1. Lời mở đầu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài:
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hay còn gọi là Công nghiệp châu Âu 4.0,
lần đầu tiên là về việc sử dụng trí tuệ nhân tạo, robot, genomics và quy trình, thiết kế
sáng tạo và khả năng tính toán tốc độ cao để cách mạng hóa sản xuất, phân phối và
tiêu thụ. Tài chính là một công cụ phái sinh của nền kinh tế thực - mục đích của nó là
phục vụ sản xuất thực sự. Tài chính ban đầu là tất cả về tài chính thương mại và chính
phủ tham gia vào chiến tranh. Một lần nữa, với việc phát minh ra máy fax đầu tiên, sau
đó là Internet tăng tốc lưu trữ và truyền tải thông tin vào những năm 1980, tài chính và
công nghiệp đã có một bước nhảy vọt về thời đại công nghệ thông tin. Tài chính 3.0 là
thời đại của các công cụ tài chính phái sinh, trong đó các công cụ phái sinh rất phức
tạp (và có đòn bẩy cao) trở nên mờ nhạt đến nỗi các nhà đầu tư và cơ quan quản lý
nhận ra chúng trở thành thứ mà Warren Buffett gọi là vũ khí hủy diệt hàng loạt. Tài
chính 3.0 bị đình trệ vào năm 2007 với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và chỉ
được hỗ trợ bởi sự can thiệp lớn của ngân hàng trung ương về chính sách tiền tệ độc
đáo với lãi suất chưa từng có trong lịch sử.
Tài chính 3.0 và các phiên bản trước đó đều là về một hệ thống sổ cái phân cấp từ
trên xuống hoặc phân cấp, giống như một kim tự tháp, trong đó thương mại và các khu
định cư giữa hai bên được giải quyết trên một sổ cái cao hơn.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) có thể tạo nên sự cạnh tranh
quyết liệt nhưng cũng là cơ hội để các tổ chức tài chính không ngừng phát triển dịch
vụ tài chính chuyên nghiệp, góp phần công khai minh bạch các thông tin, nâng cao
chất lượng dịch vụ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người dân.
Các nghiên cứu cho thấy, CMCN 4.0 sẽ tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ hơn theo
những cách thức mới, trong những nội dung mới của lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân
hàng và dịch vụ thanh toán. CMCN 4.0 sẽ làm thay đổi hoàn toàn các kênh và phương
thức huy động, phân phối vốn, phương thức tiếp cận vốn, tiếp cận các sản phẩm dịch
vụ, dịch vụ tài chính.
CMCN 4.0 sẽ làm thay đổi hoàn toàn kênh phân phối và các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng truyền thống. Từ đó, đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải ứng dụng nhiều hơn
công nghệ thông tin, kỹ thuật số để có thể tích hợp với nhiều sản phẩm dịch vụ phụ trợ
nhằm làm hài lòng khách hàng. Dữ liệu lớn (Big Data) và phân tích hành vi khách
1
hàng sẽ là xu hướng tương lai cho thời đại công nghệ số khi có thể thu thập dữ liệu bên
trong và bên ngoài thông qua tổ chức phân tích hành vi khách hàng nhằm nâng cao
chất lượng dịch vụ, mang lại giá trị gia tăng, tiết giảm chi phí và hỗ trợ cho các quá
trình ra quyết định (Jan Smit, Stephan Kreutzer, Carolin Moeller & Malin Carlberg,
2016). Với sự phát triển mạnh mẽ của CMCN 4.0, xu hướng “ngân hàng không giấy”
sẽ trở nên phổ biến và từng bước làm giảm dần vai trò của các chi nhánh. Khi đó, sẽ
buộc các tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng, ngân hàng phải thay đổi phương thức
thanh toán, thay đổi chức năng tiền tệ và cách thức điều hành chính sách để thích ứng
với yêu cầu điều hành kinh tế vĩ mô nền kinh tế và hệ thống tài chính quốc gia.
Đối với cơ quan quản lý, nhờ CMCN 4.0 mà hệ thống công nghệ thông tin được
ứng dụng sâu rộng vào hầu hết các hoạt động nghiệp vụ tài chính, trở thành mạch máu
không thể thiếu trong quản lý điều hành ngân sách nhà nước; Quản lý thu - chi ngân
sách nhà nước; Thanh toán điện tử và quản lý trái phiếu chính phủ; Triển khai thuế
điện tử, hải quan điện tử, cơ chế một cửa; Quản lý nợ công, giá, quản lý tài sản công…
Từ đó, giúp công tác quản lý, điều hành vĩ mô trở nên dễ dàng, tiện lợi và kịp thời hơn.
Tuy nhiên, CMCN 4.0 cũng đặt ra những thách thức về bảo mật, do đó an ninh
mạng trở nên vô cùng quan trọng. Với sự phát triển ngày càng tinh vi của công nghệ số
và xu hướng chuyển dần sang điện toán đám mây, những lỗ hổng bảo mật cũng vì thế
mà tăng theo, kéo theo những lo ngại ngày càng nghiêm trọng về rủi ro tấn công tin
tặc. Bên cạnh đó, thị trường lao động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng cũng sẽ có sự
thay đổi, do việc ứng dụng những thành tựu của CMCN 4.0 có thể khiến số lượng
nhân viên của các ngân hàng, tổ chức tài chính, công ty chứng khoán sụt giảm một
cách đáng kể (đặc biệt là với các bộ phận kỹ sư tin học, giao dịch chi nhánh…). Lao
động tại các ngành này khó có thể duy trì lợi thế cạnh tranh khi mà robot còn có thể
làm tốt hơn với mức chi phí rẻ hơn...Bởi vậy nên chúng tôi đã nghiên cứu đề tài: Mối
quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong lĩnh vực tài chính trước bối cảnh mới
Cách mạng công nghệ 4.0 để giúp đóng góp thêm cho những chính sách quản lý của
nhà nước trong lĩnh vực tài chính 4.0.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) không chỉ là số hóa, internet hóa
các thiết bị mà còn là sự hội tụ, dung hợp nhiều công nghệ và tương tác của chúng trên
nhiều lĩnh vực với quy mô rộng lớn như: Dữ liệu lớn; Trí thông minh nhân tạo; Vạn
2
vật kết nối, tự động hoá, rô bốt hóa, phương tiện không người lái; Công nghệ in 3D,
công nghệ thực tế ảo kết hợp với các công nghệ sinh học, công nghệ nano... Financial
Technology (Fintech ), một trong những sản phẩm tất yếu của cách mạng công nghiệp
4.0, là một thuật ngữ được áp dụng trong việc kết hợp tài chính và công nghệ để tạo ra
các sản phẩm dịch vụ mới trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng dựa trên nền tảng công
nghệ thông tin và viễn thông. Giống như 3 cuộc CMCN trong lịch sử trước đó, những
công nghệ mới của CMCN 4.0 chắc chắn sẽ đem lại sự thay đổi lớn trong nền kinh tế,
trong đó có cả thị trường tài chính. Nghiên cứu này nhắm đến 3 mục tiêu: (1) Ảnh
hưởng của CMCN 4.0 đặc biệt là Fintech đến thị trường tài chính, (2) Mối quan hệ
giữa nhà nước và thị trường trong lĩnh vực tài chính trong CMCN 4.0, (3) Đề xuất giải
pháp chủ yếu để phát triển thị trường tài chính trong CMCN 4.0 an toàn, hiệu quả
2. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu:
2.1. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khung phân tích:
2.1.1. Tổng quan nghiên cứu:
Trong lĩnh vực tài chính 4.0, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã khá là
quan tâm đến vấn đề kiểm soát sự bùng nổ của số hóa, các chương trình thông minh có
thể lợi dụng kẻ hở để chuộc lợi nhưng vẫn chỉ với mức độ hạn chế. Vì thế cần có nhiều
chính sách, giải pháp hỗ trợ sự quản lý của chính phủ đối với công nghệ 4.0.
