Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Hợp đồng lao động với vấn đề đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.08 MB, 125 trang )


B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

^H ( Ị i t i ị ễ n 'J ô Cù jl (^ h í
Để tài:

Hợp đồng lao động với vấn để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động
trong nền kinh tế thị trường

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
M ã số: 50515
LUẬN ÁN THẠC s ĩ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: Phó giáo s ư QííịUỊỊỈẾt 'Tỉôửit
Trường Đại hục Kinh tế quốc dân Hà nội

JKU 1
TRƯƠNG -BẠI í lũ
PHONG ĐCC

Hà nội, nãin 1.997


MỤC LỤC

Chươngl: Nền kinh tế thị trường và sự cẩn thiết đa dạng hoả các hình


thức tuyển dụng lao động
1.1. Kinh tế thị trường và thị trưòng lao động Việt nam
1.1.1. Kinh tế thị trường và thị trường lao động
1.1.2. Một số vấn đề về thị trường lao động ở Việt nam
í . 2. cẫc hình thức tuyển dụng và thu hút lao động trong điều kiện nền
kinh tế thị trường
1.2.1. Tuyển đụng vào biên chế Nhà nưóc
1.2.2. Hình thức Hợp đồng lao động

1

1
1
12
21
23
35

Chương 2: Thực trạng áp dụng Hợp đồng lao động với vấn để bảo vệ
quyển và lợi ích hợp pháp cua người lao động trong quan hệ
lao động

42

2.1. Vai trò điều tiết của pháp luật Hợp đồng lao động với lợi ì ) , các
bên trong quan hệ lao động
2.2. Pháp luật Hợp đồng lao động với sự đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động trong quan hệ lao động
2.2.1. Một số vấn đề chung về Hợp đổng lao động


2.2.1.1. Phạm vi, đối tượng áp dụng Hợp đồng lao động .4
2.2.1.2. Nguyên tắc giao kết Hợp đồng lao động
2..2.1.3. Nội dung của Hợp đồng lao động
2.2.1.4. Phân loại Hợp đồng lao động
, 2.2.2. Sự bảo vệ quyền và lợi ích người lao động trong quá trình giao
kết Hợp đồng lao động
2.2.3. Sự bảo vệ quyền và lợi ích người lao động khi thay đổi, tạm
hoãn Hợp đồng lao động
2.2.3.1. Thực hiện, thay dổi Hợp đồng lao động
2.2.3.2. Tạm hoãn Hợp đồng lao động
2.2.4. Sự bảo vệ quyền và lợi ích người lao động khi chấm đứt Hợp
đồng lao động
2.2.5. Giải quyết tranh chấp về Hợp đồng lao dộng

42

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Hợp đồng lao
đọng

47
48
<4^?
51
56
66
71
81
81
85
88

92

97

i


LỜI IMÓI ĐẨU

Tính cấp thiết và tình hình nghiên cứu để tàl
Sự thừa nhận và phát triển nền kinh tế thị trường nói chung và thị trường
lao động nói riêng ở nước ta trong mấy năm qua đã tạo ra động lực cho sự vận
động và phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế thị trường và
thị trường lao động là những phạm trù rất mới đối với chúng 'ta cả về lý luận và
thực tiễn.
Trong thị trường lao động, hàng hoá được trao đổi đó là sức lao động, đây
là một loại hàng hoá đặc biệt bởi nó gắn liền với cơ thể con người và có khả năng
sáng tạo gía trị trong quá trình sử đụng. Cũng chính vì vậy, quan hệ lao động
trong thị trường là một loại quan hệ đặc biệt, Ĩ1Ó vừa là quan hệ kinh tế đồng thời
lại là quan hệ có tính xã hội và nhân văn sâu sắc bởi nó liên quan mật thiết đến
yếu tố con người; nó vừa là quan hệ thoả thuận vừa là quan hệ phụ thuộc; nó là
quan hệ bình đẳng, song bởi khả năng nảy sinh giá trị khi sử dụng nên dễ dẫn đến
sự bất công và nhất là bóc lột trong quan hệ. Để tham gia quan hộ, người lao
động duy nhất chỉ có một thứ tài sản là sức lao động, còn giới chủ có sức mạnh
rất lớn đó là tiềm lực kinh tế. Chính vì thế, người lao động dễ ở trong vị thế bất
lợi và thông thường người ta coi người lao động là kẻ yếu trong quan hệ. Xuất
phát từ lý do đó, trong thị trường, việc trao đổi hàng hoá sức lao động không thể
giống như các giao dịch với những hàng hóa thông thường khác mà cần thiết phải
có một hình thức pháp lý vừa tạo ra sự lưu thông bình thường, thuận tiện vừa đảm
bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đặc biệt là của người lao động

trong quan hệ lao động. Hình thức pháp lý đó chính là Hợp đồng lao động.
Trong hệ thống pháp luật lao động, Hợp đồng lao động là một chế định
chiếm vị trí quan trọng bậc nhất do đó đây là nội dung sớm được qui định và giữ
vai trò trung tâm trong quá trình xãy dựng, ban hành pháp luật lao động nhằm


điều tiết các quan hệ lao động trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Những văn
bản pháp luật kinh tế trong thời kỳ đầu của sự nghiệp đổi mói như Quyết định
217/HĐBT ngày 14/11/1987 về chính sách đổi mới kế hoạch hoá và hạch toán
kinh tế kinh doanh XHCN đối với xí nghiệp quốc doanh, Nghị định 27/HĐBT,
Nghị định 28/HĐBT, Nghị định 29/HĐBT ngày 9/3/1988 về chính sách đối với
kinh tế cá thể tư doanh, tập thể và gia đình... đều có những qui định và coi Hợp
đồng lao động là hình thức pháp lý chủ yếu thu hút và sử dụng lao động trong
điều kiện nền kinh tế đa thành phần. Sau đó, trước sự phát triển của thị trường lao
động, nhằm đáp ứng những đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội và trên cơ sở
rút kinh nghiệm sau mấy năm thực hiện, ngày 30/8/1990, Pháp lệnh Hợp đồng
lao động được ban hành. Tính đến thời điểm đó, đây là văn bản pháp luật đầu tiên
qui định tương đối chi tiết và đầy đủ nhằm điều chỉnh quan hệ Hợp đồng lao
động. Tiếp đó, ngày 23/6/1994, Bộ Luật Lao động được Quốc hội .thông qua và
có hiệu lực từ 1/1/1995 là sự đánh đấu cho bước phát triển không chỉ về số lượng
mà còn về chất lượng của pháp luật ỉao động nói chung và pháp luật về Hợp đồng
lao động nói riêng.
Tuy nhiên, sau một khoảng thời gian đáng kể thực hiện pháp luật Hợp
đồng lao động nhằm điều chỉnh quan hệ lao động trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận như góp phần quan trọng
giải phóng các tiềm năng lao động, đảm bảo quyền tự do lựa chọn việc làm, nơi
làm việc cho công đân, mở rộng khả năng tìm kiếm việc làm và tuyển dụng lao
động cho đơn vị sử dụng lao động, đảm bảo quyền và lợi ích các bên trong quan
hệ, góp phần giải quyết việc làm và một số các vấn đề xã hội... thì pháp luật Hợp
đồng lao động đã bộc lộ một số vấn đề chưa thật hợp lý, chưa đáp ứng được

những yêu cầu có tính bản chất của quan hệ lao động trong điều kiện kinh tế thị
trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: "IIọp đồng lao động vói vân đề đảm bảo
quyền và lọi ích hợp pháp của người lao dộng trong nền kinh tế thị tnídng" để viết


ỉuận án với mong muốn góp phần vào quá trình nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện
pháp luật lao động nói chung và pháp luật Hợp đồng lao động nói riêng ở nước ta.

