Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Đặc điểm của chủ nghĩa tự do mới, quan điểm của nó về nhà nước và thị trường trong nền kinh tế hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.94 KB, 42 trang )

ĐẶC ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO MỚI, QUAN ĐIỂM
CỦA NÓ VỀ NHÀ NƯỚC VÀ THỊ TRƯỜNG TRONG
NỀN KINH TẾ HIỆN ĐẠI
Nhà nước hay thị trường giữ vai trò chính trong nền kinh tế là vấn đề quan
trọng được bàn đến xuyên suốt các thời kỳ lịch sử: từ các đại biểu kinh tế Cổ
điển đến nay, đã có thời kỳ người ta tuyệt đối hóa vai trò nhà nước hay vai trò
thị trường. Tranh luận giữa một bên đề cao vai trò của thị trường và một bên
đề cao vai trò của nhà nước càng trở nên mạnh mẽ khi khủng hoảng kinh tế
diễn ra. Bốn năm từ khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra, chúng ta
vẫn chưa thấy có sự khởi sắc nhiều: tốc độ tăng trưởng vẫn thấp, lạm phát,
thất nghiệp vẫn là còn ở mức cao… Chủ nghĩa tự do mới từng được coi là liều
thuốc vạn năng, liệu đã mất vị trí thống trị trong việc vận dụng vào nền kinh tế
hiện nay hay không? Những thay đổi nhận thức về vai trò của nhà nước và thị
trường trong nền kinh tế đương đại như thế nào? Cần có nhìn nhận về vai trò
nhà nước và thị trường sao cho phù hợp với xu hướng phát triển trong tương
lai?.
1. Bối cảnh ra đời của Chủ nghĩa tự do mới.
Chủ nghĩa tự do mới (còn gọi là trường phái cổ điển mới - Newclassical )
có nguồn gốc sâu xa từ những tư tưởng kinh tế của trường phái kinh tế chính
trị cổ điển với đặc trưng nổi bật của nó là đề cao chủ nghĩa tự do kinh tế. Nhìn
lại lịch sử, cuộc khủng hoảng sản xuất dư thừa 1929 – 1933 bùng nổ ở Mỹ sau
đó lan ra toàn thế giới đã gây ra những tổn thất nặng nề cho nền kinh tế thế
giới (13 triệu người thất nghiệp, sản lượng công nghiệp giảm 45%, số nhà xây
mới giảm 80%, 50000 ngân hàng phá sản…) đáng lưu ý là nền kinh tế của các
nước tư bản tưởng chừng như đang trên đà phát triển vững chắc nhưng vẫn
không tránh được cuộc khủng hoảng, ví dụ như ở Mỹ, Anh ; ở Mỹ sản lượng
công nghiệp giảm 50% (trong đó gang, thép sụt xuống 75%, ô tô giảm 90%),
11500 xí nghiệp nhỏ và cả xí nghiệp lớn bị phá sản, 17 triệu người thất nghiệp,
tiền lương công nhân chỉ còn 56%; ở Anh sản lượng gang sụt mất 50% théo
cũng sụt gần 50%, trên 3 triệu nghười thất nghiệp, lương công nhân chỉ còn
66% Thực tế này đã phá vỡ các quan điểm vốn đã có và đang thống trị của


kinh tế phái cổ điển và phái tân cổ điển (các nhà kinh tế này cho rằng trong
chủ nghĩa tư bản tất yếu có việc làm đầy đủ. Nền kinh tế tư bản hoạt động theo
cơ chế tự cân bằng. Cơ chế giá cả và tiền lương linh hoạt, luôn luôn đảm bảo
cung ngang cầu. Giá cả biến động đủ để đảm bảo cho các nhà sản xuất bán
hết được sản phẩm. Tiền lương biến động đủ để tất cả các công nhân muốn
làm việc với mức lương hiện hành có thể tìm được việc làm. Nếu có thất
nghiệp thì đó là thất nghiệp tự nguyện. Các chính sách vĩ mô của nhà nước
không thể tác động vào mức thất nghiệp và sản lượng). Trước điều kiện lịch sử
đạt ra, lức này xuất hiện học thuyết kinh tế của nhà kinh tế học người Anh
John Maynard Keynes, lý thuyết này được vận dụng từ những năm 30 và đã
nhanh chóng trở thành lý thuyết thống trị trong các nước tư bản, giúp mang lại
những kết quả tích cực cho nền kinh tế thời kỳ khủng hoảng này. Đối ngược
với qua điểm truyền thống của các nhà kinh tế trường phái cổ điển và tân cổ
điển, Keynes cho rằng, trong chủ nghĩa tư bản thất nghiệp tồn tại là một tất
yếu. Nguyên nhân của thất nghiệp không tự nguyện là tổng cầu không đủ độ
lớn cần thiết để cân bằng với tổng cung, nền kinh tế hiện đại có thể đi vào cân
bằng cùng với thất nghiệp thậm chí thất nghiệp hàng loạt. Có thể dùng chính
sách kinh tế vĩ mô để đảm bảo mức độ việc làm cao, có thể nâng nền kinh tế từ
mức độ việc làm thấp. Nhà nước giữ vai trò thiết yếu trong việc điều khiển nền
kinh tế. Ông cho rằng định luật J.Say
1
(Supply create its own demand ) là hoàn
toàn sai lầm và cần phải hoàn toàn tách khỏi các học thuyết của Say: “ ngầm
định rằng hệ thống kinh tế luôn luôn hoạt động ở hết khả năng của mình cho
nên một hoạt động mới luôn luôn thay thế, chứ không bao giờ bổ sung cho một
hoạt động khác nào đó… Một lý thuyết dựa trên cơ sở như vậy rõ rằng là
không có khả năng giải quyết các vấn đề thất nghiệp và chu kỳ kinh tế.” Theo
ông cần phải làm tăng mức cầu, đồng thời tăng thêm sự thiếu hụt ngân sách vì
phân phát tiền công cao hơn, ông biện hộ cho nguyên lý lạc thú
2

(the preasure
principle is the instinctual seeking of pleasure and avoiding of pain in order to
satisfy biological and psychological), đem lạc thú được thỏa mãn như một
chính sách kinh tế, thay cho sự hi sinh. Keynes là Freud trong kinh tế học.
Tuy nhiên khi hàng loạt các cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra ở các nước
vào những năm 70 của thê kỷ XX: khủng hoảng Bảng Anh 1992, khủng hoảng
Peso Mexico 1994, khủng hoảng tiền tệ Đông Á 1997, Khủng hoảng tài chính
Nga 1998, khủng hoảng Argentina 1990 – 2002… Trong đó gây ảnh hưởng
rộng nhất và có thiệt hại mạnh mẽ nhất chính là cuộc khủng hoảng tiền tệ
Đông Á 1997 (Khủng hoảng tài chính Đông Á), thì giới nghiên cứu kinh tế lại
chứng kiến sự trỗi dậy của tư tưởng tự do kinh tế trong một số trường phái
kinh tế : Chủ nghĩa bảo thủ mới ở Mỹ, chủ nghĩa tự do mới ở Đức, Chủ nghĩa
cá nhân mới ở Anh, chủ nghĩa kinh tế mới ở Áo hay là thuyết giới hạn mới ở
Thụy Điển… được tập hợp dưới tên gọi chung là chủ nghĩa cổ điển mới (New
classical) hay còn gọi là chủ nghĩa tự do mới. Đây là một chủ thuyết lớn trong
lĩnh vực kinh tế. Dưới sự dẫn dắt của chủ nghĩa tự do mới, thế giới đã có
một
giai đoạn phát triển kinh tế khá thành công, nhất là trong mấy thập
1 Kates, Steven (1998). Say's Law and the Keynesian Revolution: How Macroeconomic Theory Lost
Its Way. ISBN 978-1-85898-748-4.
2 Sigmund Freud (1900), Pleasure principle , Pearson Education Canada.
kỷ gần đây.
Những
nguyên nhân của sự thành công này đã được biết đến
như là hệ quả của sự tự do hoá
thương
mại, của các luồng vốn đầu tư quốc
tế cao hay của các chính sách linh hoạt và can đảm

