
Hà Nội 2 đã giúp đỡ em hoàn thành khóa luận của mình.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này do điều kiện hạn hẹp về thời gian
và sự hạn chế của bản thân nên khóa luận của em không tránh khỏi những
thiếu sót.Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của thầy
cô và các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017


Sinh viên

Nguyễn Thị Hóa


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận này được hoàn thành dưới sự giúp đỡ của thầy Phạm Văn
Dư. Em xin cam đoan rằng: Đây là kết quả nghiên cứu của riêng em. Nếu sai
em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Hóa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1.Lý do chọn đề tài............................................................................................ 1
2.Mục đích nghiên cứu...................................................................................... 2
3.Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 2
4.Phạm vi nghiên cứu........................................................................................ 3
5.Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 3
6.Cấu trúc khóa luận ......................................................................................... 3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................. 4
1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................. 4
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về nghệ thuật tạo sức mạnh tổng
hợp lực, thế, thời. .............................................................................................. 4
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp trong
chiến tranh. ........................................................................................................ 4
hái niệm nghệ thuật quân sự........................................................................... 4

1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 11
1.2.1. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của ông cha ta. 11
Lực, thế, thời ................................................................................................... 11
1.2.2. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời từ khi có Đảng
lãnh đạo. .......................................................................................................... 18
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 21
Chương 2: NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC,
THẾ, THỜI CỦA ĐẢNG TA TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ....... 22
2.1. Bối cảnh nước ta từ 1954 đến 1975 ......................................................... 22
2.1.1. Trong nước. ........................................................................................... 22
2.1.2. Quốc tế. ................................................................................................. 26


2.2. Nghệ thuật tạo lực, tạo thế, tạo thời và sử dụng sức mạnh tổng hợp lực,
thế, thời của Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ. ....................................... 30
2.2.1.Tạo lực.................................................................................................... 30
2.2.2. Tạo thế................................................................................................... 34
2.2.3. Tạo thời. ................................................................................................ 38
2.3. Vận dụng nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời trong xây
dựng thế trận chiến tranh nhân dân. ................................................................ 48
2.3.1. Quan điểm của Đảng trong xây dựng chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc. ................................................................................................................ 48
2.3.2. Một số nội dung cụ thể.......................................................................... 52
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................... 55
1. Kết luận........................................................................................................ 55
2. Kiến nghị. .................................................................................................... 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 57


MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài
Trải qua hơn bốn nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam có truyền thống
đấu tranh rất anh hùng và tự xây dựng được cho mình chiều dài lịch sử vô
cùng vẻ vang, oanh liệt, vang dội trên khắp năm châu và trong lòng bạn bè thế
giới. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, dân tộc ta liên tục phải chống lại kẻ thù
xâm lược trong tình thế chiến đấu không cân sức (so sánh lực lượng đối
kháng), chúng ta thua kém trên nhiều phương diện. Kẻ thù xâm lược có tiềm
lực quân sự và kinh tế mạnh, số quân đông, vũ khí trang bị hiện đại…
Trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, nghệ thuật quân sự
Việt Nam đã được hình thành và không ngừng phát triển, góp phần quan
trọng vào thắng lợi của dân tộc. Những loại hình nghệ thuật quân sự tiêu biểu
như: Nghệ thuật chiến tranh nhân dân, nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang, nghệ
thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời và mưu kế… Tùy vào tình
hình cụ thể của ta và địch nên trong mỗi trận đánh khác nhau mà ông cha ta
đã sử dụng các loại hình nghệ thuật quân sự sao cho phù hợp.
Nhưng trong tất cả các loại hình nghệ thuật quân sự ấy, nghệ thuật tạo
sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời được Đảng ta kế thừa và vận dụng sáng
tạo, phù hợp với tình hình thực tiễn ở Việt Nam bởi hầu hết các cuộc chiến
tranh, ta đều gặp bất lợi về so sánh lực lượng: quân ít, vũ khí trang thiết bị thô
sơ, dưới sự lãnh đạo tài tình của các vị chủ tướng kết hợp với tinh thần đoàn
kết của toàn dân, dân tộc ta luôn chiến thắng những thế lực ngoại xâm hùng
mạnh đó. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời và mưu kế…
đã trở thành binh pháp, thành nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Lực, thế, thời là ba yếu tố có mối quan hệ hữu cơ với nhau tạo ra chiến
thắng, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, kẻ thù có sức mạnh quân
sự, tiềm lực kinh tế hơn ta nhưng Đảng ta đã vận dụng được lực lượng,thế

1



trận và nắm bắt, tạo thời cơ đúng lúc để giành chiến thắng đối phương. Điển
hình như Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, Chiến dịch Hồ Chí Minh…
Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời có vai trò đặc biệt
quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam, có ý
nghĩa quyết định đến vận mệnh của một quốc gia, giúp chúng ta hiểu được
nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời là bài học kinh nghiệm
vô cùng quý báu, cũng là cơ sở để Đảng ta vận dụng nghệ thuật đó vào trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Từ lòng
ngưỡng mộ các vị anh hùng giải phóng dân tộc, các nhà quân sự kiệt xuất của
dân tộc, với các trận đánh hay, những bài học nghệ thuật quân sự quý giá.
Mong muốn đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu nghệ thuật quân sự Việt Nam vì vậy
em chọn đề tài :“Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của
Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ”. Nhằm làm rõ vấn đề lý luận và
thực tiễn của nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghiên cứu được tính đặc sắc và
điểm đặc trưng của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, xây dựng niềm tự hào dân tộc, phát huy tinh thần thượng võ
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của
Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ và việc vận dụng sáng tạo nghệ thuật
tạo sức mạnh tổng hợp lực, thế, thời trong giai đoạn hiện nay.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp
bằng lực, thế, thời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Nghiên cứu nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời trong
kháng chiến chống Mỹ và sự vận dụng của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.


