Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

LV Thạc sỹ_Quản lý nhà nước đối với hệ thống quỹ tín dụng nhân dân ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.03 KB, 89 trang )

0

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỆ THỐNG QUỸ TÍN DỤNG
NHÂN DÂN – CƠ SỞ LÝ LUẬN...........................................................................6
1.1. Tổng quan về QTDND:.......................................................................................6
1.1.1 Nguồn gốc ra đời và khái niệm QTDND........................................................6
1.1.2 Sự hình thành và phát triển của QTDND:.......................................................8
1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của QTDND:..........................................................11
1.1.4 Vai trò của QTDND đối với nền kinh tế:........................................................13
1.1.2. Cơ cấu tổ chức hệ thống trung gian tài chính:...............................................17
1.2.1. Vị trí vai trò của QTDND trong hệ thống các ngân hàng trung gian:............24
1.1.5 Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động và sự phát triển của TCTD là HTX:28
1.2 Quản lý nhà nước (QLNN) đối với hệ thống QTDND......................................28
1.2.1 Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với hệ thống QTDND...........................28
1.2.2 Nội dung của QLNN đối với hệ thống QTDND:............................................29
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới QLNN đối với hệ thống QTDND:..........................34
1.3.1 Xu hướng phát triển của nền kinh tế:............................................................34
1.3.2 Xu hướng phát triển của các QTDND:.........................................................35
1.3.3 Nhận thức của người dân về QTDND:.........................................................36
1.4 Bài học từ QLNN đối với QTDND ở một số quốc gia trên thế giới:.................37
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QLNN ĐỐI VỚI HỆ THỐNG QTDND Ở VIỆT
NAM ...................................................................................................................... 38
2.1 Khái quát về hệ thống QTDND ở Việt Nam qua các thời kỳ:............................38
2.2 Thực trạng QLNN đối với hệ thống QTDND ở Việt Nam.................................40
2.2.1 QLNN thông qua phương pháp hành chính....................................................40
2.2.2 QLNN thông qua phương pháp kinh tế...........................................................52
2.2.3 QLNN thông qua phương pháp giáo dục........................................................57
2.3 Đánh giá thực trạng của QLNN đối với hệ thống QTDND ở Việt Nam ...........63


2.3.1 Kết quả đạt được.............................................................................................63


2.3.2 Những mặt hạn chế.........................................................................................65
2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế....................................................................65
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QLNN ĐỐI VỚI HỆ THỐNG
QTDND..................................................................................................................66
3.1 Định hướng chiến lược của công tác QLNN đối với hệ thống QTDND trong
những năm tới.......................................................................................................... 66
3.1.1 Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam............................................................66
3.1.2 Những thuận lợi và thách thức........................................................................69
3.1.3 Mục tiêu, định hướng:....................................................................................71
3.2 Giải pháp hoàn thiện QLNN đối với hệ thống QTDND....................................76
3.2.1 Các giải pháp vĩ mô........................................................................................76
3.2.2 Các giải pháp vi mô........................................................................................79
3.3 Kiến nghị...........................................................................................................83
3.3.1 Kiến nghị đối với Chính phủ..........................................................................83
3.3.2 Kiến nghị đối với NHNN................................................................................84
3.3.3 Kiến nghị đối với các Bộ, Ngành liên quan....................................................86
3.3.4 Kiến nghị đối với cấp ủy, chính quyền địa phương ........................................86


1

LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng đang đứng trước
những thử thách vô cùng khắc nghiệt. Sang đến năm 2011, nền kinh tế thế giới tiếp
tục chịu những tổn thất nặng nề khi ....Trong những tháng Quý III của năm 2011, nợ
công của Mỹ lớn đến mức xếp hạng tín nhiệm của kinh tế nước này đã tụt từ ...
xuống ... theo đánh giá của Standard &Poor’s. Giá vàng trên thế giới chưa bao giờ

tăng cao như thế, tại Việt Nam người dân cũng điên đảo vì vàng, thậm chí có những
ngày giá vàng được điều chỉnh đến 42 lần chỉ trong 1 buổi sáng.....Chứng khoán thì
vẫn rớt giá thảm hại, thị trường ảm đạm từ những tháng đầu năm ... và vẫn không có
dấu hiệu phục hồi trong năm 2011.
Ngành ngân hàng – tài chính là một ngành đặc biệt nhạy cảm với sự thay đổi
của nền kinh tế, chính trị trên thế giới Chúng ta đã chứng kiến sự sụp đổ không thể
cứu vãn được của một loạt các tổ chức kinh tế hàng đầu thế giới như: Tập đoàn bảo
hiểm lớn nhất của Mỹ AIG, .... Gia nhập vào nền kinh tế thế giới WTO, thuận lợi
có và thách thức cũng vô vàn đối với nền kinh tế Việt Nam. Một phần do ảnh hưởng
của nền kinh tế thế giới, ở Việt Nam ,một cơ số các công ty,... đã phá sản...hoặc phải
chịu sự kiểm soát đặc biệt của nhà nước(?)........ Trong bối cảnh đó, các TCTD cũng
gặp vô vàn khó khăn trong việc tìm ra hướng đi đúng đắn cho mình....
Xóa đói nghèo trên toàn cầu là một trong những thách thức quan trọng nhất
mà nhân loại đang phải đối mặt hiện nay. Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ được đề
ra trong tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc hiện đang giúp tăng cường nhận
thức về sự đói nghèo toàn cầu và mục tiêu số một (trong tám mục tiêu) là hướng
đến việc giảm đói nghèo xuống một nửa vào năm 2015.
Có nhiều cách để giúp các nước đang phát triển kể cả việc cứu trợ khẩn cấp và
những cách hỗ trợ phát triển khác có thể như một chiếc cần câu giúp người nghèo tự
giúp chính mình. Nhưng trong quá trình phát triển mang tính thay đổi, chìa khóa
chính là tiến tới sự ổn định như một mục tiêu, hướng đến việc chuyển đổi nền kinh


2

tế- những thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế, quản lý và tổ chức, năng lực nhân sự
để các nước nghèo có thể tiếp tục duy trì quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Trong nhiều năm qua, HTX (HTX) đã cam kết thực hiện các hoạt động kinh
doanh theo cách mà hiện đang được khuyến khích như con đường hiệu quả nhất để
hướng đến sự phát triển mang tính thay đổi: đặt mọi người chịu trách nhiệm với số