2.1.1.1.
Nghiên cứu trong nước:
Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh nhấn mạnh: “Đất nước Việt Nam và
ngành ngân hàng - tài chính Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng ảnh hưởng của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.” Ứng dụng rộng rãi các công nghệ mới mang tính
đột phá, biểu hiện rõ nét trong ngành dịch vụ tài chính là làn sóng Fintech, kỳ vọng
cao và hành vi thay đổi của người tiêu dùng trong kỷ nguyên số, khuynh hướng quản
lý thân thiện với đổi mới, sáng tạo và hướng nhiều hơn tới bảo vệ người tiêu dùng…là
những xu hướng chủ đạo làm thay đổi diện mạo ngành dịch vụ tài chính thế giới, trong
khu vực và tại Việt Nam.
Trong bối cảnh mới này, người tiêu dùng sẽ là nhóm đối tượng được lợi hơn cả từ
những đổi mới sáng tạo trong ngành dịch vụ tài chính. Họ được hưởng nhiều lợi ích
hơn như giảm chi phí giao dịch; giao dịch thuận tiện đa kênh, mọi lúc mọi nơi và có
được sự lựa chọn phong phú về sản phẩm, dịch vụ từ rất nhiều nhà cung ứng dịch vụ
tài chính. Hơn nữa, đổi mới sáng tạo trên nền tảng công nghệ số sẽ đóng vai trò quan
3
trọng trong công cuộc phổ cập tài chính bằng việc tăng cường đưa dịch vụ tài chính tới
những người dân vốn trước đây chưa có tài khoản ngân hàng, khó khăn trong việc tiếp
cận các dịch vụ tài chính.
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và gia tăng trải nghiệm khách hàng, một số
ngân hàng Việt Nam đã và đang bắt đầu quá trình chuyển đổi số hướng tới một ngân
hàng số đích thực; triển khai cung ứng một số dịch vụ ngân hàng đổi mới, sáng tạo. Về
hợp tác ngân hàng - Fintech, các ngân hàng Việt Nam đã chủ động tăng cường hợp tác
với các tổ chức Fintech cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được NHNN cấp phép
để tận dụng mô hình kinh doanh tinh gọn, hướng tới trải nghiệm khách hàng và sự đổi
mới, sáng tạo của Fintech kết hợp với khuôn khổ quản lý rủi ro vững mạnh, cơ sở
khách hàng rộng lớn của các ngân hàng để tạo ra sức mạnh tổng hợp trong cung ứng
dịch vụ, tạo bước phát triển mới của ngành ngân hàng - tài chính Việt Nam, đem lại lợi
ích thiết thực về giảm chi phí, tăng tiện ích cho khách hàng và góp phần đắc lực phổ
cập tài chính địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Mô hình kinh doanh Fintech tại Việt Nam
Nguồn: ADB MBI survey
Công nghệ tài chính (Fintech) dùng để miêu tả một xu hướng mới nổi trong ngành
tài chính - ngân hàng. Nói đơn giản hơn, Fintech là ứng dụng khoa học - công nghệ
vào ngành Tài chính - ngân hàng. Nhu cầu sử dụng các dịch vụ cung ứng của các công
ty Fintech là các ngân hàng, công ty bảo hiểm, tổ chức tài chính truyền thống, người
tiêu dùng và các doanh nghiêp (DN) thông thường.
4
Các công ty Fintech hiện đang cung cấp các dịch vụ trong nhiều lĩnh vực khác
nhau như công nghệ ngân hàng, thanh toán, quản lý tài chính, các loại tiền kỹ thuật
số… với các sản phẩm đa dạng như: Ví điện tử, công nghệ sổ cái phân tán trên nền
tảng blockchain, thương mại trực tuyến B2C, mPOS…
Một số công ty Fintech hoạt động tại Việt Nam
Nguồn: Thống kê từ Vụ Thanh toán, NHNN
Về cơ bản, có thể phân các dịch vụ mà các công ty Fintech cung ứng theo các
loại hình dịch vụ: Dịch vụ tài chính: Huy động vốn từ cộng đồng, tín dụng…; Quản lý
tài sản (mạng xã hội đầu tư); Khuyến nghị tự động hóa; Quản trị tài chính cá nhân;
Dịch vụ đầu tư và ngân hàng; Dịch vụ thanh toán (biện pháp thanh toán thay thế, bảo
mật); Dịch vụ khác (bảo hiểm, bảo lãnh, giải pháp công nghệ khác)…
Fintech đem theo một làn sóng khởi nghiệp trong ngành Tài chính - ngân hàng, ngành
mà trước đây được biết đến là khi muốn ra nhập cần có nguồn vốn dồi dào. Điều này
5
cũng dẫn đến sự đa dạng về thành phần, đa dạng sản phẩm, theo đó cũng sẽ gây khó
khăn cho việc quản lý.
Tuy nhiên, khi tận dụng tốt, Fintech có thể đem đến những lợi ích cụ thể như:
Thay đổi kênh phân phối sản phẩm, làm sản phẩm dễ dàng đến tay người tiêu dùng;
Giúp dễ dàng phân tích hành vi khách hàng; Cắt giảm lao động làm giảm chi phí đầu
vào cho tổ chức; Cắt giảm rủi ro do sai sót; Tiết kiệm chi phí, giảm giá thành, giảm giá
sản phẩm.
Cùng với sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, ngày càng nhiều người
tiêu dùng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ từ Fintech. Theo đó, tỷ lệ khách hàng sử
dụng sản phẩm, dịch vụ Fintech đối với thanh toán, chuyển tiền, tài chính cá nhân, vay
cá nhân và tiết kiệm lần lượt là: 84%, 68%, 60%, 56%, và 49% (PWC, 2017).
Với CMCN 4.0, công nghệ tài chính (FinTech) đang tạo động lực thay đổi đối với
lĩnh vực tài chính toàn cầu bằng các giải pháp sáng tạo.
Theo đó, thứ nhất, FinTech có thể tăng hiệu quả và mở rộng sự bao trùm tài chính.
Thứ hai, tạo ra triển vọng thúc đẩy đổi mới lĩnh vực tài chính, từ đó phục vụ tốt hơn tất
cả các thành phần của nền kinh tế. Thứ ba, mở ra các mô hình kinh doanh mới, các
kênh phân phối với chi phí giao dịch thấp hơn nhiều so với các giao dịch thông
thường.