4.Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời dưới sự
lãnh đạo của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (giai đoạn
1954-1975).
5.Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, chứng minh…
-Sử dụng phương pháp lý luận thông qua việc nghiên cứu thu thập tài
liệu, các kênh thông tin quân đội, lịch sử quân sự Việt Nam.
- Lấy ý kiến chuyên gia.
6.Cấu trúc khóa luận
Phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, đề tài gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của
Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về nghệ thuật tạo sức mạnh
tổng hợp lực, thế, thời.
Theo kinh nghiệm thực tiễn các thời kì, thời cơ là hoàn cảnh thuận lợi để
làm một việc nào đó có kết quả, thường đến và đi rất nhanh. Thời cơ là một
yếu tố quan trọng trong mọi hoạt động của con người. Trong lĩnh vực chiến
tranh, đấu tranh vũ trang, trong nghệ thuật tác chiến, thời cơ càng có ý nghĩa
to lớn. Chính vì vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin rất coi trọng việc
tận dụng và nắm thời cơ cách mạng. Ph.Ăngghen chỉ ra rằng “nếu trong buôn
bán, thời gian là tiền bạc thì trong chiến tranh thời gian là thắng lợi”. Vì thế,
“bỏ lỡ thời cơ thuận lợi, không lợi dụng cơ hội để tung vào chiến đấu với địch
những lực lượng vượt trội thì có nghĩa là những sai lầm lớn nhất mà người ta
có thể mắc phải trong chiến tranh”. Phân tích đặc điểm, tình hình nước Nga
năm 1917,V.I.Lênin đã kêu gọi phải “lập tức chuyển sang khởi nghĩa”, vì thời

cơ đã hoàn toàn chín muồi, “trì hoãn là một tội ác”. Và “những người cách
mạng sẽ phạm tội ác vô cùng lớn, nếu họ bỏ mất thời cơ”. Nhờ đó, dưới sự
lãnh đạo của Đảng bôn-sê-vích đứng đầu là V.I.Lênin, giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động ở Nga đã đứng lên làm cuộc cách mạng vô sản
thành công, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại, kỷ nguyên độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp trong
chiến tranh.
hái niệm nghệ thuật quân sự
Nghệ thuật quân sự, theo chủ tịch Hồ Chí Minh: Là cách đánh, cách
dùng binh đã trở thành thông thạo, điêu luyện trong một trận chiến đấu, một


chiến dịch hay trên toàn bộ chiến trường; nghệ thuật quân sự không có một
khuôn mẫu cụ thể nào, nó biến hóa khôn lường muôn hình, muôn vẻ.
Nghệ thuật quân sự là lý luận và thực tiễn trong quá trình thực hiện chiến
tranh, chủ yếu là đấu tranh vũ trang ra đời cùng với quân đội và xuất hiện khi
có chiến tranh, xác định những nguyên tắc và phương thức tiến hành đấu
tranh vũ trang, là nghệ thuật tạo ra và sử dụng có hiệu quả nhất thế và lực, tận
dụng thời cơ để chiến thắng.
Nghệ thuật quân sự được hình thành từ ba bộ phận: Chiến lược quân sự,
nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Ba bộ phận nghệ thuật quân sự là một
thể thống nhất có quan hệ biện chứng chặt chẽ, trong đó chiến lược quân sự
đóng vai trò chủ đạo.
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề thời cơ được Đảng và Bác
Hồ đã vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam.
Tranh thời kết hợp với tạo lực và lập thế ở cách mạng nước ta đã giành
được nhiều thắng lợi to lớn điển hình như hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà chính trị kiệt xuất, một danh

nhân văn hóa, mà còn là một nhà chiến lược quân sự thiên tài. Nét nổi bật
trong nghệ thuật quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nghệ thuật tạo lực, lập
thế, tranh thời, biết đánh địch bằng mưu, thắng địch bằng thế, lấy ít thắng
nhiều trên cơ sở chất lượng cao thắng số lượng đông, luôn đánh địch trên thế
mạnh. Người chỉ rõ việc tạo lực cách mạng như lúc mới bắt đầu “nhóm lửa”.
Đây là công việc rất khó, nhưng biết cách làm, biết cách dựa vào dân thì
chắc chắn làm được. Do đó, người cách mạng phải có “tín tâm” và “quyết
tâm”,biết đi vào quần chúng để thức tỉnh họ; tổ chức, đoàn kết, huấn luyện
họ; làm cho dân ta ai cũng biết “đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong điều kiện cụ thể của nước ta, lực lượng để


tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng không chỉ đơn thuần
dựa vào lực lượng vũ trang, quân đội, mà trước hết và quan trọng nhất là lực
lượng chính trị của quần chúng được giác ngộ, được tổ chức chặt chẽ và rộng
khắp; phải bắt đầu bằng việc xây dựnglực lượng chính trị quần chúng, rồi trên
cơ sở đó xây dựng và phát triển lực lượng mọi mặt của cách mạng. Lực lượng
chính trị quần chúng không chỉ là nền tảng vững chắc và nguồn tiếp sức vô
hạn cho việc phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, mà còn là một lực lượng
trực tiếp tiến công địch, tiến hành công tác binh vận, địch vận, làm tan rã
hàng ngũ địch. Hơn nữa theo Người, lực lượng của cách mạng, của kháng
chiến không ngừng được phát huy, phát triển trong quá trình thực hiện đường
lối “ hởi nghĩa toàn dân” và “chiến tranh nhân dân”. Đường lối đó lôi cuốn
được hết thảy mọi người Việt Nam yêu nước tham gia, “người có tiền góp
tiền”, “người có sức góp sức”, mỗi người dân là một chiến sĩ, đánh địch trên
tất cả các mặt trận: Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao,tiến công
địch ở khắp mọi lúc, mọi nơi, cả ở tiền tuyến và hậu phương.
Nhờ đó, đã huy động và tạo thành sức mạnh to lớn của toàn dân đánh
giặc. Sức mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội bằng sự kết hợp lực lượng mọi
mặt của toàn dân tộc với lực lượng cách mạng của thời đại, tranh thủ được sự

