Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Nâng cao kĩ năng tự học cho sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trường đại học sư phạm hà nội 2 (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.54 KB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

======

NGUYỄN THỊ LIỆU

NÂNG CAO KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO
SINH VIÊN SƯ PHẠM NGÀNH GIÁO
DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG
VÀ AN NINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HÀ NỘI 2
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Người hướng dẫn khoa học

Trung tá: PHẠM TRUNG SƠN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, bên cạnh sự cố gắng, nỗ lực của bản thân,
tôi còn luôn nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy giáo trong
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2, nhất là thầy Trung tá Phạm Trung Sơn, người đã tận tình chỉ bảo, hướng
dẫn tôi trong sưốt thời gian tôi làm khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo trong Trung tâm Giáo dục
quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi trong thời gian tôi làm khóa luận.


Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Sinh viên

Nguyễn Thị Liệu


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố ở bất kỳ khóa luận
hay đề tài nghiên cứu khoa học nào trước đó. Nếu có sai sót, tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Sinh viên

Nguyễn Thị Liệu


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận ............................................... 4
6. Kết cấu khóa luận.......................................................................................... 4
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU .................................................................................................................. 5
1.1. Lịch sử về vấn đề nghiên cứu .................................................................... 5
1.1.1. Trên thế giới ............................................................................................ 5
1.1.2. Ở Việt Nam ............................................................................................. 8
1.2. Các khái niệm cơ bản ............................................................................... 10
1.2.1. Khái niệm kỹ năng ................................................................................ 10
1.2.2. Kỹ năng tự học của sinh viên................................................................ 13
1.2.3. Nâng cao kỹ năng tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc
phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2 .................................................................................... 16
1.3. Đặc điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến việc nghiên cứu khoa học tự học
của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm
giáo dục quốc phòng và an ninh...................................................................... 17
1.3.1. Đặc điểm hoạt động tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc
phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2 .................................................................................... 17
1.3.1.1. Hoạt động tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng


và an ninh thuộc dạng tự học trong quá trình đào tạo..................................... 17
1.3.1.2. Tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh
diễn ra trong môi trường quan hệ đặc biệt ...................................................... 19

1.3.1.3. Tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh
luôn gắn liền với rèn luyện các phẩm chất nhân cách khác............................ 20
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nâng cao kỹ năng tự học của sinh viên sư
phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 ................................... 22
1.3.2.1. Các yếu tố thuộc về sinh viên ............................................................ 23
1.3.2.2. Các yếu tố thuộc về giảng viên .......................................................... 32
1.3.2.3. Các yếu tố thuộc về môi trường sư phạm .......................................... 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 39
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP TÂM LÝ SƯ PHẠM NÂNG
CAO KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM NGÀNH GIÁO
DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC
PHÒNG VÀ AN NINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2.......... 40
2.1. Thực trạng về kỹ năng tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc
phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2 .................................................................................... 40
2.1.1. Thực trạng về mức độ hiện có của các kỹ năng tự học của sinh viên sư
phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 ................................... 40
2.1.2. Thực trạng về các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng tự học của sinh viên44
2.2. Những biện pháp tâm lý sư phạm nâng cao kỹ năng tự học cho sinh viên
sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay..................... 47
2.2.1. Xây dựng động cơ, thái độ học tập đúng đắn cho sinh viên sư phạm


ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và
an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 ................................................... 47
2.2.2. Thông qua các hình thức hoạt động học tập khác nhau giúp sinh viên
từng bước vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để giải quyết tốt các nhiệm

vụ học tập ........................................................................................................ 49
2.2.3. Phát huy tính tích cực của sinh viên sư phạmn ngành giáo dục quốc
phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2 trong tự học ............................................................... 51
2.3.4. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng giáo dục trong nhà
trường, bảo đảm tốt các điều kiện cho sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc
phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2 trong tự học ............................................................... 53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 57
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58
KIẾN NGHỊ .................................................................................................... 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 61
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
PHỤ LỤC 3
PHỤ LỤC 4


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hoạt động học nói chung, tự học nói riêng là một hoạt động đặc trưng
của con người, là quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan của mỗi
người để tạo ra những năng lực mới. Tự học thường xuyên, tự học sưốt đời là
điều kiện cơ bản để con người chiếm lĩnh kho tàng tri thức nhân loại. Tự học
được coi là một con đường quan trọng để con người vươn lên tự hoàn thiện
nhân cách bản thân.
Với tư cách là một hình thức hoạt động độc lập của người học trong quá
trình đào tạo, tự học trong thời gian tại trường không chỉ giúp người học củng
cố, mở rộng, hệ thống hoá kiến thức, rèn luyện các kỹ xảo, kỹ năng mà còn
đẩy nhanh thích ứng hoạt động học và hình thành các phẩm chất nhân cách

cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp sau này. Vì vậy “cách học tập: phải lấy
tự học làm cốt” có ý nghĩa cực kỳ to lớn trong thời đại văn minh trí tuệ. Chất
lượng tự học phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó hình kỹ năng tự học là yếu
tố cơ bản, quan trọng nhất.
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2, trực thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, được thành lập theo
Quyết định số 2630/QĐ/BGD & ĐT- TCCB ngày 27/7/1999 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và đào tạo, có nhiệm vụ giáo dục quốc phòng và an ninh cho học
sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội,
tỉnh Vĩnh Phúc; đào tạo giảng viên giáo dục quốc phòng an ninh có chuyên
môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng được yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục đặt ra trong tình hình mới. Trong đó, nâng cao chất lượng đào tạo giảng
viên là vấn đề cấp thiết đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Trong những năm qua, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 luôn chú trọng đổi mới nâng cao chất

