Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LV Thạc sỹ_đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra thuế trên địa bàn tỉnh vĩnh phúc trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.35 KB, 106 trang )

1

MỞ ĐẦU
1/ Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN của Đảng là một đòi hỏi khách quan của tình hình đất nước trong giai
đoạn hiện nay. Nhằm thực hiện những đòi hỏi khách quan, trong thời gian qua
Đảng và Nhà nước ta đã sử dụng hàng loạt các công cụ có hiệu lực của Nhà
nước để quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành cải cách thuế bước
1 (1990 - 1995), cải cách thuế bước 2 (1996 - nay). Qua 2 công cuộc cải cách
thuế, chúng ta đã hình thành được một hệ thống chính sách thuế bao quát được
hầu hết các nguồn thu của đất nước và luôn được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện kịp
thời, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngành thuế cả nước nói chung và ngành thuế Vĩnh phúc nói riêng đã thực
hiện thành công 2 lần cải cách thuế bước 1 và bước 2, đã trưởng thành trong thời
kỳ đổi mới, có truyền thống đoàn kết nhất trí, có ý thức tổ chức kỷ luật và quyết
tâm cao trong việc thực hiện thắng lợi mục tiêu cải cách đã đặt ra.
Một trong những nội dung cải cách thuế chủ yếu đã được thực hiện thì
công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã được coi trọng và là nhiệm vụ trọng tâm
của công tác quản lý thuế.
Công tác thanh tra, kiểm tra là một chức năng thiết yếu nhằm đảm bảo
cho sự tồn tại và thực hiện các chức năng của quản lý nhà nước, góp phần
phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế ngăn ngừa các mặt tiêu cực làm ổn
định kinh tế - chính trị, tăng cường kỷ cương, công bằng xã hội. Công tác
thanh tra, kiểm tra nói chung và thanh tra - kiểm tra trong lĩnh vực thuế nói
riêng có vai trò hết sức quan trọng, song trên thực tế còn chưa phát huy được
hết vai trò của nó, chưa thực sự là “ tai - mắt ” của lãnh đạo, chưa trở thành


2



công cụ hiệu lực để chống thất thu ngân sách và răn đe được các hành vi, vi
phạm về thuế. Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về thuế
của cơ quan thuế chưa được đặt đúng tầm và chưa phù hợp với thực trạng của
nước ta nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng, trình độ dân trí còn thấp, nhận thức
và trách nhiệm về pháp luật chưa cao, chưa dựa trên thu thập thông tin và
chưa đánh giá, phân tích phân loại mức độ rủi ro của thuế và của đối tượng
nộp thuế để thanh tra đúng đối tượng, chưa ứng dụng tốt các chương trình tin
học vào việc thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm về thuế.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài đã đi sâu nghiên cứu các biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế góp phần làm cho
chính sách thuế thực sự đi vào cuộc sống cũng như công tác quản lý thu thuế
đạt kết quả cao.
Chính vì vậy việc chọn đề tài làm luận văn thạc sỹ kinh tế “Đổi mới
công tác thanh tra, kiểm tra thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc trong giai
đoạn hiện nay ” vừa có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
2/ Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích lý luận chung về thanh tra, kiểm tra và thực tiễn
công tác thanh tra, kiểm tra về thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc làm cơ sở
khát quát hoá, tổng hợp hoá. Từ đó đưa ra các quan điểm nhằm đề xuất các
giải pháp thực hiện đúng và đầy đủ hơn các nội dung của chính sách thuế, góp
phần phát huy tác dụng tích cực của chính sách thuế và sự thành công của
công cuộc cải cách thuế trong giai đoạn tiếp theo, nhằm thực hiện một cách
tốt nhất những mục tiêu, định hướng phát triển của ngành thuế theo tinh thần
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Nhà nước và của tỉnh nhà.
3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác
thanh tra, kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp cả về lý luận và thực tiễn.



3

- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực
tiễn công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp tại tỉnh Vĩnh phúc.
4/ Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, trên cơ sở những nội dung được
phản ánh. Luận văn đã tập trung đi sâu, tìm hiểu, đánh giá, với mong muốn
đóng góp những điểm mới trên 2 phương diện đó là:
- Về lý luận: Đề tài đã khái quát, củng cố lý luận cơ bản về bản chất công
tác thanh tra, kiểm tra góp phần nhận thức đầy đủ hơn các nội dung khoa học và
lý luận công tác thanh tra, kiểm tra. Từ đó hình thành các tiêu chí để đánh giá có
hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuộc lĩnh vực thuế nói riêng.
- Về thực tiễn: Nghiên cứu một cách có hệ thống về thực trạng công tác
thanh tra, kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc. Từ
đó thấy được những kết quả đạt được, những tồn tại cần khắc phục và đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện các biện pháp thanh tra, kiểm tra thuế cho
phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường để đáp ứng yêu cầu của công cuộc
cải cách thuế trong trong giai đoạn tiếp theo.
5/ Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về công tác thanh tra, kiểm tra thuế
trong quy trình quản lý thuế đối với doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng của công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc
Chương 3: Các giải pháp cơ bản đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra
thuế đối với doanh nghiệp trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc


4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC THANH TRA, KIỂM TRA
THUẾ TRONG QUY TRÌNH QUẢN LÝ THUẾ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TÁC THANH TRA, KIỂM TRA
THUẾ
Theo lý thuyết về hệ thống, thanh tra, kiểm tra là một chức năng quan
trọng, là một khâu trong quá trình quản lý. Tính quan trọng của nó được thể
hiện trên hai mặt.
Thứ nhất: Là công cụ để hệ thống quản lý phát hiện ra sai sót và có
biện pháp điều chỉnh.
Thứ hai: Thông qua thanh tra, kiểm tra các hoạt động tuân thủ của đối
tượng quản lý sẽ được thực hiện tốt hơn và sẽ giảm bớt những sai sót có thể
nảy sinh.
Như vậy có thể khái quát: Thanh tra, kiểm tra là quá trình xem xét các
hoạt động, nhằm mục đích làm cho các hoạt động đó đạt hiệu quả tốt nhất,
đồng thời phát hiện ra những sai sót, lệch lạc để có biện pháp khắc phục nhằm
đảm bảo các hoạt động đi đúng hướng.
Đối với lĩnh vực quản lý thuế, trước hết thuế được hiểu là một khoản
thu bắt buộc không hoàn trả trực tiếp và được pháp luật quy định. Muốn động
viên (bắt buộc) đầy đủ các khoản thuế từ các tổ chức cá nhân trong xã hội tập
trung vào Ngân sách nhà nước đảm bảo được điều kiện vật chất cho việc thực
hiện các nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước thì trong quản lý thuế, công tác
thanh tra, kiểm tra là đòi hỏi cần thiết và khách quan. Đặc biệt là công tác