giúp đỡ của các nước anh em, bầu bạn trong mặt trận chống đế quốc xâm
lược.
Trong chỉ đạo thực tiễn, để tạo lực lượng cho cách mạng, từ năm 1941
khi về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, thúc đẩy việc xây dựng
các tổ chức cách mạng của quần chúng, hình thành các đạo quân chính trị
ngày càng hùng hậu. Trên cơ sở đó, Người chỉ thị tổ chức các đội du kích,
thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, đồng thời chăm lo xây
dựng các vùng căn cứ địa và chính quyền cách mạng ở các địa phương. Nhờ


thế mà khi thời cơ đến, với lực lượng đã được chuẩn bị sẵn sàng và chu đáo,
nhân dân ta trên mọi miền đất nước đã vùng lên giành toàn bộ chính quyền.
Kế đó, trong kháng chiến chống can thiệp Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ
trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, ra sức phát triển kinh tế để bồi dưỡng
sức dân, tăng thực lực kháng chiến. Người và Đảng ta chăm lo chỉ đạo công
tác xây dựng và bảo vệ vững chắc hậu phương kháng chiến vững mạnh về
mọi mặt, xem đó là một nhân tố thường xuyên, quyết định thắng lợi của sự
nghiệp kháng chiến.
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, tạo lực phải đi đôi với lập thế,bởi
thế và lực có mối quan hệ khăng khít. Nếu chỉ có lực không thôi thì chưa đủ,
mà còn phải có thế thì mới phát huy được tác dụng của lực. Trong chiến tranh
cũng vậy, chỉ có lực mà không có thế, thì cũng không thể đánh thắng được
quân địch. Thế trong nghệ thuật quân sự là tình thế, thế nước, thế trận chiến
tranh, thế bố trí lực lượng gắn với địa hình và điều kiện địa lý nhất định.
Để nâng cao hiểu biết cho các cấp chỉ huy của ta về thế và sự lợi hại của
thế, Người dẫn ý kiến Tôn Tử ví tính chất của mỗi thế trận như tính chất của
nước: nước lúc nào cũng chảy xuống chỗ trũng chứ không thể chảy ngược lên
cao được và được thế tốt thì đánh địch như xoay gỗ với đá. Gỗ với đá khi yên
thì nó tĩnh, khi nguy thì nó động. Vuông thì nằm, tròn thì nó lăn. Cho nên lúc

đánh địch, thì thế như lăn đá tròn xuống dốc núi cao mấy ngàn thước. Điều đó
còn có nghĩa rằng thế là nhân tố có thể làm tăng hiệu quả của lực, nhưng phải
là thế tốt, thế hay và chỉ có như vậy mới phát huy hết tác dụng của lực.
Đành rằng, thế bao giờ cũng lấy lực làm cơ sở và do lực quyết định,
nhưng ở thế có lợi, thế hiểm thì một lực lượng nhỏ cũng có thể chuyển hóa
thành lực lượng lớn và ngược lại, một lực lượng lớn nhưng ở vào thế bất lợi
hoặc bị mất thế cũng dễ bị suy yếu.


Do đó, trong chiến tranh cũng như trong từng trận đánh, người chỉ huy
phải luôn biết tạo thế lợi, thế hay để lấy thế bù lực, để tăng lực.
Nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn nguyên tắc tương tác giữa các yếu
tố “thế” và “lực”trong chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định:
thế địch như lửa, thế ta như nước. Nước nhất định thắng lửa, thế ta ngày càng
mạnh, thế địch ngày càng yếu, thế ta thắng đã rõ ràng, thế địch thua đã rõ
ràng. Người giải thích: quả cân chỉ có một ki lô gam, ở vào thế lợi thì lực của
nó tăng lên nhiều lần, có sức mạnh làm bổng được vật nặng hàng trăm ki lô
gam, đó là “thế” thắng “lực”. Như vậy, theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh,
muốn đánh địch phải có thế và được thế hay, thế tốt thì một lực lượng quân sự
dù nhỏ hơn, vũ khí, kỹ thuật ít và kém hiện đại nhưng vẫn có thể ít biến thành
nhiều, nhỏ biến thành lớn và nhất định sẽ giành thắng lợi. Người chỉ rõ: Ta
đánh Mỹ, lấy ít thắng nhiều được là nhờ cái thế của ta rất lợi. Vì thế, ta phải
biết lập thế ta đi đôi với phá thế địch, hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu
của địch, đồng thời không ngừng phát triển sức mạnh của lực lượng ta. Tuy
nhiên, Người không quên căn dặn rằng, thế mạnh và thế yếu giữa ta và địch
chỉ là tương đối, chứ không phải tuyệt đối, do đó, không được chủ quan,
khinh địch mà phải luôn luôn chủ động, sáng tạo thế trận mới, ngày càng
hiểm hóc, lợi hại đối với địch và không ngừng nhân lên thế và lực của ta. Ở
một tầm rộng lớn hơn, trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng và
tiến hành chiến tranh giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn chủ

