Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LV Thạc sỹ_kiểm soát tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần phát triển nhà thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.36 KB, 98 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc
lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
NHTM
NHNN
TCTD
HDBank

Giải thích
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng nhà nước
Tổ chức tín dụng
Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Nhà Thành

CIC



phố Hồ Chí Minh
Trung tâm Thông tin tín dụng trực thuộc Ngân hàng
nhà nước


DANH MỤC BẢNG, BIỂU


5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong hoạt động của nền kinh tế, ngành tài chính ngân hàng luôn đóng
vai trò đi đầu, cung cấp một trong những nguồn lực cốt yếu hàng đầu cho nền
kinh tế là nguồn vốn thông qua nghiệp vụ tín dụng - nghiệp vụ truyền thống
và mang lại nguồn thu chính cho ngân hàng. Song hành cùng hoạt động tín
dụng luôn là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng không chỉ ảnh hưởng xấu đến kết
quả kinh doanh, uy tín của một ngân hàng mà còn có thể ảnh hưởng đến toàn
bộ hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy trong quá
trình hoạt động, ngân hàng nào cũng cần đặc biệt lưu tâm đến công tác kiểm
soát hoạt động tín dụng để hạn chế nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng.
Thống kê cho thấy, trong giai đoạn từ 2006 - 2010 tốc độ tăng trưởng
tín dụng bình quân khá cao (2006: 21,4%; 2007: 51,54%; 2008: 23,38%;
2009: 37,53; 2010: 27,65%, bình quân 32,3%), tuy nhiên từ năm 2011 trở
lại đây, tốc độ này đã chững lại (2011: 13%; 2012: 8,91%). Điều này thể
hiện sau giai đoạn tăng trưởng nóng kèm theo với sự tăng mạnh rủi ro tín
dụng, các ngân hàng giờ đây phải dè chừng khi cho vay đồng thời tăng
cường kiểm soát hoạt động tín dụng của mình.
Là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên tại Việt

Nam, hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Nhà Thành phố Hồ
Chí Minh (HDBank) nói chung và Chi nhánh Hà Nội nói riêng luôn quan tâm
đến công tác kiểm soát hoạt động tín dụng từ khâu đầu tiên đến khâu cuối
cùng của quy trình cho vay. Không nằm ngoài xu hướng chung của ngành
ngân hàng, hoạt động tín dụng tại HDBank trải qua thời gian tăng trưởng
nóng cũng đã chững lại kèm theo việc tăng cường một loạt các biện pháp để
kiểm soát tín dụng. Sau một thời gian thực hiện đòi hỏi cần có sự đánh giá


6

hiệu quả của các công tác kiểm soát tín dụng đã áp dụng, từ đó phát huy các
biện pháp tích cực, nhìn nhận những mặt chưa đạt và đưa ra các giải pháp để
hoàn thiện quá trình kiểm soát hoạt động tín dụng.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên, học viên đã chọn đề tài
“Kiểm soát tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Nhà
Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu:
* Giải quyết vấn đề lý luận
Nghiên cứu, làm rõ, hệ thống hoá những khái niệm liên quan đến vấn đề
kiểm soát tín dụng, các tiêu chí xác định hiệu quả, nhân tố ảnh hưởng và biểu
hiện của các khái niệm này.
* Giải quyết vấn đề thực tiễn
Tìm hiểu, đánh giá tình hình thực hiện các biện pháp kiểm soát tín dụng
đang được áp dụng, tổng kết các kết quả đạt được và những hạn chế cần được
giải quyết.
Đề xuất một hệ thống các kiến nghị đối với HDBank - Chi nhánh Hà
Nội, với HDBank và với các cơ quan hữu quan như chính phủ và Ngân hàng
Nhà nước (NHNN).
* Giải quyết vấn đề đào tạo

Kết quả của đề tài nghiên cứu cần được phổ biến rộng rãi, cụ thể và nếu
có điều kiện đưa vào chương trình tập huấn để người lao động trong chi
nhánh ngân hàng nắm rõ thực trạng và các giải pháp để hoàn thiện công tác
kiểm soát tín dụng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu
Công tác kiểm soát hoạt động tín dụng, các kết quả đạt được và các giải


7

pháp hoàn thiện công tác này.