chính phủ các nước

đã thực thi trong bối cảnh hội nhập quốc tế Đa số các nhà kinh tế
cho
rằng phương thuốc mầu nhiệm chủ yếu ở đây là sự đồng thuận
Washington: tự do
hóa
thương mại, mở cửa cho đầu tư nước ngoài, phi
điều tiết hoá hay giảm thiểu các quy
định
quốc gia, tư nhân hóa các doanh
nghiệp nhà nước, cải cách thuế má, thả nổi lãi suất, để tỷ
giá
hối đoái cạnh
tranh, cắt giảm chi tiêu chính phủ và hướng đầu tư công vào y tế, giáo dục,
vào
cơ sở hạ tầng Những đơn thuốc này được các tổ chức quốc tế cũng như
các nước phát
triển
quảng bá khắp nơi, nhất là ở các nước đang phát triển với
niềm tin thị trường có khả năng
giải
phóng năng lực sản xuất lớn lao và
bằng động cơ lợi nhuận, thị trường sẽ dẫn dắt, đưa
nền
kinh tế đạt tới trạng
thái các nguồn lực được phân bổ một cách hiệu quả nhất. Thị trường

thể
tự điều tiết và dường như khủng hoảng không phải là một xu thế đáng lo
ngại
3

.
Cho đến nay, cuộc khủng hoảng tài chính cuối năm 2007 bắt đầu từ Mỹ
đã lây lan nhanh chóng và
ảnh
hưởng sâu sắc đến nền kinh tế toàn cầu, đẩy
hầu hết các quốc gia trên thế giới vào một
cuộc
khủng hoảng tài chính – suy
giảm kinh tế nghiêm trọng. Năm 2008 được coi là năm bi tráng của nền kinh
tế thế giới, cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ “hàng trăm năm mới có một
lần
4
” Cuộc khủng hoảng bùng phát tại Mỹ và nhanh chóng lan rộng toàn cầu,
3 TS. Trần Hữu Dũng (2009), Về kinh nghiệm phát triển: Đọc Rodrik và Chang, hai kẻ nghi ngờ, Thời Báo
Kinh Tế Sài
Gòn, Số 1/ 2009.
4 Lời ông Alan Greenspan, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (FED).
kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường
chứng khoán điên đảo. Năm 2008 cũ ng chứng kiế n nhữ ng nỗ lự c chưa
từng có của cả thế giới để ứng
phó
với cuộc khủng hoảng này. Nhà kinh tế
học Paul Krugman lo sợ: "Tôi lo sợ rằng chúng ta sẽ chứng kiến cuộc suy
thoái trên toàn thế giới giống như ở Nhật Bản trong những năm 1990, vốn kéo
dài hàng thập kỷ. Nếu điều đó xảy ra chúng ta sẽ sống trong một thế giới mà
lãi suất bằng 0, giảm phát, không có dấu hiệu phục hồi và tình trạng này sẽ
xảy ra trong thời gian rất dài. Thật không may là điều đó rất dễ xảy ra. Chúng
ta sẽ thấy nền kinh tế thế giới còn đình trệ cho đến hết năm 2011 và có thể còn
lâu hơn. Hiện tại, tôi chưa nhìn thấy nơi nào an toàn trên thế giới này cả".
Theo IMF, kinh tế thế giới chỉ đạt 3.7% (con số của WB là 2.5%) sụt

giảm 1,3% trong năm 2009, hầu hết các nền kinh tế lớn đều có mức tăng
trưởng
âm,
như Mỹ: -2,8%, Pháp: -3%, Anh: -4,1%, Italia: -4,4%, Đức:
-5,6%, Nga: -6% và Nhật Bản:
-6,2%; chỉ trong 8 tháng năm 2008 nền kinh
tế Mỹ mất 605.000 việc làm, tỷ lệ thất nghiệp từ 6.2% lên 9.8% - cao nhất
trong 5 năm trở lại đây, thâm hụt ngân sách ước tính tới 15.900 tỷ USD –
cao nhất trong lịch sử Mỹ, số tiền nợ lên tới con số kỷ lục 9.600 tỷ USD
tương đương 60% tổng thu nhập quốc dân Mỹ
Nhiều dự báo thận trọng
nhất còn nhận định, mức
độ
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng sẽ vẫn rất sâu
sắc và khó
lường
5
.
Khi cố gắng tìm kiếm nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng
hoảng này, nhiều nhà kinh
tế
đã nhanh chóng nhận thấy những tác nhân
trực diện của nó. Đó là: (i) sự hình thành và đổ
vỡ
của bong bóng nhà đất,
của các khoản cho vay thế chấp nhà đất dưới chuẩn, hay của
những
bất ổn
5 TS. Phạm Tất Thắng (2009), Khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu và biện pháp ứng phó của
Việt Nam, Tạp

chí

Cộng sản.
tín dụng nói chung sau một thời kỳ dài thả lỏng tín dụng và tăng trưởng ảo;
(ii) sự
yếu
kém của hệ thống tài chính – ngân hàng các nước trước sự lấn
lướt của xu thế toàn cầu
hoá
kinh
tế.
Nhìn nhậ n trên bình diện chung hơn,
có thể thấy, cuộc khủng hoảng này bùng phát từ
sự
mất cân bằng kinh tế
toàn cầu, sâu sắc và kéo dài, đã và đang phá vỡ các nền tảng, các cấu
trúc
phát triển cần có. Nó là hệ quả của việc nới lỏng quản lý, giám sát, điều
hành của nhà
nước
đối với nền kinh tế nhất là trên thị trường tài chính, là hệ
quả xuất phát từ một sự bất cân
bằng
– có thể coi là bất cân bằng gốc giữa
nhà nước và thị trường trong vận hành kinh
tế.
Bốn năm đã trôi qua kể từ cuộc khủng hoảng đó, song kinh tế thế giới
vẫn đang phục hồi chật vật. Gam màu chủ đạo của bức tranh kinh tế thế giới
năm 2012 là “xám tối” trong bối cảnh nhịp độ tăng trưởng trên toàn cầu tiếp
tục yếu, đặc biệt tại các nước phát triển: Mỹ (1.5%), Nhật Bản (2.2%)…, nợ

công, Eurozone vẫn là mối đe dọa lớn với kinh tế thế giới. Khủng hoảng kinh
tế, xu hướng toàn cầu hóa, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ
là những điều kiện có tác động lớn tới Chủ nghĩa tự do mới, cụ thể chính là
nhìn nhận lại những quan điểm mà chủ nghĩa tự do mới nêu ra, cụ thể trong bài
viết này đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa tự do về vai trò của nhà nước và
thị trường đối với nền kinh tế.
2. Đặc điểm của Chủ nghĩa tự do mới.
Đặc điểm cơ bản, cũng là điểm khác biệt của chủ nghĩa tự do mới khi
phân biệt với chủ nghĩa tự do cổ điển hay các học thuyết khác đươc thể hiện
qua hai khía cạnh: quan điểm và phương pháp.
Trước tiên về quan điểm, chủ nghĩa tự do mới họ dựa trên nền tảng lập
trường tự do tư sản cổ điển đồng thời lại muốn áp dụng và kết hợp quan điểm
của trường phái Keynes, trường phái trọng thương ở mức độ nhất định để hình
thành hệ tư tưởng mới điền tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tự do
mới kế thừa các nguyên tắc xuất phát của chủ nghĩa tự do, vẫn chưa nhận thức
được vai trò chủ động, tích cực của nhà nước trong kinh tế, mặc dù đã có nhiều
kiến giải vể vai trò đó của nhà nước nhưng chủ yếu vẫn là vai trò bị động để
sửa chữa những thất bại của thị trường… do đó, họ chủ trương “Tự do kinh
doanh nhiều hơn, thị trường nhiều hơn, Nhà nước can thiệp ít hơn” hay “ Nhà
nước tối thiểu, thị trường tối đa”- nghĩa là buộc phải thưa nhận nhà nước ở
mức độ hạn chế.
Tự do cổ điển lập luận rằng thị trường với bản chất có tính cạnh tranh của
nó sẽ dẫn dắt con người theo đuổi lợi ích công cộng khi theo đuổi lợi ích cá
nhân dường như có một bàn tay vô hình dẫn dắt vậy: “… Anh ta dự định chỉ
đạt mục đích của mình, và anh ta đang ở đây, như nhiều tình huống khác, bị
dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình đi đến thúc đẩy một mục đích khác không
thuộc dự định của mình. Điều đó không phải bao giờ cũng là xấu đối với xã
hội, nếu cái đó không phải là một phần mục tiêu của anh ta. Bằng cách theo
đuổi mục tiêu của mình, anh ta thường thúc đẩy lợi ích xã hội một cách có hiệu
quả hơn là khi anh ta có ý định thực sự thúc đẩy nó”