Là lĩnh vực luôn tiên phong trong ứng dụng công nghệ thông tin với nhiều dự án hiện
đại hóa và có môi trường thuận lợi từ quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
ngành tài chính - ngân hàng đang đứng trước những cơ hội lớn để chủ động tham gia
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Với quy mô dân số hiện đứng thứ 13 thế giới
và dự báo sẽ đạt 100 triệu người vào năm 2025, tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh có
kết nối internet năm 2017 theo nghiên cứu lên tới 55% cao hơn mức bình quân 44%
trên thế giới, Việt Nam được đánh giá có một trong những quốc gia có điều kiện thuận
lợi để phát triển, hiện đại hóa nhanh chóng lĩnh vực tài chính - ngân hàng, tận dụng
triệt để những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Bên cạnh việc nhận thức các cơ hội để tranh thủ nắm bắt, các FinTech cũng cần
chú trọng tới những rủi ro có thể phát sinh như tranh chấp pháp lý, bảo mật mạng, bảo
vệ dữ liệu, bảo vệ người tiêu dùng, chống rửa tiền và ổn định tài chính.
6
Do đó, điều quan trọng là phải xây dựng một khung pháp lý tạo điều kiện cho sự
phát triển của FinTech, khuyến khích đổi mới sáng tạo, đồng thời hạn chế rủi ro, bảo
đảm sự ổn định của lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
Thống kê tỷ lệ số ngân hàng có sự hợp tác Các lĩnh vực hợp tác giữa các ngân
hàng với các công ty Fintech hiện tại và dự báo và công ty Fintech trong 3 – 5
năm tới
Nguồn: PwC Global Fintech Report 2017
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang chủ động tiếp cận để hỗ trợ phát
triển FinTech, bao gồm xây dựng khuôn khổ pháp lý thử nghiệm để khuyến khích thực
nghiệm FinTech với sự giám sát sát sao trước khi cho phép hoạt động rộng rãi.
Công trình nghiên cứu về Gợi ý chính sách để Fintech phát triển ở thị trường
Việt Nam
Nhiệm vụ chúng ta là phải tìm hiểu để phát huy những chính sách của Nhà nước
về điều khiển thị trường tài chính 4.0
Theo nghiên cứu PGS.TS Hoàng Tùng trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng
Sự phát triển mạnh mẽ của FinTech sẽ mang lại nhiều dịch vụ góp phần thay đổi
bộ mặt lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nhưng trên thực tế, khuôn khổ pháp lý cho FinTech ở Việt Nam mới chỉ đáp
ứng trong lĩnh vực thanh toán, các phân khúc khác của FinTech chưa được điều chỉnh
phù hợp. Do FinTech là lĩnh vực không ngừng đổi mới, sáng tạo nên xây dựng các quy
định pháp lý thường sẽ chậm hơn so với sự vận hành của thị trường. Ngoài ra, FinTech
hoạt động trên nền tảng công nghệ nên luôn phải đương đầu với những rủi ro cao. Vì
vậy, để thúc đẩy phát triển FinTech, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cần quan tâm
đến một số nội dung sau:
Một là, sớm ban hành khung pháp lý để điều tiết sự phát triểncủa các phân khúc
FinTech. Cần có những nghiên cứu đánh giá về các cơ hội và thách thức mà lĩnh vực
7
FinTech mang lại, cũng như xây dựng một hệ sinh thái FinTech hiệu quả. Đồng thời,
các cơ quan quản lý cũng nên xây dựng những chương trình, hoạt động mang tính định
hướng giúp các công ty khởi nghiệp, các tổ chức tín dụng chủ động tìm hiểu về
FinTech, đánh giá hiệu quả của những công nghệ mà FinTech triển khai để giúp các tổ
chức tín dụng lựa chọn, tìm ra hướng phát triển hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, cần có các
chính sách miễn, giảm thuế, hỗ trợ tiếp cận các nguồn vốn, tạo môi trường cho đầu tư
để các startup FinTech phát triển.
Hai là, xây dựng chính sách phát triển FinTech gắn với phát triển hệ thống tài
chính - ngân hàng và nền kinh tế. Coi sự phát triển của FinTech gắn liền với đẩy mạnh
ứng dụng khoa học và công nghệ vào lĩnh vực tài chính ngân hàng, là một bộ phận của
ngành tài chính - ngân hàng, chịu sự quản lý của ngành nghề đặc thù. Trên cơ sở đó,
tăng cường hợp tác giữa các bên trong việc cung ứng sản phẩm FinTech, tạo điều kiện
cho phát triển FinTech ở Việt Nam trong thời gian tới.
Ba là, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng công nghệ blockchain, công nghệ sổ cái
phân tán... để nhanh chóng áp dụng trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng và các lĩnh
vực khác do những lợi ích từ công nghệ này là rất lớn. Song song với yếu tố công
nghệ, cần nâng cao trình độ nguồn nhân lực phục vụ việc nắm bắt và quản lý công
nghệ FinTech. Có cơ chế khuyến khích đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng
cao cho phát triển FinTech. Đồng thời, tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn của các tổ
chức quốc tế như ADB, WBG... và hợp tác song phương với các cơ quan quản lý các
nước để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm hữu ích trong quản lý các doanh nghiệp
FinTech.
Bốn là, đa dạng hóa sản phẩm và phổ cập kiến thức về FinTech đến người tiêu
dùng. Trên cơ sở phát triển sản phẩm FinTech (chủ yếu là thanh toán và chuyển tiền),
cần mở rộng các sản phẩm tiềm năng khác như quản lý tài chính, cho vay, tiết kiệm…
nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Đồng thời, tích cực quảng bá, phổ cập
kiến thức cho người dân về FinTech, cũng như trang bị những thông tin cần thiết nhằm
hạn chế rủi ro trong giao dịch FinTech, từ đó giúp nhận biết những lợi ích mà FinTech
mang lại.
Theo nghiên cứu của TS. Đặng Thị Ngọc Lan, Trường ĐH Tài chính
Marketing
8
Thứ nhất, Nhiều nước trên thế giới đã và đang chủ động nắm bắt xu hướng phát
triển của Fintech và hướng tới việc xây dựng các chính sách hỗ trợ về tài chính, chính
sách thuế, để tạo điều kiện cho Fintech phát triển. Vì vậy để bắt kịp với xu hướng phát
triển các cơ quan chức năng của chúng ta cũng nên có những hành động cần thiết và
kịp thời về các chính sách thuế, chính sách tài chính có liên quan. Điều này sẽ tạo ra
một sân chơi công bằng, hiệu quả, an toàn đồng thời bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Ngày 16/3/2017, NHNN đã thành lập Ban chỉ đạo về lĩnh vực công nghệ tài chính để
tham mưu, đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ sinh thái và khuôn khổ pháp lý, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp FinTech ở Việt Nam phát triển. Ngoài các chính sách hỗ
trợ chúng ta cũng cần thiết phải xây dựng khuôn khổ pháp lý để cho phép các công ty
Fintech được thử nghiệm các giải pháp công nghệ tài chính mới trong môi trường
được kiểm soát trước khi chính thức tung ra thị trường. Nhờ giai đoạn thử nghiệm này
sẽ giúp duy trì an toàn hệ thống tài chính, duy trì an toàn hệ thống và an ninh mạng
đồng thời bảo mật dữ liệu bảo vệ thông tin khách hàng.