động tạo thế cho cách mạng Việt Nam. Người đặc biệt chú trọng đến vị thế
đất nước trên trường quốc tế, thế chính nghĩa, thế trận chiến tranh nhân dân,
thế chiến lược vững chắc và lợi hại, tạo điều kiện cho toàn dân toàn quân ta
trên khắp chiến trường thực hiện chia cắt, vây hãm và chủ động tiến công
quân địch ở mọi nơi, mọi lúc bằng nhiều hình thức tác chiến, với mọi thứ vũ
khí trang bị có trong tay. Rơi vào thế trận hiểm hóc đó của chiến tranh nhân


dân Việt Nam, quân xâm lược dẫu đông mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu và bị sa
lầy trong thế trận toàn dân đánh giặc của chúng ta và cuối cùng chúng bị thất
bại hoàn toàn.
Lực và thế trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh luôn kết hợp chặt chẽ
với nhau, tạo điều kiện cho nhau, dùng lực để lập thế, tạo thời và cũng là để
phát huy lực, tạo thế để thúc đẩy thời cơ, dùng mưu kế tạo thế ta, phá thế
địch, hạn chế cái mạnh của địch, phát huy cái mạnh của ta, tranh thủ thời cơ
giành thắng lợi. Mối quan hệ đó đã được chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
giải quyết thành công trong cuộc đấu tranh vũ trang giành chính quyền và
trong các cuộc kháng chiến. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là
những mốc son chói lọi của cách mạng Việt Nam và cũng là những mẫu mực
về nghệ thuật kết hợp lực, thế để dành toàn thắng dưới ngọn cờ lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, có lực, có thế nhưng phải biết tạo
thời và tranh thời. Mùa thu năm 1944, biết thời cơ chưa đến, Người đã kịp
thời chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa Cao – Bắc – Lạng, tránh cho cách mạng
khỏi bị tổn thất. Tháng 10 năm 1944, Người dự đoán “cơ hội cho dân tộc ta
giải phóng chỉ ở trong vòng một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp.
Ta phải làm nhanh!”
Tháng 8 năm 1945, trước tình hình thế giới, trong nước có chuyển biến
dồn dập. Người khẳng định: Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải hy sinh

đến đâu, “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết dành cho
được độc lập”. Thời cơ là một hiện tượng khách quan. Nó là sản phẩm sự vận
động tổng hợp của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan; nhưng động lực chủ
yếu và trực tiếp làm nảy sinh thời cơ là nỗ lực chủ quan của con người trong
quá trình hoạt động cải tạo sự vật, hiện tượng. Thời cơ không phải là một yếu


tố vật chất, nên tự nó không thể đem lại hiệu quả vật chất nào hết. Thời cơ chỉ
là điều kiện, khả năng và điều quyết định là con người nhận biết và sử dụng
điều kiện, khả năng ấy như thế nào để đạt tới mục đích của mình. Nếu nắm
đúng thời cơ và hành động phù hợp với thời cơ thì sức mạnh được tăng lên
gấp bội. Ngược lại, bỏ lỡ thời cơ thì hành động không đạt được kết quả mong
muốn, thậm chí có thể rơi vào thế bị động suy thoái. Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong bài học đánh cờ đã viết: “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí, gặp thời, một
tốt cũng thành công”. Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, nhà quân sự
thiên tài của dân tộc ta cũng đã tổng kết “thời cơ, thời cơ, chớ nên để lỡ”.
Trong thực tiễn, Nguyễn Trãi cùng Lê Lợi luôn chỉ đạo nghĩa quân Lam Sơn
nắm đúng thời cơ, hành động đúng thời cơ.
Cũng như mọi sự vật, hiện tượng khác, thời cơ hình thành và phát triển
theo quy luật từ những biến đổi về lượng chuyển hóa thành biến đổi về chất,
từ sự phát triển tuần tự đến những bước nhảy vọt. Thời cơ là những điểm nút
trong suốt tiến trình tác chiến và chiến tranh, là sản phẩm của sự tích tụ những
điều kiện cần thiết cho sự nảy sinh cái mới. Tuy nhiên, khi đến những điểm
nút ấy, sự biến đổi về chất hay bước nhảy vọt có diễn ra được hay không còn
tùy thuộc vào hoạt động của con người. Thời cơ là lúc mâu thuẫn đã phát triển
đến độ chín muồi cần giải quyết. Vì vậy, nghệ thuật vận dụng thời cơ giữ một
vị trí quan trọng trong nghệ thuật chỉ đạo tiến hành chiến tranh, trong nghệ
thuật tác chiến.
Lực, thế, thời là ba yếu tố được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng và cần
phải vận dụng trong chiến đấu. Nhân lực và vật lực, vũ khí trang thiết bị luôn

thua kém quân địch, bởi vậy Người nói:
“ Lạc nước hai xe đành bỏ phí
Gặp thời một tốt cũng thành công”.