8

* Phạm vi nghiên cứu
Các vấn đề liên quan tới công tác kiểm soát hoạt động tín dụng tại
HDBank – Chi nhánh Hà Nội, các nhân tố ảnh hưởng, điều kiện phát triển và
môi trường pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát tín dụng
trong khoảng thời gian 03 năm, từ năm 2010 đến năm 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp luận nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này sử dụng phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử.
Phương pháp duy vật biện chứng về mối liên hệ giữa lý luận và thực
tiễn của kiểm soát tín dụng tại HDBank – Chi nhánh Hà Nội, vai trò của
công tác kiểm soát tín dụng đối với nền kinh tế nói chung, với các khách
hàng và hoạt động của ngân hàng nói riêng. Từ đó đánh giá, nhận xét về sự
phù hợp của các biện pháp đã được thực hiện trong công tác kiểm soát tín

dụng, định hướng và đề xuất các giải pháp phù hợp hơn.
Phương pháp duy vật lịch sử về kiểm soát tín dụng, về việc thực hiện
các biện pháp kiểm soát tín dụng đã được thực hiện trước đây và các biện
pháp hiện tại, đánh giá kết quả đã đạt được và những tồn tại cần tháo gỡ,
dự đoán những khó khăn, vướng mắc có thể gặp phải trong thời gian tới và
đề xuất những giải pháp khả thi.
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Đề tài sử dụng phương pháp khảo sát, thu thập số liệu thực tế tại chi
nhánh, dựa vào đó thống kê, so sánh, phân tích định lượng, định tính và
đưa ra nhận xét tổng thể. Trong đó, qua các thông tin về thực trạng kinh
doanh của chi nhánh ngân hàng và các phòng giao dịch trực thuộc, về tình
hình hoạt động tín dụng như kết quả cho vay, thu nợ, cơ cấu dư nợ, hiệu


9

quả và chất lượng tín dụng để đưa ra các nhận định về thực trạng các biện
pháp đang được áp dụng, các kết quả, hạn chế và nguyên nhân. Đây là cơ
sở đề ra các giải pháp để duy trì các kết quả đã đạt được và tháo gỡ những
khó khăn hiện còn tồn tại.
5. Kết cấu của đề tài:
Phần mở đầu.
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động kiểm soát tín dụng của ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm soát tín dụng tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Phát triển Nhà Thành phố Nhà Hồ Chí Minh – Chi
nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát tín dụng tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Phát triển Nhà Thành phố Hồ Chí Minh – Chi
nhánh Hà Nội.

Phần kết luận.


10

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SOÁT TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một loại ngân hàng trung gian. Ở Việt
Nam, Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 xác định: “NHTM là loại
hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận” [3,
tr.2].
Như vậy, NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, có những đặc thù
riêng trong hoạt động kinh tế - tài chính. NHTM có đặc điểm giống như các
doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, cũng sử dụng các yếu tố sản xuất như lao
động, tư liệu lao động, đối tượng lao động (tiền vốn) làm yếu tố đầu vào, để sản
xuất ra những yếu tố đầu ra dưới hình thức dịch vụ tài chính mà khách hàng yêu
cầu và mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận.
Các nghiệp vụ của NHTM bao gồm nghiệp vụ tài sản Có, nghiệp vụ tài sản
Nợ và vốn tự có, và nghiệp vụ ngoài bảng tổng kết tài sản. Trong đó nghiệp vụ
tín dụng thuộc nghiệp vụ tài sản Có là hoạt động truyền thống và mang lại nguồn
thu chính cho NHTM.
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho
vay và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời
gian nhất định. Hay nói một cách khác: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản

ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường


11

quyền sử dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một
tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất,
cách thức vay mượn và thu hồi.
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn
giá bán trao tiền ngay, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán
chịu. Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với
nhau. Vì vậy nó không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền
sản xuất hàng hoá. Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản
xuất, xã hội thường xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức
cá nhân này và nhu cầu thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa
thiếu vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian sử dụng vốn của tổ chức
hay cá nhân đó. Trong khi đó số lượng các khoản thu nhập và chi tiêu ở các tổ
chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục.
Vậy để khắc phục tình trạng này thì chỉ có ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh
doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết được những mâu thuẫn đó.
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân
hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả
các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi
vay, vừa là người cho vay”.
Với tư cách là người đi vay: ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp,
các tổ chức cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động
vốn trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay: Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt

động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, ngân hàng đã thực hiện
chức năng phân phối lại vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.