Thứ hai, Cùng với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, các định chế tài chính phát
triển mạnh mẽ với mạng lưới trải rộng khắp cả nước. Để đa dạng các dịch vụ tài chính
cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận. Công nghệ tài chính được kỳ vọng sẽ
tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, cơ hội sinh
kế cho người dân, giúp hệ thống tài chính luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm
trong xã hội. Đặc biệt là những sản phẩm, dịch vụ tài chính cho nhóm người dân có
thu nhập thấp, dễ bị tổn thương. Việt Nam được đánh giá là thị trường có dân số đông
và trẻ, hơn một nửa dân số sử dụng Internet và mạng xã hội, tỷ lệ dân số sử dụng điện
thoại di động ở mức cao, đặc biệt xu hướng sử dụng điện thoại thông minh ngày càng
tăng. Trong khi đó, chỉ có 59% số người trưởng thành có tài khoản tại ngân hàng. Vẫn
còn những phân khúc khách hàng chưa tiếp cận được với dịch vụ ngân hàng. Các ứng
dụng của Fintech nên hướng đến phân khúc khách hàng cá nhân và các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Các dịch vụ nên tập trung vào các hoạt động thanh toán, cho vay sau đó
mới là các doanh nghiệp lớn. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện và bền vững.
Thứ ba, Chương trình FCV17 đã công bố danh sách 16 ứng viên lọt vào chung kết
từ hơn 140 hồ sơ tham gia. Theo đó, các ứng cử viên chung kết sẽ được kết nối với các
huấn luyện viên từ các đối tác FCV để hoàn thiện giải pháp, mô hình kinh doanh. Các
9
giải pháp công nghệ tốt nhất sẽ tiếp tục trình diễn sản phẩm và dịch vụ của mình trong
Ngày hội FinTech quốc gia Việt Nam 2018. Trên cơ sở đó, các trường đại học nói
chung, các chuyên ngành tài chính – ngân hàng nói riêng cũng cần liên kết với các
công ty Fintech để tạo ra những sân chơi công nghệ tài chính mới cho sinh viên của
mình có cơ hội trải nghiệm hoặc sáng tạo với các mô hình của Fintech. Ngoài ra việc
tổ chức các câu lạc bộ Fintech, các cuộc thi tìm hiểu về Fintech, các đề tài nghiên cứu
khoa học trong sinh viên về Fintech cũng cần được nhà trường quan tâm đưa vào
thành những kế hoạch hành động trong hoạt động đào tạo của trường.
Thứ tư, FinTech đang ngày càng phát triển rộng rãi, không chỉ trong lĩnh vực ngân
hàng, mà còn trong các dịch vụ bảo hiểm, đầu tư và quản lý tài sản, gọi vốn cộng
đồng… Để thực sự phát huy các tiềm năng, cơ hội và lợi ích của FinTech ở Việt Nam,
bên cạnh vai trò tiên phong của NHNN, cần có sự phối hợp, vào cuộc của các cơ quan,
bộ, ngành liên quan. Bên cạnh các cơ hội Fintech cũng sẽ phải đối mặt với những
thách thức. Mặc dù các công ty Fintech luôn có khát vọng tăng trưởng mạnh mẽ
nhưng những thách thức lớn về tài chính đã giết chết nhiều Fintech còn non trẻ. Để
các doanh nghiệp Fintech sống được trên thị trường Việt Nam cũng không phải là điều
dễ dàng. Theo công bố trong chương trình FCV, chỉ có 20% start up trong lĩnh vực
FinTech start up sống được, bán được và có lợi nhuận. Lĩnh vực tài chính – ngân hàng
là lĩnh vực tiên phong trong việc tiếp nhận và ứng dụng các đặc tính ưu việt của công
nghệ. Để tăng cường vị trí cạnh tranh, tăng cường an ninh mạng và dữ liệu là ưu tiên
hàng đầu của các ngân hàng. Đây cũng chính là lý do mà 73% ngân hàng dự định đầu
tư vào Fintech. Tuy nhiên, các ngân hàng cũng có thể sẽ phải đối mặt với nhiều thách
thức do sự thay thế của máy móc và các giải pháp tự động hóa. Hay nói cách khách, sự
gia tăng cạnh tranh đến từ các công ty Fintech đồng nghĩa với sự xuất hiện của hàng
loạt rủi ro đến từ công nghệ. Vì vậy để cùng sống và phát triển, cần có sự hiểu biết lẫn
nhau giữa công ty FinTech và ngân hàng. Qua kết quả nghiên cứu xu hướng chuyển
động của Fintech toàn cầu cho thấy, các ngân hàng trên thế giới đang có xu hướng
chuyển từ cạnh tranh sang hợp tác để áp dụng các giải pháp công nghệ trong việc cung
cấp các sản phẩm dịch vụ theo nhu cầu của khách hàng.
Công trình nghiên cứu “ Xu hướng phát triển Fintech trên thế giới, những cơ
hội và thách thức đặt ra với ngành ngân hàng và thực tiễn Việt Nam”
10
Câu hỏi đặt ra là Ngân hàng Nhà nước có vai trò gì trong quá trình hoàn thiện hệ sinh
thái, thúc đẩy sự phát triển và hợp tác giữa các công ty Fintech với các NHTM?
Theo nghiên cứu của TS. Nguyễn Thị Hiền- Phó Viện trưởng Viện Chiến lược
ngân hàng ThS. Nguyễn Thị Minh Ngọc -Viện Chiến lược ngân hàng.