1


lượng giáo dục - đào tạo, xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, đồng
thời là mục tiêu xuyên sưốt, quyết định sự phát triển của nhà trường cả trước
mắt và lâu dài. Vì vậy, nhà trường chủ động vận dụng phương pháp dạy học
hiện đại, sát thực tế, trong đó phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo cho
người học; xây dựng cho sinh viên có thái độ, nhu cầu học tập đúng đắn, đồng
thời đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với nội dung, chương trình, đối
tượng đào tạo, thực hiện lấy người học làm trung tâm.
Sinh viên được đào tạo khi ra trường nhìn chung đã đáp ứng được yêu
cầu đòi hỏi của đơn vị cơ sở, hoàn thành được nhiệm vụ theo yêu cầu được
giao. Quá trình học tập, kết quả của sinh viên cũng từng bước được nâng lên
rõ rệt. Trong thực tế, phần lớn sinh viên đã nhận thức được và có thái độ tự học

tích cực, nhưng hiệu quả tự học còn có những hạn chế nhất định. Điều này có
thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, song một trong những nguyên nhân cơ
bản là do sinh viên chưa có kĩ năng tự học phù hợp. Việc nghiên cứu một cách
có hệ thống các kĩ năng tự học của sinh viên, đặc biệt chỉ ra thực trạng và các
yếu tố cơ bản tác động ảnh hưởng tới nâng cao kỹ năng tự học cho sinh viên,
làm cơ sở đề ra các biện pháp tâm lý – sư phạm, nhằm nâng cao kỹ năng tự
học cho sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung
tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 là
cần thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xuất phát từ những lý do nêu trên,
cho nên tôi chọn đề tài: “Nâng cao kỹ năng tự học cho sinh viên sư phạm
ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kĩ năng tự học của sinh
viên, từ đó đề xuất những biện pháp tâm lý - sư phạm nhằm nâng cao kĩ năng


tự học cho sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung
tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu kĩ năng tự học của sinh
viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục
quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
- Đánh giá thực trạng kĩ năng tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo
dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, phân tích, đánh giá những yếu tố ảnh
hưởng đến nâng cao kĩ năng tự học của của sinh viên sư phạm ngành giáo dục
quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

- Đề xuất một số biện pháp tâm lý - sư phạm nhằm nghiên cứu kĩ năng tự
học cho của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2 hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao kỹ năng tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc
phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh đang đào tạo ở
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2.


4. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của
tâm lý học như:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp pháp vấn.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận
- Khóa luận đã phân tích một cách tương đối toàn diện, có hệ thống các
vấn đề kỹ năng tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và
an ninh, cụ thể là: chỉ rõ các loại kỹ năng tự học của sinh viên và những yếu
tố ảnh hưởng tới việc nghiên cứu kỹ năng tự học của sinh viên ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
- Những biện pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm nâng cao kỹ năng tự học
cho sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay,

được dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới việc nghiên cứu khoa
học và thực trạng kỹ năng tự học đã tăng thêm giá trị ứng dụng thực tiễn của
công trình nghiên cứu phục vụ cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục đào tạo ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 hiện nay.
6. Kết cấu khóa luận
- Khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng và một số biện pháp nâng cao kỹ năng tự học cho
sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo
dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
- Kết luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Dạy học được xem là con đường giáo dục cơ bản nhất để thực hiện mục
đích của quá trình giáo dục tổng thể trong đó tự học là phương thức cơ bản để
người học có được những hệ thống tri thức phong phú và thiết thực. Trong
lịch sử giáo dục, tự học là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới
quan tâm. Song trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, nó được đề cập dưới
các góc độ và hình thức khác nhau. Các tác giả đã làm rõ vai trò của hoạt
động tự học, tự nghiên cứu tìm tòi, khám phá của bản thân người học, nó là
cơ sở cho mọi sự thành công trong học tập.
Khổng Tử (551- 479 trước công nguyên) rất quan tâm đến việc kích
thích sự sưy nghĩ, sáng tạo của học trò. Cách dạy của ông là gợi mở để học trò
tìm ra chân lý. Theo ông, thầy giáo chỉ tìm ra cho học trò cái mấu chốt nhất,