6
. Tự do kinh tế sẽ làm cho
những lợi ích riêng và những nguyện vọng của người từ tự nhiên, sẽ bắt buộc
họ phải chia và phân phối tư bản của bất cứ một xã hội nào cho các công việc
khác nhau trong xã hội đó, làm thế nào để có thể phù hợp nhất với lợi của toàn
thể xã hội. Lợi ích cá nhân là lợi ích xuất phát, lợi ích xã hội là lợi ích phụ
thuộc và giữa hai cái đó không mâu thuẫn với nhau. Lợi ích xã hội sẽ được
6 Adam Smith (1776), An Inquiry into the Nature and Cause of the Wealth of Nations.
phát triển trong quá trình lợi ích cá nhân được thỏa mãn. Họ tự đặt câu hỏi
rằng: liệu những người được trao quyền xã hội có thực sự vì quyền lợi chung
không? Kinh nghiệm chỉ rõ rằng, ở một số thời điểm, nhiều chính phủ theo
đuổi các chính sách tỏ ra phù hợp với mục tiêu công cộng, song ở những thời
điểm khác, chính phủ lại theo đuổi những chính sách mà dù có tưởng tượng
phóng đại lên như thế nào cũng không thể phù hợp với lợi ích công cộng. Hơn
nữa ngay cả những người lãnh đạo có dụng ý tốt vẫn thường dẫn dắt đất nước
của mình đi sai đường. Họ cho rằng không nên dựa vào chính phủ hay bất kỳ
mọi tình cảm đạo đức để làm điều tốt đẹp. Lợi ích công chỉ được gìn giữ khi
nào mỗi cá nhân làm điều gì đó vì lợi ích riêng của bản thân, cá nhân có thể
xác định chính xác xem lợi ích bản thân là gì trước khi xác định lợi ích công.
Và họ tin rằng nếu thị trường có những thất bại thì chính phủ cũng có những
thất bại đáng sợ hơn và khi không có thất bại thị trường thì ngay cả một chính
phủ lý tưởng cũng không thể nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực. Điểm khác
biệt về quan điểm của tự do cổ điển và tự do mới là lúc này dù chưa nhìn nhận
hết vai trò của nhà nước nhưng họ đã chấp nhận nhà nước như một thành phần
không thể thiếu trong nền kinh tế, miễn là sự can thiệp không quá sâu và không
có cản trở cho sự phát triển tự do cá nhân cũng như các chủ thể kinh tế.
Thứ hai, về phương pháp chủ nghĩa tự do mới họ không tiếp nối những
nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật, không tiếp tục nghiên cứu cái bản
chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế, không tiếp tục nghiên cứu lý luận
giá tị – lao động cùng với những hình thái chuyển hóa của nó, không chú trọng

nghiên cứu mặt kinh tế – xã hội của các hoạt động kinh tế. Chủ yếu kế thừa
phương pháp nghiên cứu của tân cổ điển như: tiếp tục kế thừa và cực đoan hóa
phương pháp duy tâm chủ quan trong nghiên cứu kinh tế – đặc biệt, quá nhấn
mạnh tâm lý chủ quan, những kỳ vọng duy lý
7
, chủ yếu sử dụng phương pháp
phân tích thực chứng đối với các vấn đề kinh tế, quá chú trọng phương pháp
phân tích vi mô đối với nền kinh tế, quá chú trọng phân tích hành vi kinh tế,
các chủ thể kinh tế biệt lập mà chưa quan tâm đúng mức đến việc nghiên cứu
mối quan hệ của các hành vi, các chủ thể kinh tế đó với nhau
Thị trường tự do là yếu tố quyết định, nhà nước đóng vai trò tương hỗ; không
thuần túy tuyệt đối hóa vai trò của thị trường mà đã đề cập đến vai trò kinh tế
của nhà nước theo chủ trương “ Nhà nước tối thiểu, thị trường tối đa”; không
chỉ thuần túy chú trọng đến những nghiên cứu vi mô, mà đã đề cập đến nhiều
vấn đề kinh tế vĩ mô trên phương diện vi mô; đối tượng nghiên cứu không chỉ
dừng lại ở những vấn đề kinh tế thuần túy, đã có khuynh hướng nghiên cứu
những vấn đề kinh tế – xã hội.
Chủ nghĩa tự do mới có nhiều luận điểm tương đồng với tư tưởng kinh tế
cổ điển và tân cổ điển như: Tiếp tục phát triển lý thuyết về nền kinh tế thị
trường thuần túy, ưu việt của nền kinh tế thị trường đều gắn với tự do cá nhân,
cạnh tranh và hiệu quả còn những thất bại của thị trường lại đi liền với sự điều
tiết quá mức của nhà nước; rằng những kích thích chủ quan dường quyết định
hành vi của các chủ doanh nghiệp và các công ty tư nhân do đó cần phải xóa
bỏ những hạn chế, kìm hãm tính chủ động của doanh nghiệp, cần phải hạn chế
thuế, cắt giảm chi phí của nhà nước (chủ nghĩa trọng cung hiện đại); việc tiếp
tục đề cao chủ nghĩa tự do là bảo vệ quyền bất khả xâm phạm của sở hữu tư
nhân, bảo vệ hệ thống kinh tế (chủ nghĩa tự do mới ở Đức).
3. Quan điểm của Chủ nghĩa tự do mới về nhà nước và thị trường.
7 Thomas J. Sargent, ration expectation models: con người không chỉ phản ứng thụ động trước hoàn
cảnh và những biến động của chính sách kinh tế, họ dự đoná trước các tình hình tương lai và điều