5

thanh tra, kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp nhằm tăng cường hiệu quả
công tác quản lý thu thuế của ngành thuế, nâng cao năng lực của cơ quan thuế

trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các doanh nghiệp có hành vi
vi phạm, gian lận thuế, tránh thuế, chiếm đoạt tiền thuế của NSNN. Từng
bước nâng cao ý thức tuân thủ của DN trong việc chấp hành đúng quy định
của nhà nước về kê khai, nộp thuế.
1.1.1. Khái niệm, mục đích, nội dung và sự cần thiết của công tác thanh
tra, kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp
* Khái niệm:
Thanh tra, kiểm tra thuế là một chức năng thiết yếu của cơ quan thuế
các cấp, là quá trình sử dụng các nghiệp vụ điều tra, phân tích, đánh giá việc
thực hiện chấp hành chính sách thuế của các tổ chức, cá nhân nộp thuế, các
cán bộ công chức ngành thuế nhằm giám sát việc thực hiện những quy định
của nhà nước trong lĩnh vực thuế.
Căn cứ vào đối tượng thanh tra, kiểm tra: Có thanh tra, kiểm tra thuế đối
với các DN và ĐTNT; thanh tra, kiểm tra thuế đối với hoạt động của cơ quan
thuế .
Căn cứ vào tính chất của thanh tra, kiểm tra: Có thanh tra, kiểm tra đột
xuất; thanh tra, kiểm tra theo đơn thư khiếu nại và thanh tra, kiểm tra theo kế
hoạch.
Căn cứ vào nội dung của thanh tra, kiểm tra: Có thanh tra, kiểm tra việc
chấp hành chính sách pháp luật về các nội dung quản lý thuế; thanh tra, kiểm
tra việc thực hiện quy trình thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế.
* Mục đích của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế
Phát huy nhân tố tích cực, ngăn ngừa kịp thời những sai phạm và
hướng dẫn những tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành chính sách thuế,
đồng thời xử lý nghiêm minh những hành vi cố tình vi phạm chính sách, chế


6

độ, pháp luật thuế, gây tổn thất tới lợi ích của Nhà nước, của nhân dân. Như

vậy mới có tác dụng giáo dục mọi người chấp hành nghiêm kỷ cương pháp
luật, tạo niềm tin cho nhân dân, tạo điều kiện phát huy nhân tố tích cực, ngăn
chặn và đẩy lùi tiêu cực, góp phần hoàn thiện chính sách thuế, tăng cường
pháp chế XHCN.
Thông qua phân tích, đánh giá thực trạng của công tác thanh tra, kiểm
tra thuế để đánh giá sự phù hợp và chưa phù hợp của cơ chế, chính sách, pháp
luật và sự hoạt động của bộ phận thanh tra, kiểm tra. Từ đó xem xét lại chức
năng, nhiệm vụ, phương pháp và tổ chức hoạt động của cơ quan thuế, hoạt
động của thanh tra, kiểm tra thuế đồng thời đổi mới hoàn thiện chính sách cho
phù hợp với tình hình và yêu cầu mới nhằm đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà
nước đối với công tác thuế.
* Nội dung của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế đối với DN
Nội dung của hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế tuỳ
thuộc vào quy định của pháp luật, vào mục đích quản lý của cơ quan nhà
nước và cơ quan thuế. Thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế có các nội dung
chủ yếu sau đây:
- Thanh tra, kiểm tra việc đăng ký nộp thuế:
Đăng ký kinh doanh và đăng ký nộp thuế là quyền lợi và nghĩa vụ của
đối tượng có hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua việc đăng ký kinh
doanh, Nhà nước quản lý mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở ngay
từ khi bắt đầu hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá
nguồn thu NSNN. Nội dung của thanh tra, kiểm tra đăng ký nộp thuế là xem
xét trên từng địa bàn, trong từng loại ngành nghề có bao nhiêu DN, hộ kinh
doanh hoạt động SXKD, số lượng đơn vị đã đăng ký và chưa đăng ký thuế.
Đối với mỗi cơ sở kinh doanh, khi thanh tra, kiểm tra cần đi sâu xem
xét tính pháp lý của đăng ký thuế, kiểm tra tính trung thực của các tài liệu, số


7


liệu kê khai trong đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế về vốn, về địa điểm,
ngành nghề kinh doanh, mặt hàng kinh doanh, thời gian thực tế kinh doanh,
hình thức kế toán áp dụng, tài khoản giao dịch...
Thông qua kiểm tra nội dung đăng ký kinh doanh để kiểm tra đăng ký
thuế xem những mặt hàng đăng ký kinh doanh có phù hợp với đăng ký thuế
hay không? Nguyên nhân của những mặt hàng đăng ký kinh doanh nhưng
chưa đăng ký nộp thuế và ngược lại, những mặt hàng có SXKD, có đăng ký
nộp thuế nhưng chưa có giấy phép kinh doanh từ đó để yêu cầu đăng ký kinh
doanh bổ sung hay xác định mức thuế cho phù hợp.
Như vậy, việc kiểm tra đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế là nội dung đầu
tiên nhằm đảm bảo không bỏ sót đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế,
không bỏ sót nguồn thu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế
hoạch hoá các nguồn thu cho NSNN.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ kế toán, ghi chép chứng từ,
hoá đơn, sổ kế toán.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam (Luật DN, Luật kế toán...) tất cả
các DN thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức, cơ quan, đoàn thể làm kinh
tế đều phải chấp hành chế độ kế toán, thống kê.
Việc thực hiện chế độ kế toán, sổ sách, chứng từ, hoá đơn có liên quan
mật thiết đến việc tính thuế, nộp thuế và công tác quản lý của Nhà nước. Bởi
vậy sự chính xác hay không chính xác của số liệu kế toán được phản ánh trên
sổ sách kế toán quyết định tới tính chính xác của số thuế phải nộp nhưng trên
thực tế thì quá trình thực hiện hạch toán kế toán của ĐTNT do vô tình hay
hữu ý, hoặc do trình độ non kém mà dẫn tới vi phạm. Vì vậy cần phải thanh
tra, kiểm tra để uốn nắn kịp thời. Nội dung thanh tra kiểm tra trong lĩnh vực
này bao gồm những vấn đề cơ bản sau:


8


Thứ nhất: Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Luật kế toán của các cơ sở
kinh doanh: Kiểm ta việc mở sổ kế toán, việc quản lý sử dụng các loại chứng
từ, hoá đơn theo đúng chế độ quy định, hình thức hạch toán kế toán, chế độ
ghi chép, cập nhật hoá đơn, chứng từ có đúng với quy định của pháp luật hay
không, số liệu có phù hợp giữa sổ tổng hợp và sổ chi tiết không, có phản ánh
đúng kết quả SXKD hay không. Từ đó kiểm tra, đối chiếu số thuế phải nộp
của doanh nghiệp trong kỳ tính thuế.
Thứ hai: Thanh tra, kiểm tra việc lập và sử dụng các loại chứng từ, hoá
đơn có liên quan đến việc tính thuế, nội dung kiểm tra chứng từ hoá đơn là
xác định tính hợp pháp, hợp lý, tính trung thực của từng loại hoá đơn chứng
từ có liên quan như hoá đơn bán hàng, phiếu xuất kho, phiếu thu, phiếu chi,
giấy nộp tiền vào KBNN...
Qua thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ kế toán, sổ sách chứng từ
hoá đơn bảo đảm chính xác các căn cứ tính thuế, ngăn chặn kịp thời việc hạch
toán sai để trốn lậu thuế. Do vậy, công tác thanh tra, kiểm tra cần được tiến
hành thường xuyên.
- Thanh tra, kiểm tra việc kê khai, tính thuế và nộp thuế:
Việc kê khai, tính thuế, nộp thuế là nghĩa vụ của các DN, tổ chức, cá
nhân kinh doanh đối với Nhà nước. Nội dung của công tác thanh tra, kiểm tra
việc kê khai, tính thuế và nộp thuế bao gồm:
Thứ nhất: Kiểm tra căn cứ tính thuế nhằm xác định đúng số thuế phải
nộp, số thuế đã nộp, số thuế được miễn giảm, số thuế được hoàn trong kỳ của
CSKD. Việc kiểm tra căn cứ tính thuế được thực hiện trên sơ sở kiểm tra sổ
sách kế toán, chứng từ hoá đơn và các tài liệu có liên quan. Thông qua việc
kiểm tra, đối chiếu số liệu trên các tờ khai, bảng kê, quyết toán thuế, báo cáo
tài chính mà CSKD đã kê khai với cơ quan thuế với số liệu kiểm tra trên sổ


9


sách kế toán và tình hình thực tế của CSKD để phát hiện số thuế đơn vị kê
khai thiếu, số thuế ẩn lậu.
Thứ hai: Kiểm tra việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của CSKD
Yêu cầu của nội dung này là xác định xem cơ sở SXKD có thực hiện
nghiêm túc quy định về thời hạn nộp thuế của các luật thuế không, có dây dưa
nộp chậm tiền thuế để chiếm dụng NSNN làm vốn kinh doanh không, có nợ
đọng thuế không? Để đạt được yêu cầu trên, cần đối chiếu thời hạn nộp thuế
theo quy định của các luật thuế với thời gian nộp thuế của CSKD qua các
chứng từ nộp thuế như: Giấy nộp tiền vào Kho bạc, biên lai thuế…
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thanh tra, kiểm tra thuế
Quản lý thu thuế là một hoạt động có liên quan đến mọi mặt đời sống
kinh tế xã hội của một nước, tất cả các tầng lớp dân cư trong xã hội, các địa
bàn của một quốc gia; ở đâu có có hoạt động kinh tế (mua bán hay cung cấp
dịch vụ) hay có thu nhập đối với một tổ chức cá nhân thì ở đó có hoạt động
quản lý thu thuế và đối với hoạt động quản lý thu thuế thì công tác thanh tra,
kiểm tra thuế là quan trọng hàng đầu. Bởi vậy để thực hiện tốt công tác quản
lý thuế nói chung và công tác thanh tra, kiểm tra thuế nói riêng thì môi trường
xã hội, môi trường pháp lý nói chung hay về thuế nói riêng phải luôn luôn
được hoàn thiện các thể chế quản lý kinh tế và xã hội có liên quan phải được
ban hành và thực hiện một cách đồng bộ.
Một số yếu tố chủ yếu làm ảnh hưởng và tác động tới công tác quản lý
thu thuế cũng như công tác thanh tra, kiểm tra thuế như sau:
- Các chính sách pháp luật của Nhà nước
Là căn cứ, là cơ sở pháp lý để thực hiện việc thanh tra, kiểm tra. Để
công tác thanh tra, kiểm tra thuế được thuận lợi thì các chính sách như: quản
lý đất đai, quản lý thanh toán không dùng tiền mặt, quản lý XNK của cơ quan
Hải quan, quản lý xuất nhập cảnh của cơ quan Công an, quản lý đăng ký kinh


10


doanh của cơ quan Kế hoạch và Đầu tư phải được ban hành đồng bộ và triển
khai thực hiện tốt. Bên cạnh đó là công tác kiểm toán nếu thực hiện không
nghiêm minh, trách nhiệm pháp lý không cao sẽ làm hạn chế rất nhiều đến kết
quả của công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
- Hệ thống chính sách pháp luật thuế
Thiết lập một hệ thống chính sách thuế cần phải được thống nhất, nội
dung các sắc thuế phải rõ ràng, minh bạch. Nếu như một hệ thống chính sách
thuế không đồng bộ và thống nhất, nội dung các sắc thuế quá phức tạp, quy
định không rõ ràng, thủ tục hành chính về thuế còn rườm rà thì sẽ rất khó
khăn cho cả cán bộ thuế và người nộp thuế. Trong điều kiện đó thanh tra,
kiểm tra sẽ không có hiệu quả.
Ví dụ: Thuế suất thuế GTGT vừa quy định theo nhóm mặt hàng vừa
quy định theo ngành nghề kinh doanh thì một mặt hàng có thể được hiểu và
xác định theo thuế suất đối với một nhóm mặt hàng này nhưng lại có thể xác
định theo thuế suất của một ngành nghề kinh doanh khác. Hoặc khung thuế
suất quá rộng trong khi danh mục các đối tượng chịu thuế không được văn
bản quy định rõ ràng, đầy đủ gây trở ngại cho cả người thu và người nộp. Hơn
nữa việc áp dụng chế độ ưu đãi, miễn giảm nhiều dẫn tới việc thu hẹp diện
chịu thuế gây bất bình đẳng trong các đối tượng nộp thuế.
Bởi vậy hệ thống chính sách thuế cần phải được đảm bảo sự bình đẳng
tạo ra một " sân chơi chung ". Mặt khác, qua thi hành hệ thống chính sách thuế
phải tạo ra được sức ép buộc các cơ sở sản xuất kinh doanh tăng cường công
tác hạch toán kinh doanh, hạch toán kế toán một cách triệt để hơn. Đây cũng là
yếu tố quan trọng nhằm lập lại trật tự kỷ cương trong quản lý kinh tế tài chính
theo pháp luật và tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh không bị bỡ ngỡ khi tham
gia hội nhập vào nền kinh tế trong khu vực cũng như trên Thế giới.
- Trình độ nhận thức của ĐTNT