phận của mình và giúp họ đưa những dịch vụ tới cộng đồng; tăng cường khả năng
ra quyết định, tin cậy và có trách nhiệm thông qua việc tham gia dân chủ; tạo sự liên
kết có lợi với khu vực tư nhân; xây dựng và bảo vệ tài sản ở cộng đồng; giảm thiểu
tác động của các cấp chính quyền; phối hợp với nhau để giải quyết những vấn đề
xung đột. Mô hình kinh doanh HTX đã giúp xây dựng thành công nền kinh tế của
những nước phát triển có thể áp dụng cho phạm vi lớn hơn nhằm giúp các HTX của
những nước đang phát triển thoát đói nghèo và tìm thấy chỗ đứng của họ trong nền
kinh tế toàn cầu.
"Hợp tác để thoát nghèo" là chiến dịch toàn cầu của HTX chống đói nghèo,
do Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Liên minh HTX quốc tế (ICA) cùng khởi
xướng, nhấn mạnh HTX là hình thức tổ chức duy nhất đáp ứng tất cả các khía cạnh
của việc xóa đói nghèo như Ngân hàng Thế giới đã tổng kết: "Cơ hội, trao quyền và
an ninh". Chiến dịch này hướng những tổ chức tài trợ hiểu tiềm năng đầy đủ của mô
hình kinh doanh HTX, kêu gọi hành động đối với từng HTX trong các nước đang
phát triển để tạo ra mạng lưới hợp tác trên toàn cầu, khuyến khích để đạt được mục
tiêu của Hội nghị thượng đỉnh thiên niên kỷ.
Có 3 con đường thoát nghèo theo sự phát triển mang tính thay đổi và HTX là
tổ chức duy nhất trong việc thực hiện đồng thời 3 con đường này:
Thứ nhất: Con đường kinh tế: Mô hình kinh doanh HTX đã giúp hàng triệu
người thu nhập thấp ở những nước đang phát triển cải thiện thu nhập của họ. HTX
là tổ chức được lựa chọn để mang lại những cơ hội kinh tế cho những vùng còn khó
khăn. Những vùng nông thôn hẻo lánh, vùng hải đảo xa xôi, nơi mà hầu hết người
nghèo cư trú, dường như ít sinh lợi cho những hình thức doanh nghiệp khác và
không hấp dẫn đối với những nhà đầu tư vì mức độ sản xuất thấp và phân tán, chi


3

phí giao dịch cao và xa thị trường tập trung. Các HTX cho phép kinh doanh vượt
qua những rào cản thị trường ở những nước đang phát triển. Qua thời gian, những

khu vực này có thể được thay đổi khi xã viên đầu tư vào các HTX nông nghiệp để
giảm chi phí vật tư nông nghiệp và cải thiện hoạt động tiêu thụ; HTX tín dụng và
tiết kiệm tiếp cận những nhóm thu nhập thấp hơn là những ngân hàng thương mại;
HTX bảo hiểm bảo vệ tài sản của những người thu nhập thấp; và HTX điện nông
thôn, HTX y tế, HTX viễn thông và HTX nhà ở cung cấp các dịch vụ cộng đồng
cho những khu vực khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
Thứ hai là: Con đường dân chủ: Xã viên HTX trực tiếp thấy được các
nguyên tắc quản lý dân chủ, minh bạch và sự tham gia của xã viên, xã viên HTX
mang lại cho những người sản xuất sinh kế và những người bần cùng khác tiếng nói
và cơ hội chịu trách nhiệm với số phận của mình. Kinh nghiệm này mang lại ý thức
làm chủ quá trình phát triển chính trị địa phương, nó đưa ra ví dụ về tính hiệu quả
về mặt tổ chức, tính minh bạch và trách nhiệm; và nó tạo ra một phương tiện thích
hợp đối với việc xử lý mâu thuẫn thông qua những lợi ích bất di bất dịch chung.
Những kỹ năng và khả năng phân tích có được ở các HTX cơ sở lan đến tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống, điều này có thể áp dụng vào những liên hiệp HTX, ở các cơ
quan công quyền, ở những tổ chức cấp quốc gia và những diễn đàn khác.
Thứ ba là: Con đường xã hội: Các HTX tăng cường lòng tin và sự đoàn
kết, hướng đến một xã hội phát triển cân bằng, bền vững và tốt đẹp hơn. Thông qua
những chương trình phát triển, xã viên HTX học được mối quan hệ giữa việc phục
vụ nhu cầu của chính họ và khả năng đứng vững của HTX nhờ đó ngày càng củng
cố lòng tin của cộng đồng đối với dịch vụ mà HTX mang lại trong mọi lĩnh vực như
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục về HIV/AIDS, về văn hoá, lịch sử....
QTDND (QTDND) là một loại hình TCTD hoạt động theo nguyên tắc HTX
được thành lập năm 1993 theo .... của Chính phủ nhằm phát huy tinh thần tương trợ
cộng đồng để khai thác triệt để nguồn vốn nhàn rỗi tại chỗ, đáp ứng các nhu cầu tín
dụng nhỏ tại làng, xã một cách kịp thời. Hiệu quả hoạt động của hệ thống QTDND
chính là ý nghĩa to lớn về mặt xã hội của những đồng vốn tương trợ trong nội bộ


4


dân cư, nhờ đó mà xoá dần các tệ nạn cho vay nặng lãi, cải thiện đời sống kinh tế
của các hộ thành viên, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở những địa bàn có
QTDND được thành lập, đồng thời thắt chặt thêm mối giao lưu tình làng, nghĩa
xóm giữa các thành viên QTDND. Ngay từ khi mới thí điểm thành lập QTDND, các
tầng lớp nhân dân trong địa bàn đã tự nguyện tham gia và nhiệt tình hưởng ứng
tham gia thành lập Quỹ (sửa lại), bước đầu đáp ứng kịp thời các nhu cầu về vốn sản
xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống cho các thành viên và dần từng bước xoá đi
mặc cảm về sự đổ vỡ HTX tín dụng của những năm 1989, 1990. Tuy nhiên, hiện
nay đứng trước những biến chuyển khôn lường của nền kinh tế thế giới nói chung
và kinh tế Việt Nam nói riêng, QTDND cũng đang phải chịu sức ép cạnh tranh rất
lớn. Để tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh của hàng loạt các ngân hàng thương
mại hiện nay, QTDND....
Đi ngược dòng lịch sử và trở lại với những mục tiêu ban đầu khi thành lập
QTDND, ta mới thấy được sự tồn tại và phát triển của nó quan trọng đến nhường
nào. Nước ta vốn là một nước đi lên từ nông nghiệp, tới 80% dân số sống ở vùng
nông thôn. Chính vì vậy, năm 1993, Đảng và nhà nước đã ... thành lập QTDND với
tôn chỉ là phục vụ cho việc .... vốn ... ở vùng nông thôn: “........” (dẫn chứng một
câu nói nào đó trong chỉ thị)
Sự khủng hoảng của nền kinh tế thế giới cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến ....
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được, hoạt động của các
QTDND trong thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, tồn tại cần khắc phục: Trình
độ cán bộ quản lý, điều hành còn yếu kém, một số cán bộ lợi dụng, tham ô trục lợi
làm thất thoát tài sản của Quỹ, chất lượng hoạt động còn nhiều hạn chế, dẫn đến
một số QTDND bị bắt buộc phải giải thể đã phần nào ảnh hưởng đến uy tín của cả
hệ thống. Mặt khác, trong thời gian thí điểm mô hình tổ chức hệ thống chưa hoàn
thiện, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và ổn định, cách thức quản lý của các cơ
quan nhà nước chưa sát sao, triệt để cũng đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của
các QTDND và không kiểm soát được tình trạng một số QTDND đã hoạt động
không còn đúng với mục tiêu ban đầu mà Đảng và Chính phủ đã đặt ra.