chỉnh sao cho phù hợp nhất với quyền lợi của mình.
Chủ nghĩa tự do kinh tế, mặc dù các lý thuyết trong đó có điểm xuất phát
khác nhau, phương pháp khác nhau với nhiều trình độ, cấp bậc phản ánh khác
nhau nhưng tựu chung lại các lý luận kinh tế của học thuyết này đều xoay
quanh và bảo vệ chủ nghĩa tự do kinh tế_ nghĩa là đều xuất phát và đề cao,
thậm chí tuyệt đối hóa hai định đề cơ bản: Thị trường tự do đó là thi trường
luôn hoàn hảo do luôn tiếp nhận thông tin hoàn hảo, cung cầu luôn cân bằng…
nó luôn đồng nghĩa với hiệu quả; con người kinh tế cá thể biệt lập đó là những
con người cá nhân tự do, luôn có những hành vi và quyết định đúng đắn, hợp
lý, luôn hướng đến tối đa hóa lợi ích. Trong các học thuyết của các nhà cổ điển
trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh, vai trò của cơ chế thị trường – “ bàn
tay vô hình” được đề cao, người ta phản đối sự can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế. Nhà nước chỉ là “ người lính gác đêm” giữ gìn trật tự an toàn xã hội,
không được can thiệp vào các quá trình kinh tế, theo họ nguồn gốc của cải của
các dân tộc là khả năng phát huy các công năng của các cá nhân, và xã hội, là
một hệ cân đối, có thể tự cân bằng thông qua sự điều tiết kinh hoạt của lực
lượng thị trường; và sau đó, Nhà nước được coi như “ người làm vườn chăm
chỉ”, được phép “ chăm sóc cây con”… nhưng không được can thiệp vào quá
trình sinh học bình thường của cây”…nhưng không được can thiệp vào “quá
trình sinh học bình thường của cây”… Đến đầu thế kỷ XX, lực lượng sản xuất
phát triển lên một mức cao hơn, “ bàn tay vô hình” không đủ sức để điều hành
sự vận động của nền kinh tế, đã đến lúc phải có “luật chơi chung” và có người
“ điều khiển trò chơi”, tránh tình trạng phát triển vô tổ chức, gây khủng hoảng.
Học thuyết Keynes ra đời với lý thuyết về “bàn tay hữu hình” – cơ chế can
thiệp của nhà nước; nhà nước trở thành “ người trọng tài trên sân bóng, có
quyền thổi phạt các cầu thủ nhưng không được chạm vào bóng”. Đã có thời kỳ
cơ chế này được coi là “ liều thuốc hữu hiệu” của chủ nghĩa tử tư bản. Nhưng
rồi “ bàn tay hữu hình” cũng tỏ ra bất lực bở sự can thiệp quá sâu vào nền kinh
tế. Chủ nghĩa tự do mới đưa ra quan điểm về vai trò của nhà nước trên cơ sở
kết hợp các tư tưởng kinh tế của Keynes mới và trường phái trọng thương mới.

Theo các đại biểu của chủ nghĩa tự do mới thì mô thức nền kinh tế phải đạt
được đồng thời hai yêu cầu sau: phải khai thác triệt để những ưu việt vốn có
của nền kinh tế thị trường; phải có sự điều tiết của nhà nước với cách thức mới
để khắc phục những sai lệch của thị trường. Vậy là, Nhà nước đã được xác
định một vai trò xác định trong nền kinh tế, chứ không đơn thuần có vai trò
trong các vấn đề xã hội, điều đó được thể hiện qua phương châm của Chủ
nghĩa tự do mới” Thị trường nhiều hon, nhà nước can thiệp ít hơn”, nghĩa là có
chấp nhận nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhưng can thiệp ít để cho thị
trường tự do phát triển. Đây được coi là bước tiến bộ của Chủ nghĩa tự do mới
trong việc nhin nhận vai trò nhà nước và thị trường.
Và sự can thiệp nhà nước trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản sau: phải đảm
bảo chắc chắn cho sự tồn tại, thống trị của chế độ tư hữu tư sản; các xí nghiệp
tư doanh phải được độc lập, tự chủ trong hoạt động kinh tế, không ai có quyền
can thiệp; phải phát huy tối đa tác dụng của cơ chế thị trường, cấm mọi tác
động cản trở đến tự do kinh doanh; thông qua nhà nước điều chỉnh những sai
lệch của thị trường, đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho lưu thông trong
nước và nước ngoài, tạo môi trường lâu dài cho các doanh nghiệp cạnh tranh.
Chủ nghĩa tự do được hiện thực hóa ở trường phái trọng tiền hiện đại,
trọng cung hiện đại và kinh tế vĩ mô kỳ vọng duy lý. Về căn bản trên những
nguyên tắc chung quan điểm của các trường phái này khá đồng nhất với nhau,
trong đó chúng đều đưa ra cách lập luận mới về vai trò của nhà nước, biến lý
luận tự điều tiết của kinh tế thị trường thành lý luận giá cả thị trường và lý luận
về cạnh tranh. Bên cạnh đó mỗi trường phái lại đưa ra những quan điểm, cách
lập luận riêng của mình xung quanh việc giải quyết quan hệ giữa thị trường và
nhà nước. Cụ thể trong bài, người viết sẽ trình bày về chủ nghĩa tự do mới ở
Mỹ và ở Đức.
Ở Mỹ có các trường phái nổi bật: chủ nghĩa trọng tiền, trọng cung, và
kinh tế vĩ mô mong đợi hợp lý. Chủ nghĩa trọng tiền, ngay từ cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, các nhà kinh tế học Anh và Mỹ như: Irving Fisher, Alfred
Marshall, A.C.Pigou và nhà kinh tế Thụy Điển Knut Wicksell đã nêu ra học

thuyết về số lượng tiền tệ. Tuy nhiên lý thuyết của họ chỉ được đánh giá như
một lĩnh vực học thuật tiền tệ thuần túy chuyên môn, chưa phải là một học
thuyết hoàn chỉnh. Đến những năm 40 – 50 của thế kỷ XX, trường phái tiền tệ
đầu tiên được hình thành với các nhà tiền tệ nổi tiếng: H.Simons, L.Mints,
P.Douglas, tuy nhiên đến các công trình nghiên cứu sau đó của Friedman,
P.Cagan, R.Selden…, với các tư tưởng tự do kinh tế phát triển theo hướng phân
tích mối quan hệ giữa điều tiết khối lượng tiền với mức tăng trưởng và giải
quyết việc làm thì mới có đủ cơ sở lý luận cho việc xây dựng chủ nghĩa tiền tệ
kiểu mới. Các đại biểu trường phái này chú trọng đến lĩnh vực tiền tệ, lý thuyết
của họ bàn đến ba vấn đề cơ bản: giá cả và tiền công; cơ chế hoạt động của nền
kinh tế thị trường; chính sách kinh tế và vai trò của nhà nước. Họ ra sức cổ
động cho một nền kinh tế thị trường tự do không có sự can thiệp của nhà nước.
Thậm chí một số còn cho rằng nhà nước không cần thiết phải can thiệp vào cả
những vấn đề như an toàn xã hội, kiểm soát môi trường, thị trường có thể tự
giải quyết các vấn đề đó, bởi theo họ, hầu hết sự can thiệp của nhà nước
thường phá vỡ những cân bằng tự nhiên, do vậy có hại cho nền kinh tế. Họ ưu
tiên chống lạm phát hơn là giảm thất nghiệp, theo họ thất nghiệp có nguồn gốc
từ hai nguyên nhân khác nhau: tự nguyện và do sai lầm của chính phủ. Họ chủ
trương không khắc phục tuyệt đối hiện tượng thất nghiệp và cho rằng trong nền
kinh tế thị trường, sự tồn tại hiện tượng thất nghiệp tự nhiên ở một tỷ lệ nào đó
là điều bình thường và cái đáng sợ hơn đối với nền kinh tế chính là hiện tượng
lạm phát, và vì thế để ngăn ngừa lạm phát thì cần phải chấp nhận một tỷ lệ thất
nghiệp cao hơn mức thất nghiệp tự nhiên.
Có một số đại biểu của trường phái trọng tiền khẳng định trong nền kinh
tế thị trường hiện đại thì nhà nước là yếu tố không thể bác bỏ, nhưng họ đòi hỏi
nhà nước phải điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế theo những quy tắc có tính
chuẩn mực, và họ cũng kiên quyết phản đối cách điều tiết theo kiểu tùy hứng
của các nhà quản lý. Họ cho rằng, đó là một khuynh hướng khó tránh khỏi, vì
theo kinh nghiệm thi khi ban hành các quyết định quản lý, chính phủ thường
thiên về lợi ích của bản thân chính phủ hơn là lợi ích dân chúng. Chính vì vậy