Mục đích, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu:
Hợp đồng lao động với tư cách là hình thức pháp lý để xác lập quan hệ lao
động trong thị trường, cần khẳng định các qui định của pháp luật Hợp đồng lao
động luôn được xây đựng trên cơ sở của nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên trong quan hộ lao động trong sự dung hoà với lợi ích chung của
xã hội. Tuy nhiên, trong bản luận văn này, chúng tôi chỉ đặt phạm vi nghiên cứu
các quy định của pháp ỉuật Hợp đồng lao động với vấn đề đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của người lao động trong quan hệ lao động.
Vì vậy, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung nhất về kinh tế thị trường, thị
trường lao động và đặc điểm của thị trường lao động Việt nam, nghiên cứu tính
chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động trên thị trường và các qui luật khách
quan của thị trường sức lao động.
- Trên cơ sở đó, dưới góc độ thu hút, tuyển chọn và sử dụng lao động,
luận văn nêu bật sự cần thiết phải đa dạng hoá các hình thức tuyển dụng lao động
và lý giải tại sao Hợp đồng lao động được coi là hình thức pháp lý tuyển dụng
chủ yếu và phổ biến trong thị trường lao động.
- Nghiên cứu, xem xét, đánh giá vấn đề đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động trong mối liên hệ tương quan mật thiết, hữu cơ với
quyền và lợi ích của người sử dụng lao động trong quan hệ lao động.
- Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực trạng áp dụng, luận văn đưa ra một

số kiến nghị với hy vọng góp phần hoàn thiện pháp luật Hợp đồng lao động nhằm
đáp ứng một cách hữu hiệu quá trình điều chỉnh quan hê lao động trong nền kinh
tế thị trường.

iv


Phương pháp nghiên cứu và nhũng đóng góp chính của luận án:
Về phương pháp nghiên cứu, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lê-nin và những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta về kinh tế thị trường, thị trường lao động và một số các vấn đề kinh tế xã hội liên quan. Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin được kết hợp với
các phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích... đồng thời các qui định của pháp
luật như Hiến pháp, Luật Công đoàn, Bộ Luật Lao động... được sử dụng với tư
cách là cơ sở pháp lý từ đó làm sáng tỏ một cách khoa học và biện chứng những
nội dung mà luận án nghiên cứu.
Những đóng góp chính của luận án:
- Trên cơ sở các qui định hiện hành của pháp luật Hợp đồng lao động,
luận án đưa ra những nhận xét, bình luận, phân tích đồng thời thông qua những
luận cứ khoa học pháp lý và điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể, luận án đưa ra
những đề xuất nhằm bổ sung không chỉ về mặt kỹ thuật ỉập pháp mà trong một số
trường hơp cả về mặt nội dụng với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật
Hợp đồng lao động.
- Ngoài những kiến nghị nói trên, nhằm để có môi trường pháp lý lành
mạnh, từ đó tạo lập quan hệ lao động một cách ổn định, bền vững, hài hoà và thật
sự bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của người lao động, luận án còn đặt vấn đề
hoàn thiện đổng bộ một số các hoạt động khác liên quan như tăng cường vai trò
và hiệu quả hoạt động của công tác công đoàn, tổ chức công tác cung cấp thông
tin, dịch vụ trong thị trường lao động, nâng cao ý thức pháp luật...

Kết cấu của luộn án:

Ngoài lòi nói đầu, luận án được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Nền kinh tế thị trường và sự cần thiết đa dạng hoá các hình
thức tuyển dụng lao động.

V


—Chương 2: Thực trạng áp dụng Hợp đồng lao động đối với vấn đề bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong quan hệ lao động.
—Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng lao
động.
Bản luận án được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình vủa Phó giáo sư
Nguyên Hữu Viện - Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội. Tôi xin chân thành
cám ơn sự chỉ bảo và hướng dẫn của Phó giáo sư.
Trong một khoảng thòi gian nhất định với sự hạn chế về nguồn thông tin
tham khảo từ tài liệu cũng như thực tiễn nên luận án không thể tránh khỏi những
sai sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và chỉ bảo của các thẩy cô
giáo và các bạn.
Hà nội, tháng 10 năm ỉ 997


CHƯ ƠN G I
NỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ C Ầ N THIẾT
ĐA DẠNG HOÁ CÁC HÌNH THỨC TUYỂN DỤNG LAO ĐỘNG

1.1. Kỉnh tế thị trường và thị trưòng lao động ỏ Việt nam
ì. 1.1. Kinh tế thị trưòng và thị trường lao động
Kinh tế thị trường ra đời và phát triển không phải là cái riêng có của một
thể chế xã hội nào. Nó đánh dấu bước phát triển ở giai đoạn cao trong hoạt động
kinh tế của xã hội loài người.

Khởi nguyên của lịch sử, hình thức kinh tế chung đầu tiên của con người
đó là kinh tế tự nhiên. Đây là hình thức kinh tế mà quan hệ sản xuất biểu hiện
dưới dạng quan hệ trực tiếp giữa người với người chứ không thông qua khâu trung
gian, trình độ phân công lao động xã hội thấp, còn mang nặng tính chất tự nhiên
(theo giới và tuổi), qui mô sản xuất nhỏ, khép kín và lao động mang tính chất cá
nhân. Đây là loại hình kinh tế trong đó sản phẩm sản xuất ra không phải để trao
đổi trên thị trường mà để thoả mãn những nhu cầu nội bộ, chủ yếu là nhu cầu cá
nhân của người sản xuất.
Tuy nhiên, khi sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì dẫn đến
sự phân công lao động xã hội, sản xuất được chuyên môn hoá, năng suất lao động
tăng lên, sản phẩm dư thừa, diễn ra quá trình trao đổi sản phẩm, do đó sản xuất
hàng hoá ra đời. Sự thay thế kinh tế tự nhiên bằng kinh tế hàng hoá là một quá
trình lâu dài, phức tạp, song là sự tất yếu trong quá trình phát triển của sự phân
công lao động và sản xuất của xã hội loài người.
Kinh tế hàng hoá ra đời, đối lập về mặt bản chất với nền kinh tế tự nhiên.
Nếu như nền kinh tế tự nhiên, như trên đă trình bày sản xuất chỉ nhằm thoả mãn
những nhu cầu nội bộ, cá nhân thì nền sản xuất hàng hoá - đặc biệt trong nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa, với địa vị thống trị của kinh tế hàng hoá thì toàn bộ hoạt
động sản xuất trong xã hội chủ yếu là để kiếm lời thông qua quá trình trao đổi