Nhận thức được vai trò của các công ty Fintech cũng như những cơ hội và thách thức
mà Fintech mang lại đối với ngành ngân hàng, trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) cũng đã triển khai nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện hệ sinh thái, thúc
đẩy sự phát triển của các công ty Fintech đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho sự
hợp tác giữa Fintech và các ngân hàng. Trước hết, trong những năm qua, NHNN đã và
đang chủ động trong việc tiếp cận vấn đề và đối thoại với các doanh nghiệp trong lĩnh
vực Fintech để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, tạo điều kiện cho việc gia nhập thị
trường của các công ty này. Bên cạnh đó, ngày 16/3/2017, Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước đã ban hành Quyết định số 328/QĐNHNN thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực
công nghệ tài chính. Đây là một bước đi quan trọng và minh chứng cho cách tiếp cận
nghiêm túc của Chính phủ trong việc phát triển một khuôn khổ định hướng cho lĩnh
vực Fintech phát triển. Dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Fintech, NHNN đã hoàn
thành Báo cáo đánh giá về Hệ sinh thái Fintech ở Việt Nam, đồng thời đề ra các nội
dung trọng tâm của Fintech cần khẩn trương tập trung nghiên cứu. Ngoài ra, Ban Chỉ
đạo Fintech của NHNN cũng thiết lập các kênh đối thoại trực tiếp với các công ty
Fintech, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước với các công ty
Fintech để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động. Gần đây nhất,
NHNN đã tiến hành triển khai xây dựng khuôn khổ pháp lý thử nghiệm trong lĩnh vực
ngân hàng để tạo lập nền tảng pháp lý và các điều kiện thuận lợi cho quá trình triển
khai các công nghệ mới, thúc đẩy quá trình hợp tác giữa hệ thống ngân hàng và các
công ty Fintech. Trong Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm
2025, định hướng 2030 cũng đã khẳng định việc cần khuyến khích hợp tác trong mối
quan hệ cạnh tranh lành mạnh giữa ngân hàng và các công ty Fintech và cần ban hành
chuẩn kết nối giữa các tổ chức tín dụng với các tổ chức công nghệ tài chính. Tóm lại,
từ quá trình phát triển của Fintech trên thế giới cho thấy đây sẽ tiếp tục là một lĩnh vực
có sự tăng tốc mạnh mẽ trong tương lai, từ đó tạo ra những tác động mạnh đến hoạt
động của hệ thống ngân hàng trên toàn cầu, trong đó có hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, gia tăng hợp tác với các công ty Fintech là một hướng đi phù hợp
11
để các ngân hàng Việt Nam có thể nhanh chóng khai thác được các lợi thế so sánh và
hạn chế được những tác động bất lợi có thể xảy ra. Nhưng bên cạnh đó, hệ thống ngân
hàng cần tiếp tục thực hiện các bước cải tổ mạnh mẽ, đặc biệt trong việc nghiên cứu và
ứng dụng Mã số ISBN: 978-604-922-684-7 43 các thành tựu khoa học kỹ thuật để luôn
giữ vai trò là động lực phát triển đi đầu trong hệ thống tài chính. Đồng thời, NHNN
cũng cần tiếp tục triển khai các giải pháp để hoàn thiện hệ sinh thái Fintech, hỗ trợ cho
sự phát triển của các chủ thể tham gia thị trường, đưa hệ thống tài chính trong nước đạt
được các bước tiến mới trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra
mạnh mẽ.
Công trình nghiên cứu “ Thanh toán bằng hình thức ví điện tử tại Việt Nam
thực trạng và giải pháp”
Câu hỏi đặt ra là Nhà nước và chính phủ có những chính sách gì để giúp hỗ trợ
việc bảo mật trong việc sử dụng ví điện tử ?
Theo nghiên cứu của Nguyễn Bá Huấn và Nguyễn Thùy Dung của trường Đại
học Lâm Nghiệp Hà Nội
Cần cộng sinh giữa các đơn vị cung cấp ví điện tử với ngân hàng. Các đơn vị cung
cấp dịch vụ ví điện tử cần hợp tác với ngân hàng để dòng tiền luân chuyển vào tài
khoản vào ví điện tử một cách thuận lợi và nhanh chóng. Hiện tại, một số ví điện tử
cho phép người dùng nạp tiền vào tài khoản thông qua việc sử dụng thẻ điện thoại.
Mở rộng tính năng đáp ứng nhu cầu với Fintech, các ví điện tử ngày nay đòi hỏi sự đa
dạng hóa dịch vụ. Người sử dụng có thể nạp tiền vào tài khoản thông qua thanh toán,
chuyển khoản thông qua ngân hàng, Internet Banking, Mobile Banking,…
Hoàn thiện khuân khổ pháp lý: Để kích thích đầu tư thị trường dịch vụ thanh toán điện
tử, Chính phủ cần hoàn thiện và áp dụng các chính sách ưu đãi và đầu tư, ưu đãi thuế
thu nhập, hỗ trợ tín dụng đầu tư phải pháp triển đối với các doanh nghiệp thương mại,
thiết lập mô hình tổ chức và áp dụng phương thức kinh doanh thương mại, thiết lập mô
hình tổ chức và áp dụng phương thức kinh doanh theo mô hình hiện đại, công nghệ
quản lý tiên tiến.
Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá để khuyến khích sự tiếp cạn và sử
dụng dịch vụ ví điện tử của người dân. Công tác tuyên truyền cần phải đưa ra nhiều
nội dung hấp dẫn, khuyến mãi các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ ví điện tử như miễn
12
phí cho các doanh nghiệp bán hàng chấp nhận ví, miễn phí đăng ký, tặng tiền vào tài
khoản cho khách hàng đăng ký ví…
Tăng cường an ninh mạng, bảo mật, an ninh thông tin thanh toán điện tử: NHNN
nên chủ động theo dõi, cập nhập tình hình an ninh mạng trong nước và quốc tế để cảnh
báo cũng như chỉ đạo các đơn vị trong ngành kịp thời phòng chống, xử lý rủi ro, lỗ
hổng bảo mật công nghệ thông tin. Xây dựng chương trình hợp tác, trao đổi thông tin
và phối hợp với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông trong phòng chống tội
phạm công nghệ an ninh tối cao cũng như triển khai giải pháp an toàn an ninh mạng
trong thanh toán điện tử.
2.1.1.2.
Nghiên cứu nước ngoài:
Sự số hóa ngày càng tăng của các nền kinh tế và sự lan rộng nhanh chóng của các
công nghệ tiên tiến như máy in 3D, robot và điện toán đám mây, đang có tác động
đáng kể đến sản xuất sản xuất trên toàn cầu. Trong khi sự phân chia kỹ thuật số giữa
các quốc gia phát triển và đang phát triển (đặc biệt là các quốc gia ở châu Phi cận
Sahara) vẫn còn đáng kể, điều này không có nghĩa là các nước đang phát triển sẽ
không bị ảnh hưởng trong những thập kỷ tới. Với tiền lương tăng ngay cả ở các nước
thu nhập thấp, tự động hóa có thể trở thành một lựa chọn ngày càng hấp dẫn đối với
các doanh nghiệp trong nước, và hơn nữa, tự động hóa sản xuất ở các nước phát triển
sẽ có tác dụng gõ cửa trên toàn cầu.
Với đầu tư và tăng trưởng trong sản xuất theo truyền thống được coi là một trong
những con đường hứa hẹn nhất để công nghiệp hóa và chuyển đổi kinh tế cho các nền
kinh tế đang phát triển, câu hỏi làm thế nào các chính phủ có thể chuẩn bị cho sự thay
đổi không thể tránh khỏi này là một vấn đề quan trọng đối với quỹ đạo tăng trưởng dài
hạn của Châu Phi.
Karishma Banga and Dirk Willem te Velde thuộc Viện phát triển UKaid đã thực
hiện thực nghiệm mới về tác động tiềm năng của việc số hóa ngày càng tăng trong sản
xuất ở châu Phi và thảo luận về những gì các nhà hoạch định chính sách có thể làm để
khai thác cơ hội hiện tại của họ, giải quyết các hạn chế trong sản xuất truyền thống và
chuẩn bị cho 'làn sóng kỹ thuật số', sẽ mang lại nó là một loạt các cơ hội và thách thức
mới.