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ta lấy ít thắng nhiều, lấy ít thắng
nhiều được là nhờ cái thế của ta rất lợi. Thế ta thắng đã rõ ràng, thế địch thua
đã rõ ràng, nhưng chúng vẫn ngoan cố, chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược
nước ta.
Lực, thế, thời trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh luôn kết hợp chặt chẽ
với nhau, tạo điều kiện cho nhau, làm chuyển hóa lẫn nhau trong những điều
kiện cụ thể. Dùng lực để lập thế tạo thời; tạo thế, tạo lực cũng chính là để
nhanh chóng thúc đẩy thời cơ. Trong tương lai nếu kẻ thù gây chiến tranh
xâm lược nước ta; nhân dân ta phải tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn
dân, toàn diện bảo vệ Tổ quốc. Trong điều kiện ấy, ta vẫn phải thực hiện “ lấy
nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”, “ lấy vũ khí trang bị kém hiện đại để thắng
kẻ thù có vũ khí thiết bị hiện đại hơn”.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của ông cha ta.
Lực, thế, thời
Theo từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam:
- Lực
“Lực”: Gọi tắt của lực lượng, thường dùng đi đôi với thuật ngữ thế. Lực
là toàn bộ sinh lực, phương tiện vật chất và các khả năng khác được dùng để
tiến hành chiến tranh và các hoạt động quân sự.
Lực là sinh lực, phương tiện vật chất được sử dụng để tác chiến, bảo đảm
và phục vụ tác chiến như lực lượng chủ yếu, thứ yếu, tiến công.
Có lực lượng quân sự, lực lượng chính trị, lực lượng kinh tế, lực lượng
vũ trang, lực lượng tinh thần…
- Thế

Thế là tổng thể các hoàn cảnh, điều kiện cùng với xu thế vận động và
khả năng của các bên tham chiến dựa vào để phát huy sức mạnh trong chiến


tranh. Những yếu tố cơ bản của thế: Địa hình, trận địa, điểm đứng, khí hậu,
thủy văn, địa bàn tác chiến, số lượng, chất lượng của lực lượng tham gia, hình
thái bố trí, cách đánh… cùng với diễn biến, kết quả tác chiến và sự chuyển
biến so sánh lực lượng, trạng thái tâm lý, tinh thần giữa các bên tham
chiến,tình hình chính trị trong nước, khu vực, thế giới. Thế lợi thì lực nhỏ trở
thành mạnh, thế không lợi thì lực mạnh trở nên yếu. Nghệ thuật quân sự Việt
Nam coi thế là nhân tố quan trọng, thế lợi kết hợp với lực tạo thành sức mạnh
đánh thắng kẻ thù.
Thế trận là tổ chức, bố trí, triển khai lực lượng và thiết bị trên chiến
trường nhằm tạo ra điều kiện có lợi và có thể phát huy cao nhất sức mạnh
chiến đấu của các lực lượng tham chiến để giành thắng lợi trong tác chiến.
Thế trận phải phù hợp với ý định tác chiến. Thế trận luôn vận động và phát
triển theo các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
Tạo thế là tạo ra, hoàn thiện, tranh thủ các hoàn cảnh, điều kiện, thế trận,
… có lợi cho ta và đấu tranh ngăn chặn không cho đối phương làm được như
vậy, để đánh thắng chúng. Có tạo thế về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật.
Chiến đấu là cuộc đấu tranh của hai bên tham chiến diễn ra liên tục trong
giai đoạn chuẩn bị và suốt cả quá trình chiến tranh(tác chiến), nhằm giành,
giữ và phát triển thế lợi cho ta, đẩy địch vào thế bất lợi của việc đối chọi
mưu kế và cách đánh giữa hai bên đối địch.
Thế trận trong phạm vi chiến thuật là đội hình chiến đấu, trong phạm vi
chiến dịch là bố trí chiến dịch, trong phạm vi cả cuộc chiến tranh là thế bố trí
chiến lược. Thế trận càng hiểm với mưu kế càng hay thì sức mạnh của lực
lượng càng lớn. Trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam thế trận rất phong
phú như: thế trận xen kẽ cài răng lược…
Căn cứ để tạo thế, lập thế trận.

Thế trận là sự bày binh bố trận ở một vị trí, hoàn cảnh, không gian nào


đó trước quân địch để tác chiến. Thế trận có: thế trận sâu hiểm, thế trận phức
tạp, thế trận giản đơn…
* Yếu tố về địch.
Biết địch một cách đầy đủ, sâu sắc là một yếu tố rất cơ bản để lập thế
trận. Biết địch không phải chỉ cần biết số quân, vũ khí, trang bị, cách bố trí
của chúng mà còn phải biết rõ mặt chất lượng, tinh thần, kỉ luật, trình độ tác
chiến, sở trường, chỗ mạnh, chỗ yếu và cả tính nết người chỉ huy của chúng.
Đặc biệt là phải biết rõ âm mưu, thủ đoạn và quy luật hành động của địch. Có
như vậy mới có cơ sở chính xác để đánh giá thế trận của địch có gì mạnh,
yếu, khi bị ta đánh thì cả thế và lực của địch sẽ biến đổi thế nào.
Biết địch là để đánh địch. Biết chỗ mạnh của địch là để tìm cách phá cái
mạnh, biết chỗ yếu là để khoét sâu cái yếu của chúng, lấy cái mạnh của ta
đánh vào chỗ yếu, chỗ sơ hở của địch. Do đó, trong việc tìm hiểu địch phải
hết sức tỉnh táo, khách quan, không để địch đánh lừa, song phải luôn luôn có
ý chí, quyết tâm tiến công tiêu diệt địch, giành thắng lợi trong cuộc đọ sức, đọ
tài với chúng. Từ đó mới có sự quan sát tinh tường, phán đoán sắc bén, phát
hiện ra những sai lầm của địch hoặc tìm cách lừa địch, bố trí thế trận có thật,
có giả, dẫn địch đến chỗ sai lầm để tiêu diệt chúng.
* Yếu tố về ta.
Biết ta là một yếu tố cơ bản quyết định việc hình thành thế trận. Biết ta là
để tổ chức, sắp xếp, bố trí lực lượng đúng, nhằm phát huy được sở trường
chiến đấu và sức mạnh cao nhất của các lực lượng vũ trang ta.
Nắm tình hình ta phải đầy đủ, chính xác cả về số lượng và chất lượng
trên các mặt: tinh thần, tư tưởng, tổ chức, trang bị, vũ khí, trình độ tác chiến
của tất cả các lực lượng, nhất là trình độ lãnh đạo, chỉ huy của cán bộ các cấp.
Trên cơ sở đó, đánh giá một cách thật khách quan chỗ mạnh, chỗ yếu và khả
năng tiêu diệt địch của từng lực lượng, từng đơn vị. Nắm cho được thực chất