mua bán. Và như vậy, sự xuất hiện của thị trường (không gian, địa điểm trao đổi,
mua bán) như là một tất yếu không thể thiếu được của nền sản xuất hàng hóa. Có
thể nói thị trường là đứa con sinh đôi với nền sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên thị
trường và kinh tế thị trường là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Thị trường, theo quan điểm của Adam Smith, đó là không gian trao đổi,
tức là địa điểm, là nơi diễn ra sự chuyển nhượng, sự trao đổi, sự mua bán hàng
hoá. Thị trường là tập hợp nhũ cầu của người tiêu đùng về một loại hàng hoá nào
đó và đồng thời là nơi diễn ra việc mua bán bằng tiền tệ. Thị trường là biểu hiện
phương thức liên hệ chủ yếu giữa người sản xuất hàng hoá và người tiêu dùng, thị

trường chỉ cho người sản xuất hàng hoá biết tình hình gì đang diễn ra trong sự
vận động của nền kinh tế quốc dân. Như vậy, thị trường là sự biểu hiện thu gọn
của quá trình mà thông qua đó các quyết định của người tiêu dùng về mặt hàng
nào? các quyết định của doanh nghiệp sản xuất cái gì? quyết định của người lao
động về làm việc cho ai? bao lâu?... đều được dung hoà và điều tiết bằng giá cả
và qui luật cung cầu của thị trường. Do đó, thị trường đóng vai trò to lớn trong ?i
việc điều chỉnh sản xuất, gắn sản xuất với tiêu dùng, liên kết các bộ phận của nền
kinh tế thành một thể thống nhất. Tuy nhiên, điều thực chất để hiểu được thị
trường là ở chỗ: thị trường không phải chỉ đơn thuần là nơi trao đổi, di chuyển
hàng hoá, địch vụ từ người sản xuất sang người tiêu dùng, mà sự trao đổi đó phải
được tổ chức theo các qui luật của lưu thông hàng hoá và tiền tệ.
Kinh tế thị trường ra đời gắn liền với nền kinh tế hàng hoá. Khi tất cả các
quan hệ kinh tế giữa con người đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá - người bán
cần tiền, người mua cần hàng, họ phải gặp nhau trên thị trường thì đó ỉà nền kinh
tế thị trường. Như vậy, điều kiện để nền kinh tế thị trường ra đời là khi các quan
hệ kinh tế xã hội và các sản phẩm xã hội đều mang hình thái quan hệ hàng hoá tiền tệ một cách phổ biến và chiếm địa vị thống trị. Do đó, kinh tế thị trường
chính là nền kinh tế mà mọi cái đều được tiền tệ hoá, các yếu tố sản xuất như
vốn, tài sản, sức lao động, các sản phẩm và dịch vụ làm ra, chất xám... đều có giá
cả và được hình thành do sự tác động của các qui luật khách quan trong nền kinh
tế thị trường. Có nhiều qui luật kinh tế chi phối nền kinh tế thị trường, song trên

2


thực tế có ba qui luật phổ biến và tác động lớn đến quan hệ kinh tế trên thị
trường, đó là qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh. Các qui luật
này có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó qui luật giá trị giữ vai trò cơ bản.
Song qui luật giá trị muốn thể hiện yêu cầu của mình qua giá cả thị trường lại
phải thông qua cơ chế vận đông của qui luật cung cầu. Ngược lại, qui luật cung
cầu muốn thể hiện yêu cầu của mình lại phải thông qua cơ chế của qui luật giá trị

là giá cả thị trường. Do mối quan hê chằng chịt đó nên sự vận động của hai qui
luật này rất phức tạp. Qui luật cạnh tranh là sự tồn tại tất yếu trong nền kinh tế
hàng hoá. Qui luật này tồn tại do sự độc lập của các nhà kinh doanh trêu thị
trường và do đó có sự độc lập về kinh tế, cạnh tranh về lợi ích kinh tế. Chính vì
vậy, qui luật giá trị là cơ sở của qui luật cạnh tranh. Sự thống nhất của cung cầu
từng loại hàng hoá, sự tách rời của giá trị khỏi giá cả thị trường là những cơ sở
quan trọng nhất của các hoạt động cạnh tranh trên thị trường. Thực tế đã chứng
minh rằng, do sự tác động của các qui luật kinh tế cho nên trong nền kinh tế thị
trường, hàng hoá, dịch vụ phong phú về chủng loại, đảm bảo về chất lượng đáp
ứng được mọi nhu cầu trên trị trường. Mặt khác nó kích thích luôn đảm bảo cho
sản xuất, kinh doanh với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, đồng thời do có ị
cạnh tranh nên việc áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ ... luôn được
doanh nghiệp chú ý. p ây cũng chính là mặt mạnh, là ưu điểm của nền kinh tế thị
trường. Tuy vậy, kinh tế thị trường cũng có những mặt hạn chế của nó. Xét về
mặt bản chất, kinh tế thị trường chứa đựng nhiều mâu thuẫn, sự điều tiết trên thị
trường mang tính tự phát rất cao. Các chủ thể tham gia thị trường, hoạt động vì
lợi ích riêng của mình cho nên trong kinh tế thị trường mâu thuẫn và xung đột
thường xuyên xảy ra, xã hội phân hoá sâu sắc giữa người giàu, người nghèo, tệ
nạn, tiêu cực xã hội gia tăng. Tất cả những điều đó gây ra tình hình không bình
thường trong quan hê kinh tế và trật tự xã hội. Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị
trường có thể dẫn đến suy thoái, khủng hoảng và thậm chí phá huỷ cả một hệ
thống kinh tế. Chính vì vậy, khi thừa nhậnvà phát triển nền kinh tế thị trường,
Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường kết hợp với sự
quản lý Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng này đã được thể

3

*



hiện trong các văn kiện của Đại hội Đảng VII và VIII. Chúng ta chủ trương và
quyết tâm: "Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường, đi đôi với vai trò tăng cường quản lý của Nhà nước theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng
xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái"1
. Như vậy, có thể thấy Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế với
sự tham gia của đa thành phần kinh tế cùng bình đẳng trước pháp luật. Nển kinh
tế hàng hoá phát ứiển trên cơ sở động lực của người sản xuất kinh doanh. Gắn
vấn đề kinh tế với vấn đề công bằng xã hội, với vấn đề bảo vệ môi trường, với giữ
gìn bản sắc dân tộc. Đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển.
Bên cạnh sự chi phối của các qui luật kinh tế khách quan trong thị trường, các
hoạt động kinh tế còn diễn ra dưới sự điều tiết của Nhà nước thông qua lực lượng
kinh tế quốc doanh, hệ thống đường lối, chính sách mà chủ yếu là bằng pháp luật.
Thực hiện các chủ trương nói trên, cũng có nghĩa là thừa nhận trong xã hội tồn tại
nhiều loại hình thị trường, tạo khả năng phát triển năng động cho các hoạt động
kinh tế như thị trường hàng hoá, thị trường tài chính, thị trường sức lao động... Có
nhiều cách để phân loại thị trường, tuy nhiên dưới góc độ hoạt động sản xuất thì
thị trường bao gồm hai loại: thị trường hàng hoá dịch vụ và thị trường các yếu tố
sản xuất. Trong thị trường các yếu tố sản xuất lại bao gồm thị trường sức lao
động, thị trường vốn, công nghệ và thị trường tài nguyên. Trong đó quan trọng
nhất là thị trường sức lao động vì sức lao động liên kết các yếu tố như vốn, công
nghệ, tài nguyên... được coi là các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh
doanh.
Thị trường lao động là một tất yếu của kinh tế thị trường. Cái cần mua và
bán ở đây là sức lao động, cái sản sinh ra công năng để sản xuất kinh doanh. Thị
trường sức lao động là mối quan hộ xã hội giữa người lao động cồ .thể tìm được
việc làm để có thu nhập và người sử dụng lao động có thể thuê được nhân công
bằng cách trả công để tiến hành sản xuất - kinh doanh. Như vậy, thị trường lao
động là một không gian của sự trao đổi tiến tới thoả thuận giữa người sở hữu sức