5

b. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu của đề tài:
Đứng trước thực trạng đó, trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học về sự
quản lý của nhà nước đối với hệ thống QTDND, đề tài hướng đến các mục tiêu sau:
- Xây dựng hệ thống cơ sở lý luận chung về QTDND;
- Tìm hiểu, nghiên cứu về cách quản lý QTDND tại một số nước trên thế giới
và tại Việt Nam;
- Đánh giá thực trạng hoạt động của việc quản lý nhà nước đối với hệ thống
QTDND;
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hệ
thống QTDND.
c. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống QTDND và quản lý nhà nước đối với
QTDND
- Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam và một số nước trên thế giới.
d. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng một số phương pháp như:
Thu thập tài liệu, khảo sát thực tế, từ đó đánh giá, đối chiếu, so sánh. Ngoài ra luận
văn còn sử dụng một số phương pháp khác.
- Nguồn dữ liệu thứ cấp:
- Nguồn dữ liệu sơ cấp:
e. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Trên phương diện lý luận: Tác giả luận văn đưa ra cơ sở lý luận về cách thức
quản lý nhà nước đối với hệ thống QTDND hiện nay.
- Trên phương diện thực tiễn: Tác giả luận giải về tổ chức và hoạt động của
QTDND, từ đó đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện cách thức quản lý đối với hệ
thống QTDND hiện nay.(Xem lại)

Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đàm Văn Huệ đã giúp đỡ em hoàn thành
đề tài này!


6

CHƯƠNG 1
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỆ THỐNG QUỸ TÍN
DỤNG NHÂN DÂN – CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan về QTDND:
1.1.1 Nguồn gốc ra đời và khái niệm QTDND
Xã hội loài người đã trải qua 5 giai đoạn phát triển (viết lại câu này). Khi xã
hội loài người chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa cũng
là lúc sự phân công lao động và chuyên môn hóa bắt đầu được hình thành. Đây
cũng là lúc con người dần được giải phóng khỏi chế độ nô lệ và được tự do hành
nghề, tự do kinh doanh sản xuất. Tuy nhiên, khi sự phân công lao động trong xã hội
ngày càng rõ nét, thì việc kinh doanh sản xuất cũng có khoảng cách rõ rệt giữa
những người làm ăn được và những người làm ăn thua lỗ. Những người làm ăn thua
lỗ cũng do rất nhiều nguyên nhân: do thiếu kinh nghiệm, do thiếu vốn, ... và nhiều
người đã phải rơi vào tình trạng đi vay nặng lãi, phá sản ...
Để thoát khỏi thực trạng đó, những người này đã đoàn kết lại và hợp tác với
nhau tạo ra sức mạnh chung lớn hơn, giúp họ thoát khỏi tình trạng nghèo khó, khốn
khổ. Chính việc nhóm những người có cùng cảnh ngộ, muốn cùng thực hiện một
công việc chung nhất định nào đó vì chính những lợi ích, quyền lợi của họ hình
thành nên các tổ, nhóm hợp tác. Các nhóm tín dụng hợp tác theo đó đã ra đời, giúp
cho các thành viên tiếp cận được với đồng vốn để thực hiện các hoạt động đầu tư,
mua bán, sản xuất, kinh doanh hay tiêu dùng của họ. Khi từng thành viên đứng
riêng lẻ, họ không thể tiếp cận hay tiếp cận một cách không thỏa đáng với nguồn
vốn, do uy tín và khả năng vay vốn hạn chế của họ cũng như sự cung cấp tín dụng
chưa nhiệt tình hoặc không nhiệt tình, đầy đủ của hệ thống các TCTD hoạt động

chính thức. Các nhóm tín dụng hợp tác này do đặc điểm nổi bật là tự hình thành do
sự tự nguyện, tự phát nên có thể có từ 5-7 thành viên, cũng có thể có tới hàng chục


7

thành viên với các tên gọi khác nhau như: nhóm tín dụng, hội tiết kiệm, hội cho vay,
hội tiết kiệm và cho vay, hội tạm ứng, hội tín dụng và tạm ứng ...
Đó là hình thức sơ khai của các nhóm tín dụng hợp tác. Hình thức này còn
được gọi là chơi hụi, chơi tổ, ... Thời kỳ này, các thành viên trong nhóm sẽ cùng
nhau góp vốn tạo thành một khoản lớn và có thể cho các thành viên có nhu cầu vay
vốn vay. Ban đầu, các nhóm này huy động vốn từ chính trong nội bộ các thành viên
của nhóm để cho vay chính các thành viên đó nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn một
cách nhanh chóng, thuận tiện với giá cả hợp lý. Sau này, các hoạt động và hình thức
huy động, góp vốn, cho vay được mở rộng, phát triển hơn cả về hình thức, quy mô,
số lượng, địa bàn ... và ngày càng trở nên đa dạng và phong phú. Chẳng hạn nhóm
tín dụng hợp tác cũng có thể huy động vốn ở ngoài thành viên, cho vay ngoài thành
viên, đứng ra bảo lãnh cho thành viên, thực hiện dịch vụ chi trả hộ giúp cho thành
viên ... Khi số lượng thành viên nhiều hơn, quy mô, địa bàn hoạt động, đối tượng
phục vụ lớn hơn, các nhóm tín dụng hợp tác này trở thành các nhóm hoạt động có tổ
chức hơn với bộ máy quản lý lớn hơn, chặt chẽ hơn với số lượng thành viên lên tới
hành trăm, hàng nghìn thành viên.
Các nhóm tín dụng hợp tác tự phát như vậy ra đời đã giúp các thành viên giải
quyết được một khó khăn lớn của họ là tiếp cận được với vốn vay để đầu tư, sản
xuất, kinh doanh, tiêu dùng ..., đẩy lùi thị trường tín dụng đen với lãi suất cho vay
“cắt cổ”. Kèm theo đó, các nhóm tín dụng hợp tác này cũng huy động vốn, đặc biệt
là huy động từ các thành viên và trả lãi cho họ, do đó đã khuyến khích họ tích lũy
tài sản, dần dần thoát khỏi cảnh nghèo đói. Như vậy, sự ra đời của các nhóm tín
dụng hợp tác đã hỗ trợ rất nhiều cho các thành viên – chủ yếu là các hộ gia đình
nghèo ở nông thôn, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, và qua đó

cũng đã hỗ trợ cho sự phát triển của kinh tế địa phương nói chung, góp phần tạo
công ăn việc làm, ổn định an ninh chính trị và trật tự xã hội, phát huy nội lực tại chỗ
cho tăng trưởng kinh tế.