còn mọi vấn đề khác học trò phải từ đó mà tìm ra, người thầy giáo không
được làm thay hết cho học trò. Ông đã từng nói với học trò của mình rằng:
“Bất phẫn, bất phải, bất phi, bất phát. Cứ bất ngung, bất dĩ tam ngung phản,
tác bất phục dã” (Không giận vì muốn biết thì không gợi mở cho, không bực
vì không rõ được thì không bầy vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc,
mà không sưy ra ba góc kia thì không dạy nữa”.( luận ngữ)
Mạnh Tử đòi hỏi người học phải tự sưy nghĩ, không nên nhắm mắt theo
sách. “Tận tín thư bất như vô thư” (Tin cả ở sách thì chi bằng không có sách).
Người học phải cố gắng tìm hiểu.
Socrate (469-390 trước công nguyên) đã từng nêu khẩu hiệu “Anh hãy tự
biết lấy anh” qua đó ông muốn học trò phát hiện ra “chân lý” bằng cách đặt


câu hỏi để dần dần tìm ra kết luận.
J.A. Comenxki (1592 - 1670), ông tổ của nền giáo dục cận đại, người đặt
nền móng cho sự ra đời của nhà trường hiện nay, nhà giáo dục lỗi lạc của
Slovakia và nhân loại cũng đã nêu ra các nguyên tắc, phương pháp giảng dạy
trong tác phẩm “Phép giảng dạy vĩ đại” nhằm phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh và ông cương quyết phản đối lối dạy học áp đặt giáo điều làm
cho học sinh có thói quen không tự giác trong học tập. Theo ông, dạy học
phải làm thế nào để người học thích thú học tập và có những cố gắng bản thân
để nắm lấy tri thức. Ông nói: “Tôi thường bồi dưỡng cho học sinh của tôi tinh
thần độc lập trong quan sát, trong đàm thoại và trong việc ứng dụng tri thức
vào thực tiễn”.
Thế kỷ XVIII-XIX, nhiều nhà giáo dục nổi tiếng như J.J. Rousseau
(1712-1778); Pestalogie (1746-1827); Distecvec (1790-1866); Usinxki (18241873) ... đều có chung quan điểm cần hướng cho học sinh, sinh viên tự nắm
bắt kiến thức bằng cách tự tìm tòi và sáng tạo.
Những năm gần đây, trên cơ sở kế thừa có phê phán các tư tưởng của các
tác giả đi trước, các nước phương Tây nổi lên cuộc cách mạng để tìm phương
pháp giáo dục mới dựa trên tiếp cận “lấy người học làm trung tâm” để phát

huy năng lực nội sinh của con người. Đại diện cho tư tưởng này John Dewey
(1859-1952), nhà sư phạm nổi tiếng người Mỹ, ông phát biểu “Học sinh là
mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi phương tiện giáo dục”. Một loạt các
phương pháp dạy học theo tư tưởng quan điểm này đã được đưa vào thực
nghiệm: “Phương pháp tích cực”, “Phương pháp hợp tác”, “Phương pháp cá
thể hoá”. Nói chung đây là các phương pháp mà người học không chỉ lĩnh hội
kiến thức bằng nghe thầy giảng, học thuộc mà còn từ hoạt động tự học, tự tìm
tòi lĩnh hội tri thức. Giảng viên là người trọng tài, đạo diễn thiết kế tổ chức
giúp cho sinh viên biết cách làm, cách học.


Ông còn cho rằng: việc giảng dạy phải kích thích được hứng thú, phải
để trẻ em độc lập tìm tòi, thầy giáo là người thiết kế, cố vấn. Cả hai đối tượng
này đều là những cá thể tích cực học hỏi bằng cách đương đầu với những tình
huống rắc rối nảy sinh trong những hoạt động của mình.Tư duy là một
phương tiện nhằm giải quyết những vấn đề trong thực nghiệm và tri thức
được tích luỹ thông qua chính quá trình giải quyết những vấn đề đó.
T. Makiguchi, nhà sư phạm nổi tiếng người Nhật bản, trong những năm
30 của thế kỷ XX đã cho rằng “Mục đích của giáo dục là hướng dẫn quá trình
học tập và đặt trách nhiệm học tập vào trong tay mỗi học sinh. Giáo dục xét
như là quá trình hướng dẫn học sinh tự học”.
Raja Roy Singh, nhà giáo dục Ấn độ trong tác phẩm “Giáo dục cho thế
kỷ XXI, những triển vọng của Châu á Thái Bình Dương” đã đưa ra quan điểm
về quá trình “Nhận biết dạy - học” và ông chủ trương rằng người học phải là
người tham gia tích cực vào quá trình “Nhận biết dạy - học”. Ông cho rằng:
“Sự học tập do người học chủ đạo”. Trong hệ thống dạy học, người học vừa là
chủ thể vừa là mục đích của quá trình học tập. “Vị trí của người học ở trung
tâm hay ngoại biện là nét đặc trưng phân biệt hệ thống giáo dục này với giáo
dục khác”.
Trong dự thảo báo cáo về con người của thế kỷ XXI, các Nhà giáo dục

và nhân văn Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Á đều có quan điểm thống nhất:
xem thái độ học tập và kỹ năng ứng dụng của giới trẻ đang diễn biến ra sao.
Tuỳ theo đồ thị tăng trưởng ấy như thế nào, sẽ biết được diện mạo của lớp trẻ
trong tương lai và cả gương mặt của xã hội ngày mai. Trong đó các tác giả đã
đưa ra bốn thái độ học tập và mười kỹ năng ứng dụng học vấn vào đời sống
xã hội, một trong mười kỹ năng đó là: Kỹ năng Tự học, tự nâng cao trình độ
cá nhân trong mọi tình huống.