1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lẩn thú VIII - Ntià xu ít bản Chính trị quốc gia (trang 72)

4


lao động và người cần có sức lao động để sử dụng. Kết quả của quá trình trao đổi,
thoả thuận đó là tiền công được xác lập cùng với điều kiện, nghĩa vụ lao động cho
một công việc cụ thể. Đó chính là sự mua và bán sức lao động giữa hai chủ thể
người lao động (người bán) và người sử dụng lao động (ngươi mua). Khác với thị
trường hàng hoá thông thường: Một bên là sự trao đổi những sản phẩm của lao
động làm ra còn một bên là sự trao đổi sức lao động của người lao động, mà
những người lao động đó bị tách khỏi sở hữu về tư liệu sản xuất, chỉ còn cách
đem bán chính khả năng ỉao động "công năng và trí năng" của mình để duy trì
cuộc sống. Đây cũng chính là điều kiện để ra đời thị trường sức lao động. Nói
một cách cụ thể hơn: Muốn có thị trường sức lao động thì sức lao động phải được
coi là hàng hoá. Khi phân tích quá trình phát triển sản xuất Tư bản chủ nghĩa, c .
Mác đã nêu ra hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá:
Một là, người có sức lao động phải có quyến sử dụng sức lao động, tức
phải là người tự do có quyền sở hữu năng lực lao động của mình,

cóquyềnđem

bán nó như một thứ hàng hoá.
Hai là, sức lao động muốn trở thành hàng hoá thì người lao động phải là
người bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất. Do đó, để mưu sinh, người lao động buộc
phải cung cấp và bán ngay chính sức lao động của mình.
Có thể nói, từ buổi bình minh của chủ nghĩa Tư bản đến cuối thế kỷ 19,
việc phân tích của c . Mác như vậy là hết sức thực tế và chặt chẽ. Song khi nền
kinh tế hàng hoá phát triển đến một giai đoạn cao hơn thì tình hình đã có nhiều
thay đổi. Không phải chỉ những người mất hết tư liệu sản xuất mới bán sức lao

động của mình, hiện nay, phần đông những người lao động (kể cả những nước
đang phát triển) do quá trình tích luỹ, ít nhiều đã có sở hữu một lượng tài sản nhất
định. Như vậy, không phải tất cả những người đi làm thuê đều phải là người vô
sản mà có cả (thậm chí phần lớn) người hữu sản nhỏ. Bởi vì, người lao động khi
là chủ sở hữu nhỏ, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, họ có 3 cách lựa
chọn:

5


- Thứ nhất: Tự mình là người sản xuất - kinh doanh. Cách lựa chọn này có
khả năng mang lại hiộu quả cao, đổng thời tạo ra sự tự đo và một địa vị nhất định
cho người lao động. Tuy nhiên, tính rủi ro của sự lựa chọn này rất lớn. Nó có thể
làm cho người lao động mất hết, nếu như không biết kinh doanh. Hơn nữa, hình
thức kinh doanh với qui mô nhỏ, vụn vặt như vậy chỉ thích hợp và phát huy trong
điều kiện nền kinh tế thị trường chưa ổn định.
- Thứ hai: Là người làm thuê, bán sức lao động. Rõ ràng đối vói người có
sở hữu tài sản nhỏ mà không biết kinh doanh hoặc trong điều kiện sản xuất lớn,
qui luật lợi ích không cho phép người lao động tiến hành sản xuất kinh doanh và
để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho phần sở hữu ít ỏi của mình thì đây là cách lựa
chọn phù hợp.
- Thứ ba: Vừa là người sở hữu tài sản có tham gia kinh doanh vừa là người
làm thuê. Cách lựa chọn này giúp cho người lao động vừa trực tiếp tham gia quan
hệ lao động vừa có thể tham gia kinh doanh (chẳng hạn bằng cách mua cổ phiếu,
tham gia công ty cổ phần...)- Như vậy, họ duy trì được tài sản của mình, đồng
thòi bổ sung thêm từ sự tích lũy của tiền công làm thuê và từ phần lợi nhuận có
được qua khoản đầu tư mà họ không phải trực tiếp kinh doanh. Với điều kiện phát
biển của sản xuất lớn trong nền kinh tế thị trường thì cách lựa chọn thứ ba này tỏ
ra có ưu thế và được áp dụng phổ biến.
Như vậy, trong những điều kiện c . Mác nêu ra ở thòi kỳ đầu của chủ nghĩa

Tư bản, thì ngày nay để sức lao động trở thành hàng hoá, điều kiện thứ hai phải
xác định thêm là người lao động vì một lý do nào đó có nhu cầu (chứ không chỉ
là "buộc phải") bán sức lao động của mình. Điều này được cắt nghĩa bởi tình
trạng hữu sản hiện nay so với tình trạng vô sản của người lao động tại thòi điểm
c . Mác đưa ra những quan điểm của mình về kinh t.ế thị trường nói chung và thị
trường sức lao động nói riêng.
ở nước ta, thừa nhận kinh tế thị trường, thừa nhận sức lao động là hàng
hoá đánh dấu sự đổi mới tư duy theo chiều hướng tích cực của Đảng và Nhà nước
ta trong lĩnh vực kinh tế. Sự đổi mới này không chỉ phản ánh trong chủ trương,

6


đường lối mà còn được thể hiện trong tư duy pháp lý thông qua sự điều chỉnh của
pháp luật trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chúng ta thừa nhận, xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường trong một bối cảnh và điều kiện đặc biệt đó là
một nền kinh tế thị trường nhưng phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa với
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh... Vì vậy, việc nghiên
cứu vể kinh tế thị trường và đặc biột là hàng hoá sức lao động ở đây không chỉ có
ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa rất quan trọng về mặt thực tiễn.
Trên thị trường lao động, hàng hoá chính là sức lao động. Đây là một yếu
tố cơ bản của chi phí sản xuất, là một dạng công năng và trí năng của con người.
Tuy nhiên, hàng hoá sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt. Tính đặc biệt
của hàng hoá sức lao động thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất: Hàng hoá sức lao động luôn tồn tại gắn liền với cơ thể người
lao động (người bán). Chính vì vậy, đây là thứ hàng hoá mà người ta không thể
nhìn thấy, cầm, nắm, cân, đong, đo, đếm được như những loại hàng hoá thông
thường. Hay nói cách khác, đây là thứ hàng hoá mà người ta không thể định tính
hoặc định lượng nó được. Cũng chính vì vậy, việc xác định giá trị đích thực của
nó (chi phí giáo dục, chi phí khôi phục sức lao động...) là rất khó khăn. Tuy

nhiên, cần chú ý, sức lao động nằm trong con người nhưng nó không đồng nhất
với con người xét về nhiều mặt nhân cách, tư tưởng, tình cảm, đạo đức, ý thức...
và trên thị trường, khi người lao động tham gia quan hệ lao động thì cái họ mang
trao đổi đó là sức lao động. Thường họ bán sức lao động của mình trong một thời
gian, có thể rất dài (hàng chục năm) nhưng không bao giờ người lao động bị bán
bản thân mình một cách vĩnh viễn như kiểu quan hệ trong thời kỳ chiếm hữu nô
lệ trước đây (chủ nô bán nô lệ). Chính vì đặc điểm này, nên khi tham gia quan hệ
lao động, pháp luật lưu ý các chủ thể - đặc biệt là người sử dụng lao động - phải
lưu ý mặt nhân cách của hàng hoá sức lao động trong quá trình sử dụng.
- Thứ hai: Sức lao động là một loại hàng hoá mà khi sử dụng nó sáng tạo
ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của chính bản thân nó. Đây là đặc điểm rất đặc
trưng của hàng hoá sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động trên thị trường
được biểu hiện thông qua tiền lương, khi người mua sử dụng sức lao động (kết