8

1.1.2 Sự hình thành và phát triển của QTDND:
1.1.2.1 Trên thế giới:
Sự ra đời của các nhóm tín dụng hợp tác mang lại nhiều lợi ích to lớn. Song
bên cạnh những lợi ích mà nó đem lại, các nhóm tín dụng hợp tác cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động. Khi các nhóm này huy động vốn (cả trong và
ngoài thành viên), có thể phát sinh rủi ro không hoàn trả được tiền gửi của người
dân trong trường hợp nhóm hoạt động bị thua lỗ, phá sản. Do đó, cần phải có sự
quản lý, giám sát chặt chẽ của các cơ quan nhà nước.
Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã có những định hướng rõ ràng đối với sự
tồn tại và phát triển của các nhóm này. Từ chỗ đưa các nhóm tín dụng hợp tác ra
hoạt động công khai, chính thức như các TCTD, tham gia vào thị trường tiền tệ, tín
dụng, ngân hàng đến chỗ ... Theo thống kê của Liên minh HTX quốc tế, các nhóm
tín dụng hợp tác xuất hiện ở trên 150 quốc gia và đã chính thức trở thành các tổ
chức TDHT ở trên 100 quốc gia. Ở mỗi quốc gia, các tổ chức TDHT này đều tồn
tại ở những mô hình đặc thù khác nhau với những tên gọi khác nhau tùy theo bối
cảnh ra đời, điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi nước.
Ở Đức, các tổ chức TDHT được gọi chung là các NH HTX, trong đó ở vùng
đô thị gọi là các NH nhân dân, còn ở nông thôn là các NH Raiffeisen; Ở Philipin là
các HTX tín dụng; Ở Canada là QTD Dejardins; Ở Việt Nam là các QTDND ... Các
tổ chức này về cơ bản giống nhau về nguồn gốc hình thành, nguyên tắc, cơ cấu tổ
chức và hoạt động, tuy nhiên, mỗi loại hình ở các nước lại có những đặc thù riêng
gắn với những đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội ở từng quốc gia đó. Tại các nước
có lịch sử phát triển lâu đời, các tổ chức TDHTđã phát triển thành một hệ thống các

tổ chức TDHT có mặt ở khắp mọi nơi từ nông thôn đến đô thị để cung cấp các dịch
vụ ngân hàng và các dịch vụ khác cho thành viên và người dân...
Có thể nói, sự phát triển của các tổ chức TDHT là một sự phát triển từ từ, có
tiến trình, từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến đồ sộ, phức tạp, từ tổ chức cá lẻ đến hệ
thống liên kết hoàn chỉnh. Trong quá trình phát triển trên, Nhà nước của các quốc
gia này cũng đóng góp một phần đáng kể để vun đắp và nâng đỡ cho hệ thống các


9

tổ chức TDHT phát triển. Chính nhờ vậy mà các tổ chức TDHT đã có điều kiện phát
h.........

1.1.2.2. Ở Việt Nam
Năm 1986 là một bước ngoặt đánh dấu một sự khởi đầu quan trọng của nền
kinh tế đất nước khi chuyển mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là sự khởi đầu của
nền kinh tế hàng hóa cùng với sự xóa bỏ của cơ chế quản lý cũ và những mệnh lệnh
kinh tế từ trên xuống dưới. Cùng với cơ chế quản lý mới này, người dân được tự do
hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhu cầu vốn theo đó cũng tăng
lên. Ở Việt Nam lúc đó có 30 ngân hàng cổ phần nông thôn còn 20 ngân hàng
thương mại cổ phàn lớn khác chỉ có mặt chủ yếu tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh. Với một số lượng hạn chế, các ngân hàng thương mại lúc đó cũng mới chỉ
đáp ứng được khoảng 5% nhu cầu vay vốn của người dân và chỉ có 28,6% các hộ đi
vay có thể tiếp cận được với nguồn vốn vay từ ngân hàng. Do đó, không thể đáp
ứng được nhu cầu vốn của người dân. Hơn nữa, nước ta là một nước đi lên từ nông
nghiệp với 90% dân số ở nông thôn, do đó, sự thiếu hiện diện của các TCTD tại
nông thôn là một thiếu sót lớn trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Chính vì thế, ngày từ những ngày đầu của thời kỳ đổi mới , Đảng và Chính
phủ Việt Nam đã dành nhiều sự quan tâm trong chỉ đạo, điều hành và hoạch định

các cơ chế , chính sách về nông nghiệp và phát triển nông thôn mà đỉnh cao của sự
quan tâm này là Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính
phủ thành lập mô hình Quỹ TDND.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá
VII về tiếp tục đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, từ giữa năm 1993 Ban
Bí thư Trung ương Đảng đã chủ trương thí điểm thành lập mô hình QTDND.
QTDND là loại hình TCTD hợp tác hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, thực hiện mục tiêu chủ yếu là tương
trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức mạnh của tập thể và của từng thành viên
giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải


10

thiện đời sống. Hoạt động của QTDND phải bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lũy
để phát triển. (Xem lại khái niệm chính xác có ở đâu k)
Tính đến 31/12/2010, sau hơn 17 năm xây dựng và phát triển, hệ thống
QTDND đã bao gồm 1.053 QTDND (update lại) cơ sở hoạt động trên địa bàn 56
tỉnh, thành phố; 01 QTDND Trung ương với trụ sở chính tại Hà Nội và 25 chi
nhánh hoạt động trên phạm vi toàn quốc; đồng thời được sự chấp thuận của NHNN
Việt Nam và Bộ nội vụ, các QTDND cơ sở và QTDND Trung ương đã cùng nhau
thành lập Hiệp hội QTDND Việt Nam với tư cách là tổ chức đại diện quyền lợi và
liên kết phát triển chung cho toàn hệ thống. Hoạt động của hệ thống QTDND đã
góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nông nghiệp - nông thôn. Những kết quả
đạt được đã khẳng định QTDND là một mô hình kinh tế hợp tác kiểu mới trong lĩnh
vực hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng đã được xây dựng và phát triển thành
công tại Việt Nam (xem lại phần này có cần thiết không hoặc viết lại).
Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: "Tổ chức tốt hệ
thống QTDND, quản lý chặt chẽ hoạt động của các Ngân hàng Thương mại và các

chi nhánh Ngân hàng nước ngoài. Có biện pháp đồng bộ để giảm dần lãi suất, tạo
điều kiện cho đầu tư phát triển" (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII Mục Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế). Nghị quyết của Đảng cũng đã chỉ rõ:
Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các HTX là hình thức liên kết tự nguyện của những
người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể
để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng từ thấp tới cao, từ tổ nhóm
hợp tác đến HTX; tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý
dân chủ. Nhận thức rõ tầm quan trọng của QTDND trong hệ thống TCTD trong
thành phần kinh tế HTX Việt Nam đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất
nước, Bộ Chính trị đã khẳng định: "Thí điểm thành lập QTDND là một chủ trương
đúng đắn, phải quán triệt nhận thức việc xây dựng và phát triển QTDND là một
trong những giải pháp quan trọng để góp phần đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ phát