cần xác lập một hệ thống nguyên tắc thực hiện và những nguyên tắc này phải
mang tính khách quan , độc lập với ý muốn chủ quan của chính phủ, và trong
hệ thống chính sách vĩ mô họ cho rằng chính sách cơ bản và quan trọng nhất là
chính sách tiền tệ. Milton Freidman_người sáng lập ra trường phái trọng tiền
chính thống và là người đứng đầu trường phái lý luận tự do mới ở Đại học
Chicago, cho rằng sự vận động kinh tế phải gắn với lượng tiền trong lưu thông.
Sở dĩ nền kinh tế có những cú sốc, những chấn động là do nhà nước đưa vào
lưu thông lượng tiền không thích hợp – quá nhiều hoặc quá ít. Nếu nhà nước
đưa vào lưu thông nhiều hơn lượng tiền cần thiết sẽ làm cho thu nhập danh
nghĩa cao hơn thu nhập thực tế, tiền bị mất giá, lạm phát tăng, sản xuất xã hội
mất ổn định… Khi phê phán Keynes, Friedman đưa ra kết luận: Lạm phát chứ
không phải thất nghiệp, là vấn đề quan tâm và chú ý nhiều nhất, chính sách
tiền tệ chứ không phải chính sách tài khóa và ngan sách mới là công cụ cơ bản
điều tiết nền kinh tế thị trường. Ông cho rằng, lượng cung ứng tiền bị chi phối
và điều tiết theo các mục tiêu chính trị và kinh tế của nhà nước, ông cho rằng
các chính phủ thường thiếu năng lực, tham tiền và thích phá hoại tự do cá
nhân
8
. Xuất phát từ nhận định về nhà nước đó ông đưa ra lời giải thích về
nguyên nhân cuộc Đại khủng hoảng 1929 – 1933 là do hệ thống dự trữ liên
bang Mỹ (FED) đã phát hành một khối lượng tiền tệ ít hơn so với mức cầu
tiền, do đó không đủ tienf để mua hàng dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.
Ông vẫn chủ trương để cho kinh tế thị trường tự do điều tiết, sự can thiệp của
nhà nước chỉ làm tình hình thị trường thêm xấu hơn, nếu thị trương mang theo
khuyết tật thì bản thân nhà nước cũng có khuyết tật của nó. Trong tác phẩm
“Bốn bước đi tới tự do”, ông cho rằng: quản lý nhà nước cần phải hạn chế ở
những chức năng chủ yếu của nó và quy lại ở sự bảo vệ pháp luận và trật tự.
Bao gồm giám sát việc chấp hành những hoạt động tư nhân, ở việc duy trì hệ
thống tòa án làm trọng tài kinh tế và tố tụng hình sự, thiết lập “luật chơi”, trong
đó bao gồm cả việc xác định sở hữu tư nhân. Ông nêu bốn khẩu hiệu đồng thời

cũng là bốn chủ trương lớn: Giảm nhà nước; tăng thị trường; giảm điều tiết; tư
nhân hóa bằng nhiều hình thức trong đó có hình thức cổ phần hóa.
Vậy là trong bản thân học thuyết trọng tiền, các đại biểu thuộc học thuyết
này cũng chưa hoàn toàn đồng nhất quan điểm về vai trò của nhà nước và thị
trường: một số thì bác bỏ vai trò nhà nước hoàn toàn, bất kể những vấn đề xã
hội thì nhà nước cũng không nên can thiệp; một số khác thì có sự công nhận
vai trò của nhà nước ở một vài khía cạnh.
Học thuyết trọng cung ra đời vào thập kỷ 70 của thế kỷ XX, các lý luận
của trường phái này nổi lên như một hệ thống lý thuyết có tính khả thi cao. Họ
cho rằng nguyên nhân làm cho nền kinh tế Mỹ suy yếu cả ở trương trong nước
và cả trên thị trường quốc tế nằm ngay trong chính sách kinh tế của nhà nước
Mỹ. Chính M.Feldstein (chủ tịch hội đồng cố vấn kinh tế của tổng thống Mỹ
8 M.Friedman (1959): A program for monetary stability, the Milla lectures. N3.
reagan) 1982 khẳng định “… việc nhà nước sử dụng sai trái chính sách tiền tệ
– tín dụng đã làm toàn bộ nền sản xuất bất ổn định và nạn lạm phát phát triên
nhanh chóng”
9
. “cung tự đẻ ra cầu của nó” , luận điểm của J.B.Say năm 1803
và trong tác phẩm “các nguyên lý kinh tế chính trị học” của A. Marshall cũng
cho rằng chính cơ chế tự điều tiết của thị trường đã tạo ra những tiền đề cần
thiết cho các nhà kinh doanh tính toán đầu vào và đầu ra của sản xuất một cách
hợp lý nhất, phần lớn các yếu tố trong tác phẩm được Mashall nhấn mạnh đều
ở phía cung. Các đại biểu của trường phái này là Arthur Laffer, Jede Winniski,
Norman Ture, Paul Craig Roberts, George Gilder, song đại biểu xuất sắc đưa ra
các quan điểm chủ đạo có tính đột phá và hình thành hệ thống lý thuyết trọng
cung hiện đại theo khuynh hướng tự do kinh tế mới là A.Laffer. “ cơ sở của lý
thuyết cung chủ trương rằng trong hoạt động của Nhà nước, cần bãi bỏ mọi
khả năng có thể làm thay đổi thu nhập thực tế của nền kinh tế” Norman.
B.Ture
10

. theo D.Racác nhà trọng cung phủ nhận tính hiệu quả của chính sách
tài khóa và hiệu lực khuyếch đại vào sản lượng của “ lý thuyết số nhân’” của
J.M.Keynes. Họ đề cao một chính sách kinh tế giảm bớt sự can thiệp trực tiếp
của nhà nước bằng cách kết hợp giữa giảm thuế và bãi bỏ các quy định hạn chế
gây cản trở cho sức cung. Hơn nữa họ cho rằng nhà nước cần phải từ bỏ chính
sách phân phối lại “Nhà nước càng can thiệp để chữa trị bệnh nghèo túng thì số
người nghèo túng càng tăng lên”
11
. Các đại biểu của trường phái trọng cung thì
đều đồng nhất trong việc công nhận vai trò của nhà nước đối với phát triển
kinh tế, chỉ có điều họ phủ nhận cách thức an thiệp của nhà nước bằng chính
sách tài khóa bằng việc kích thích tăng sản lượng (thông qua việc tăng chi tiêu
9 L.S.Economy in the translation peniod, Chicago University apress, 1980.
10 Norman B. Ture (1977), Real Estate in the U.S. Economy, National Realty Committee.
11 R.W Grant (1966), The incredible Bread Machine , Sage publications [6]. Bruce Johnstone (1998), The
financing and management of higher education.
của nhà nước tác động đến tổng cầu cảu nền kinh tế) mà khuyến khích nhà
nước tác động theo hướng giảm thuế để kích thích sản xuất (tác động đến phía
cung).
Phái Kinh tế vĩ mô mong đợi hợp lý cũng cho rằng, đa số chính sách
của nhà nước ít có tính hiệu quả, hoặc chỉ đạt hiệu quả ở mức rất thấp. Xuất
phát từ giả định trong nền kinh tế thị trường hiện đại, ứng xử kinh tế của mọi
người đều dựa trên những dự liệu hợp lý, dân chúng có thể hiểu biết về tình
trạng của nền kinh tế không kém gì nhà nước và các nhà kinh tế học chuyên
nghiệp. Cùng với kinh nghiệm của mình, dân chúng có thể dự liệu một cách
hợp lý những tình huống kinh tế có thể xảy ra trong tương lai gần, và từ đó sẽ
điều chỉnh hoạt động kinh tế. Vì vậy, chính sách kinh tế của nhà nước chỉ có
hiệu quả nhất định đối với mức sản lượng và việc làm khi sự điều chỉnh này
gây ra sự bất ngờ đối với dân chúng, khiến cho dân chúng hiểu sai tình hình
kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả của các chính sách điều tiết của chính phủ cũng