12

Trong khuôn khổ của luận văn này, tín dụng ngân hàng được đề cập đến
với tư cách ngân hàng là người cho vay.
1.1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
* Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
- Tín dụng ngắn hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn không quá 12 tháng,
dùng trong cho vay bổ sung vốn lưu động và cho vay đáp ứng các nhu cầu sinh
hoạt cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn trên 12 tháng đến
60 tháng, dùng trong cho vay mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ và cho vay xây dựng nhà ở hoặc
mua hàng tiêu dùng có giá trị lớn.
- Tín dụng dài hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn trên 60 tháng, thường
dùng trong cho vay dự án đầu tư xây dựng mới, cải tiến và mở rộng sản xuất quy
mô lớn và mua bất động sản cá nhân.
* Căn cứ vào đối tượng của tín dụng:
- Tín dụng vốn lưu động: cho vay hình thành vốn luư động, bù đắp lượng vốn lưu động tạm thời thiếu hụt cho các doanh nghiệp và các chủ thể
kinh tế khác.
- Tín dụng vốn cố định: cho vay nhằm hình thành vốn cố định cho các
doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác được thực hiện dưới hình thức cho
vay trung và dài hạn.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
- Tín dụng sản xuất lưu thông hàng hóa: là các khoản tín dụng cấp cho
các doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác để tiến hành sản xuất kinh
doanh hàng hóa và dịch vụ.

- Tín dụng tiêu dùng: là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng.


13

* Căn cứ vào tính chất bảo đảm tín dụng:
- Tín dụng có bảo đảm: là loại hình cho vay được bảo đảm bằng tài sản
theo các biện pháp mà pháp luật quy định (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh).
- Tín dụng không có bảo đảm: là loại hình cho vay không được bảo đảm
bằng tài sản mà chủ yếu được cấp dựa vào uy tín của người đi vay.
1.1.2. Rủi ro tín dụng
1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiềm ẩn
nhiều rủi ro nhất, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và
rủi ro hối đoái. Trong các rủi ro trên, rủi ro tín dụng là rủi ro lớn và quan trọng
nhất do các khoản cho vay của ngân hàng hiện chiếm tỷ lệ lớn trong bảng tổng
kết tài sản cũng như đem lại phần lớn nguồn thu của ngân hàng.
Theo quyết định 493/493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
NHNN: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả
năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo
cam kết” [4, tr.3].
Tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi giữa
người đi vay và người cho vay. Cho vay hoàn trả khác với nghiệp vụ tài trợ cấp
vốn của nhà nước cho các thành phần kinh tế. Hoạt động cho vay là hoạt động
rất đa dạng, là một hoạt động kinh doanh hàng hoá phức tạp. Tính phức tạp của
nó chính là đối tượng kinh doanh tức là tiền tệ, ở đây tiền tệ được tách rời giữa
quyền sở hữu và quyền sử dụng khi cho vay.
Quan hệ cho vay là quan hệ kinh tế bình đẳng giữa người đi vay và người

cho vay, là sự cam kết thoả thuận bằng các điều khoản thi hành thể hiện trong
các hợp đồng cho vay. Sự cam kết này chính là cơ sở pháp lý cơ bản để thực
hiện nghĩa vụ của hai bên tham gia hoạt động cho vay. Nó là cơ sở pháp lý để
đảm bảo tín dụng. Bên cạnh đó còn có các cam kết khác bằng các hành vi hay