Như vậy vấn đề tự học của học sinh - sinh viên đã được nghiên cứu từ
rất sớm trong lịch sử giáo dục và nó vẫn còn là vấn đề nóng bỏng cho các nhà
nghiên cứu giáo dục hiện tại và tương lai bởi vì tự học có vai trò rất quan
trọng, quyết định mọi sự thành công trong học tập, là điều kiện đảm bảo cho
hiệu quả, chất lượng của mọi quá trình giáo dục đào tạo.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt nam, trong công cuộc đổi mới nền kinh tế – xã hội của đất nước,
đã đặt ra những yêu cầu mới cho Giáo dục, đòi hỏi phải đổi mới Giáo dục.
Một trong những phương hướng đổi mới đó là đổi mới phương pháp dạy học.
Trong những năm gần đây chúng ta nói nhiều đến phương pháp dạy học tích
cực, lấy người học làm trung tâm với ý tưởng cốt lõi là người học phải tích
cực, độc lập, tự chủ, sáng tạo trong quá trình học tập. Quan điểm này hoàn
toàn phù hợp với tinh thần Nghị quyết TW2 (khóa 8) về Giáo dục: “Đổi mới
mạnh mẽ phương pháp Giáo dục & Đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nề nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp
dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy
học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất
là sinh viên đại học. Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường
xuyên và rộng khắp trong toàn nhân dân, nhất là trong thanh niên”.
Tinh thần của Nghị quyết đã được cụ thể hoá trong Luật giáo dục, Mục
2, Điều 4 “Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục” đã nêu rõ: “Phương

pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo
của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn
lên”; Khoản b, Mục 1, Điều 36: “Yêu cầu về nội dung phương pháp giáo dục
đại học và sau đại học” cũng nêu: “Phương pháp giáo dục đại học phải coi
trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người


học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên
cứu, ứng dụng ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Cách học tập:... Lấy tự học làm
cốt...”. Người còn nhấn mạnh: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”.
Người khuyên: “Không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải
biết tự động học tập”.
Nguyên Tổng bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam Đỗ Mười đã
nhấn mạnh: “Tự học, tự đào tạo là một con đường phát triển sưốt đời của mỗi
con người trong điều kiện kinh tế – xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau; đó
cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam và cả dân tộc Việt Nam.
Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực tự
học, sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình
tự giáo dục”.
Lãnh đạo Bộ Giáo dục & Đào tạo khi đến thăm trường Đại học đã nhấn
mạnh: “... Phải xác định mục tiêu quan trọng nhất của việc giảng dạy ở trường
đại học là dạy cách học cho sinh viên, trang bị cho họ những phương pháp và
kỹ năng tự học, thói quen học sưốt đời, làm cho họ trở thành những thành
viên nòng cốt của “Xã hội học tập”...”
Trong khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu rất công phu về vấn
đề tự học, như: “Quá trình dạy – tự học” của tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Vũ
Văn Tảo; “Luận bàn về kinh nghiệm tự học” của tác giả Nguyễn Cảnh Toàn
và nhiều công trình nghiên cứu về tự học của các Giáo sư, các nhà giáo dục
học như Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức, Thái

Duy Tuyên… Trong nhiều năm gần đây có khá nhiều Luận văn Thạc sỹ khoa
học giáo dục đã đề cập nhiều đến khía cạnh hoạt động tự học và các biện pháp
quản lý, tổ chức hoạt động tự học của người học, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo.


1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm kỹ năng
Bàn về kỹ năng có nhiều quan điểm khác nhau, tựu chung lại có các
hướng nghiên cứu sau.
Theo hướng nghiên cứu kỹ năng như là trình độ thực hiện hành động (về
mặt kỹ thuật hành động), có các tác giả sau:
Tác giả A.V.Krutexki cho rằng: “Kỹ năng là các phương thức thực hiện
hoạt động, những cái mà con người đã nắm vững”. Theo ông, chỉ cần nắm
vững phương thức hành động là con người đã có kỹ năng, không cần đến kết
quả của hành động.
Trong đó A.G.Covaliov thì nhấn mạnh: “Kỹ năng là phương thức thực
hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện của hành động”.
A.V.Petrovxki nhận định: “Kỹ năng là sự vận dụng những tri thức, kỹ
xảo đã có để lựa chọn và thực hiện những phương thức hành động tương ứng
với mục đích đặt ra.
Các tác giả Phạm Tất Dong, Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Hải Khoát xác
định: “Kỹ năng là một hệ thống các hành động thể lực và trí tuệ, các biện
pháp và cách thức mà nhờ đó, một dạng hoạt động nào đó được thực hiện và
đạt tới mục đích đề ra”.
Xem xét kỹ năng dưới góc độ kỹ thuật tác giả Trần Trọng Thủy cũng
cho rằng, kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động, con người nắm vững kỹ
thuật là có kỹ năng.
Theo hướng nghiên cứu kỹ năng như là một biểu hiện năng lực của con
người, có các khái niệm sau đây:

Trước hết phải kể đến hai nhà tâm lý học nổi tiếng của Xô-Viết là
K.K.Platonop và G.G.Golubep, khi bàn đến kỹ năng đã rất chú ý đến mặt kết
quả của hành động. Mặt khác, các ông coi “kỹ năng là năng lực của con người


thực hiện công việc một cách có hiệu quả, với một chất lượng cần thiết và một
thời gian thích hợp trong những điều kiện mới”.
Tác giả Paul Hersey, Ken Blanc Hard cho rằng: “Kỹ năng là khả năng sử
dụng tri thức; các phương pháp, kỹ thuật và thiết bị cần thiết cho việc thực hiện
các nhiệm vụ nhất định có được từ kinh nghiệm, giáo dục và đào tạo”.
Trong Từ điển tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên, kỹ năng được định
nghĩa: “Kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả tri thức về phương thức
hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng.
Theo từ điển Tiếng Việt của NXB Khoa học xã hội: “Kỹ năng là khả
năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn”.
Qua tìm hiểu các khái niệm về kỹ năng, cho thấy:
- Kỹ năng không chỉ đơn thuần là một kỹ thuật của hành động mà còn là
biểu hiện năng lực của chủ thể hành động.
- Kỹ năng bao giờ cũng gắn liền với một hành động cụ thể và được thể
hiện qua kết quả của hành động đó. Do vậy, kỹ năng phải được hiểu là mặt kỹ
thuật của thao tác hay hành động nhất định. Kỹ năng không có đối tượng
riêng. Đối tượng của kỹ năng là đối tượng của hành động. Không có kỹ năng
chung chung, trừu tượng tách rời hành động. Kỹ năng hành động đồng nghĩa
với hành động có kỹ năng.
- Tính đúng đắn, thành thạo và sáng tạo là những tiêu chuẩn quan trọng
để xác định sự hình thành và mức độ phát triển của kỹ năng hành động bậc
cao. Hành động chưa thể có kỹ năng nếu còn mắc nhiều lỗi và vụng về, hành
động tốn nhiều thời gian, công sức triển khai nó và hành động còn cứng nhắc
mang tính rập khuôn. Kỹ năng được hình thành trên cơ sở các tri thức và kỹ
xảo nên người có kỹ năng thì không chỉ hành động có kết quả trong một hành

động cụ thể mà còn phải đạt được kết quả tương tự trong những điều khác
nhau.
- Cơ chế hình thành kỹ năng thực chất là cơ chế hình thành hành động


Kỹ năng không phải là bẩm sinh mà là sản phẩm của hoạt động thực tiễn, đó
là kết quả vận dụng những tri thức và kinh nghiệm vào hoạt động thực tiễn để
đạt được mục đích đã đề ra.
- Quá trình con người tiến hành hành động là quá trình con người tiến
hành thực hiện một hệ thống các thao tác theo một thứ tự nhất định. Để thực
hiện hành động có kết quả con người phải có những tri thức cần thiết về mục
đích của hành động, về cách thức hành động đi đến kết quả, những điều kiện
cần thiết để triển khai cách thức hành động đó. Nhưng chỉ có tri thức cần thiết
thì chưa đủ để hành động, con người phải biết vận dụng những tri thức đó để
thực hiện hành động có kết quả. Chỉ khi nào con người hành động có kết quả
thì lúc đó con người mới thực sự có kỹ năng về hành động.
Từ đó, tôi cho rằng:
Kỹ năng là trình độ vận dụng những tri thức và thao tác hợp lý để thực
hiện một hành động hay một hoạt động nào đó có kết quả trong điều kiện nhất
định.
Mục đích của nâng cao kỹ năng là thực hiện hành động, hoạt động ở
mức cao hơn, đem lại sản phẩm, kết quả cao hơn. Nhưng để tiến hành được
hành động phải vận dụng những tri thức, phương thức, cách thức, biện pháp,
kỹ xảo vào quá trình thực hiện hành động. Trong khóa luận này, tôi sử dụng
thuật ngữ tri thức và thao tác để gọn, rõ hơn và thống nhất với cấu trúc: hoạt
động - hành động - thao tác trong hoạt động.
Thao tác thực chất là những hành động, việc làm, kỹ xảo được phân giới
đến cùng hoặc được tự động hoá, rút gọn, làm cơ sở hình thành kỹ năng mới.
Cấu trúc kỹ năng gồm 3 thành phần cơ bản:
Nhận thức - Thực hiện - Kết quả:

Nhận thức (biết): Nắm bắt được ý nghĩa, mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ,
qui trình thực hiện của từng hành động. Mỗi hành động có mục đích, yêu cầu,
nhiệm vụ và qui trình thực hiện khác nhau. Thông qua việc nhận thức được ý


nghĩa, mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ và qui trình thực hiện của từng hành động
giúp con người định hướng trước hành động của mình.
Thực hiện (làm): Thực hiện được các thao tác của từng hành động phù
hợp với mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, qui trình thực hiện của từng hành động
và tiến hành thường xuyên. Thực hiện một hành động luôn gắn với điều kiện
nhất định.
Kết quả: Trong điều kiện xác định, hành động của con người đạt được
những giá trị nhất định. Đó là thước đo khả năng thực hiện một hành động
nào đó của con người.
Tóm lại: Kỹ năng là trình độ vận dụng những tri thức và thao tác hợp lý
để thực hiện một hành động hay một hoạt động nào đó có kết quả trong điều
kiện nhất định.
Có kỹ năng thực hiện một hành động trước hết là có tri thức về hành
động, tiến hành thực hiện hành động và đạt kết quả cao trong điều kiện nhất
định.
1.2.2. Kỹ năng tự học của sinh viên
Để hiểu rõ khái niệm kỹ năng tự học cần làm rõ các khái niệm có liên
quan đó là: Tự học và tự học sinh viên.

 Tự học
Đã có nhiều nghiên cứu về tự học theo các góc độ khác nhau. Có thể
khái lược một số vấn đề như sau:
Theo các nhà tâm lý học
Trong quá trình học tập của người sinh viên đã nói tới học là có tự học,
tự học là một hoạt động nhận thức của con người, tự học là một trong hai

khâu cơ bản của quá trình dạy học, trong quá trình đào tạo học với tự học là
đồng nghĩa. Còn khi phân biệt tự học trong quá trình dạy học thì chia làm hai
khâu học và tự học. Trong cuộc sống mỗi người đều phải tự học, tự mình
chiếm lĩnh một vấn đề nào đó để làm giàu vốn kinh nghiệm sống của cá nhân.


Những tri thức mà họ tích luỹ được hoàn toàn mang tính kinh nghiệm của bản
thân. Tự học theo cách này diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi và mang ý nghĩa tự học
sưốt đời.
M.A.Rubakin: “Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội
lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ
cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh
thực tại, biến tri thức loài người thành vốn tri thức kinh nghiệm, kỹ năng kỹ
xảo của bản thân chủ thể”.
Theo quan điểm trên, tự học là quá trình người học huy động nhân cách
của mình để chiếm lĩnh kho tàng tri thức nhân loại. Vì vậy, hoạt đông tự học
là một công việc khó khăn, mệt nhọc đòi hỏi tiêu tốn một năng lượng thần
kinh và cơ bắp tương đối lớn.
Tự học là quá trình cá nhân độc lập, tìm tòi kiến thức...tính độc lập trong
việc lựa chọn mục đích, lựa chọn những con đường và phương tiện giải quyết
những vấn đề đặt ra. Những tri thức là đối tượng tìm tòi trong tự học của sinh
viên có liên quan đến nội dung kiến thức có ở bài đã học, đang học hoặc sắp
được học. Tri thức sinh viên tìm kiếm, phát hiện có thể là do yêu cầu của
giảng viên, song cũng có thể do nhu cầu hứng thú của người học.
Theo N.Đ.Levitov: Tự học là hoạt động tích cực của cá nhân với các
thành phần tâm lý của sự lĩnh hội, đó là thái độ tích cực của người học trong
tự học, các quá trình tư duy, các quá trình ghi nhớ... các quá trình tâm lý có
liên quan mật thiết với nhau để hoạt động tự học đạt kết quả.
Một số quan niệm khác cho rằng: Tự học là hình thức học có tính chất cá
nhân do bản thân người học nỗ lực thực hiện. Bản chất tự học là hoạt động

nhận thức độc lập của sinh viên. Hoạt động tự học mang tính chất cá nhân một
cách rõ rệt.


Từ những quan niệm nêu trên có thể coi tự học là quá trình cá nhân tự
giác, tự lực, tích cực lĩnh hội những vấn đề được đặt ra trong cuộc sống bằng
hành động của chính mình để đạt được những mục đích nhất định.