tình hình ta về mọi mặt đúng với yêu cầu, đó là cả một nghệ thuật. Luôn đưa
chất lượng lên hàng đầu.
* Một số yếu tố địa lí quân sự.
Các yếu tố này hay còn gọi là “thiên thời, địa lợi”. Chính là sự nghiên
cứu, lợi dụng địa hình, khí hậu, tận dụng thế hiểm để tăng lợi cho ta.
* Yếu tố nhân dân.
Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước của nhân dân ta do Đảng
lãnh đạo là chiến tranh nhân dân. Trong suốt cuộc chiến tranh cũng như mỗi
chiến dịch, mỗi trận chiến đấu, bao giờ cũng có sự tham gia về nhiều mặt của
nhân dân. Yếu tố nhân dân đã trở thành một yếu tố quyết định trực tiếp đối
với toàn bộ quá trình và kết cục của chiến tranh, chiến dịch và trận chiến đấu.
Tạo sức mạnh hết sức to lớn về lực và thế, góp phần làm thay đổi về căn bản
so sánh lực lượng giữa lực lượng vũ trang ta với quân xâm lược.
- Thời
Thời hay còn được hiểu là thời cơ. Là tình thế xuất hiện trong thời điểm
nhất định rất có lợi cho việc phát huy sức mạnh giành thắng lợi trong khởi
nghĩa, chiến tranh và trong tác chiến. Thời cơ có thể do năng động chủ quan
tạo nên và cũng có thể do sai lầm của đối phương hoặc điều kiện khách quan
đưa đến. Thời cơ thường xuất hiện rất nhanh, đột ngột, và đi cũng rất nhanh.
Có thời cơ chiến lược, chiến dịch, chiến thuật. Tạo thời cơ, nắm bắt đúng thời
cơ, hành động đúng thời cơ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giành thắng
lợi.
Thời cơ khởi nghĩa là thời cơ bảo đảm cho khởi nghĩa giành thắng lợi,
đó là:

ẻ thù khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng, đa số quần chúng ủng hộ

khởi nghĩa, tổ chức lãnh đạo khởi nghĩa đã sẵn sàng hành động.

Tạo ra những yếu tố và điều kiện có lợi cho ta, không có lợi cho địch ở
thời điểm nhất định trong chiến tranh và trong tác chiến. Tạo được thời cơ,


nắm bắt được thời cơ, hành động đúng thời cơ mới giành được thắng lợi. Tạo
thời cơ,tạo lực, tạo thế quan hệ mật thiết với nhau và là những vấn đề cốt lõi
của nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Như đã nói ở trên, thời cơ không tự dưng mà đến mà phải do ta tạo ra. Vì
vậy phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, có phương hướng biện pháp đúng đắn,
sáng tạo để phát triển những điều kiện thuận lợi cho thời cơ sớm xuất hiện.
Muốn tạo thời cơ, trước hết phải biết đoán trước thời cơ, như Nguyễn
Trãi từng nói: “Người trí giả thấy việc từ lúc việc chưa phát”. Đoán trước
không có nghĩa là tính được cụ thể ngày, tháng nổ ra thời cơ mà là nhìn thấy
được xu hướng phát triển của tình hình, dự kiến được các khả năng, từ đó xác
định được phương hướng, mục tiêu và những công việc cần thiết để tạo thời
cơ và sẵn sàng đón lấy thời cơ khi nó nổ ra. Đoán trước thời cơ còn là để biết
chờ thời cơ, không hành động một cách phiêu lưu, nôn nóng khi điều kiện
chưa đầy đủ.
Nguyễn Trãi: “Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn;
Mất thời không thế thì mạnh hóa ra yếu, an lại thành nguy”.
Việt Nam có truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước vô cùng
oanh liệt. Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta luôn phải liên tục chống lại
kẻ thù xâm lược và thường ở trong tình thế chiến đấu không cân sức, nhất là
vào thời kì đầu của chiến tranh hoặc các cuộc khởi nghĩa. So với lực lượng
đối kháng, nói chung chúng ta thua kém trên nhiều phương diện, ngoại trừ
tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý chí độc lập tự do của nhân dân.
Chính trong cuộc chiến không cân sức kéo dài ấy mà dân tộc ta đã hình thành
nên rất nhiều loại hình nghệ thuật quân sự đặc sắc như nghệ thuật chiến tranh
nhân dân, nghệ thuật chiến tranh du kích, nghệ thuật chiến dịch và chiến
thuật, nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang, nghệ thuật toàn dân là binh, cả nước