14

năng lực kinh tế, thể hiện bằng vật chất, uy tín như tài sản thế chấp, cầm cố, bảo
lãnh.
Trong cho vay một bên là người cho vay vốn, một bên là người đi vay vốn
và ràng buộc giữa hai bên là hợp đồng tín dụng. Vốn ở đây được thể hiện bằng
tiền chứ không bằng tài sản hay bất cứ gì khác. Rủi ro vẫn xảy ra mặc dù bên đi
vay cam kết sẽ trả đầy đủ và đúng hạn cho bên cho vay theo các điều khoản của
hợp đồng cho vay. Nhưng tình trạng vi phạm cam kết đó xảy ra khá phổ biến kể
cả trong trường hợp người đi vay có đủ năng lực tài chính.
Chính vì vậy rủi ro tín dụng là loại rủi ro phức tạp nhất và luôn đồng hành
cùng hoạt động kinh doanh của NHTM, NHTM chỉ có thể phòng ngừa, hạn chế
thấp nhất các thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra chứ không thể loại bỏ hoàn toàn
rủi ro này.
1.1.2.2. Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng
* Nguyên nhân phát sinh từ phía khách hàng vay vốn
- Đối với khách hàng cá nhân:
+ Do tình trạng sức khoẻ, bệnh tật, hoặc mâu thuẫn trong gia đình
của người vay.
+ Người vay bị thất nghiệp tạm thời hoặc lâu dài gây ảnh hưởng đến
thu nhập.
+ Do người đi vay hoạch định ngân sách không chính xác, hoặc có thể
do người đi vay sử dụng tiền vay sai mục đích, hoặc chưa có kinh nghiệm
trong việc tổ chức sản xuất, quản lý kinh doanh... dẫn đến trả nợ không đúng

hạn cho ngân hàng.
- Đối với khách hàng doanh nghiệp:
+ Doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích, hoặc sử dụng vốn vay
vào việc sản xuất kinh doanh các loại mặt hàng bị pháp luật cấm.
+ Doanh nghiệp không đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng vốn, lãng
phí, tham ô, tham nhũng.


15

+ Doanh nghiệp gặp phải các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
mình, đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới rủi ro cho ngân hàng.
Ngoài ra, rủi ro tín dụng còn liên quan tới đạo đức của người sử dụng
vốn vay ngân hàng. Họ sử dụng với mục đích lừa đảo, chiếm đoạt vốn tín
dụng của ngân hàng thông qua việc tạo ra những dự án ảo. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng, rủi ro xuất
phát từ đạo đức của người đi vay ngày càng xuất hiện nhiều với phương thức
ngày càng tinh vi, chính vì vậy bên cạnh tăng cường công tác thẩm định thì
công tác kiểm soát tín dụng ngày càng được đề cao và giành được nhiều sự
quan tâm từ các nhà quản trị ngân hàng.
* Nguyên nhân từ phía ngân hàng
- Do chính sách tín dụng của ngân hàng không phù hợp với đặc điểm, thực
trạng của nền kinh tế và chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ. Chính sách
tín dụng được hiểu đầy đủ bao gồm định hướng chung trong cho vay, chế độ tín
dụng ngắn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền vay, về loại khách
hàng và ngành nghề được ưu tiên, quy trình xét duyệt cho vay quá chú trọng vào
mục tiêu lợi nhuận, tăng trưởng, bỏ qua sự an toàn trong hoạt động kinh doanh.
Một chính sách không đầy đủ đúng đắn và thống nhất sẽ tạo ra định hướng lệch
lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo
kẽ hở cho người sử dụng vốn để gian lận chiếm đoạt vốn bất hợp pháp... cuối

cùng là không đem lại hiệu quả kinh tế, nguy cơ rủi ro cao.
- Khâu phân tích thẩm định còn yếu, đây là một trong những nguyên nhân
trực tiếp gây ra rủi ro tín dụng. Do cán bộ tín dụng năng lực thấp, chưa được đào
tạo đầy đủ, ít kinh nghiệm trong ngành nghề mà mình tài trợ, ngoài ra cũng có
thể do vấn đề đạo đức không tốt của cán bộ thẩm định như không trung thực,
thiếu trách nhiệm, cấu kết với người đi vay để chiếm đoạt vốn của ngân hàng.
Nguyên nhân thứ ba là do ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ khâu bảo đảm tín dụng. Như cán bộ thẩm định đánh giá sai giá
trị tài sản bảo đảm bao gồm cả giá trị hiện tại và trong tương lai, hoặc lại quá