13
Có sự phân chia kỹ thuật số toàn cầu đáng kể giữa các nước phát triển và kém phát
triển, tỷ lệ robot được bán trong năm 2015 của Châu Phi ( xấp xỉ 0.2% ) thấp hơn 15
lần so với tỷ lệ GDP năm 2015 ( xấp xỉ 3% ). Sự phân chia kỹ thuật số cũng tồn tại ở
các nước châu Phi về cả truy cập và sử dụng
Những nước thu nhập thấp phải đối mặt với vấn đề 2 mặt: họ không chỉ được ít số
hóa hơn những nước thu nhập trung bình và những nước thu nhập cao mà còn chịu tác
động của việc tăng số hóa cũng thấp hơn
14
Sự phân chia kỹ thuật số có thể được giảm bớt bằng cách phát triển kỹ năng, vì
điều này cải thiện tác động của số hóa đối với năng suất lao động sản xuất. Trong
trường hợp của Kenya, tỷ lệ lao động lành nghề ở các công ty số hóa cao nhất cao hơn
khoảng 20% so với các công ty ít số hóa nhất
15
Trong trường hợp sản xuất trang thiết bị ở Keyna, robot sẽ trở nên rẻ hơn so với
lao động vào năm 2034 - tạo ra cơ hội hẹp cho các nước châu Phi hơn so với suy nghĩ
trước đây. Giải quyết các hạn chế truyền thống đối với sản xuất vẫn còn quan trọng,
nhưng Châu Phi cũng phải chuẩn bị cho tương lai kỹ thuật số
2.1.2. Cơ sở lý thuyết:
2.1.2.1.
Cách mạng công nghệ 4.0 là gì?
Theo Gartner, Cách mạng Công nghiệp 4.0 (hay Cách mạng Công nghiệp lần thứ
Tư) xuất phát từ khái niệm "Industrie 4.0" trong một báo cáo của chính phủ Đức năm
2013. "Industrie 4.0" kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo
ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa Công nghiệp, Kinh doanh, chức năng và quy trình bên
trong.
16
Nếu định nghĩa từ Gartner còn khó hiểu, Klaus Schwab, người sáng lập và chủ
tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế Giới mang đến cái nhìn đơn giản hơn về Cách
mạng Công nghiệp 4.0 như sau:
"Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ
giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất
hàng loạt. Cuộc cách mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động
hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách
mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ
thuật số và sinh học".
Theo ông Klaus Schwab, tốc độ đột phá của Cách mạng Công nghiệp 4.0 hiện
"không có tiền lệ lịch sử". Khi so sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây,
4.0 đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Hơn nữa,
nó đang phá vỡ hầu hết ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Và chiều rộng và chiều sâu
của những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản
lý và quản trị.
Nối tiếp từ định nghĩa của Klaus Schwab, Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra
trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ sinh học, Kỹ thuật số và Vật lý.
Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn
vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data).
Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, Cách mạng Công nghiệp 4.0 tập trung vào nghiên
cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y dược, chế biến
thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu.
Cuối cùng là lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu
mới (graphene, skyrmions…) và công nghệ nano.
2.1.2.2.
Fintech là gì?
Hiện tại, chưa có một định nghĩa thống nhất trên toàn cầu cho “FinTech”. Tuy
nhiên, thuật ngữ "FinTech", là dạng viết tắt của cụm từ “financial technology” (công
nghệ tài chính), thường biểu thị các công ty hoặc đại diện các công ty kết hợp các dịch
vụ tài chính với các công nghệ hiện đại, sáng tạo. Như một quy ước, những công ty
mới gia nhập vào thị trường sẽ cung cấp các sản phẩm dựa trên Internet theo hướng
ứng dụng. Các công ty FinTech thường hướng tới thu hút khách hàng bằng các sản
17
phẩm và dịch vụ thân thiện với người dùng, hiệu quả hơn, minh bạch hơn và tự động
hơn so với những sản phẩm và dịch vụ đã có.
Ngoài cung cấp các sản phẩm và dịch vụ trong lĩnh vực ngân hàng, FinTech còn
phân phối bảo hiểm và các công cụ tài chính khác hoặc cung cấp các dịch vụ bên thứ
ba. Theo nghĩa rộng của thuật ngữ, "FinTech" còn có thể bao gồm các công ty cung
cấp công nghệ (ví dụ như các giải pháp phần mềm) cho các nhà cung cấp dịch vụ tài
chính.
Tuy vậy, không thể định nghĩa thuật ngữ "FinTech" dựa trên cơ sở ứng dụng của nó
trong các văn bản pháp luật. Các công ty FinTech là đối tượng của nhiều loại nghĩa vụ
pháp lý và pháp luật khác nhau do có các mô hình kinh doanh khác nhau cũng như các
sản phẩm hay dịch vụ đa dạng mà họ cung cấp. Ví dụ, các công ty trong ngành công
nghiệp huy động vốn cộng đồng (crowdinvesting) cung cấp các khoản vay hợp vốn
(profit-participating loan), quyền hợp vốn không đảm bảo hoặc quan hệ đối tác im lặng
(silent partnership) để đảm bảo tài chính doanh nghiệp thì thuộc phạm vi của Luật Đầu
tư của Đức. Tuy nhiên, các tổ chức phát hành thẻ thanh toán trên cùng các nền tảng
crowdinvesting này sẽ phải tuân theo Luật Giao dịch Chứng khoán của Đức nếu cổ
phiếu được bán cho công chúng.
Cuối cùng, không thể xây dựng một định nghĩa hạn hẹp về “FinTech" để áp dụng
cho tất cả các thực thể thường được liên kết với thuật ngữ “FinTech”. Mặc dù hầu hêt
các công ty trong ngành công nghiệp FinTech có một số tính năng chung nhất định,
vẫn sẽ luôn có những ngoại lệ để khiến cho không thể tạo ra một định nghĩa chung. Ví
dụ, rất nhiều công ty FinTech mới đang trong giai đoạn khởi nghiệp.Tuy nhiên, vì
không phải tất cả các công ty FinTech đều là các công ty khởi nghiệp, nên việc phân
loại này không thể đóng góp vào định nghĩa FinTech. Tương tự như vậy là hai yếu tố:
sự tham gia của số lượng lớn các nhà đầu tư vào một cơ hội huy động vốn ("đám
đông") hay việc sử dụng các thành phần truyền thông xã hội. Mặc dù hai tính năng này
không thể thiếu trong hoạt động của nhiều phân đoạn ngành công nghiệp FinTech,
chẳng hạn như ở gọi vốn đám đông hoặc giao dịch xã hội (social trading), vẫn có
những phân đoạn khác, ví dụ như các dịch vụ thanh toán sáng tạo, nơi hai tính năng
này không quan trọng chút nào. Vì lý do này, thay vì cố gắng đưa ra một định nghĩa
hạn hẹp hay theo khía cạnh pháp lý, thì việc phác họa ra các phân khúc của ngành
công nghiệp FinTech có thể sẽ mang lại hình dung tốt nhất về FinTech.
18
Đối tượng của Fintech
Khác với thị trường tài chính truyền thống gồm hai đối tượng các định chế tài
chính (ngân hàng, công ty tài chính, đầu tư, bảo hiểm, chứng khoán…) và khách hàng,
đối tượng của Fintech gồm 3 bên, tác động qua lại lẫn nhau:
Các định chế tài chính
Thực thể quan trọng trong ngành tài chính, các định chế này ngày càng hợp tác sâu
rộng với các công ty Fintech do nhận thấy tầm quan trọng của công nghệ. Đồng thời
bản thân các định chế này cũng trực tiếp đầu tư vào các công ty Fintech hay các hoạt
động nghiên cứu để chủ động nắm giữ công nghệ mới và chiếm giữ thị trường.