11

triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông nghiệp - nông thôn" (Chỉ thị số 57-CT/TW
ngày 10/10/2000 của Bộ Chính trị về củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống
QTDND). QTDND là loại hình TCTD hợp tác hoạt động theo Luật Các TCTD và
Luật HTX, theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động, thực hiện mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy
sức mạnh tập thể và của từng thành viên giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các
hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống, đồng thời làm uỷ thác
cho vay vốn ưu đãi của các TCTD và các tổ chức khác.
Quá trình hoạt động của QTDND góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh
tế xã hội, ngoài ra còn giải quyết hài hoà mối quan hệ phân phối giữa nhà nước,
QTDND và các thành viên. Góp phần hình thành quan hệ sản xuất mới ở nông thôn,
đẩy lùi suy nghĩ thiếu tin tưởng trong dân cư đối với loại hình TCTD hợp tác do sự
đổ vỡ HTX trước đây; khôi phục lòng tin của thành viên và nhân dân cũng như tạo
sự đồng tình ủng hộ của cấp uỷ, chính quyền các cấp đối với mô hình QTDND. Với

kết quả kinh doanh có lãi QTDND đã đóng góp một phần nhất định vào Ngân sách
Nhà nước, ngoài ra còn giành một phần tích luỹ để phát triển và chia cho thành viên
theo vốn góp đảm bảo hài hoà nghĩa vụ với Nhà nước, với QTDND và quyền lợi
của thành viên

1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của QTDND:
1.1.3.1 Cơ cấu hệ thống QTDND
- Trước đây, hệ thống QTDND bao gồm QTDND Trung ương và các QTDND
cơ sở
- Theo Luật các TCTD năm 2010 thì hệ thống QTDND gọi chung là TCTD là
HTX bao gồm Ngân hàng HTX và QTDND.

1.1.3.2 Những đặc trưng cơ bản của TCTD là HTX
a. Ngân hàng HTX
- Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng HTX là điều hòa vốn và thực hiện các
hoạt động ngân hàng đối với thành viên là QTDND.
- Ngân hàng hàng HTX được thực hiện một số hoạt động ngân hàng,


12

hoạt động kinh doanh khác sau đây sau khi được NHNN chấp thuận:
+ Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại
tiền gửi khác
+ Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong
nước và nước ngoài
+ Cấp tín dụng dưới các hình thức:
. Cho vay
. Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giáy tờ có giá khác
. Bảo lãnh ngân hàng

. Phát hành thẻ tín dụng
. Bao thanh toán trong nước, bao thanh toán quốc té với các ngân hàng được
phép thực hiện thanh toán quốc tế
. Các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được NHNN chấp thuận.
+ Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng
+ Cung ứng các phương tiện thanh toán
+ Cung ứng các dịch vụ thanh toán sau đây:
. Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy nhiệm
chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngan hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ.
. Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác sau khi
được NHNN chấp thuận.
- Điểm khác biệt giữa ngân hàng HTX và QTDNDTW trước đây:
b. QTDND:
- Nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam trong các trường hợp sau:
+ Nhận tiền gửi của thành viên
+ Nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân không phải là thành viên theo quy
định của NHNN
- Cho vay bằng đồng Việt Nam trong các trường hợp sau:
+ Cho vay đối với khách hàng là thành viên


13

+ Cho vay đối với khách hàng không phải là thành viên theo quy định của
NHNN
- Cung ứng dịch vụ chuyển tiền, thực hiện các nghiệp vụ thu hộ, chi hộ cho
các thành viên
- Các hoạt đông khác bao gồm:
+ Tiếp nhận vốn ủy thác cho vay của Chính phủ, tổ chức, cá nhân (Đề cập đến
vấn đề này trong phần thực trạng, vì hiện nay có một số quỹ được nhận ủy thác cho

vay lãi suất thấp nhưng cho vay lại đối với thành viên rất cao – xem lại khái niệm
ủy thác)
+ Vay vốn của các TCTD, tổ chức tài chính khác
+ Tham gia góp vốn thành lập ngân hàng HTX
+ Mở tài khoản tiền gửi tại NHNN
+ Mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài
+ Nhận ủy thác và làm đại lý một số lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân
hàng, quản lý tài sản theo quy định của NHNN
+ Làm đại lý kinh doanh bảo hiểm
+ Cung ứng dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính cho các thành viên
- So sánh giữa QTDND cơ sở trước đây và QTDND (theo Luật các TCTD
năm 2010)

1.1.4 Vai trò của QTDND đối với nền kinh tế:
1.1.4.1 Vai trò của hệ thống trung gian tài chính đối với nền kinh tế thị
trường
a. Vai trò hệ thống trung gian tài chính trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại các chủ thể có nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi và muốn đầu tư để sinh lời mà người ta thường gọi là người tiết kiệm và
các chủ thể có nhu cầu tiêu dùng vốn được gọi chung là người đầu tư. Về phía
người tiết kiệm, đầu tiên có thể kể đến đó là các hộ gia đình, kế đến là các hãng
kinh doanh và cuối cùng là Chính phủ. ở vế ngược lại về phía người đầu tư, đối


14

tượng đầu tiên phải kể đến là các hãng kinh doanh, thứ hai là Chính phủ và cuối
cùng là các gia đình.
Tuy nhiên giữa người tiết kiệm và người đầu tư rất khó gặp nhau trực tiếp để

có thể thoả mãn nhu cầu của phía đối tác; vì vậy họ phải nhờ đến thị trường tài
chính là nơi mua bán các công cụ tài chính, nhờ đó vốn được chuyển giao một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp từ phía người tiết kiệm đến người đầu tư. Như vậy, thị
trường tài chính cho phép chuyển vốn từ những người có vốn nhàn rỗi nhưng lại
không lại không có cơ hội đầu tư sinh lời tới những người có cơ hội đầu tư sinh lời
nhưng lại thiếu vốn thông qua hai hình thức đâù tư tài chính trực tiếp và đầu tư tài
chính gián tiếp.
Trong hình thức đầu tư tài chính trực tiếp, vốn được chuyển giao trực tiếp từ
người tiết kiệm đến người đầu tư thông qua các thị trường tài chính trực tiếp. Hình
thức chuyển giao vốn này phần lớn thông qua vai trò người môi giới là người chỉ
được hưởng lợi dưới hình thức hoa hồng cho việc kết nối cung cầu vốn mà không
có quyền thực hiện giao dịch cho bản thân. Như vậy, trong hình thức tài chính tài
chính trực tiếp này, người tiết kiệm (người cho vay) sở hữu các công cụ tài chính do
người đầu tư (người đi vay) phát hành, hưởng toàn bộ lợi nhuận cũng như chịu
đựng toàn bộ rủi ro mang lại từ các công cụ tài chính đó.
Hình thức đầu tư tài chính trực tiếp có những bất lợi mà mà bản thân từng
người cho vay cá nhân không có khả năng khắc phục hoặc gặp nhiều khó khăn
trong quá trình đầu tư như sau:
- Người cho vay phải trả chi phí cao cho việc thu thập và phân tích thông tin
cũng như việc kiểm tra, giám sát hoạt động của người đi vay vốn. Vì lý do trên
những người cho vay cá nhân thường bỏ qua giai đoạn này hoặc nhờ các kết quả
phân tích thị trường của người khác. Do thiếu sự phân tích thông tin một cách kịp
thời, thường xuyên và có hiệu quả nên quá trình đầu tư vốn của người cho vay trực
tiếp trở nên kém hấp dẫn vì rủi ro cao.
- Do sự hạn chế về tính "lỏng" của các công cụ tài chính đang nắm giữ (các
chứng khoán dài hạn do phía người đi vay phát hành không phải lúc nào cũng dễ