16

tin tưởng vào tài sản bảo đảm coi đó là “tấm đệm” cho công tác thu hồi vốn
sau này mà coi nhẹ công tác kiểm tra, đôn đốc, giám sát thực hiện dự án,
phòng ngừa rủi ro, không có những biện pháp kịp thời nhằm hạn chế khoản
vay có thể dẫn tới nợ quá hạn.
Các ngân hàng thường đứng trước một mâu thuẫn đòi hỏi sự linh hoạt trong
quá trình giải quyết, đó là mở rộng tín dụng để tăng lợi nhuận, đồng thời hạn chế
rủi ro tín dụng. Nhiều ngân hàng ra sức tăng mức dư nợ tín dụng mà bỏ qua hoặc
hạ thấp những tiêu chuẩn cho vay. Hay nói một cách khác là ngân hàng chỉ chạy
theo số lượng tín dụng mà không coi trọng chất lượng tín dụng, do đó rất nguy
hiểm đối với công tác tín dụng của ngân hàng. Để tăng lợi nhuận, ngân hàng cần
phải có những biện pháp hạn chế những chi phí không hợp lý nhưng các ngân
hàng đã không xác định rõ những chi phí nào đối với mình là không hợp lý và đã
loại bỏ những chi phí hợp lý khác làm giảm thấp chất lượng nghiệp vụ, gây ra
rủi ro cho hoạt động kinh doanh.
Một yếu tố luôn ảnh hưởng tới khâu thẩm định của cán bộ tín dụng đó là
chất lượng và số lượng thông tin. Bởi vì bản thân hoạt động ngân hàng luôn
trong tình trạng thông tin không cân xứng, cho nên đòi hỏi công tác thẩm định

phải sàng lọc thông tin một cách kỹ càng, chính xác, tránh bỏ sót những dự án
hiệu quả cao và tránh nhận những dự án không có hiệu quả hay hiệu quả thấp.
Các ngân hàng chưa được cung cấp đầy đủ và chính xác, mặc dù Trung tâm
thông tin tín dụng CIC đã được thành lập và đi vào hoạt động nhưng hiệu quả
hoạt động chưa cao, chưa cập nhật, nhiều trường hợp các NHTM không báo cáo
đầy đủ tình trạng khách hàng về cho CIC. Do đó khi thẩm định khách hàng,
ngân hàng không nắm được đầy đủ thông tin về quan hệ tín dụng của khách
hàng với các tổ chức tín dụng (TCTD) khác nên có thể phán quyết sai lầm khi
cho vay.
Do ngân hàng không thực hiện tốt công tác giám sát tín dụng vì trình độ
nghiệp vụ của cán bộ tín dụng hạn chế, thiếu thực tế, chỉ dựa trên giấy tờ, số liệu
báo cáo của khách hàng, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác nghiệp vụ,


17

kiểm tra, kiểm soát lấy lệ, hời hợt, chỉ mang tính hình thức, không phản ánh
đúng sự thật do chịu áp lực từ cấp trên, từ chính quyền địa phương. Một hệ
thống kiểm soát tín dụng lỏng lẻo dễ dẫn đến tình trạng thất thoát vốn, giảm hiệu
quả hoạt động kinh doanh.
Ngoài các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trên, Ngân hàng cũng có thể
gặp rủi ro tín dụng do cho vay quá tập trung vào một đối tượng, một khu vực,
một ngành cho nên đã hạn chế sự linh hoạt của ngân hàng trước những biến
động của thị trường cạnh tranh, gây ra tổn thất cho ngân hàng. Có thể do công
tác thiết kế sản phẩm tín dụng không phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của
người vay, hoặc do vẫn còn nặng tính chất quan liêu, quan cách trong hoạt động
giao dịch với khách hàng, hoặc có thể do cán bộ ngân hàng vi phạm đạo đức
nghề nghiệp, thông đồng với khách hàng, nhận hối lộ, cố tình làm sai nguyên
tắc.
* Nguyên nhân khách quan và các nguyên nhân khác