7


hợp với các yếu tố khác được gọi là đầu vào của quá trình sản xuất), tạo ra được
sản phẩm. Sau khi bán sản phẩm, trừ đi các chi phí còn lại một khoản dư - đó là
lợi nhuận. Phần lợi nhuận này (hay giá trị sáng tạo thêm) rõ ràng là do sức lao
động tạo ra bởi công cụ lao động và đối tượng lao động không thể tự liên kết, vận
động. Như vậy, sức lao động là yếu tố chi phí của quá trình sản xuất, đồng thời
cũng là yếu tố mang lại lợi ích cho quá trình đó.
Ngoài những đặc điểm nói trên, cũng giống như mọi hàng hoá khác, hàng
hoá sức lao động đều có giá trị và giá trị sử dụng. Trước hết, nói về giá trị sức lao
động. Người ta đo giá trị ấy bằng cái gì? Đo bằng thời gian lao động cần thiết để
sản xuất ra sức lao động đó. Để sản xuất sức lao động, trước hết phải tiêu dùng
một lượng của cải vật chất nhất định nhằm sản sinh và nuôi dưỡng người lao động
mà cụ thể là chi phí để tạo ra năng lực lao động.


c. Mác coi đây là chi phí để sản

xuất ra sức lao động mới, chi phí duy trì vĩnh viễn sức lao động trên thị trường
(tái sản xuất sức lao động). "Những người sở hữu sức lao động đều có thể chết đi.
Muốn luôn luôn có những người lao động trên thị trường như sự chuyển hoá
không ngừng của tư bản, thì phải làm cho họ sống vĩnh viễn như mỗi cá nhân
sống vĩnh viễn bằng cách sinh con đẻ cái"1 . Trong quá trĩnh lao động, người lao
động phải tiêu hao trí tuệ, sức lực. Để duy trì, khôi phục sức lao động đã hao phí,
người lao động phải được ăn uống, nghỉ ngoi hợp lý và như vậy phải tiêu dùng
một lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết.
Sức lao động ỉà năng lực hoạt động của con người, bao gồm cả thể lực và
trí lực. Vì vậy, sản xuất sức lao động không chỉ khôi phục ỉlại sức lao động đã hao
phí về mặt thể lực mà cần tạo cho con người có khả năng hiểu biết nhất định cả
về văn hoá và chuyên môn.

c. Mác viết:

"Để cho sức la<0 động phát triển theo

hướng nhất định phải có sự giáo dục nào đó, mà chính siự giáo dục này lại tốn
một lượng hàng hoá ngang giá"2
Như vậy, giá trị sức lao động bao gồm:

1 Tu bản - CacMark - Quyển I NXB Sự thật Hà nội nam 1962 (trang 238)
2 Tư bản - CacMark - Quyển 1 NXB Sự thật Hà nội năm 1962 (trang 240)

8


1. Giá trị của những chi ph í đ ể nuôi dưỡng con người trước và sau tuổi

có khả năng lao động.
2.Giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết đ ề bù đắp lại sức lao
động đã hao p h í trong quá trình sản xuất.
3.

Giá trị của những chi p h í cần thiết cho giáo dục nhằm tích luỹ khả
năng chuyên môn, kiến thức x ã hội.

Giá trị sức lao động không phải là một yếu tố cố định, nó có thể thay đổi,
khác nhau giữa các khu vực, các vùng tuỳ từng giai đoạn phát triển nhất định.
Tuy vậy, trong mỗi thời kỳ nhất định, tại một thị trường lao động cụ thể, giá trị
sức lao động có thể xác định được và tương đối ổn định. Trong kinh tế thị trường,
giá cả sức lao động có thể dao động quanh giá trị của nó tuỳ thuộc vào quan hệ
cung cầu sức lao động.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện rõ trong quá trình
người sử dụng lao động (người mua)- sử dụng sức lao động của người lao động
(người bán).
Cũng như bất kỳ một thị trường nào, thị trường sức lao động cũng chịu sự
tác động của các qui luật kinh tế khách quan trong đó có ba qui luật cơ bản: Qui
luật giá trị, qui luật cung cầu và qui luật cạnh tranh. Các qui luật này vận động và
phát huy tác dụng trong những phạm vi khác nhau của thị trường song giữa chúng
có mối liên hệ mật thiết hữu cơ vói nhau.
Như chúng ta đã biết, tiền lương là giá cả sức lao động và nó được xác
định trên cơ sở của giá trị sức lao động. Tuy nhiên, tiền lương với tư cách là giá
cả sức lao động lại chịu sự chi phối rất lớn của qui luật cung cầu. Nếu cung cầu
bằng nhau thì tiền lương phản ánh tương đối đầy đủ giá trị của nó. Song trong xã
hội cung và cầu thường xuyên biến động, không phải bao giờ cũng cân bằng.
Chính sự mâu thuẫn giữa nhu cầu có việc làm và khả năng giải quyết việc làm là
nguy cơ tiềm tàng, đe doạ thường xuyên về mối quan hê cung cẫu cho bất cứ một
thị trường lao động nào, đặc biệt là những nước chưa phát triển. Tỉ lê thất nghiệp

là biểu hiện rõ nét nhất của quan hê cung cầu. Trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường, đại bộ phận các quan điểm đều cho rằng thất nghiệp là hiên tượng có tính

9


tất yếu khách quan, người ta chỉ có thể hạn ;hế chứ không thể loại trừ được nó.
Như vậy, cũng có nghĩa rằng quan hệ cung (ầu trong thị trường lao động không
bao giờ có thể cân bằng. Và đương nhiên

sụ

thay đổi của quan hệ cung cầu lao

động ảnh hưởng rất lớn đến tiền lương thực ế của người lao động. Tại thòi điểm
thoả thuận nếu cung lớn hơn cầu thì tiền lưcng thấp và ngược lại nếu cung nhỏ
hơn cầu thì tiền lương được nâng cao, mặc dì trình độ, chuyên môn, chất lượng,
hiệu quả của lao động vẫn như vậy. Mặt khác, ở đây cũng cần lưu ý, sự cung cầu
về hàng hoá, sản phẩm của xã hội cũng là yíu tố ảnh hưởng nhất định đến tiền
lương. Khi nhu cầu về một loại dịch vụ, hàn£ hoá, sản phẩm của xã hội đột ngột
tăng lên hay giảm đi cũng là một nhân tố đáng kể tác động đến sự tăng hay giảm
tiền lương. Tuy tiền lương chịu sự ảnh hưởng rất lớn của qui luật cung cầu nhưng
đồng thời nó cũng có tác động ngược trở lại. Nếu mức tiền lương cao thì số người
có nhu cầu lao động sẽ lớn, cung có thể hơn sầu; nếu mức tiền lương thấp thì số
người đi làm việc ít đi và do đó nhu cầu sử dựig lao động tăng lên và cầu lớn hơn
cung. Như vậy, cung cầu và giá cả sức lao động (tiền lương) tác động qua lại lẫn
nhau, điều tiết thị trường lao động.
Thị trường lao động còn chịu sự chi phối của qui luật cạnh tranh. Cạnh
tranh là thuộc tính đồng thời cũng là động lực của thị trường. Cạnh tranh trong thị
trường được thực hiện bởi các chủ thể tham gia quan hệ có sự độc lập về kinh tế