11

Thuế là một biện pháp tài chính bắt buộc của nhà nước, buộc các thể
nhân và pháp nhân phải thực hiện. Chính vì vậy nó là lĩnh vực khá nhạy cảm
liên quan trực tiếp đến quyền lợi kinh tế của người dân. Hơn thế nữa, các hoạt
động kinh tế lại vô cùng phức tạp và đa dạng, khó quản lý. Do vậy việc tuân
thủ các quy định của luật thuế phụ thuộc khá nhiều vào trình độ nhận thức của
đối tượng nộp thuế . Đó vừa là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến công tác thanh
tra, kiểm tra thuế, vừa là mục tiêu cần đạt được của các cuộc thanh tra, kiểm
tra.
- Trình độ của cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế
Để công tác thanh tra, kiểm tra đạt hiệu quả cao thì nhất thiết cán bộ
làm công tác thanh tra, kiểm tra phải được tuyển chọn và đào tạo một cách
chuyên sâu, có những phẩm chất, tư cách vững vàng, kiên định, có trình độ
chuyên môn và năng lực công tác, phải đáp ứng được yêu cầu quản lý, phù
hợp với nền kinh tế - xã hội, biết vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, biết tận
dụng những thành tựu đạt được và kinh nghiệm của các nước. Nếu như ngược
lại thì chất lượng của công tác thanh tra, kiểm tra sẽ bị hạn chế rất nhiều, gặp
khó khăn trong việc phát hiện và có biện pháp ngăn chăn kịp thời các hành vi
gian lận trong việc tính thuế, kê khai thuế...
- Các công cụ, phương tiện tiến hành thanh tra, kiểm tra
Hoạt động thanh tra, kiểm tra có những đặc thù riêng, vì phải tiếp xúc
với mặt trái, mặt tiêu cực của xã hội, thường phải đối mặt với những hành vi
vi phạm, những âm mưu thủ đoạn tinh vi. Do đó đòi hỏi cán bộ thanh tra,
kiểm tra phải hết sức cẩn thận, phải có điều kiện làm việc thích hợp như: Cơ
sở vật chất kỹ thuật, hệ thống thanh tra thuế phải được trang bị đồng bộ về hệ
thống máy tính, mỗi cán bộ thanh tra cần một máy vi tính, khai thác mạng nội
bộ, kết nối internet, kết nối với hệ thống mạng của các cơ quan liên quan (Hải
quan, Công an, Ban quản lý các dự án, Kho bạc...) kết nối mạng toàn ngành



12

thuế đảm bảo cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, kịp thời để
phục vụ tốt công tác thanh tra, kiểm tra.
- Sự phối hợp của các cơ quan chức năng có liên quan
Thông qua sự phối hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan khác có liên
quan thì quá trình xử lý nghiệp vụ sẽ tiếp nhận được nhiều thông tin có tính
đầy đủ hơn, toàn diện hơn . Từ đó ra quyết định quản lý chính xác hơn.
Hoạt động của các cơ quan pháp luật (Công an, Viện kiểm sát...) có tác
dụng tạo điều kiện cho tính tuân thủ của đối tượng nộp thuế được nâng lên.
Các cơ quan đó sẽ đề ra các biện pháp hữu hiệu để phát hiện kịp thời các hành
vi vi phạm về thuế và xử lý đúng các trường hợp không tuân thủ pháp luật.
Các cơ quan sẽ chia xẻ, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm xử lý những
vấn đề tương tự, giúp nhau các phương tiện hỗ trợ công việc làm giảm chi phí
trong công tác nghiệp vụ.
Tóm lại: Công tác thanh tra, kiểm tra thuế là khâu cuối cùng của quá
trình quản lý thuế nhằm đảm bảo huy động nguồn thu vào NSNN theo đúng
quy định đồng thời góp phần hoàn thiện quy trình quản lý thuế. Trong quá
trình cải cách quản lý thuế và hội nhập kinh tế quốc tế về thuế ở Việt Nam
hiện nay thì yêu cầu quản lý về lĩnh vực thuế ngày càng đòi hỏi phải minh
bạch, rõ ràng, đảm bảo dân chủ và công bằng xã hội. Để làm được điều này,
ngoài việc ban hành hệ thống chính sách thuế hợp lý, đúng đắn, tổ chức thực
hiện pháp luật thuế khoa học thì rất cần phải quan tâm đến hoạt động thanh
tra, kiểm tra thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ, tự nguyện của ĐTNT, góp
phần không nhỏ vào việc thực hiện những chỉ tiêu mới đảm bảo tính tiên tiến,
có khả năng đánh giá một cách toàn diện hệ thống quản lý thu thuế.
1.2. THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ TRONG QUY TRÌNH QUẢN LÝ
THUẾ
1.2.1. Thanh tra, kiểm tra thuế trong các cơ chế quản lý thuế



13

1.2.1.1. Thanh tra, kiểm tra thuế trong quy trình cơ quan thuế tính thuế
và ra thông báo thuế
Mô hình cơ quan thuế tính thuế và ra thông báo thuế là mô hình thu,
nộp thuế được áp dụng phổ biến ở nước ta. Định kỳ theo thời gian, căn cứ vào
tình hình hoạt động SXKD và các quy định của pháp luật thuế, các ĐTNT
phải kê khai thuế và nộp tờ khai cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế nhận tờ khai,
kiểm tra và tính thuế, sau đó thông báo số thuế phải nộp cho ĐTNT, ĐTNT có
trách nhiệm nộp thuế đầy đủ theo thông báo vào NSNN trong thời gian quy
định.
Với mô hình quản lý thuế như trên thì công tác thanh tra, kiểm tra việc
chấp hành pháp luật thuế được thực hiện từ khi DN đăng ký thuế, nhận được
thông báo thuế và nộp thuế. Thông báo thuế do cơ quan thuế phát hành trên
cơ sở các tài liệu do DN cung cấp, nên công tác thanh tra, kiểm tra nhằm đảm
bảo tiền thuế nộp vào NSNN đúng thời hạn và thanh tra được thực hiện trong
quá trình DN nộp thuế. Từ đó thanh tra, kiểm tra đã góp phần quan trọng
trong việc nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế, khai thác nguồn thu, chống thất
thu, thất thoát cho NSNN. Điều quan trọng là thông qua hoạt động thanh tra,
kiểm tra thì luật thuế và các văn bản hướng dẫn đi kèm được thực hiện
nghiêm chỉnh hơn, nâng cao tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo công
bằng hợp lý trong nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT.
Công tác thanh tra, kiểm tra thuế trong mô hình cơ quan thuế tính thuế
và ra thông báo thuế có những ưu điểm và hạn chế sau:
Ưu điểm:
+ Nhờ đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm về thuế
đã góp phần răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm gian lận về thuế, trước
tiên là đẩy lùi tình trạng " doanh nghiệp ma " để kinh doanh bất hợp pháp, kê