chỉ là nhất thời vì trong điều kiện thiết chế tự do dân chủ được xác lập vững
chắc, dân chúng hoàn toàn có thể chủ động trong việc tự điều chỉnh cách ứng
xử, và cách gây bất ngờ của chính phủ ở những lần ra chính sách khác sẽ
không có hiệu quả. Các đại biểu của học thuyết chấp nhận vai trò của nhà
nước, tuy nhiên họ cho rằng nhà nước chỉ có vai trò tức thời, vai trò đó
thường chỉ phát huy trong thời gian ngắn khi mà đạt được những kỳ vọng duy
lý.
Chủ nghĩa tự do mới ở Đức – học thuyết về nền kinh té thị trường xã
hội, do Alfred Muller – Armack đề xướng vào năm 1946 dựa trên cơ sở các
công trình nghiên cứu của trường phái Freiburg (Walter Eucken, Franz Bohm,
Wilhelm Ropke) và được Ludwig Erhard – Giám độc Cục kinh tế trong khu
vực kinh tế hợp nhất vùng Mỹ – Anh (sau này là thủ tướng CHKB Đức) ủng
hộ và triển khai. Trong hoàn cảnh khó khăn của Đức sau thế chiến II, nước
Đức bị chia cắt và suy thoái cả về đọa đức, chính trị, kinh tế – cụ thể, việc bị
mất tám triệu người và 24% lãnh thổ quốc gia, 14 triệu người bị săn đuổi, 47%
nhà cửa bị phá hủy hoặc hưu hại, mất mát gần ½ các thiết bị công nghiệp,
đường giao thông và phương tiện vận tải, hàng triệu người bị rơi vào cảnh đói
khổ cùng cực, lạm phát, thất nghiệp cao…
Hệ thống kinh tế kế hoạch hoàn toàn từ bỏ thị trường bằng những điều
khiển trung ương, tước bỏ những quyền tự do cơ bản về kinh tế, điều này đặt ra
thách thức lớn để cải cách hệ thống kinh tế.” Sau khi đã tìm thấy hoặc tạo ra
một môi trường xã hội, con người sẽ xây dựng cuộc sống cộng đồng của mình
theo một dạng thức xã hội nhất định”
12
. Đó là thị trường xã hội. Theo họ mô
hình nền kinh tế thị trường xã hội trên ba nguyên tắc cơ bản: thứ nhất, đảm bảo
tự do cạnh tranh không có sự tham gia của độc quyền; thứ hai, đảm bảo sự bền
vững của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bảo đảm tính độc lập về kinh tế và
trách nhiệm của các chủ thể kinh tế; thứ ba, triệt để trong việc chống lại sự can
thiệp của sai của nhà nước, nhưng phải thừa nhận những chức năng của nhà

nước, để đảm bảo sự hài hòa, sự phù hợp giữa chế độ tự do và các quy tắc
chung của xã hội.
Vai trò của nhà nước được phái tự do kinh tế mới ở Đức tỏ ra khách quan
hơn. Họ hình dung ra mô hình cụ thể của nền kinh tế theo kiểu một sân bóng
đá (do Ropke đưa ra), trong đó các chủ thể khác nhau trong xã hội được coi
như là các cầu thủ, và mỗi chủ thể đảm nhận một vị trí nhất định trong cuộc
chơi, còn nhà nước giữ vai trò trọng tài. Và tuy vậy nhà nước không tham gia
trực tiếp vào trận đấu nhưng lại có vai trò rất quan trọng, là người đảm bảo cho
12 Alfred Muller – Armack (1963), Gedanken zu einer sozialwissennschaftlichen Anthropologie,
Sozial wissenschaft ind Gesellschaflsgestaltung, Festschrift fur Gerhard Weisser, xb. Friedrich
Kassenberg và Hans Albert.
trận đấu diễn ra theo đúng luật và là người có quyền lực ngăn ngừa những trục
trặc nếu có, như khi nền kinh tế xảy ra khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát.
Kinh tế thị trường là khung khổ làm cơ sở hình thành cá chính sách kinh tế có
“ mục tiêu gắn với các sáng kiến tự do trong nền kinh tế cạnh tranh với sự tiến
bộ được đảm bảo bằng chính sự biểu hiện của nó trên thị trường.”, mà mục tiêu
của nó được “…gắn kết trên cơ sở thi trường các nguyên tắc tự do và bình
đẳng xã hội”
13
. Kinh tế thị trường xã hội hoàn toàn khác các quan điểm của chủ
nghĩa tự do, nó không đồng nhất với cái gọi là “ kinh tế thị trường tự do” kiểu
trường phái tự do ở Mỹ – trường phái muốn giảm sự can thiệp của nhà nước và
để kinh tế tự vận hành thông qua các công cụ của nó. Theo họ đó phải là nền
kinh tế trong đó các nguyên tắc của thị trường tự do và công bằng xã hội được
thống nhất với nhau. Một mặt nó khuyến khích và nhấn mạnh nhân tố kích
thích các sáng kiến tư nhân vì lợi ích của nền kinh tế, và mặt khác nó loại bỏ
những sự phát triển không mong muốn bất cứ khi nào có thể (lạm phát, thất
nghiệp, sự thiếu thốn, cùng cực của một số nhóm xã hội). Trong thị trường xã
hội chủ nghĩa, chính phủ chỉ can thiệp vào nơi nào cạnh tranh không có hiệu
quả, ở nơi cần phải bảo vệ và thúc đẩy cạnh tranh có hiệu quả. Nền kinh tế thị

trường xã hội đòi hỏi nhà nước phải mạnh, song chỉ can thiệp với mức độ và
tốc độ cần thiết và phải dựa trên hai nguyên tắc hỗ trợ và tương hỗ.
Nguyên tắc hỗ trợ, xác định chức năng của nhà nước trước hết phải khơi
dậy và bảo vệ các nhân tố thị trường như: kích thích phát triển các xí nghiệp tư
nhân, đảm bảo cho họ một hành lang pháp lý vững chắc để họ tự sản xuất kinh
doanh độc lập, đây là nhân tố căn bản trong chức năng của nhà nước. Ta biết
rằng, các mối đe dọa đối với cạnh tranh có hiệu quả không chỉ bắt nguồn từ
khu vực tư nhân, mà còn xuất phát từ chính nhà nươc. Khi chính phủ tự tách
13 Alfred Muller–Armack (1956), Soziale Marktwirtschft, Handworterbuch der
Sozialwissenschaften, Stuttgart/ Tubungen/ Gottingen, Q9.
bạch mình với tư cách là người mua hoạc người bán hàng, dịch vụ, lạm dụng vị
trí chi phối của mình trong lĩnh vực thương mại, việc nhà nước trợ cấp cho một
nghành công nghiệp đang suy sụp nhằm duy trì sự tồn tại của các nghành này
cũng đi ngược lại những cố gắng của các lực lượng thị trường muốn di chuyển
các nguồn lực đang bị tồn đọng sang những nghành khác có thể sử dụng chúng
hiệu quả hơn. Những đe dọa đó có thể trở thành hiện thực khi nhà nước vi
phạm nguyên tắc hỗ trợ.
Và quan trọng hơn nhà nước phải có trách nhiệm ổn định hệ thống tài
chính – tiền tệ, duy trì chế độ sở hữu tư nhân và giữ gìn trật tự an ninh và công
bằng xã hội. Thị trường tiền tệ cần phải có sự ổn định ở “ bên trong” như đối
với sức mua và ở “ bên ngoài” như tỷ giá hối đoái, chúng ảnh hưởng đến tất cả
các nhân tố và nguyên tắc thị trường. An sinh và công bằng xã hội không thể
có được nếu không có hiệu quả kinh tế, và hiệu quả kinh tế không thể duy trì
lâu dài nếu không có một tiêu chuẩn hợp lý về an sinh và công bằng xã hội.
Nguyên tắc tương hợp, nếu nguyên tác hỗ trợ liên quan đến vấn đề liệu
nhà nước có nên can thiệp hay không thì nguyên tắc tương hợp lại đề cập tới
việc sự can thiện đó nên thực hiện như thế nào? Vấn đề thứ hai chỉ xuất hiện
khi vấn đề thứ nhất đã được khẳng định. Đây là nguyên tác làm cơ sở để nhà
nước hoạch định các chính sách kinh tế phù hợp với sự vận động của các quy
luật trong nền kinh tế thị trường đồng thời phải đảm bảo được các mục tiêu