15


dàng chuyển sang tiền mặt) nên những người cho vay cá nhân không thật sự bị lôi
cuốn hấp dẫn bởi hình thức đầu tư tài chính trực tiếp, vì trong quá trình đầu tư họ
luôn mong nuốn có thể chuyển đổi nhanh chóng các công cụ tài chính nói trên thành
tiền mặt khi có nhu cầu chi tiêu cần thiết.
- Mức độ rủi ro trong quá trình đầu tư tài chính trực tiếp thường cao, chủ yếu
do biến động giá chứng khoán trên thị trường khi người sở hữu các công cụ tài
chính thực hiện sự chuyển hoán nó sang tiền mặt hoặc sang các công cụ tài chính
khác.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của các trung gian tài chính đã khắc phục được những
hạn chế nói trên của hình thức đầu tư tài chính trực tiếp và kích thích nhu cầu đầu tư
vốn của những người cho vay vì các trung gian tài chính có lợi thế hơn hẳn so với
những người cho vay cá nhân trong việc thu thập và phân tích thông tin liên quan
đến đối tượng đầu tư (người đi vay); vì vậy, các trung gian tài chính có khả năng
đảm bảo an toàn cho các khoản đầu tư vốn cao hơn rất nhiều và với chi phí rẻ hơn
rất nhiều so với người cho vay trực tiếp. Mặt khác với chức năng biến đổi tài sản,
các trung gian tài chính phát hành các công cụ tài chính thứ cấp với tính "lỏng" cao,
rủi ro thấp, cung cấp cho những người tiết kiệm nhằm thay thế cho các công cụ tài
chính sơ cấp do những người đi vay trực tiếp phát hành. Ở đây, thay vì giữ các
chứng khoán sơ cấp do những người đi vay trực tiếp phát hành, người tiết kiệm
được nắm trong tay các chứng khoán thứ cấp do các trung gian tài chính phát hành
dưới dạng tiền gửi, các hợp đồng bảo hiểm hoặc chứng chỉ tiền gửi. Thông qua
chức năng biến đổi tài sản, các trung gian tài chính đã biến đổi cả mức rủi ro đi kèm
công cụ tài chính mà người cho vay đang nắm giữ. Nếu nắm giữ các chứng khoán
sơ cấp do người đi vay phát hành, người cho vay sẽ được hưởng toàn bộ lợi nhuận,
đồng thời cũng phải chịu toàn bộ những rủi ro phát sinh từ phía người đi vay hoặc
do ảnh hưởng của thị trường; đây là điều mà bản thân từng người cho vay khó mà
dự đoán chính xác. Tuy nhiên nếu nắm trong tay các chứng khoán thứ cấp do các
trung gian tài chính phát hành, người cho vay có thể được hưởng một mức sinh lời



16

chắc chắn với mức độ rủi ro thấp, đồng thời có khả năng chuyển đổi dễ dàng và
nhanh chóng các chứng khoán nói trên sang tiền mặt với chi phí thấp nhất.
Cũng cần nhận biết một đặc trưng quan trọng khác với hình thức đầu tư tài
chính trực tiếp là trong hình thức đầu tư gián tiếp, vốn từ tay người cho vay đến tay
người đi vay thông qua vai trò của các trung gian tài chính đã có sự biến đổi cả về
khối lượng và thời hạn. Về mặt khối lượng, các trung gian tài chính đã chuyển các
khoản vốn nhàn rỗi, quy mô nhỏ, lẻ tẻ trong tay người tiết kiệm thành quỹ cho vay
với quy mô lớn có khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn khác nhau của xã hội. Thiếu
vai trò này, người sở hữu các khoản vốn nhỏ chưa chắc đã có động cơ tiết kiệm. Về
mặt thời hạn, các trung gian tài chính có thể vừa đảm bảo cung cấp các khoản vốn
với thời hạn dài cho nhu cầu của người đi vay trong khi vẫn thoả mãn nhu cầu tiết
kiệm của người cho vay phần lớn ở dạng ngắn hạn. Sở dĩ các trung gian tài chính có
thể thực hiện được điều này bởi vì các khoản vốn gửi vào không đồng nhất về thời
gian gửi vào và rút ra; vì vậy, trong các trung gian tài chính luôn tồn tại một lượng
vốn ổn định có thể sử dụng cho vay dài hạn.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, luồng vốn có thể di chuyển từ phía
những người cho vay đến những người đi vay thông qua hình thức đầu tư tài chính
trực tiếp và hình thức đầu tư tài chính gián tiếp; tuy nhiên với chức năng môi giới
và biến đổi tài sản đặc trưng vốn có, các trung gian tài chính có khả năng tạo ra lợi
thế rõ rệt so với hình thức đầu tư tài chính trực tiếp. Vì vậy, hệ thống trung gian tài
chính có vai trò hết sức quan trọng đối với kinh tế thị trường.
Sơ đồ sau đây thể hiện luồng vốn di chuyển từ phía người cho vay đến người
đi vay:


17

Tài chính gián tiếp

CÁC TRUNG
GIAN
TÀI CHÍNH

Vốn
Người tiết kiệmVốn
(người
cho vay):
- Các gia đình
- Các hãng kinh doanh
- Chính phủ

Vốn
Vốn

Vốn
CÁC THỊ TRƯỜNG
TÀI CHÍNH
TRỰC TIẾP

Người đầu tư (người đi
vay):
- Các hãng kinh doanh
- Chính phủ
- Các gia đình

Tài chính trực tiếp

1.1.2. Cơ cấu tổ chức hệ thống trung gian tài chính:
Về cơ bản hệ thống trung gian tài chính bao gồm các ngân hàng trung gian và

các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

1.1.2.1. Các ngân hàng trung gian:
Trong hệ thống ngân hàng hai cấp, các ngân hàng không được làm nhiệm vụ
phát hành tiền, chỉ làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán trong nền kinh
tế được gọi chung là ngân hàng trung gian.
Thuật ngữ "trung gian" trong khái niệm ngân hàng trung gian bao gồm ý
nghĩa sau:
* Trung gian giữa Ngân hàng Trung ương với nền kinh tế
Thông qua hệ thống các ngân hàng trung gian, việc phát hành tiền và thực hiện
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương sẽ tác động đến nền kinh tế; mặt khác
cũng thông qua hệ thống các ngân hàng trung gian, tình hình sản lượng, giá cả, công
ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái, ... sẽ được
phản hồi về Ngân hàng Trung ương.
* Trung gian tài chính