và đối lập về lợi ích. Sự cạnh tranh này trong nhiều trường hợp khồng lệ thuộc
vào tương quan cung cầu. Chẳng hạn, giữa những người bán (người lao động), khi
cầu lớn hơn cung, họ vẫn cạnh tranh với nhau bởi ai cũng muốn được làm việc
trong điều kiện lao động tốt hơn, tiền lương cao hơn. Còn giữa những người mua
(người sử dụng lao động), khi cung lớn hơn cầu, họ cũng có thể cạnh tranh với
nhau để có được lực lượng lao động tốt nhât, rẻ nhất. Song như ứên đã trình bày,
cạnh tranh là động lực của thị trường, vì vậy, duy trì cạnh tranh là cần thiết để
thúc đẩy sự vận động và phát triển của thị trường lao động. Tuy nhiên, trong thực
tế, các chủ thể có xu hướng muốn được độc quyền và duy trì thế độc quyền của
mình trong quan hệ trên thị trường. Chính vì vậy, để duy trì và bảo đảm sự phát
triển lành mạnh của thị trường Nhạ nước cần can thiệp, đưa ra các tiêu chí nhằm

10


duy trì sự cạnh tranh trên thương trường. Sự can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực
này thể hiện thông qua các qui định pháp luật về cạnh tranh, luật chống độc
quyền... Trên thị trường lao động, theo quan điểm chung của nhiều nhà lý luận
thì môi trường cạnh tranh lý tưởng là cung lớn hơn cầu một chút (tỉ lệ thất nghiệp
trong xã hội chiếm 2% -3%).
Song thị trường lao động là một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo bởi
hàng hoá trao đổi ở đây ỉà sức lao động, nó luôn gắn liền với cơ thể người lao
động, nó là thứ hàng hoá trừu tượng, người ta không thể mua bán nó giống như
các loại hàng hoá khác (bày bán ở chợ). Hơn nữa, việc thuê mướn sức lao động
thường trong một thời gian dài với giá cả (tiền lương) tương đối ổn định. Vì vậy,
giá cả sức lao động thường không có phản ứng nhạy bén, linh hoạt như các hàng
hoá khác khi cung cầu biến động. Mặt khác, những người mua (người sử dụng lao
động) là những người có tiềm lực kinh tế và chi phối nhiều đến lợi ích của ngưòi
bán (người lao động) trong tương lai, vì vậy, mối quan hệ của họ trong thị trường
không phải bao giờ cũng thật sự là những quan hệ song phương. Do đó ít nhiều

cũng ảnh hưởng đến môi trường của sự cạnh tranh. Nhưng thị trường sẽ bị biến
dạng hoặc bị thủ tiêu nếu không có cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh.
Chính vì vậy, trách nhiệm của những nhà lập pháp là phải xây dựng được các tiêu
chí, chuẩn mực, điều kiện cạnh tranh nhằm vừa đảm bảo quyền tự do của các chủ
thể vừa duy trì sự cạnh tranh công bằng trên thị trường.
Tóm lại, thị trường lao động là toàn bộ những quan hệ kinh tế, pháp lý hình
thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động. Hàng hoá trao đổi trên thị trường lao
động đó là một loại hàng hoá đặc biệt - Sức lao động. Thuộc tính đặc biệt quan
trọng nhất của hàng hoá sức lao động là khi sử dụng nó, với tư cách là hàng hoá
thì ngay trong quá trình sử dụng - Sức lao động - tự nó đã làm nảy sinh ra một giá
trị lớn hơn giá trị chính bản thân nó. Đây chính là động lực thúc đẩy các bên
tham gia quan hệ và phần giá trị sáng tạo thêm này (cũng có nghĩa là năng suất
lao động) nhiều hay ít là điều kiện để doanh nghiệp phát triển và nói rộng ra là cơ
hội tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Chính với ý nghĩa quan trọng này mà có lẽ
không có một giao dịch nào trong thương trường lại được pháp luật qui định và

11


bảo vệ chặt chẽ như việc mua bán và sử dụng hàng hoá sức lao động. Thị trường
lao động cũng giống như các thị trường khác, nó vận động và phát triển trên cơ sở
sự chi phối của các qui luật giá trị, qui luật cung cầu và qui luật cạnh tranh. Các
qui luật này có mối liên hệ mật thiết với nhau trong đó qui luật giá trị giữ vai ừò
cơ bản. Ngoài ra, thị trường lao động với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế
thị trường, nó còn ảnh hưởng và tác động qua lại với các thị trường khác như thị
trường tài chính, thị trường công nghệ., và một số các môi trường liên quan như
môi trường chính trị, môi trường văn hoá - xã hội và môi trường pháp luật.

1.1.2. Một Số vấn đế vể thị trưòng lao động ỏ Việt nam.
Nằm trong bối cảnh chung của sự hình thành và ra đời nền kinh tế thị

trường, thị trường lao động ỏr nước ta mới chỉ xuất hiện và phát triển trong một
vài năm gần đây. Trước đó, như chúng ta đều biết, trong một thời gian dài, nước
ta duy trì nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp trên cơ sở nền tảng của chế
độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất với sự thống trị độc tôn của kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể. Khi đó, được làm việc trong khu vực Nhà nước là giấc
mơ ngự trị trong tâm tư, nguyện vọng của đại bộ phận người lao động, bởi đồng
nghĩa với việc làm lúc đó là sự đảm bảo, bao cấp suốt đời về chế độ, quyền lợi
cho người lao động. Trong một điều kiện và cơ sở kinh tế như vậy, không thể có
sự tồn tại một cách hợp pháp của thị trường lao động.
Từ sau Đại hội VI, Đảng ta chủ trưcmg phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần cũng có nghĩa rằng thừa nhận sự tổn tại và phát triển của kinh
tế thị trường. Với nguyên tắc tự do kinh doanh đã được Hiến pháp 1992 qui định,
lần đầu tiên quyền tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc của người lao động,
quyền chủ động tuyển chọn, bố trí sử dụng lao động của người thuê mướn lao
động được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Bên cạnh (ỉó, do sắp xếp tổ chức lại lao
động trong khu vực Nhà nước, do nhu cầu việc làm của người lao động, do nhu
cầu về sức lao động cho các thành phần kinh tế khác..., tất cả những yếu tố đó
cùng với một môi trường pháp lý thuận lợi đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát
triển của thị trường lao động.
Thị trường lao động Việt nam có những đặc điểm chính sau đây:

12




Mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cẩu lao động.