kinh tế xã hội của mình. Trong đó bao gồm các chính sách: toàn dụng nhân
lực, tăng trưởng kinh tế, chống chu kỳ, thương mại và chính sách đối với các
nghành và các vùng lãnh thổ…Mô hình kinh tế thị trường xã hội không phải
mô hình tĩnh, đóng. Ưu điểm lớn nhất của mô hình là khả năng giải quyết
tương đối hợp lý mối quan hệ giữa kinh tế với xã hội, thị trường với nhà nước.
Mặt khác, nhà nước phải làm cho nền kinh tế thị trường càng ngày càng mang
tính xã hội, làm dịu các mâu thuẫn xã hội thông qua phân phối lại thu nhập
quốc dân. Theo hướng đó, hệ thống thuế của nhà nước là vô cùng quan trọng.
Theo phái này, tiêu chí cơ bản nhất để đánh giá chính sách cũng như vai trò
kinh tế của nhà nước và khu vực tư nhân trước sau vẫn là hiệu quả kinh tế.
Cho nên khả năng giải quyết các vấn đề xã hội của nhà nước về căn bản phụ
thuộc vào tính hiệu quả của nền kinh tế. Khu vực tư nhân là chỗ dựa để nhà
nước có thể thực hiện những chính sách phúc lợi xã hội, đặc biệt là đối với
những lĩnh vực quan trọng có liên quan tới chất lượng của nguồn nhân lực,
hay việc cung ứng những dịch vụ bảo hiểm, kể cả trách nhiệm của nhà nước
trong việc giải quyết những rủi ro kinh tế, rủi ro xã hội, trong đó có cả trợ cấp
đối với người thất nghiệp - theo hướng tăng tính xã hội của nền kinh tế.
Với các đảm bảo pháp lý đó, những đại biểu của học thuyết này đã đưa
nhà nước lên tầm cao hơn hẳn chủ nghĩa tự do cũ. Trong mô hình nền kinh tế
thị trường xã hội về nguyên tắc, nguyên lý nhà nước tối thiểu vẫn còn có giá trị
với việc duy trì hiệu năng và tạo ra những cân bằng xã hội bên ngoài nền kinh
tế; trong nền kinh tế đó mọi hoạt động của nhà nước phải chịu sự kiểm soát của
các công cụ pháp lý, đồng thời nhà nước phải đưa ra được các chính sách
thống nhất, không đối đầu nhau, không đi ngược lại thị trường và không bị
thay thế bởi các sai lệch của thị trường.Vai trò nhà nước đã đượ định hình rõ
ràng hơn trong học thuyết này, nếu chủ nghĩa trọng tiền còn chưa hoàn toàn
thống nhất với nhau về vai trò của nhà nước, chủ nghia trọng cung và học
thuyết kinh tế vĩ mô hợp lý đã khẳng định chấp nhận vai trò nhà nước ở một
mức độ, thì chủ nghĩa xã hội Đức có sự đề cao vai trò nhà nước hơn và đã có
những hình dung cụ thể về vai trò đó cũng như những nguyên tắc thể nahf

nước thực hiện vai trò của mình.
4. Những thay đổi nhận thức về nhà nước và thị trường trong nền kinh tế
đương đại.
Nhận thức về vai trò của nhà nước và thị trường trong nền kinh tế có sự
thay đổi theo địa điểm và từng giai đoạn. Trong lịch sử đã chứng kiến những
sự “luân phiên” trong vai trò của nhà nước và thị trường, nhà nước hay thị
trường giữ vai trò chủ đạo tùy thuộc và bối cảnh lịch sử kinh tế. Sự cần thiết
của nhà nước đối với nền kinh tế đã được khẳng định chắc chắn, tuy nhiên
điều đó không có nghĩa là vai trò của thị trường bị giảm đi. Cả thị trường và
nhà nước đều có những thất bại, do chủ quan hay khách quan. Các cuộc khủng
trong lịch sử là những minh chứng sống cho thấy không phải có sự “may rủi”
ở đây, vì trường hợp hãn hữu xảy ra như một số nhà kinh tế đã nhận định.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933, khi không giải thích được nguyên
nhân của cuộc khủng hoảng các nhà tự do cổ điển cho rằng đó là tình huống
bất ngờ, tình huống cá biệt và chưa thể thấy thị trường có thất bại. Đến cuộc
khủng hoảng trong thời gian gần đây từ năm 2007 thì không còn nghi ngờ gì
về những thất bại của thị trường có thể xảy ra chứ không phải là trường hợp cá
biệt nữa. Sự thay đổi nhận thức về vai trò nhà nước và thị trường trước tiên
thể hiện ở các hành động của chính phủ vào nền kinh tế trước các cuộc khủng
hoảng kinh tế hiện nay. Cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra mà chủ nghĩa tự do
mới bị cho là tác nhân chính, thế giới đang có sự điều chỉnh cấu trúc theo
hướng tái lập sự cân bằng giữa nhà nước và thị trường trong điều hành nền
kinh tế. Nỗ lực tập trung giải cứu và kích
thích
cho nền kinh tế sớm phục hồi
theo phương thuốc thông dụng đã khiến nhiều nhà nghiên cứu

xu hướng
nhấn mạnh sự trở lại của học thuyết Keynes. Có liều lượng hơn trong việc
kết

hợp
ảnh hưởng của hỗn hợp nhà nước và thị trường đối với các hoạt
động kinh tế, một số mô
hình
đã được định hình với những sắc thái khác biệt
nhất định như “chủ nghĩa tư bản có kiểm
soát”
(regulatory capitalism), “chủ
nghĩa tư bản có phòng vệ” (life -jacket capitalism), hay “chủ
nghĩa
tư bản
sáng tạo” (creative
capitalism).
Dù có những sắc thái như vậy, nhưng các
mô hình này chắc khó vượt khỏi những
biểu
hiện thoả hiệp giữa hai trường
phái: chủ nghĩa tự do mới và Keynes. Vì thế, nhiều nhà kinh
tế
và hoạch
định chính sách trên thế giới đã rất kỳ vọng vào việc vận dụng và phát
triển
các
nguyên tắc của Keynes trong điều kiện hiện nay. Nhiều nhà phân
tích cho rằng, đây là lúc
học
thuyết Keynes sẽ chiếm ưu thế và giành lấy vị
trí trung tâm.
Quả thực, trong thời gian vừa qua, sự sụp đổ của các nền kinh tế tự
do kiểu mới,

cùng
với chủ nghĩa thị trường tự điều tiết của nó đã làm hồi
sinh học thuyết kinh tế của
Keynes.
Dựa vào lý thuyết của Keynes, c

hính
phủ

c

ác

nước

đ

ã

tung

ra

m ột

lo ạ

t

c


ác

bi ệ

n

pháp
kí c

h

c

ầu , nhất là các gói
tài chính nhằm giải cứu nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng. Đối
phó
với mức
độ ngày càng trầm trọng và lan rộng của cuộc khủng hoảng, hàng loạt các
cuộc họp khẩn cấp đã diễn ra như Hội nghị Thống đốc ngân hàng trung
ương và Bộ trưởng tài
chính
các nước G7 (11/10/2008), Hội nghị thượng
đỉnh của lãnh đạo các nước G20 với IMF và
WB
(15/10/2008), Hội nghị
ASEM 7 tổ chức tại Trung Quốc… nhằm bàn biện pháp thoát
khỏi
khủng hoảng. Nhiều hành động giải cứu đã được chính phủ các nước khẩn
trương thực