18

Các ngân hàng trung gian được coi là trung gian tài chính vì nó chuyển hoá
các khoản tiền mặt tạm thời chưa sử dụng của các chủ thể kinh tế thừa vốn đến các
chủ thể kinh tế thiếu vốn tạm thời đang cần vay để sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu
dùng. Với chức năng trung gian tài chính, các ngân hàng trung gian là một tổ chức
kinh doanh giúp cho người cho vay và người đi vay trong nền kinh tế gặp nhau.
Từ chức năng trung gian tài chính nói trên có thể đưa đến một khái niệm cơ
bản sau đây: "Một ngân hàng trung gian là một đơn vị kinh doanh có giấy phép của
chính quyền (có tư cách pháp nhân), hoạt động chính là kinh doanh tiền tệ bằng
việc nhận các khoản tiền gửi có trả lãi để thu hút vốn nhàn rỗi, rồi dùng chính
những khoản đó để cho vay lại đối với nền kinh tế"; hay nói một cách khác "Ngân
hàng trung gian là một loại định chế tài chính mà hoạt động thường xuyên là nhận

tiền gửi, sử dụng số tiền đó để vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán" (Giáo trình
lý thuyết tiền tệ và ngân hàng, nhà xuất bản thống kê 2001, trang 135).
Các ngân hàng trung gian hiện nay có thể được tổ chức dưới hình thức ngân
hàng chuyên doanh, ngân hàng kinh doanh tổng hợp hoặc ngân hàng đa năng; trong
đó:
- Ngân hàng chuyên doanh là những ngân hàng chỉ hoạt động trong một lĩnh
vực nhất định như Ngân hàng tiết kiệm, Ngân hàng tiết kiệm xây dựng nhà ở, Ngân
hàng cầm cố, Ngân hàng thế chấp bất động sản, Ngân hàng tín dụng nông thôn ...
- Ngân hàng kinh doanh tổng hợp là những ngân hàng ngoài việc thực hiện
các nghiệp vụ truyền thống (như huy động, cho vay và thực hiện các dịch vụ thanh
toán) còn được mở thêm các nghiệp vụ mới như bảo lãnh, làm đại lý, uỷ thác và
nhận uỷ thác, ... Một ngân hàng kinh doanh tổng hợp còn có thể coi là ngân hàng
làm nghiệp vụ của nhiều ngân hàng trung gian.
- Ngân hàng đa năng là các ngân hàng ngoài việc thực hiện các nghiệp vụ
ngân hàng truyền thống và mới phát triển còn được kinh doanh và làm các dịch vụ
về chứng khoán và bảo hiểm trực tiếp hoặc thông qua các công ty con.
Tuỳ theo mỗi quốc gia, các loại ngân hàng này có thể có những tên gọi khác
nhau, nhưng căn cứ vào tính chất kinh doanh và mục đích hoạt động người ta có thể


19

phân chia các ngân hàng trung gian thành 2 loại căn bản là ngân hàng thương mại
và các ngân hàng trung gian khác hoạt động có tính chất đặc biệt. Tuy nhiên khái
niệm về ngân hàng hiện nay cũng đang thay đổi vì sự pha trộn các hoạt động truyền
thống của ngân hàng với các loại hình trung gian tài chính khác.
 Ngân hàng thương mại (NHTM):
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng hoạt động vì mục đích lợi
nhuận thông qua việc kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu.
Mặc dù chỉ có một biên giới rất mong manh giữa NHTM với các ngân hàng

trung gian khác nhưng người ta vẫn tách NHTM ra một nhóm riêng vì những lý do
đặc biệt của nó. Một trong những lý do nói trên là Tổng Tài sản Có của NHTM luôn
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng trung gian; hơn nữa, khối
lượng séc hay tài khoản tiền gửi không kỳ hạn mà các NHTM tạo ra là một bộ phận
rất quan trọng trong tổng cung tiền tệ của nền kinh tế mà bất kỳ một Ngân hàng
Trung ương nào cũng phải quan tâm đặc biệt trong quá trình hoạch định và điều
hành chính sách tiền tệ.
Về mặt sở hữu, NHTM có thể tồn tại dưới nhiều dạng sở hữu khác nhau như
NHTM quốc doanh (hay còn gọi là NHTM nhà nước), NHTM tư nhân, NHTM cổ
phần, NHTM liên doanh, chi nhánh NHTM nước ngoài, ...
Về chức năng, NHTM là loại hình thể hiện rõ nhất đặc trưng ngân hàng
thông qua 3 chức năng cơ bản là Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội, Chức năng
trung gian thanh toán và Chức năng làm trung gian tín dụng.
Các chức năng trên của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho
nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở
cho việc thực hiện 2 chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán; ngược lại, khi
thực hiện tốt 2 chức năng sau lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng , mở rộng
quy mô hoạt động của ngân hàng.
 Các ngân hàng trung gian khác hoạt động có tính chất đặc biệt:
Các ngân hàng này cũng tuân thủ nguyên tắc hoạt động ngân hàng tương tự
như các NHTM; tuy nhiên tính chất đặc biệt của nó so với NHTM thể hiện ở mục


20

đích hoạt động và do đó cũng thể hiện ở cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn. Loại
hình này bao gồm các ngân hàng dưới đây:
* Ngân hàng phát triển
Ngân hàng phát triển là ngân hàng có chức năng chủ yếu là huy động các
nguồn vốn trung và dài hạn dưới hình thức nhận tiền gửi, phát hành chứng khoán và

vay vốn để đầu tư trung và dài hạn dưới hình thức cấp tín dụng, góp vốn mua cổ
phần.
Căn cứ vào mục tiêu đầu tư, người ta có thể phân ra làm 2 loại Ngân hàng
phát triển; trong đó một loại chuyên cho vay trung và dài hạn vào các dự án cơ sở
hạ tầng hoặc các lĩnh vực kinh tế ưu tiên của Nhà nước, loại thứ hai chuyên hoạt
động dưới hình thức hùn vốn, góp vốn vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc lĩnh
vực tư nhân và cho vay trung, dài hạn các doanh nghiệp này.
Về tính chất sở hữu, Ngân hàng phát triển có thể được tổ chức dưới hình
thức sở hữu Nhà nước, hình thức cổ phần mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối hoặc
cũng có thể là ngân hàng liên doanh với nước ngoài.
Về mục tiêu hoạt động, ngân hàng phát triển hoạt động mang tính chất phục
vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trên cơ sở tập trung vốn cho những
khu vực kinh tế thiết yếu có tính chất quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội
của quốc gia, mục tiêu lợi nhuận là thứ yếu; vì thế mạng lưới tổ chức của ngân hàng
phát triển không mở rộng, thông thường nó chỉ mở chi nhánh ở những địa điểm
trọng tâm.
* Ngân hàng chính sách (NHCS)
Ngân hàng chính sách là ngân hàng của Nhà nước, hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận mà phục vụ cho các đối tượng chính sách nhằm thực hiện các chính
sách kinh tế xã hội nhất định của quốc gia.
Về tính chất sở hữu, để đảm bảo trách nhiệm và sự chủ động trong việc phục
vụ các mục tiêu chính sách của Nhà nước, NHCS phải là ngân hàng thuộc sở hữu
của Nhà nước hoặc trong trường hợp là ngân hàng cổ phần thì trong đó Nhà nước
nắm cổ phần chi phối và các cổ đông còn lại là các doanh nghiệp nhà nước.