 Tự học của sinh viên
Tự học về bản chất là hoạt động nhận thức tích cực, độc lập của người
học, tự học luôn luôn được xác định và diễn ra bởi chủ thể - người học và đối
tượng là tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, nghề nghiệp. Vì vậy, tự học như thế nào,
hiệu quả ra sao là do nhân tố bên trong của chủ thể quyết định. Tự học của
sinh viên là một loại hình hoạt động diễn ra trong một môi trường đặc thù:
Đối tượng của hoạt động tự học là hệ thống các tri thức và các kỹ xảo, kỹ
năng tương ứng với nó đã được chọn lọc, tinh chế, mang tính khái quát. Quá
trình tự học có sự định hướng điều khiển của giảng viên và có các điều kiện
phương tiện bảo đảm khác. Từ cách hiểu về tự học như vậy, tôi quan niệm về
tự học của sinh viên như sau:
Tự học của sinh viên là quá trình tổ chức hoạt động học tập của sinh
viên, trong đó họ tự thiết kế kế hoạch, thực hiện kế hoạch học tập và tự kiểm
tra đánh giá kết quả học tập, nghiên cứu của mình nhằm củng cố, mở rộng và
phát triển tri thức, kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp.

 Kỹ năng tự học của sinh viên ngành giáo dục quốc phòng và an
ninh
Trong hoạt động tự học, kỹ năng tự học là yếu tố cần thiết giúp người
học hoàn thành được nhiệm vụ học tập. Hoạt động tự học khi hướng vào
những mục đích nhất định sẽ bao gồm nhiều hành động liên tục kế tiếp nhau.
Những thao tác trí tuệ sẽ diễn ra tuỳ thuộc vào mục đích, nhiệm vụ học tập và

tuỳ thuộc vào những kỹ năng đã có.
Trên cơ sở nghiên cứu các khái niệm cơ bản: kỹ năng, tự học và tự học
của sinh viên, chúng ta có thể hiểu kỹ năng tự học được biểu hiện ở mặt kỹ


thuật của hành động tự học và năng lực tự học của mỗi cá nhân. Hay nói cách
khác, năng lực tự học được biểu hiện ra ở kỹ năng tự học. Để tự học có kết
quả, sinh viên phải có những kỹ năng tự học tương đối, tương ứng. Kỹ năng
tự học được bộc lộ ra bên ngoài là biểu hiện của nhận thức tự học và thái độ
tự học.
Từ những vấn đề trên tôi cho rằng: kỹ năng tự của sinh viên ngành giáo
dục quốc phòng và an ninh là trình độ thành thạo những hành động tự học
bằng cách vận dụng những tri thức, kỹ xảo và kinh nghiệm đã có để thực hiện
có kết quả nhiệm vụ học tập đề ra phù hợp với điều kiện hoạt động chuyên
ngành.
1.2.3. Nâng cao kỹ năng tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục
quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Theo từ điển tiếng Việt, “nâng cao là làm cho cao hơn trước,đưa lên mức
cao hơn”, “ nâng cao là làm cao, làm ở mức tốt hơn”. những hoạt động tích
cực, tự giác, chủ động sáng tạo của chủ thể nhằm tác động đến khách thể phát
triển theo mục đích, yêu cầu của mọi công việc trên thực tế là biểu hiện của
quá trình nâng cao; việc chuyển từ trạng thái chất lượng khác cao hơn, đáp
ứng mục tiêu yêu cầu phát triển của sự vật, hiện tượng cũng là biểu hiện của
sự nâng cao. Do đó, có thể hiểu nâng cao là quá trình tương tác hợp quy luật
của các chủ thể làm biến đổi tổng thể các yếu tố, tạo ra một khả năng mới,
giúp con người nhận thức và hoạt động tốt hơn. Còn tiếp cận với tư cách là
hoạt động có ý thức của con người, thì “nâng cao” là hoạt động làm cho sự
vật, hiện tượng, quá trình phát triển đi lên.
Từ cách tiếp cận trên có thể quan niệm nâng cao kỹ năng tự học của sinh

viên ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2 hiện nay là: Việc tạo ra sự chuyển biến rõ nét, tích cực về kỹ năng


tự học của mỗi sinh viên nhằm củng cố nâng cao chất lượng tự học, làm giàu
thêm tri thức và hoàn thiện bản thân để họ trở thành những người giáo viên
có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng mục tiêu đào tạo và yêu cầu thực tiễn đặt
ra.
Như vậy, giá trị của việc nâng cao kỹ năng tự học được thể hiện ở việc
tạo ra sự chuyển biến tích cực về kết quả học tập các môn học của mỗi sinh
viên, cũng như mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập theo mục tiêu yêu cầu
đào tạo. Có nghĩa là đi vào phát huy những mặt tốt, những kết quả tích cực
trong tự học đã đạt được và khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém
còn tồn tại của các chủ thể tham gia.
1.3. Đặc điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến việc nghiên cứu khoa học tự
học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở
Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh
1.3.1. Đặc điểm hoạt động tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục
quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2 có nhiệm vụ giảng dạy giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên
các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội, tỉnh Vĩnh Phúc;
đào tạo giáo viên giáo dục quốc phòng và an ninh có chuyên môn, nghiệp vụ
nhằm đáp ứng được yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đặt ra trong
tình hình.Vậy hoạt động tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc
phòng và an ninh có những đặc điểm cơ bản là:
1.3.1.1. Hoạt động tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng
và an ninh thuộc dạng tự học trong quá trình đào tạo
Sinh viên đào tạo trở thành giáo viên ngành giáo dục quốc phòng và an