Các công ty Fintech
Các công ty độc lập hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin cung cấp các
sản phẩm, dịch vụ mới trong lĩnh vực tài chính. Khách hàng của các công ty này có thể
là người sử dụng cuối cùng, cũng có thể là các định chế tài chính.
19
Khách hàng
Người sử dụng sản phẩm dịch vụ tài chính nói chung. Với các ứng dụng công
nghệ mới, khách hàng là những người được hưởng lợi nhiều nhất từ cạnh tranh giữa
các công ty, định chế tài chính cũng như từ những tiện ích công nghệ mới mang lại.
Những tác động của Fintech
Các ứng dụng đa dạng của Fintech đang tác động đến hầu hết mọi lĩnh vực hoạt
động của ngành tài chính như tiền gửi, thanh toán, bảo hiểm, chứng khoán, tín dụng,
quản trị rủi ro, không những thế Fintech cũng tác động đến cơ cấu thị trường, cơ cấu
sản phẩm, chiến lược phát triển và mọi mặt kinh doanh của cả hệ thống tài chính ngân
hàng. Những tác động lớn nhất có thể kể đến như:
Làm thay đổi kênh phân phối và các sản phẩm dịch vụ tài chính truyền thống, đặc biệt
là dịch vụ ngân hàng. Chúng ta có thể thấy rõ những tác động này qua xu thế phát triển
mạnh trong những năm gần đây của các kênh bán hàng qua Internet, Mobilebanking,
Tablet Banking, mạng xã hội, phát triển ngân hàng kỹ thuật số, giao dịch không giấy
tờ…
Fintech với các ứng dụng công nghệ cao, chẳng hạn như ứng dụng dữ liệu lớn (Big
Data) sẽ giúp phân tích hành vi khách hàng sẽ giúp cho các định chế tài chính thu thập
dữ liệu bên trong và bên ngoài nhằm tiết giảm chi phí, hỗ trợ cho các quá trình ra
quyết định, và nâng cao chất lượng dịch vụ, mang lại giá trị gia tăng cũng như sự hài
lòng hơn cho khách hàng.
20
Xu hướng “ngân hàng không giấy”, “tổ chức tài chính không giấy” sẽ trở nên phổ
biến và là thách thức không nhỏ của ngành dịch vụ tài chính trong việc giảm dần vai
trò của các chi nhánh.
Việc cạnh tranh thông qua mở rộng mạng lưới các chi nhánh sẽ dần chấm dứt, do
chi phí hoạt động cao. Thay vào đó, cạnh tranh công nghệ tài chính hiện đại cũng trở
nên gay gắt hơn trong các định chế tài chính.
Thị phần của các ngân hàng nói chung và các định chế tài chính nói riêng có xu hướng
giảm bớt, ‘chia phần’ cho các công ty Fintech.
Chẳng hạn như, các ngân hàng hoàn toàn đứng ngoài cuộc trong dịch vụ tiền ảo
Bitcoin, một hệ thống tiền tệ mới đang ngày càng lớn mạnh trên phạm vi toàn cầu.
Thị trường lao động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng cũng sẽ có sự thay đổi, công
nghệ có thể thay thế cho lượng lớn nhân viên của các ngân hàng, tổ chức tài chính,
công ty chứng khoán, bảo hiểm…
Mặc dù vậy, nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ gia tăng (giỏi cả về
chuyên môn nghiệp vụ tài chính và công nghệ thông tin).
Ngoài những tác động tích cực, Fintech cũng được đánh giá tiềm ẩn một số rủi ro như
quá nhiều loại hình dịch vụ tài chính do Fintech mang lại hay các dịch vụ quá mới có
thể khiến khách hàng bối rối và không hiểu hết các quyền hạn nghĩa vụ của bản thân
khi tham gia dịch vụ; hay Fintech cũng có thể thay thế các ngân hàng vật lý truyền
thống, khiến các hộ gia đình có thu nhập thấp không thể tiếp cận với các dịch vụ tài
chính…
Tuy nhiên những lo ngại này là không đáng kể. Trên thực tế làn sóng Fintech đã và
đang tác động lên lĩnh vực dịch vụ tài chính ngày một mạnh mẽ, kéo theo đó, Fintech
trở thành một trong những lĩnh vực đầu tư “nóng” nhất trên thị trường toàn cầu.
Theo thống kê, nếu đầu tư toàn cầu vào Fintech trong năm 2013 chỉ đạt mức khoảng 4
tỷ USD, thì đến năm 2016, con số này đã lên tới 20 tỷ USD và dự kiến sẽ tăng lên
khoảng 120 tỷ đô vào năm 2020.
21
2.1.2.3.
Mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường tài chính:
Giữa nhà nước và thị trường luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tuy còn
nhiều tranh luận về thị trường nhiều hay ít, nhà nước can thiệp ít hay nhiều vào thị
trường, nhưng các nhà khoa học thế giới và trong nước đều thừa nhận vai trò điều tiết,
chức năng quản lý kinh tế không thể thiếu được của nhà nước trong nền kinh tế thị
trường và phát triển nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan của lịch sử nhân loại.
Thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Nhận thức được điều đó, nhà nước sử dụng khả năng của mình để tạo điều kiện hình
thành và phát triển các thị trường tài chính. Mặt khác thông qua bộ máy các cơ quan,
nhà nước giám sát hoạt động của các thị trường tài chính nhằm duy trì sự ổn định của
chúng. Sự tác động của nhà nước với thị trường tài chính thể hiện qua 3 mặt cơ bản:
Nhà nước tạo môi trường pháp lý cho sự hình thành và hoạt động của thị trường tài
chính
Môi trường pháp lý là vấn đề hết sức quan trọng cho thị trường tài chính hình
thành và phát triển. Nhà nước ban hành luật phát và quy chế để điều chỉnh các mối
quan hệ nảy sinh giữa các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường. Thông qua môi
trường pháp lý ổn định, Nhà nước quản lý, điều chỉnh, thúc đẩy và làm lành mạnh
hoạt động của thị trường tài chính, từ đó củng cố lòng tin vào thị trường. Điều này thể
hiện qua các mặt sau:
+ Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động trên
thị trường tài chính như: luật công lý, luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán,
luật tín thác, luật lưu ký,…..