21

Về mục tiêu hoạt động, NHCS hoạt động nhằm tài trợ vốn cho các đối tượng
chính sách vì mục đích xã hội và phát triển kinh tế nên không vì mục tiêu lợi nhuận;

tuy nhiên để đảm bảo tồn tại và phát triển, NHCS phải đảm bảo mục tiêu bảo toàn
vốn trên cơ sở hoạt động có tính chất vay - trả sòng phẳng; đồng thời NHCS cũng
được hưởng các chế độ ưu đãi của Nhà nước như cấp bù chênh lệch lãi suất, miễn,
giảm thuế, bù đắp rủi ro ...
* Ngân hàng đầu tư (NHĐT)
Ngân hàng đầu tư là ngân hàng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và hoạt động
chủ yếu trong lĩnh vực chứng khoán và các dịch vụ liên quan đến phát hành, bảo
lãnh chứng khoán. Đây là loại hình ngân hàng đặc biệt được tổ chức khác nhau ở
châu Âu và Mỹ. Ở Mỹ các nghiệp vụ và dịch vụ được cung ứng bởi NHĐT tập
trung chủ yếu trong lĩnh vực chứng khoán, nhưng ở các nước châu Âu phạm vi hoạt
động của NHĐT cũng lan sang cả lĩnh vực kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên khi
phân biệt NHĐT với NHTM và các loại hình ngân hàng khác người ta thường căn
cứ vào hoạt động chủ yếu của nó. Nhưng do hiện nay cải cách hệ thống tài chính
đang diễn ra ở hầu hết các nước theo xu hướng đa năng hoá các NHTM theo đó các
NHTM tham gia cả lĩnh vực của NHĐT hoặc là có sự sáp nhập giữa NHĐT và
NHTM để hình thành nên các tổ hợp tài chính lớn. Về hình thức sở hữu, NHĐT có
thể tồn tại dưới hình thức sở hứu Nhà nước, cổ phần hoặc cá nhân.
* Các TCTD hợp tác (TCTD Hợp tác)
TCTD hợp tác là TCTD thuộc sở hữu tập thể hoặc cổ phần, được thành lập
theo nguyên tắc tự nguyện bằng vốn góp của các thành viên và chủ yếu cho các
thành viên vay nhằm mục tiêu tương trợ nhau phát triển sản xuất kinh doanh và cải
thiện đời sống.
Việc hình thành TCTD Hợp tác là xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường;
các TCTD này giúp cho các chủ thể kinh tế yếu về năng lực cạnh tranh cũng như
quyền lực chi phối thị trường và khả năng thâm nhập vào thị trường vốn như các hộ
gia đình nông nghiệp, doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh cá thể, ... có điều kiện


22


thuận lợi để ổn định và phát triển nhờ sự hợp tác và tương trợ về vốn cũng như các
điều kiện tài chính khác.
Các TCTD Hợp tác có thể được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau căn
cứ vào điều kiện cụ thể của từng nước như Ngân hàng tương hỗ, Ngân hàng nhân
dân, Quỹ tiết kiệm và tương hỗ, HTX tín dụng, QTDND, Ngân hàng HTX, ...
Về tổ chức hệ thống TCTD Hợp tác thường được cấu trúc thành 3 cấp là cấp
cơ sở, cấp khu vực và cấp quốc gia độc lập với nhau về tổ chức, hoạt động và tài
chính nhưng được liên kết với nhau hết sức chặt chẽ thông qua việc điều hoà hỗ trợ
nhau về vốn hoạt động cũng như các điều kiện khác nhằm bảo đảm sự phát triển an
toàn và bền vững của từng thành viên cũng như của hệ thống.
Về mục tiêu hoạt động, khác với NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, các
TCTD Hợp tác thông qua hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng để
thực hiện mục tiêu chủ yếu nhằm hỗ trợ các thành viên nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất, kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống; tất nhiên các TCTD Hợp tác
cũng phải đảm bảo có tích luỹ tăng trưởng để có thể tồn tại và phát triển trong cạnh
tranh nhằm hỗ trợ các thành viên của mình được thường xuyên, bền vững và lâu
dài.

1.1.2.2. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng:
Tổ chức tài chính phi ngân hàng là các tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài
chính - tiền tệ, được thực hiện một số hoạt động phi ngân hàng như là nội dung kinh
doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và làm dịch vụ
thanh toán.
Cũng như các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng có chức
năng trung gian tài chính; tuy nhiên khác với các NHTM hoạt động chủ yếu tập
trung vào lĩnh vực thương mại và công nghiệp, các tổ chức tài chính phi Ngân hàng
tập trung vốn đầu tư chủ yếu vào các lĩnh vực chứng khoán, cho vay tiêu dùng, cho
thuê tài chính ... Tuy vậy ngày nay ranh giới giữa các ngân hàng và các trung gian
tài chính phi ngân hàng ngày càng bị xoá nhoà do những thay đổi trong cơ cấu và
xu hướng pha trộn các hoạt động nghiệp vụ giũa các loại hình trung gian tài chính.



23

Trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình tổ chức tài chính phi Ngân
hàng. Căn cứ vào đặc trưng cơ bản của chúng có thể phân ra làm 3 loại sau đây.
 Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng:
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng là các tổ chức tài chính mà tài sản nợ của
nó được hình thành từ các hợp đồng, theo đó các tổ chức này nhận được các khoản
tiền nộp theo định kỳ, đồng thời có trách nhiệm chi trả cho những người sở hữu hợp
đồng nếu và khi các sự kiện quy định trong hợp đồng nảy sinh. Ở đây các các khoản
tiền nhận được đều đặn theo định kỳ, trong khi trách nhiệm chi trả chỉ diễn ra khi
các sự kiện nảy sinh theo quy định trong hợp đồng; vì vậy, sự chênh lệch về thời
gian giữa thu và chi của các quỹ này tạo cơ hội cho các tổ chức tiết kiệm theo hợp
đồng có thể sử dụng số vốn tạm thời nhà rỗi để đầu tư. Thuộc loại hình này có các
Công ty bảo hiểm và các Quỹ trợ cấp hưư trí.
 Các trung gian đầu tư:
Đây là loại hình trung gian tài chính thực hiện việc huy động vốn bằng cách
phát hành các loại giấy tờ có giá như tín phiếu, trái phiếu đồng thời sử dụng nguồn
vốn đó vào các mục đích riêng biệt vì quyền lợi của các chủ đầu tư nhỏ (người cho
vay) là những người không có đủ điều kiện trực tiếp tham gia vào thị trường tài
chính. Các trung gian đầu tư bao gồm 2 loại hình cơ bản là Công ty tài chính và
Quỹ đầu tư. Đặc trưng của các tổ chức này là huy động vốn trung, dài hạn để đầu tư
vào một số lĩnh vực chuyên môn hoá có lợi thế để giảm áp lực cạnh tranh từ phía
các ngân hàng.
 Các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác:
Trong hệ thống các tổ chức tài chính phi ngân hàng, bên cạnh những tổ chức
có vai trò trung gian tài chính còn có những tổ chức không đảm nhiệm vai trò trung
gian tài chính mà chỉ làm các dịch vụ uỷ thác và kinh doanh trên thị trường tài chính
để tìm kiếm lợi nhuận như Công ty (ngân hàng) đầu tư chứng khoán, Công ty (ngân

hàng) cầm cố chứng khoán, Công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán ...
Ngoài ra trong hệ thống này còn có tổ chức giữ vai trò tổ chức kiểm tra các
hoạt động giao dịch chứng khoán như sở giao dịch chứng khoán.


×