14

khai khống một lần hoặc toàn bộ tiền hoàn thuế GTGT để chiếm đoạt tiền của
NSNN.
+ Kịp thời hướng dẫn các DN thực hiện pháp luật thuế, ngăn ngừa và
xử lý các vi phạm trong quá trình thực hiện pháp luật thuế của các doanh
nghiệp (chủ yếu là các hành vi vi phạm mang tính hành chính). Thanh tra,
kiểm tra theo mô hình này phù hợp với thực tế đa số các doanh nghiệp mà chủ
yếu là các DN ngoài quốc doanh trong thời gian qua
+ Phù hợp với đa số trình độ cán bộ thuế hiện tại cũng như các cơ sở
vật chất phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra.
Hạn chế:
+ Mô hình này chủ yếu thanh tra, kiểm tra tại đơn vị nên thường gây ra
những phiền nhiễu cho DN và đôi lúc mất thời gian và tăng chi phí.
+ Tình trạng gian lận về thuế còn khá phổ biến ở nhiều khoản thu, sắc
thuế nhưng chưa được phát hiện, truy thu kịp thời cho NSNN. Vì vậy vừa làm
thất thu NSNN, vừa chưa thực sự đảm bảo công bằng xã hội và tính nghiêm
minh của pháp luật thuế.
+ Phương pháp thanh tra còn nhằm vào tất cả các ĐTNT, không dựa
trên cơ sở đánh giá mức độ gian lận của ĐTNT để lập kế hoạch và tổ chức
thanh tra đúng đối tượng thanh tra ngay từ đầu. Vì thế đối tượng không có
hành vi gian lận cũng tổ chức thanh tra, kiểm tra vừa gây phiền hà cho ĐTNT,
vừa lãng phí nguồn nhân lực, tốn kém cho cơ quan thuế.
+ Công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành hoàn toàn bằng thủ công,
không tập trung vào các khâu gian lận, không ứng dụng được tin học vào
thanh tra thuế, do đó các cuộc thanh tra thường kéo dài và kết quả rất hạn chế.
+ Tổ chức bộ máy thanh tra thuế chưa tương xứng với khối lượng công
việc và vai trò công tác thanh tra thuế. Lực lượng cán bộ thanh tra chuyên

trách năm 2002 mới chiếm khoảng 8,5%, năm 2003 chiếm khoảng 13,2% và


15

năm 2004, năm 2005 chiếm khoảng 18% tổng số cán bộ công chức trong
ngành. ở các nước trong khu vực và thế giới thường chiếm khoảng 25 - 30%.
+ Trình độ cán bộ thanh tra thuế chỉ đạt khoảng 48% cao đẳng và đại học,
còn lại là trung học. ở các chi cục thuế có tới 63% là trung học, ở tất cả các cấp
cán bộ thanh tra thuế còn rất yếu về kỹ năng và nghiệp vụ thanh tra, về kỹ năng
sử dụng các thiết bộ tin học, không có trình độ ngoại ngữ để thanh tra các DN có
vốn đầu tư nước ngoài. Thậm chí một số cán bộ thanh tra ở cơ sở còn chưa nắm
vững chính sách thuế, chưa thành thạo về kế toán DN, phân tích, đánh giá tài
chính DN để có điều kiện phát hiện các gian lận về thuế. Thậm chí một số cán bộ
thanh tra có biểu hiện vụ lợi, ý thức và trách nhiệm pháp luật thấp, lợi dụng công
tác thanh tra để gây phiền hà, sách nhiễu ĐTNT.
+ Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra còn chưa đủ
mạnh, chưa xây dựng được chương trình phần mềm ứng dụng hỗ trợ cho công
tác thanh tra.
+ Ngoài ra hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra chưa đạt kết quả cao là
do Cơ quan thuế tính thuế và ra thông báo thuế cho ĐTNT, đồng thời cơ quan
thuế thực hiện thanh tra, kiểm tra nên thực sự chưa có kết quả cao.
Tóm lại: Công tác thanh tra, kiểm tra thuế ở quy trình quản lý thuế này
còn rất nhiều hạn chế thể hiện ở chỗ việc thanh tra còn dải mành mành, chưa
có trọng tâm, trọng điểm, chưa chia đối tượng cần thanh tra thành các loại
khác nhau để có sự đối xử khác nhau, cả đoàn thanh tra với thời gian và nội
dung thanh tra như nhau. Đối tượng vi phạm pháp luật thuế một cách vô ý và
cố ý chưa được tách biệt hoàn toàn trong đối xử về thuế.
Vì vậy, để phát huy đầy đủ vai trò thanh tra thuế trong giai đoạn mới,
phải cải cách thanh tra theo hướng hiện đại hoàn toàn và khắc phục được các

tồn tại hạn chế nêu trên.


16

1.2.1.2. Thanh tra, kiểm tra thuế trong quy trình tự tính, tự kê khai và tự
nộp thuế.
Tự kê khai, tự nộp thuế là một trong những biện pháp của cơ chế quản
lý, trong đó ĐTNT căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh trong kỳ kê khai
của mình và căn cứ vào các quy định của pháp luật về thuế tự kê khai, tự tính
toán số thuế phải nộp, chủ động nộp thuế cho nhà nước theo đúng thời hạn
quy định của pháp luật. Cơ quan thuế không can thiệp vào quá trình kê khai
nộp thuế của các ĐTNT trừ khi phát hiện các sai sót, vi phạm hoặc các dấu
hiệu không chấp hành luật thuế. Cơ quan thuế có trách nhiệm tuyên truyền, hỗ
trợ, hướng dẫn để ĐTNT hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của
ĐTNT và thông qua công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện xử lý kịp thời
những hành vi gian lận, trốn thuế của ĐTNT.
Theo cơ chế này, công tác thanh tra, kiểm tra thuế thực sự là nhiệm vụ
trọng tâm của cơ quan thuế trong cơ chế tự khai, tự nộp thuế. Chỉ khi ĐTNT
nhận thức rằng cơ quan thuế đang thực hiện các chương trình thanh tra thuế
hiệu quả và nếu gian lận về thuế, họ sẽ bị cơ quan thuế phát hiện và bị sử phạt
nghiêm khắc thì ĐTNT mới tự giác thực hiện đúng nghĩa vụ thuế. Trong cơ
chế tự khai tự nộp thuế thì công tác thanh tra, kiểm tra thuế không chỉ nhằm
tăng số thu thuế, mà mục tiêu chính là nhằm ngăn ngừa, răn đe các ĐTNT vi
phạm pháp luật thuế, thực hiện chưa tốt chế độ quản lý hoá đơn, chứng từ và
chế độ kế toán, báo cáo tài chính.
Cơ quan thuế tiến hành thanh tra, kiểm tra trên cơ sở thu thập thông tin
cần thiết về ĐTNT (Từ tờ khai, báo cáo tài chính và các thông tin từ các
nguồn khác) để phân tích đánh giá, xác định theo tiêu chí đánh giá rủi ro, dự
báo những vấn đề nghi ngờ có gian lận trốn thuế nhằm lựa chọn trường hợp,

chuẩn bị nội dung, cách thức kiểm tra, thanh tra cho phù hợp.