thi
như trợ cấp, quốc hữu hoá hay nới lỏng tiền tệ và tài
chính. Chính phủ các nước là trụ
cột
của nền kinh tế thế giới như Mỹ, EU,
Nhật Bản và hàng loạt các nước khác đã phải phối
hợp
sử dụng các gói
giải pháp cứu trợ và kích thích chống suy giảm nền kinh tế với trị giá
hàng
nghìn tỉ USD: đến cuối tháng 11 năm 2008, Mỹ đã đưa ra tổng cộng 2.250
tỷ USD dướ i dạ ng cá c khoả n vay khổ ng lồ để đối
phó
với khủng
hoảng, hệ quả là trong năm năm tỷ lệ cấp tín dụng trên GDP tăng từ 120% lên
gần 200%, nợ địa phương ngày càng phình to và bong bóng bất động sản tạo
ra hàng loạt thành phố ma trên khắp cả nước; tương tự, các gói tài chính
của EU thông qua giảm thuế, tăng cho vay trong ngắn hạn, tạo môi trường đầu
tư, giảm chi phí hành chính, ví dụ trị giá các gói cứu trợ của Đức là 200 tỷ
USD tuy nhiên các nước này tăng kích thích bằng các biện tài khóa đã khiến
thâm hụt ngân sách và tăng nợ công lên nhanh chóng; Trung Quốc chi gần 600
tỷ USD trong 2 năm 2009, 2010…
14
Với biện pháp kích cầu như vậy, nền kinh tế thế giới bước đầu đã ngăn
chặn được đà
suy
giảm tăng trưởng. Các chỉ số kinh tế chính của các nền
kinh tế chủ chốt như Mỹ, EU và
Nhật
Bản đã dịch chuyển nhích lên

15
và chỉ
số dự báo chu kỳ suy giảm ở các nền kinh tế này có dấu hiệu tích cực. Từ các
dấu hiệu lạc quan trên, có thể nói các nguyên lý của học
thuyết
Keynes đã
phát tác trên thực tiễn cho dù dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế thế giới
vẫn
còn
yếu
ớt.
Phản ứng nhanh với khủng hoảng, học thuyết của Keynes đã phát
huy tác dụng
chặn
được đà suy giảm kinh tế, nhưng nhìn dài hạn hơn,
nhiều nhà kinh tế bắt đầu lo ngại
với
những biện pháp theo chủ thuyết
này.
Đằng sau các giải pháp kích cầu của Keynes, các nền kinh tế sẽ phải đối mặt
với nguy cơ
rơi
vào bẫy thanh khoản
16
khi chính sách tiền tệ hết dư địa, lãi
14
Hội thảo khoa học Quốc gia: “Mô hình tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam: Cơ

sở lý luận và thực tiễn”, Hội đồng Lý luận Trung ương, Hà Nội, 9/2009.

15 Tanzi, (2009), The Economic role of the state before and after the current crisis, The International Íntitute of
public finance, Cape town.
suất cơ bản đã ở mức bằng không.
Việc các chính phủ phụ thuộc quá mức
vào công cụ tài khóa để duy trì tăng trưởng còn
khiến việc chính phủ phụ
thuộc quá mức vào công cụ tài khóa để duy trì tăng trưởng kinh tê khiến
thâm hụt ngân sách tăng cao, có thể kéo theo những hệ lụy nghiêm trọng như
tăng thuế, tăng
lãi
suất dài hạn, gia tăng lạm phát tiền tệ và làm đình trệ hoạt
động kinh doanh. Nguy cơ đình -
lạm
của kinh tế thế giới do lượng tiền
cung ra quá lớn trên toàn cầu không phải là không thể xảy
ra
như đã từng
xảy ra trước
đó
17
.
Và thực tế đến nay, năm 2013 kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng dưới
mức tiềm năng dự báo năm 2013 là tích cực là 3.3%
18
hoặc chỉ ở mức 2.5% –
2.9%
19
, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ đã dịu xuống nhưng nhìn chung vẫn ở mức cao
trong lịch sử, và vấn đề thất nghiệp vẫn và ngập nợ là bài toán nan giải với khu
vực sử dụng đồng euro (với tỷ lệ tại Hy Lạp và Tây Ban Nha ở trên mức 25%),

chỉ số quản lý sức mua (PMI) của các nước trong Liên hợp quốc đã nhích lên
47.5 vào tháng 5/2013 nhưng vẫn thấp dưới ngưỡng 50 (ngưỡng phân định
tăng trưởng và giảm), Theo dự báo của một số chuyên gia kinh tế Mỹ Nourel
Roubini trong một Hội nghị SALT thì 4 vấn đề chính của nền kinh tế toàn cầu
là sự suy thoái của kinh tế Mỹ, sự tan rã của châu Âu, cuộc xung đột quân sự
tại Iran và sự xuống dốc của các thị trường mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc,
16 Mishkin, Fredric S. (1995), The Economics of Money, Banking, and Financial Markets, Fourth
Edition, The HarperCollins Series in Economics.
17 Paul Kruman (2009), Sự trở lại của kinh tế học suy thoái và cuộc khủng hoảng năm 2008, Nhà
xuất bản Trẻ, Hà
Nội.
18 Dự báo của các chuyên gia thuộc ngân hàng Goldman Sách của Mỹ.
19 Dự báo của văn phòng nội các Nhật bản.
đều sẽ xảy ra cùng một lúc và tạo thành cơn bão. Họ cho rằng, tình hình tài
chính của Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và nhiều nước châu Âu khác sẽ
lan rộng ra nền kinh tế toàn cầu và Hy Lạp sẽ là nước đầu tiên rời khỏi
Eurozone, còn Tây Ban Nha cuối năm 2012 sẽ mất quyền tham gia thị trường
vốn cho đến khi tái cấu trúc được khoản nợ. Đối với kinh tế Mỹ, thị trường
chứng khoán sẽ rơi vào suy thoái hơn nữa.
Đáng lưu ý là, không chỉ ẩn giấu những hạn chế vốn có trên đây, học
thuyết Keynes
còn
vấp phải các giới hạn mới do thời đại mới tạo lên. Sẽ
cần có nhiều phân tích, lập luận sâu
sắc
để nhận diện chính xác các giới hạn
này, có thể thấy một số điểm chính
yếu nhất:
Chủ nghĩa Keynes chủ yếu là
một công cụ nhằm phục hồi các nền kinh tế quốc

gia.
Nhưng giờ đây
quá trình toàn cầu hoá đã làm cho việc sử dụng công cụ này trở lên phức
tạp.
Biện pháp kích cầu giờ đây khó có thể khác biệt trong nội bộ các
quốc gia. Các tập đoàn
đa
quốc gia có thể có lợi, nhưng tác động theo cấp
số nhân đối với các nền kinh tế quốc gia có
thể
rất hạn chế. Nếu chương
trình kích cầu của Keynes được toàn cầu hoá, dựa trên trợ giúp

cho vay
từ các nước phát triển có thể giúp nền kinh tế các nước chậm phát triển
tránh khỏi
đổ
vỡ và thậm chí có thể kích thích tăng trưởng ở một số nơi.
Nhưng số phận của các nền kinh
tế
này lại khó được quan tâm. Trong khi đó,
gói kích cầu sẽ không tác dụng nếu không đạt tới
sự
đồng bộ quốc tế và khu
vực.
Hơn nữa, mô hình tư bản có điều tiết của Keynes chỉ đơn thuần trì
hoãn chứ không
đưa
ra giải pháp cho một trong những mâu thuẫn căn
bản (bất cân bằng gốc) dẫn đến

khủng
hoảng. Đồng thời về ngắn hạn, sự
can thiệp sâu hơn, chặt chẽ hơn của nhà nước quốc gia
vào
nền kinh tế sẽ
mâu thuẫn quá trình toàn cầu hóa – tự do hóa và trong một chừng mực

×