• Mang tính tự phát cao, bị phân tán và chia cắt.
• Các quan hệ lao động đang trong quá trình hình thành, phân hoá và

biến đổi.
• Mang đặc điểm chung của kinh tê' thị trường nước ta - đó là tính
~ định hướng 'Xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng đặc điểm nói trên.
Đặc điểm thứ nhất: Thị trường lao động Việt nam mất cân đối nghiêm
trọng giữa cung và cầu.
Quá trình hình thành nguồn lao động gắn với qui mô, cơ cấu và tốc độ
tăng dân số. Vì thế, cần làm rõ mối quan hệ giữa phát triển dân số, các nguồn lao
động với cung về sức lao động. Dân số nước ta đứng thứ 13 trên thế giới, tốc độ
tăng dân số tự nhiên là 2% l ở nước ta hiện nay vẫn là một trong những nước có tỉ
lệ tăng dân số vào loại cao. Năm 1995, dân số nước ta là 74 triệu người. Theo các
chuyên gia dân số, ngay như nếu chúng ta đạt được mục tiêu mức sinh thay thế
vào năm 2015 thì giữa thế kỷ 21 dân số nước ta sẽ ổn định ở mức 140 - 154 triệu
ngưcd. Nếu phấn đấu đạt mức sinh thay thế vào năm 2005, thì dân số sẽ ổn định ở
mức 120 triệu người. Còn vói tốc độ tăng dân số như hiện nay thì con số đó sẽ
cao hơn nhiều. Những phương án đó đặt chúng ta trước một sự lựa chọn quyết liệt
bởi vấn đề dân số đang là vấn đề nóng bỏng và tạo sức ép về nhiều mặt không chỉ
là lao động và việc làm. Cơ cấu dân số nước ta thuộc loại hình dân số trẻ, dân số
trong độ tuổi lao động chiếm 50%, trên độ tuổi lao động 13%, dưới độ tuổi lao
động 37%2 . Theo ước tính bình quân mỗi năm ở nưốc ta có khoảng hơn 1 triệu
thanh niên bước vào độ tuổi lao động. Vì vậy, áp lực về việc làm rất lớn. Hiện tại
số lao động chưa có việc làm ở nước ta nói chung, ở thành thị nói riêng và đặc
biệt ở một số thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung rất lớn (riêng thành thị
khoảng l°ỉo ). Trong số người chưa có việc làm đó thì 80% thuộc lứa tuổi thanh

1 Kinh tế xã hội Việt nam - Thực trạng, xu thế và giải pháp - NXB thống kô 8/1996 (Trang 85 và 87)
2 Thị trường lao động, thực trạng và giảípháp - NXB Thống ke (Trang 66)
3 Van kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lẩn thứ 8 N XB chính Irị Quốc gia (trang 166)



niên, phần lớn họ là người chưa có nghề, thiếu vốn để tổ chức làm ăn, một số còn
lại là những người tốt nghiệp ở các trường chuyên nghiệp và dạy nghề, là người bị
mất việc làm, là bộ đội xuất ngũ, lao động từ nước ngoài trở về, hồi hương (20
vạn người trở về chủ yếu là ở Liên Xô và Đông Âu trước đây, 7 vạn người di tản
hồi hương từ các trại tị nạn...) Nông thôn là nơi tập trung 80% dân số và 70% số
dân làm nghề nông1 . Tuy nhiên, cầu về lao động ở nông nghiệp nước ta còn rất
yếu bởi việc áp dụng khoa học kỹ thuật, tốc độ phát triển, diện tích canh tác hạn
chế. Hiện nay, đất đai canh tác bình quân trên một lao đông ở nông thôn rất thấp
(0,3ha/ 1 lao động). Nếu làm thuần nông sẽ dư thừa ít nhất 1/3 lao động, có nơi
dư thừa 1/2 lao động. Nhiều xã ở vùng đồng bằng sông Hổng với 20 nhân khẩu
trên 1 ha thì dù năng suất lúa đạt từ 10 đến 12 tấn/ha/năm giỏi lắm cũng chỉ đủ ăn
sau khi trừ chi phí và thuế1. Nghèo đói và thiếu việc làm là nguyên nhân dẫn tói
việc di cư của người nông dân nông thôn ra thành thị, không những làm dân số đô
thị tăng nhanh (bình quân khoảng 4,3% năm)1 mà còn gia tăng sức ép về lao
động.
Cung về lao động như vậy, còn cầu thì sao? Thị trường lao động nước ta
thể hiện rất rõ nét tình trạng mất cân bằng và cơ cấu lạc hậu. Trước hết, quan hệ
cung cầu lao động của chúng ta vừa thừa lại vừa thiếu. Theo thống kê, đại bộ
phận những người không có việc làm ở nước ta là trình độ ỉao động giản đơn,
nhưng số lao động kỹ thuật, thợ lành nghề, quản lý còn rất thiếu (hiện thị trường
lao động nước ta có khoảng hơn 2 nghìn người nước ngoài vào làm việc với tư
cách là các cố vấn, chuyên gia, cán bộ kỹ thuật do lao động Việt nam không đảm
đựơng được). Như vậy, thị trường chúng ta lao động phổ thông "thừa tương đối",
lao động chất lượng cao "thiếu tuyệt đối" (hiện nay, tính chung trong toàn quốc
có 87,7% số người thuộc lực lượng lao động không có trình độ chuyến môn kỹ
thuật, 9,9% có trình độ công nhân kỹ thuật và trung học, 24% có trình độ cao
đẳng, đại học và trên đại học)2. Khu vực kinh tế quốc doanh trước đây là "cái túi"
chứa đựng, giải quyết phần lớn nhu cầu lao động của xã hội thì hiện nay, sau một

1 Kinh tế Việt nam - thực trạng và giải pháp - NXB thống kẽ 8/1996 (Trang 88)

2 Thực trạng lao dộng, việc làm ở Việt nam 1996 - N X lỉ Thống kô 1997 (Trang 28)

14


thời kỳ đổi mới, sắp xếp, tổ chức lại, tinh giảm biên chế thì chỗ làm việc giảm rất
mạnh. Điều này là hợp lý và cần thiết, bởi doanh nghiệp quốc doanh cũng chỉ nên
đảm nhiệm một số ngành then chốt trong nền kinh tế mà không nên và không cần
thiết phải có mặt ở mọi lĩnh vực. Khu vực kinh tế tập thể cũng đang thu hẹp dần
vì hiệu quả thấp nên cũng chuyển hướng kinh doanh thành kinh tế cá thể hoặc
liên kết với nhau (đặc biệt khu vực nông nghiệp cung rất lớn nhưng lại luôn trong
tình trạng- thiếu việc làm, năng suất lao động thấp có nghĩa là cầu rất hạn chế).
Như vậy, thực tế hiện nay, nơi có nhu cầu lao động nhiều nhất là khu vực kinh tế
tư bản tư nhân. Hiện nay hơn 200 000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã giải
quyết việc làm cho gần 5 triệu lao động (tuy nhiên nhược điểm là việc làm ở khu
vực này thường bấp bênh không ổn định). Nhưng tốc độ phát triển kinh tế như
hiện nay, khả năng giải quyết việc làm ở khu vực này là một tiềm năng rất lớn
trong tương lai. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của Nhà nước về môi trường pháp lý, đầu tư,
thông tin, dịch vụ việc làm... là rất cần thiết để thành phẩn kinh tế này có vị trí
vững vàng trên thương trường, từ đó có khả năng tạo và giải quyết nhiều việc làm
ổn định, lâu dài cho người lao động.
Trên đây là bức tranh không mấy sáng sủa về quan hệ cung cầu của thị
trường lao động Việt nam. Mặc dù nhiều chuyên gia chó rằng nước ta lực lượng
lao động thông minh, cần cù, trẻ, số lượng trong độ tuổi lao động lớn là một thế
mạnh song có lẽ hiện tại và kể cả một vài năm tới chúng ta nên nhìn nhận điều đó
như một khó khăn phải giải quyết nhiều hơn là một lợi thế cho sự nghiệp xây
dựng và phát triển kinh tế.
Để giải quyết một cách hữu hiệu và hạn chế sức ép quá lớn về cung cầu
lao động để từ đó thị trường lao động có thể vận động và phát triển lành mạnh, rõ
ràng ở đây vai trò của Nhà nước rất quan trọng. Một cách tổng quát ỉà Nhà nước