17

Các thông tin nêu trên được tập hợp thành hồ sơ tổng hợp về ĐTNT,
quản lý tập trung tại trung ương và chia sẻ, khai thác trên phạm vi cả nước.
Thanh tra kiểm tra thuế là một trong những chức năng quan trọng, gắn
liền với chức năng quản lý của cơ quan thuế. Tổ chức và hoạt động thanh tra,
kiểm tra thuế có vai trò tích cực trong quản lý kinh tế nói chung và trong lĩnh
vực thuế nói riêng.
Là một chức năng quan trọng trong cơ chế tự khai tự nộp thuế, việc
thanh tra, kiểm tra thuế đòi hỏi phải được đổi mới và hoàn thiện
- Cơ chế thanh tra, kiểm tra trong mô hình tự khai, tự nộp thuế
Chuyển từ cơ chế thanh tra nhằm vào tất cả các ĐTNT hiện hành sang
cơ chế thanh tra theo mức độ các vi phạm về thuế, có gian lận thuế mới thanh
tra, không có gian lận không thanh tra (được gọi là thanh tra theo mức độ rủi
ro về thuế) nhằm không gây phiền hà, cản trở công việc kinh doanh của
ĐTNT, không làm tốn kém không cần thiết cho cơ quan thuế, gồm 2 loại sau:
+ Chuyển đổi từ thanh tra theo diện rộng sang thanh tra theo hệ thống
tiêu thức lựa chọn, đi vào chiều sâu theo mức độ vi phạm.

Theo mô hình 1

1. Vi phạm nghiêm trọng

11

2. Có VP không nghiêm trọng
3. Chấp hành tốt


22
33

Hình 1: Chuyển từ thanh tra theo diện rộng sang thanh tra theo
tiêu chí phân loại


18

+ Chuyển hoạt động thanh tra, kiểm tra chủ yếu tiến hành tại cơ sơ kinh
doanh sang thanh tra kiểm tra chủ yếu tiến hành ở cơ quan thuế.
Theo mô hình 2
Kiểm tra tại cơ
quan thuế
Kiểm tra tại cơ
sở kinh doanh

Hình 2: Chuyển từ thanh tra chủ yếu tại cơ sở
sang kiểm tra tại cơ quan thuế
Chuyển từ thanh tra toàn diện sang thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề
và nội dung vi phạm: Loại hình doanh nghiệp (Các tổng công ty lớn, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ) ngành nghề kinh doanh đặc thù (Điện,xi măng, ôtô,
các tổ chức tín dụng du lịch....), lĩnh vực và sắc thuế (Chuyển giá, thuế thu
nhập cá nhân, thuế tài sản)
Ưu điểm:
Công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã được cải tiến đáng kể, hạn chế
được những tồn tại của công tác thanh tra, kiểm tra theo cơ chế quản lý thuế
trước đây. Từ đó tạo điều kiện để các cơ sở sản xuất kinh doanh tự giác thực
hiện nghĩa vụ thuế, giảm bớt phiền nhiễu cho cơ sở kinh doanh. Công tác

thanh tra, kiểm tra đảm bảo được thực hiện tốt hơn và khách quan hơn.
Áp dụng phương pháp thanh tra, kiểm tra theo mô hình này không dàn
trải việc thanh tra, kiểm tra đối với tất cả các doanh nghiệp mà tập trung vào
những đối tượng có vi phạm nhiều, lặp đi lặp lại đối với ngân sách nhà nước.


19

Trên cơ sở đi sâu vào phân tích thông tin, đánh giá rủi ro theo từng nhóm thông
tin đã chọn để quyết định nội dung thanh tra với từng trường hợp cụ thể, tránh
được tình trạng kiểm tra chồng chéo, giảm những chi phí không cần thiết.
Bên cạnh những ưu điểm trên, công tác thanh tra, kiểm tra thuế trong cơ
chế tự khai, tự nộp thuế ở Việt Nam hiện nay vẫn còn một số hạn chế:
Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về thuế của các cơ
quan thuế chưa được áp dụng đúng tầm, bước đầu chưa phù hợp với thực trạng
của đa số DN nước ta là trình độ nhận thức thấp, ý thức trách nhiệm pháp luật
chưa cao. Bên cạnh đó là do trình độ của cán bộ thuế về chuyên môn, nghiệp vụ
chưa cao dẫn đến chất lượng kiểm tra còn hạn chế, chưa phát hiện kịp thời các vi
phạm và chưa có biện pháp ngăn chặn các hành vi gian lận trong việc tính thuế,
kê khai thuế, gian lận trong hoàn thuế, miễn giảm thuế.
Quyền hạn của thanh tra, kiểm tra thuế còn hẹp chưa trở thành công cụ
có hiệu lực để chống thất thu ngân sách và răn đe, ngăn chặn các hành vi vi
phạm về thuế.
Các CSKD vẫn quen với việc nộp thuế theo thông báo thuế và chưa có
thời gian làm quen cần thiết để chuyển sang cơ chế tự nộp thuế.
1.2.2. Nội dung của thanh tra, kiểm tra trong quy trình tự tính, tự khai,
tự nộp thuế
1.2.2.1 . Lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế
Xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế là yêu cầu,
nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với công tác quản lý thuế. Kế hoạch thanh tra,

kiểm tra là khâu quan trọng quyết định hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra.
Do vậy được xây dựng trên cơ sở mục đích, yêu cầu của công tác thanh tra
từng thời kỳ trong đó nêu rõ những yêu cầu chủ yếu nhất thiết phải đạt được,


20

các nội dung trọng tâm cần phải tập trung khi tiến hành thanh tra. Việc xây
dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra cần được thực hiện theo trình tự ba bước.
Bước1: Thu thập các thông tin cần thiết của đối tượng được thanh tra.
Đây là cơ sở và tiền đề để lập kế hoạch thanh tra được thực hiện
- Xác định phạm vi thanh tra, kiểm tra
Trên cơ sở quy trình quản lý thuế mới, căn cứ vào các chính sách thuế,
các thông tin tin thu thập được, để cơ quan thuế xác định phạm vi cần được
thanh tra, kiểm tra. Căn cứ vào mức độ yêu cầu của quản lý để có thể xác định
thanh tra toàn diện hay thanh tra chuyên đề, xác định kỳ thanh tra, xác định
phạm vi địa giới thanh tra, nội dung thanh tra...
- Lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra
Các tiêu chí để lựa chọn đối tượng thanh tra: Doanh nghiệp có quy mô
lớn, vừa và nhỏ theo mức doanh thu. Doanh nghiệp chưa được kiểm tra quyết
toán thuế trong nhiều năm. Doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm trong việc kê khai
nộp thuế, vi phạm về quản lý sử dụng hoá đơn. Doanh nghiệp có khả năng khai
khác số thu lớn. Doanh nghiệp trong diện cổ phần hoá, sát nhập, giải thể. Doanh
nghiệp thuộc diện thanh tra, kiểm tra do yêu cầu đặc thù mà các phòng quản lý
thu, thanh tra thấy cần thiết phục vụ cho công tác quản lý thuế.
Bước 2: Dự thảo kế hoạch, trao đổi thảo luận về kế hoạch thanh tra theo
dự kiến. Căn cứ vào việc thu thập các thông tin tại bước 1, lập dự thảo kế
hoạch thanh tra bao gồm các nội dung; Đơn vị được thanh tra, nội dung thanh
tra, thời gian thanh tra. Trong đó nội dung thanh tra cần chủ yếu tập trung vào
các nội dung sau: Thực hiện thanh tra, kiểm tra quyết toán các loại thuế phát

sinh tại cơ sở kinh doanh theo các năm tài chính, hoặc kiểm tra các nội dung
theo chuyên đề
Bước 3: Thông qua kế hoạch thanh tra, kiểm tra với lãnh đạo và đưa ra
các biện pháp thanh tra, kiểm tra.