đánh giặc… và nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời đã được


ông cha ta vận dụng một cách tài tình qua nhiều trận đánh và giành được
nhiều thắng lợi to lớn như:

háng chiến chống quân Tống trên phòng tuyến

sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt, chống quân xâm lược phương Bắc
của Quang Trung hay chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng…
Tất cả những thắng lợi đó đã cho ta thấy được sự tài ba của ông cha ta
trong việc vận dụng lực, thế, thời khi hoàn cảnh đất nước còn nghèo nàn,
thường xuyên bị quân giặc phương Bắc sang xâm lược, quân sĩ chưa đủ
mạnh… Nhận thức rõ được điều đó, các vị tướng tài của dân tộc hiểu được
rằng không thể dùng trứng trọi đá mà phải dùng mưu, mưu muốn thành thì
phải lợi dụng thế trận, lực lượng, thời cơ mà vận dụng trong chiến đấu.
Trong trận Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền đánh quân Nam Hán cũng
vận dụng thế, thời một cách tài tình. Ngô quyền chỉ có một đội quân nhỏ mà
trong mấy ngày đã đánh tan đội quân Nam Hán lớn mạnh hơn. Đội quân nhỏ
của Ngô Quyền đã biết dùng thế và thời để chiến thắng. Cọc dưới dòng sông
Bạch Đằng là “thế”, thủy triều là “thời”. Do vận dụng thế thời một cách tài
tình nên Ngô Quyền đã giành thắng lợi, chiến tranh chỉ diễn ra trong vòng có
mấy ngày. Đây là cuộc chiến tranh ngắn nhất trong lịch sử Việt Nam.
Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời được hình thành và
vận dụng đạt hiệu quả cao trong chiến đấu. Năm 1075 cuộc kháng chiến
chống quân Tống của Lý Thường Kiệt trên phòng tuyến sông Như Nguyệt
cũng là một minh chứng cho tài thao lược của ông cha ta trong việc vận dụng
nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời. Nổi bật trong trận chiến
này là thế trận trên sông Như Nguyệt: Dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt,
chiến tuyến khúc sông này được xây dựng theo thế “hoành trận”. Sông sâu,

thành lũy cao, rào chắc… tất cả kết hợp lại một cách có tổ chức, tạo thành
một thế trận phòng ngự có quy mô lớn, vững chắc. Đặc điểm nổi bật của thế
trận này là bố trí trên diện rộng, có chiều sâu, có trọng điểm, phối hợp chặt


chẽ với quân chủ lực và quân địa phương nhằm đánh địch cả phía trước và
sau lưng. Về lực lượng ta có 60.000 quân trong khi lực lượng địch có100.000
quân và có sự hỗ trợ của lực lượng thủy binh. Tuy rằng lực lượng của ta kém
hơn nhưng nhờ trí thông minh của Lý Thường Kiệt sau vài trận giao chiến
ông nhận ra quân địch vào nước ta bị suy yếu do không chịu được khí hậu của
Đại Việt cộng thêm chúng đang hoang mang và lo sợ sau hai lần thất bại,
nhận thấy thời cơ đã đến Lý Thường Kiệt cho quân phản công và giành được
thắng lợi to lớn. Các nhà nghiên cứu hiện đại đánh giá đây là chiến thắng lớn
nhất và là trận chiến ác liệt nhất kể từ sau trận Bạch Đằng năm 938 của dân
tộcViệt trong việc chống phương Bắc xâm lược. Chiến thắng này đã đánh dấu
sự thành công của ông cha ta trong việc vận dụng nghệ thuật tạo sức mạnh
tổng hợp bằng lực, thế, thời.
Cũng nói về nghệ thuật này năm 1788-1789, Quang Trung đã sử dụng
loại hình nghệ thuật này trong kháng chiến chống quân xâm lược phương
Bắc. Đây là trận tiêu diệt chiến lược gọn gàng nhất và nhanh nhất của quân
dân Việt Nam chống quân xâm lược. Quang Trung diệt 29 vạn quân Thanh
chỉ trong hai tháng (11-1788 đến 30-12-1788), nếu tính riêng thời gian tham
chiến thì chỉ mất có 5 ngày. Quang Trung nhận định muốn lấy ít thắng nhiều
thì cần tạo ra bất ngờ, tạo thời cơ. Quang Trung đã nhận thấy trước thời cơ và
chọn thời cơ là tết Kỷ Dậu làm thời điểm quyết chiến chiến lược ngay từ khi
ông còn ở Phú Xuân. Về thế trận: 5 mũi tiến công của Quang Trung trong
thành Thăng Long được Quang Trung bố trí rất bài bản, vừa hợp lý, vừa rất
lợi hại, khác nào giăng lưới bủa vây con thú rừng để rồi sau đó phóng lao đâm
chết nó. Quang Trung đã tận dụng khả năng ở các con sông lớn để phát huy
sức mạnh của thủy quân. Lập thế trận hiểm hóc, tận dụng thời cơ, tập trung