22
+ Nhà nước ban hành các văn bản dưới luật quy định chức năng, nhiệm vụ và phạm vi
hoạt động của các tổ chức tài chính
+ Quy định mô hình tổ chức và quy chế hoạt động của từng loại thị trường tài chính
Nhà nước tạo ra môi trường kinh tế cho sự hình thành và phát triển của thị trường tài
chính
Thị trường tài chính chỉ ra đời và phát triển trong điều kiện môi trường kinh tế ổn
định và phát triển ở một mức độ nhất định. Nhà nước tạo ra môi trường kinh tế cho sự
hình thành và phát triển thị trường tài chính thể hiện qua các mặt sau:
+ Nhà nước sử dụng cá chính sách kinh tế vĩ mô nhằm ổn định môi trường kinh tế, ổn
định giá trị đồng tiền, khuyến khích tích lũy và đầu tư, điều chỉnh cơ cấu kinh tế tạo
điều kiện thuận lợi cho thị trường tài chính
+ Nhà nước ban hành chính sách khuyến khích phát hành các công cụ cho thị trường
tài chính, đồng thời bản thân Nhà nước cung tham gia phát hành trái phiếu Chính phủ,
tín phiếu kho bạc, đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt
động xuất nhập khẩu và tài chính đối ngoại
Nhà nước giám sát các hoạt động của thị trường tài chính
Việc giám sát của nhà nước đối với thị trường tài chính là cần thiết để đảm bảo
cho chúng hoạt động và phát triển ổn định, lành mạnh. Thông qua việc giám sát hoạt
động thị trường, Nhà nước có các biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm bảo đảm trật tự
trên thị trường tài chính, từ đó bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể tham gia các hoạt
động trên thị trường tài chính. Mặt khác, thông qua giám sát Nhà nước có các biện
pháp điều chỉnh hoạt động của thị trường tài chính đảm bảo sự lành mạnh và ổn định
của thị trường. Việc kiểm tra giám sát của Nhà nước được thực hiện thông qua các cơ
quan chức năng, ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính, Ủy ban chứng khoán quốc gia.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập dữ liệu:
Thu thập và nghiên cứu tài liệu là một công việc quan trọng cần thiết cho bất kỳ
hoạt động nghiên cứu khoa học nào. Các nhà nghiên cứu khoa học luôn đọc và tra cứu
tài liệu có trước để làm nền tảng cho NCKH. Đây là nguồn kiến thức quí giá được tích
lũy qua quá trình nghiên cứu mang tính lịch sử lâu dài. Vì vậy, mục đích của việc thu
thập và nghiên cứu tài liệu nhằm:
23
Giúp cho người nghiên cứu nắm được phương pháp của các nghiên cứu đã
thực hiện trước đây.
Làm rõ hơn đề tài nghiên cứu của mình.
Giúp người nghiên cứu có phương pháp luận hay luận cứ chặt chẻ hơn.
Có thêm kiến thức rộng, sâu về lĩnh vực đang nghiên cứu.
Tránh trùng lập với các nghiên cứu trước đây, vì vậy đở mất thời gian, công
sức và tài chánh.
Giúp người nghiên cứu xây dựng luận cứ (bằng chứng) để chứng minh giả
thuyết NCKH.
Nguồn thu thập tài liệu
Thông tin thu thập để làm nghiên cứu được tìm thấy từ các nguồn tài liệu sau:
Luận cứ khoa học, định lý, qui luật, định luật, khái niệm,… có thể thu thập được từ
sách giáo khoa, tài liệu chuyên nghành, sách chuyên khảo, ...
Các số liệu, tài liệu đã công bố được tham khảo từ các bài báo trong tạp chí khoa học,
tập san, báo cáo chuyên đề khoa học, ….
Số liệu thống kê được thu thập từ các Niên Giám Thống Kê: Chi cục thống kê, Tổng
cục thống kê, ….
Tài liệu lưu trữ, văn kiện, hồ sơ, văn bản về luật, chính sách, … thu thập từ các cơ
quan quản lý Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.
Thông tin trên truyền hình, truyền thanh, báo chí, … mang tính đại chúng cũng được
thu thập, và được xử lý để làm luận cứ khoa học chứng minh cho vấn đề khoa học.
3. Kết quả và thảo luận:
3.1. Kết quả:
Thị trường Fintech
Thị trường người sử dụng FinTech tiềm năng rất rộng: về cơ bản là gần như tất cả
dân số trưởng thành trên toàn cầu. Theo một nghiên cứu được tiến hành vào năm 2010
của công ty tư vấn McKinsey, có tới 2,2 tỷ người trưởng thành không có năng lực tài
chính sống ở châu Phi, châu Á, châu Mỹ Latinh và Trung Đông, gồm 8% dân số các
nước OECD có thu nhập cao (60 triệu người trưởng thành), 65% dân số ở Mỹ Latinh
(250 triệu người trưởng thành), 49% dân số ở Trung Á và Đông Âu (193 triệu người
trưởng thành), 67% dân số ở Trung Đông (136 triệu người trưởng thành), 80% dân số
ở vùng cận Sahara châu Phi (326 triệu người trưởng thành), 59% dân số ở Đông và
24
Đông Nam Á (876 triệu người trưởng thành) và 58% dân số ở Nam Á (612 triệu người
trưởng thành).
Những người này là người sử dụng tiềm năng các dịch vụ FinTech. Số lượng
người trên khắp thế giới vì nhiều lý do khác nhau không thể sử dụng hoặc không sẵn
sàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng truyền thống ngày càng tăng, góp phần vào sự
phát triển của các công ty FinTech chuyên cung cấp các dịch vụ tương tự, nhưng
nhanh hơn, rẻ hơn và sinh lời nhiều hơn ngân hàng. Đối với ngân hàng, những xu
hướng này đồng nghĩa với việc tăng rủi ro hoạt động và rủi ro dài hạn.
Mặt khác, khảo sát 10.131 người ở tại các nước như Australia, Canada, Hồng Kông,
Singapo, Anh và Mỹ về việc sử dụng các sản phẩm FinTech cho thấy chỉ có 15,5%
người trả lời đang sử dụng các dịch vụ phi ngân hàng và dự kiến con số này sẽ tăng
nhanh trong tương lai. 25% số người được hỏi cho biết họ sử dụng dịch vụ phi ngân
hàng rất thường xuyên và trong thực tế họ thường sử dụng 2-3 sản phẩm phi ngân
hàng. Từ những dữ liệu này suy ra, số người sử dụng dịch vụ ngân hàng cũng là khách
hàng tiềm năng của các dịch vụ FinTech.
Theo một báo cáo của Accenture (một công ty về outsourcing và các dịch vụ công
nghệ, tư vấn quản lý toàn cầu), FinTech là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh
nhất của nền kinh tế. Đầu tư vào ngành công nghiệp này tăng nhanh chóng đạt 12,2 tỷ
USDnăm 2014, trong khi năm 2008, ngành công nghiệp này mới chỉ đạt được con số
khiêm tốn là 930 USD. Mức tăng cao nhất được ghi nhận ở châu Âu.
Bảng 1 tóm tắt các số liệu thống kê về đầu tư vào FinTech ở Mỹ, Châu Âu và Châu Á
trong giai đoạn 2014-2016.
Bảng 1: Đầu tư vào FinTech (2014-2016, triệu USD)
Khu vực
Mỹ
Châu Âu
Châu Á
Tổng
2014
14,1
12,0
3,3
29,4
2015
27,4
10,9
8,4
46,7
2016
13,5
2,2
8,6
24,3
Như có thể thấy trong Bảng 1, tổng khối lượng đầu tư vào FinTech ở các khu vực này
là 46,7 tỷ USD trong năm 2015. Trong năm 2016, khối lượng này giảm còn 24,3 tỷ
USD, nhưng điều này không có nghĩa là sự quan tâm dành cho lĩnh vực này bị suy
giảm. Tuy nhiên, mặc dù tăng mạnh ở tổng khối lượng đầu tư vào FinTech, các công ty
25