21

Trên cơ sở lựa chọn đối tượng thanh tra, cơ quan thuế xây dựng các
biện pháp thanh tra, mức độ thanh tra, kiểm tra. Kiểm tra sổ sách chứng từ tại
đơn vị hay thanh tra đối chiếu. Thanh tra độc lập hay thanh tra liên ngành
phối hợp với các ngành khác, cơ quan thuế khác hay giữa các nước với nhau.
1.2.2.2. Tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra thuế
Tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra là quá trình gắn kết, phân công
phối hợp nhiều người cùng nhau thực hiện mục tiêu chung. Tổ chức công tác
thanh tra, kiểm tra bao gồm : Tổ chức con người và tổ chức công việc
- Tổ chức con người là việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức
trong từng thời kỳ cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ công tác thanh tra
được giao. Điều này có ý nghĩa quyết định đến kết quả thanh tra, lãnh đạo
công tác thanh tra. Số lượng cũng như chất lượng người tham gia công tác
thanh tra cần phải dựa vào các căn cứ: Mức độ phức tạp, quy mô, phạm vi
điều chỉnh của các nội dung thanh tra, vị trí đặc điểm, tình hình cụ thể của đối
tượng thanh tra. Năng lực trình độ, chuyên môn của thanh tra viên để thực
hiện nhiệm vụ theo nội dung thanh tra, đặc biệt là trưởng đoàn thanh tra phải
là người trung thực khách quan, có ý thức tổ chức kỷ luật, có trình độ chuyên
môn cao, có khả năng điều hành cán bộ và kỹ năng giao tiếp tốt, có tác phong
làm việc linh hoạt, biết lắng nghe, thu nhận và xử lý chọn lọc thông tin. Công
tác tổ chức con người hợp lý sẽ tăng cường tính chuyên sâu trong công tác
kiểm tra đồng thời đảm bảo hoàn thành kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm
với chất lượng cao. Để tổ chức, bố trí con người có hiệu quả thì cần phải đặc

biệt quan tâm thực hiện theo sự chỉ đạo của lãnh đạo. Sự lãnh đạo trong công
tác thanh tra là quá trình thu hút, lôi cuốn thuyết phục và hướng dẫn các hoạt
động có liên quan đến nhiệm vụ, nghĩa vụ của những thành viên trong công
tác thanh tra và đối tượng thanh tra nhằm hoạt động ngày một hiệu quả


22

- Tổ chức công việc là tổ chức nắm bắt các thông tin phục vụ cho công
tác thanh tra, kiểm tra: Xem xét phân tích sơ bộ các nội dung có liên quan đến
đơn vị được thanh tra, kiểm tra để xác định hình thức, quy mô, phạm vi thời
gian thanh tra, kiểm tra. Đây là cơ sở ban đầu giúp cho trưởng đoàn thanh tra,
kiểm tra phân định nhiệm vụ của mỗi thành viên trong việc thực hiện nhiệm
vụ của mình với chất lượng cao nhất.
Soạn thảo và trình ký quyết định thanh tra: Đây là thủ tục hành chính
rất đựơc quan tâm về giá trị pháp lý của quyết định thanh tra. Trong quyết
định thanh tra, kiểm tra ghi rõ: Các căn cứ tiến hành thanh tra, kiểm tra, nội
dung, phạm vi yêu cầu của cuộc kiểm tra, thời gian thanh tra kiểm tra, thành
phần tham gia đoàn thanh tra kiểm tra, quyền hạn, trách nhiệm của đoàn kiểm
tra, của đối tượng được thanh tra, kiểm tra.
Tiến hành thanh tra, kiểm tra trực tiếp đối tượng được thanh tra, kiểm tra:
Đây là giai đoạn đoàn thanh tra tiếp xúc, làm việc trực tiếp với đối tượng
được thanh tra kiểm tra để trao đổi, thống nhất, các bộ phận của đối tượng
được thanh tra kiểm tra có trách nhiệm làm việc với đoàn thanh tra để lên kế
hoạch làm việc cụ thể, thống nhất các tài liệu cần phải cung cấp. Từ đó đoàn
thanh tra cho họ thấy rõ mục đích, yêu cầu, nội dung của cuộc thanh tra. Thu
thập các thông tin cần thiết giúp cho đoàn thanh tiến hành xác minh nhanh
chóng và có đủ căn cứ pháp lý kết luận, chuẩn xác, tính khách quan trung
thực về nội dung thanh kiểm tra. Khi tiến hành tổ chức công việc tại khâu này
cần chú ý tổ chức tập trung vào những công việc trọng tâm, tránh xa vào

những việc vụ việc nhỏ nhặt mới phát hiện, tránh việc trùng lặp kiểm tra đi
kiểm tra lại để công tác thanh tra được tiến hành liên tục, đúng tiến độ. Các
nội dung được thanh tra kiểm tra cần có sự xác minh cụ thể, rõ ràng có hồ sơ
tài liệu chứng minh, các hồ sơ chứng lý này được coi là tài liệu gốc, có ý
nghĩa thiết thực để lập nên biên bản thanh tra, bao gồm : Các tài liệu báo cáo