cần có sự tác động cả vào cung cầu và lao động, dần đần làm cho cung và cầu lao
động đạt trạng thái cân bằng. Để giảm sức ép của cung và tăng cầu về lao động
có mấy điểm cần chú ý:
— Thứ nhất: v ề lâu dài, cần có chính sách dân số hợp lý. Có thể nói trong
mấy năm gần đây, với sự quan tâm và đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà nước,

15


công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình của chúng ta đạt những kết quả rất đáng
khích lệ. Năm 1995, ngân sách Nhà nước chi cho công tác dân số được Quốc hội
phê chuẩn là 245 tỉ đồng, gấp hơn 16 lần so với mức đầu tư năm 1991 (15 tỉ
đồng) và gấp 9 lần mức đầu tư năm 1992. Nếu kể cả vốn việc trợ không hoàn lại
và vốn ODA thì mức đầu tư cho công tác dân số đã tăng từ mức
0,15ƯSD/người/năm năm 1990 lên xấp xỉ 0,6USD/người/năm là mức tối thiểu để
đảm bảo thực hiện mục tiêu dân số. Kết quả là trong 5 năm qua, đặc biệt trong
năm 1993, tỉ lệ sinh giảm mạnh trên từng khu vực, địa phương cũng như toàn
quốc (trung bình giảm gần 1%0 hàng năm)1. Tuy nhiên, chính sách dân số nhằm
giảm cung lao động là một biên pháp lâu dài. Bởi vì nếu có hiệu qụả ngay cũng
phải sau khoảng 15 đến 20 năm mới phát huy tác dụng.
— Thứ hai: Biộn pháp hữu hiệu nhất và phát huy tác dụng nhanh chóng để
hạn chế sức ép của cung là tăng cầu lao động nhanh chóng và hợp lý.
Thực tế trong mấy năm gần đây, Nhà nước đã có nhiều hưóng giải quyết
việc làm có hiệu quả như khuyến khích đầu tư trong nươc, xuất khẩu lao động,
hợp tác vay vốn nước ngoài, mở trung tâm dịch vụ việc làm, khuyến khích tự tạo
việc làm, phát triển kinh tế hộ gia đình... Đặc biệt nguổn kinh phí của quỹ tạo
việc làm từ nguồn ngân sách Nhà nước, các chương trình dự án trong và ngoài
nước, tới nay đã có trên 2000 tỉ đồng mỗi năm tạo thêm 35 - 40 vạn chỗ làm việc
mói. Chương trình cho vay vốn từ quỹ quốc gia để giải quyết việc làm theo tinh
thần Nghị quyết 120/HĐBT đã đạt kết quả đáng kổ. Sau 4 năm thực hiện, đến

12/1995 có 27.503 dự án nhỏ được vay với số vốn 1099 tỉ, thu hút hơn 1059 lao
động có việc làm mới, 30% vượt khỏi tình trạng thiếu việc làm. Tổng hợp lại
trong 5 năm qua chúng ta đã giải quyết được thêm gần 5 triệu người có việc làm.
Tỉ lệ lao động không có việc làm ở thành thị đã giảm từ 9% - 10% (năm 1990 1991) xuống còn 6% - 7% (năm 1995)1 . Rõ ràng, có thể nói việc ngân sách Nhà
nước dành một phần cho xúc tiến việc làm, đạy nghề xã hội đã trở thành."cú kích
vật chất" quan trọng thúc đẩy dân bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh tạo thêm việc
làm cũng có nghĩa là tăng đáng kể về lao động trong xã hội.
1 Kinh tế xã hội Viẹt nam, xu thế và giải pháp -NXB thống kê 8/1996 (Trang 85, 86 và 89)

16


Mặt khác, để giảm cung vể lao động thì một vấn đề quan trọng là phải hạn
chế, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Muốn vậy, một trong những biện pháp cần thiết là tạo
được chỗ làm việc lâu dài, ổn định cho người lao động. Rõ ràng để làm được điều
này công tác dạy nghề, đào tạo, đào tạo lại, nãng cao tay nghề cho người lao
động phải được quan tâm thoả đáng, bởi vì trong điều kiện nền kinh tế thị trường,
đầu tư khoa học kỹ thuật, cải tiến công nghệ là thường xuyên, tất yếu với doanh
nghiệp, do đó người lao động chỉ có việc làm ổn định nếu thường xuyên nâng cao
chất lượng chuyên môn. Hơn nữa, hoạt động đào tạo cũng gắn liền với năng suất,
chất lượng, hiệu quả tức lợi ích của doanh nghiệp, của xã hội. Chính vì vậy, công
tác đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động được pháp luật qui định như là
một trách nhiệm của Nhà nước và của chính các bên trong quan hệ lao động.
Chương trình, mục tiêu kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 cũng xác định: "Nâng cao
mặt bằng dân trí. Đào tạo, bồi dưỡng nguổn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tăng tỉ lệ người lao động được đào tạo
trong tổng số lao động lên 22 -2 5 % vào năm 2000"1 .
Cuối cùng, để giải quyết hợp lý mối quan hệ cung cầu lao động, Nhà nước
cần có những qui định pháp luật, chế độ, chính sách hợp lý nhằm thu hút đầu tư
từ bên ngoài, tận dụng được mọi tiềm năng của toàn xã hội tham gia vào hoạt

động kinh tế, tạo việc làm. Cần kiện toàn các qui định về thông tin, môi giới, dịch
vụ việc làm, tạo môi trường pháp lý để các bên thiết lập quan hệ lao động một
cách thuận tiện và nhanh chóng.

Đặc điểm thứ hai: Thị trường lao động Việt nam mang tính tự phát cao,
bị phân tán và chia cắt.
Hiện nay, đo tác động của thị trường cùng với những qui định nhằm đảm
bảo quyền tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc của cóng dân nên sự di chuyển
các dòng lao động trên thị trường lao động nước ta tương đối dễ dàng và thuận
tiện. Sự vận động này là cần thiết cho thị trường lao động và bước đầu đã tuân
theo các qui luật của thị trường, góp phần điều chỉnh cung cầu từ nơi thừa đến nơi
thiếu, làm giảm sức ép việc làm trong cả nước. Tuy nhiên, ở nước ta, nhìn chung

1 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần iliứ 8 - NXB Chính trị quốc gia (trang 38)

17


×