lực lượng ở địa điểm và thời gian quyết định, đánh đòn quyết định, giành


thắng lợi nhanh, tiêu diệt gọn địch là đặc điểm của nghệ thuật quân sự
Nguyễn Huệ mà chúng ta cần học tập.
Hơn 4000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước cũng là hơn
4000 năm nghệ thuật quân sự Việt Nam được hình thành và vận dụng trong
các trận chiến đấu và giành nhiều thắng lợi to lớn. Nghệ thuật tạo sức mạnh
tổng hợp bằng lực, thế, thời đã được hình thành và lưu truyền cho đến tận
ngày nay và được Đảng ta vận dụng và sáng tạo trong mỗi trận chiến đấu.
Đúng như Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh đã nói, nước nhỏ đánh một nước lớn
thì phải dùng “thế” và “thời”.
Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết: “yếu đánh mạnh hay đánh
bất ngờ, ít địch nhiều hay dùng mai phục”. Trong Quân Trung Từ Mệnh Tập,
Nguyễn Trãi viết: “được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn.
Không thời mất thế thì to hóa ra nhỏ, mạnh hóa ra yếu, an lại thành nguy”.
1.2.2. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời từ khi có Đảng
lãnh đạo.
Giai đoạn 1930-1945: Đây là giai đoạn được đánh dấu bằng nhiều mốc
son lịch sử đánh dấu cho sự chuẩn bị lực lượng của Đảng ta. Năm 1930 Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời đã đưa ra đường lối và quyết sách đưa cách mạng ta
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Một trong những đường lối đó là việc
xây dựng và chuẩn bị lực lượng, dự đoán thời cơ, xây dựng thế trận để tiến
hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng trong cuộc khởi nghĩa
chống Pháp. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, lực lượng để tiến hành khởi
nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng không chỉ đơn thuần dựa vào lực
lượng vũ trang, quân đội, mà trước hết và quan trọng nhất là lực lượng chính
trị của quần chúng được giác ngộ, được tổ chức chặt chẽ và rộng khắp; phải
bắt đầu bằng việc xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, rồi trên cơ sở đó
xây dựng và phát triển lực lượng mọi mặt của cách mạng. Lực lượng chính trị



quần chúng không chỉ là nền tảng vững chắc và nguồn tiếp sức vô hạn cho
việc phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, mà còn là một lực lượng trực tiếp
tiến công địch, tiến hành công tác binh vận, địch vận, làm tan rã hàng ngũ
địch. Hơn nữa lực lượng của cách mạng, của kháng chiến không ngừng được
phát huy, phát triển trong quá trình thực hiện đường lối “khởi nghĩa toàn dân”
và “chiến tranh nhân dân”. Đường lối đó lôi cuốn được mọi người Việt tham
gia, “người có tiền góp tiền”, “người có sức góp sức”, mỗi người dân là một
chiến sĩ, đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, kinh tế, văn
hóa, ngoại giao, tiến công địch ở khắp mọi lúc, mọi nơi, cả ở tiền tuyến và
hậu phương. Nhờ đó, đã huy động và tạo thành sức mạnh to lớn của toàn dân
đánh giặc. Sức mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội bằng sự kết hợp lực lượng
mọi mặt của toàn dân tộc với lực lượng cách mạng của thời đại, tranh thủ
được sự giúp đỡ của các nước anh em, bầu bạn trong mặt trận chống đế quốc
xâm lược.
Trong chỉ đạo thực tiễn, để tạo lực lượng cho cách mạng, từ năm 1941
khi về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh, thúc đẩy việc xây dựng
các tổ chức cách mạng của quần chúng, hình thành các đạo quân chính trị
ngày càng hùng hậu. Trên cơ sở đó, Người chỉ thị tổ chức các đội du kích,
thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, đồng thời chăm lo xây
dựng các vùng căn cứ địa và chính quyền cách mạng ở các địa phương. Nhờ
thế mà khi thời cơ đến, với lực lượng cách mạng được chuẩn bị sẵn sàng và
chu đáo, nhân dân ta trên mọi miền đất nước đã vùng lên giành toàn bộ chính
quyền bằng cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Cuộc cách mạng
tháng 8 năm 1945 đánh dấu bước thành công lớn của nghệ thuật tạo sức mạnh
tổng hợp bằng lực, thế, thời.



Giai đoạn 1945-1954: Sau thành công của Cách mạng tháng 8 năm 1945
là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trong chiến thắng Điện Biên Phủ,
chúng ta đã lợi dụng được địa hình hiểm trở của núi rừng để đề ra các phương
thức tác chiến trong mỗi trận đánh: cách thức kéo pháo và trận địa, dấu pháo
ở sườn núi, đào công sự, hầm hào. Nhưng tất cả những yếu tố đó đều được đặt
trên một nền tảng quan trọng là sự đồng lòng, đồng sức của tinh thần “tất cả
cho tiền tuyến và tất cả để chiến thắng”. Nhân dân ở vùng tự do Thanh-Nghệ
Tĩnh, vùng mới giải phóng Tây Bắc cũng như vùng sau lưng địch đều hăng
hái tham gia phục vụ trận tuyến. Chúng ta đã tổ chức những tuyến cung cấp
dài 400-500 km từ Thanh Hóa, Phú Thọ đến Tây Bắc. Chúng ta đã huy động
mọi phương tiện hiện đại và thô sơ có thể huy động được để vận chuyển
lương thực, đạn dược ra mặt trận. Các đoàn xe ô tô đi không đèn trong suốt
nhiều đêm, hàng vạn xe đạp thồ, xe đẩy thô sơ, hàng ngàn thuyền mảng, đoàn
lừa, ngựa được sử dụng để vận chuyển lương thực, đạn dược qua đường lớn,
đường nhỏ, suối sâu, đèo cao, chi viện cho tiền tuyến. Cả dân tộc Việt Nam
đã đảm bảo công việc hậu cần cho một lực lượng bộ đội lớn, tác chiến trên
một mặt trận rất xa hậu phương, trong một thời gian dài; một việc làm mà
quân Pháp không thể lường trước được, nằm ngoài sức tưởng tượng của
chúng. Như vậy tinh thần quyết chiến, quyết thắng, đoàn kết đồng lòng, đồng
sức của dân tộc ta và nghệ thuật phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi” đã là
những nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh tổng lực làm nên chiến thắng
Điện Biên Phủ.
Phát huy nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời được phát
huy cao trong các cuộc kháng chiến, đặc biệt đã làm nên chiến thắng lớn,
chiến dịch Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến chống Pháp.


×