ninh là những sinh viên ưu tú đã trúng tuyển qua kỳ thi tuyển sinh đại học, có


đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, học lực và sức khoẻ. Được
giáo dục đào tạo cơ bản, toàn diện theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà
trường, tốt nghiệp ra trường có trình độ học vấn đại học, trở thành giảng viên,
có trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy.
Sinh viên có kiến thức khá vững chắc, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
của chuyên ngành đào tạo giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh; Cùng
hệ thống kiến thức của các môn khoa học khác sẽ giúp sinh viên đào tạo chỉ
huy có phương pháp tư duy khoa học, nhạy bén và hệ thống. Tuy nhiên, sinh
viên ngành giáo dục quốc phòng và an ninh kỹ năng tự học còn ở mức thấp,
chủ yếu quen với cách học ở bậc học cũ. Do vậy, kết quả học tập còn chưa
cao, nhiều sinh viên còn lúng túng với cách học ở bậc đại học. Đây là một
trong những vấn đề đặt ra đòi hỏi trong quá trình giáo dục đào tạo cần trang bị
kiến thức cơ bản về kỹ năng tự học nhằm nâng cao kỹ năng tự học cho sinh
viên trong quá trình học tập tại trường.
Sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 là con em
của cả ba miền Bắc, Trung, Nam trên cả nước. Hiện nay, nhà trường giao cho
Trung tâm quản lý 4 khoá sinh viên chính quy ngành giáo dục quốc phòng và
an ninh với tổng số 327 sinh viên. Sinh viên được sinh ra và lớn lên trên nhiều
vùng quê có truyền thống cách mạng, truyền thống hiếu học. Vì vậy, trong quá
trình học tập, rèn luyện luôn tích cực, chủ động trong học tập, luôn có tư tưởng
ham học hỏi cầu tiến bộ để không ngừng hoàn thiện mình. Nhìn chung, sinh
viên chuyên ngành giáo dục quốc phòng và an ninh đều có thể lực khá tốt và
có ý thức vươn lên học hỏi, tiếp thu tri thức để khẳng định mình trong tập thể.
Đó là những đặc điểm thuận lợi giúp cho họ hoàn thành nhiệm vụ học tập tại
trường, từng bước hoàn thiện phẩm chất, năng lực toàn diện theo mục tiêu
yêu cầu đào tạo. Ở bậc học cũ, điều kiện học tập ít được tiếp cận với các

phương


pháp dạy học hiện đại, nhiều sinh viên chưa được tiếp xúc với công nghệ thông
tin trong quá trình học tập. Chính từ đặc điểm này khi về trường học tập họ gặp
rất nhiều khó khăn khi tiếp cận với phương pháp học tập mới. Đặc điểm nổi
bật là thay đổi cách thức học tập và tự học tập, bỡ ngỡ với cách dạy và học
trong môi trường giáo dục quân sự đòi hỏi họ phải có tính độc lập cao, tinh
thần nỗ lực, thái độ cần cù chăm chỉ và khả năng tư duy sáng tạo với các kỹ
năng như: tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá... Chính vì vậy, sinh viên
ngành giáo dục quốc phòng và an ninh còn gặp rất nhiều khó khăn trong quá
trình học tập.
Do vậy trong thời gian này, giảng viên tập trung phổ biến, hướng dẫn
phương pháp học tập, cách thức tự học để sinh viên nhanh chóng thích ứng
với việc học học tập trong nhà trường sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và
an ninh.
1.3.1.2. Tự học của sinh viên sư phạm ngành giáo dục quốc phòng và an ninh
diễn ra trong môi trường quan hệ đặc biệt
Học tập, rèn luyện là nhiệm vụ xuyên sưốt của sinh viên trong quá trình
đào tạo tại trường. Đây là nhiệm vụ khó khăn phức tạp, trải qua nhiều giai
đoạn học tập, rèn luyện căng thẳng, với nhiều hình thức học tập, huấn luyện
đa dạng sát với thực tiễn. Với cường độ huấn luyện cao, trong đó có huấn
luyện thực hành sử dụng vũ khí trang bị, với yêu cầu cao về công tác bảo đảm
an toàn về người và vũ khí trang bị; thời gian huấn luyện trên thao trường,
trong mọi điều kiện địa hình, thời tiết, quá trình học đòi hỏi sự nỗ lực cao của
sinh viên cả về thể chất, tinh thần và ý chí khắc phục khó khăn để vươn lên
trong học tập, rèn luyện đáp ứng với mục tiêu, yêu cầu đào tạo sinh viên
chuyên ngành giáo dục quốc phòng và an ninh. Có thể nói rằng cùng với các
sinh viên đào tạo trong các khoa nhà trường thì sinh viên chuyên ngành giáo
dục quốc phòng và an ninh có đặc thù riêng quá trình huấn luyện làm quen

với vũ khí trang thiết bị ,các giờ học điều lệnh đội ngũ, địa hình quân sự…đòi


×