23

của đơn vị lập theo yêu cầu của đoàn thanh tra, các biên bản làm việc giữa
thanh tra viên với đối tượng có liên quan, các biên bản ghi nhận kết quả đối
chiếu xác minh, các bản sao chụp các tài liệu có liên quan.
Kết thúc thanh tra, kiểm tra: Đây là công việc tổng hợp kết qủa thanh
tra, nghiên cứu các đề xuất, kiến nghị các biện pháp giải quyết các vấn đề
phát hiện trong thanh tra. Báo cáo tổng hợp kết qủa thanh tra với cơ quan có
thẩm quyền để ra quyết định xử lý. Tuỳ theo tình hình thực tế của đối tượng
được thanh tra, kiểm tra đoàn thanh tra có thể áp dụng một trong hai hình thức
để kết thúc thanh tra: Biên bản thanh tra hoặc báo cáo thanh tra, biên bản
thanh tra hay báo cáo thanh tra là kết quả cuối cùng của đoàn thanh tra. Do
vậy việc thực hiện lập phải tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Lập dự thảo biên bản dựa trên các tài liệu đã được tổng hợp
phân tích từ các hồ sơ chứng lý do đoàn thanh tra tập hợp. Thông báo chính
thức cho đối tượng thanh tra. Lấy ý kiến tham gia về các kết luận, kiến nghị
trong dự thảo, tại khâu này đối tượng thanh tra có quyền đưa ra các ý kiến về
các kết luận của đoàn thanh tra trên cơ sở các chứng cứ đảm bảo cho các ý
kiến của mình là đúng đắn. Về phía đoàn thanh tra việc thông báo dự thảo
biên bản giúp cho đoàn có thể thăm dò được phản ứng của đối tượng thanh
tra, mặt khác tìm thêm các chứng cứ pháp lý để đảm bảo cho kết luận và kiến
nghị về giải pháp xử lý được chính xác, khách quan có hiệu lực thi hành. Tuỳ
theo yêu cầu của nội dung thanh tra việc tiếp nhận, nghiên cứu phân tích, xem

xét lại các ý kiến tham gia kết luận của đoàn hoặc trả lời các ý kiến tham gia
của đối tượng thanh tra được thực hiện...sau đó hoàn chỉnh thành văn bản
chính thức để hai bên thống nhất ký vào dự thảo biên bản
Bước 2: Thực hiện tổ chức và công bố chính thức kết luận thanh tra
Bước 3: Một số công việc thực hiện sau khi kết thúc thanh tra: Báo cáo
bằng văn bản với người ký quyết định thanh tra về kết qủa thanh tra, trong đó


24

nêu rõ các ý kiến chưa nhất trí của đối tượng thanh tra hoặc ý kiến của quần
chúng chưa được trả lời để ra quyết định xử lý kết quả sau thanh tra, kiểm
tra.Tổ chức rút kinh nghiệm để phát huy tác dụng trong các đợt thanh tra,
kiểm tra tiếp theo. Sắp xếp hồ sơ lưu trữ để sử dụng khi cần thiết.
Công việc liên quan đến công tác thanh tra được hình thành trong mối
liên hệ chặt chẽ với các chủ thể trong công tác quản lý thuế, bao gồm: Lãnh
đạo các cấp, các công chức thuế và đối tượng thanh tra. Để làm tốt công tác tổ
chức công việc trong công tác thanh tra thuế phải luôn quan tâm tới quá trình
xắp xếp nhân sự. Bố trí hợp lý cán bộ vào từng vị trí phù hợp với nội dung
công việc của công tác thanh tra sẽ đảm bảo hiệu quả công việc đạt được mức
độ tối đa.
1.2.3. Thanh tra, kiểm tra thuế ở một số nước trên Thế giới và bài học
kinh nghiệm đối với Việt Nam
1. Thanh tra, kiểm tra thuế ở Malaysia
Công tác thanh tra kiểm tra thuế có hiệu quả, tại Malaysia tổ chức trung
tâm thanh tra - điều tra thuế được phân bổ theo vùng. Các trung tâm không
chỉ dừng lại theo chức năng kiểm tra thuế thông thường mà chủ yếu tập trung
vào công tác điều tra phát hiện và xử lý các trường hợp trốn lậu thuế có tính
chất nghiêm trọng, truy thu thuế vào ngân sách Nhà nước. Trung tâm điều tra
thanh tra có nhiệm vụ tổ chức, thu thập các thông tin từ nội bộ ngành thuế,

người tố giác, người khai báo, báo chí...để phát hiện các trường hợp, các khả
năng trốn thuế. Tổ chức lưu giữ tài liệu, bằng chứng liên quan đến hành vi
trốn thuế. Tổ chức việc kiểm tra, đối chứng để quy phạm hành vi trốn thuế.
Khởi tố, truy tố, phạt hành chính, kiến nghị phạt hình sự đối với các hành vi
trốn thuế. Giữ tài sản, phong toả tài sản, truy thu cho ngân sách.
2. Thanh tra, kiểm tra thuế ở Indônêxia.


25

Thanh tra, điều tra thuế là một chức năng cơ bản của cơ quan thuế
Indonêxia, nó giữ vai trò quan trọng để đảm bảo quá trình áp dụng thành công
cơ chế tự tính, tự khai nộp thuế. Công tác thanh tra, chính sách thanh tra được
quy định bởi Cục thanh tra và điều tra thuộc Tổng cục thuế, chỉ được thực
hiện sau khi đã thu thập các thông tin và xử lý các dữ liệu về đối tượng nộp
thuế để đánh giá mức độ tuân thủ nghĩa vụ thi hành về thuế và sự thi hành của
các quy định về thuế.
Công tác thanh tra thuế được thực hiện trên nguyên tắc: Đối tượng nộp
thuế không bao giờ bị thanh tra lại trong cùng 01 năm. Nhằm tránh việc thanh tra
nhiều lần đối với đối tượng nộp thuế trong cùng năm thì cần phải tiến hành thanh
tra đối với mọi loại thuế cùng một lúc. Trường hợp trong năm phải tiến hành
thanh tra quá một lần chỉ khi có các lý do như: Đối tượng nộp thuế có hành vi
phạm tội hình sự, có chứng cứ mới hoặc chứng cứ chưa bộc lộ có thể làm tăng
số thuế phải nộp hoặc có lý do theo chỉ thị của Tổng cục trưởng cục thuế.
Hoạt động thanh tra được tiến hành bởi đội thanh tra trong đó luôn có
01 giám sát viên, 01 đội trưởng và 01 hoặc một số thành viên tuỳ theo nhiệm
vụ trong công tác.
Thời gian thanh tra tại cơ sở kinh doanh là 02 tháng và có thể kéo dài
08 tháng nếu được Tổng cục trưởng cục thuế cho phép, thanh tra tại trụ sở cơ
quan thuế thì thời gian là: 01 tháng, có thể kéo dài 02 tháng.

3. Một số vấn đề cơ bản về thanh tra, kiểm tra thuế ở Hàn Quốc
Tại Hàn Quốc công tác quản lý thuế được giao cho Cơ quan dịch vụ
thuế quốc gia (Tổng cục thuế) Hàn Quốc thuộc Bộ tài chính với cơ cấu quản
lý thuế của Hàn Quốc bao gồm 3 cấp: Cấp 1: Các vụ và các phòng chịu sự
quản lý trực tiếp của cơ quan thuế vụ quốc gia, cấp 2: Cơ quan thuế vùng
dưới sự giám sát của cơ quan dịch vụ thuế quốc gia có trách nhiệm trực tiếp
xử lý tính thuế đối với một số đối tượng nộp thuế trong những trường hợp đặc


×