- Tình hình kinh tế, chính trị thế giới, khu vực và trong nước (khủng
hoảng thiên tai, chính sách kinh tế...) ảnh hưởng tới tình hình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, doanh thu giảm, gia tăng công nợ khó đòi làm
khách hàng suy giảm khả năng trả nợ cho ngân hàng, gây ra rủi ro tín dụng.
- Hệ thống pháp lý của nước ta tuy đồ sộ nhưng thiếu đồng bộ, nhiều văn
bản mâu thuẫn nhau dễ dẫn đến việc hiểu và áp dụng tại mỗi đơn vị khác
nhau, hơn nữa chất lượng của các văn bản pháp luật chưa cao, chưa phù hợp
với thực tế, thường xuyên phải sửa đổi bổ sung, thay đổi cách thức áp dụng
gây ra lãng phí thời gian và tài chính của các đối tượng áp dụng.
1.1.3. Tác động của rủi ro tín dụng đối với hoạt động của ngân hàng
thương mại
Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm thu nhập từ lãi cho vay giảm đồng thời
phải tăng tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro dẫn đến giảm lợi nhuận kinh doanh
tức là thu nhập của ngân hàng suy giảm và có thể dẫn đến lỗ.


18

Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán, khiến cho việc hoàn trả
tiền gửi của ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Các khoản cho vay có thể mất
hoặc khó đòi trong khi tiền gửi khách hàng vẫn phải trả lãi, làm mất đi những
cơ hội kinh doanh tốt của ngân hàng.
Nếu rủi ro xảy ra mức độ quá lớn, nguồn vốn của ngân hàng không đủ bù
đắp, vốn khả dụng bị thiếu, gây sụt giảm uy tín của ngân hàng, lòng tin của
khách hàng giảm tất yếu sẽ dẫn tới phá sản ngân hàng.
Bên cạnh đó trong thời kỳ hội nhập hiện nay, rủi ro tín dụng thể hiện qua
các chỉ số tài chính của NHTM cao là một rào cản cho việc gia nhập thị trường
quốc tế của các NHTM do không tạo được uy tín đối với các khách hàng nước
ngoài – nơi mà các tiêu chuẩn trong hoạt động tài chính, ngân hàng được đề ra
khá cao và kiểm soát nghiêm ngặt.

1.2. CÔNG TÁC KIỂM SOÁT TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm kiểm soát tín dụng tại ngân hàng thương mại
Kiểm soát được hiểu là tổng hợp những phương sách để nắm lấy và điều
hành đối tượng hoặc khách thể quản lý. Kiểm soát có thể hiểu theo nhiều chiều :
Cấp trên kiểm soát cấp dưới thông qua chính sách, kế hoạch hoặc biện pháp cụ
thể ; đơn vị này kiểm soát đơn vị khác, nội bộ đơn vị kiểm soát lẫn nhau thông
qua quy chế và thủ tục quản lý... nhằm rà soát các tiềm năng, xem xét lại các dự
báo, các mục tiêu định mức, đối chiếu và truy tìm các thông số về sự kết hợp, soát
xét lại các thông tin thực hiện để điều chỉnh kịp thời trên quan điểm bảo đảm hiệu
năng của mọi nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng của các hoạt động.
Kiểm soát tín dụng cũng được hiểu là tổng hợp các phương sách để nắm
lấy và điều hành hoạt động tín dụng của một NHTM nhằm hạn chế được rủi ro
tín dụng. Hoạt động kiểm soát tín dụng là một chu trình kiểm soát liên tục, nó
được thực hiện cả trước, trong và sau khi cho vay.
Kiểm soát tín dụng được thực hiện thông qua các hệ thống chính sách tín


19

dụng và hệ thống kiểm tra, giám sát nội bộ (bao gồm hệ thống kiểm soát nội bộ
phụ thuộc quy trình và hệ thống kiểm soát nội bộ ngoài quy trình).
Tất cả các nhân viên tham gia kiểm soát tín dụng được cài đặt ngay trong quy
trình nghiệp vụ và trong hoạt động điều hành khác của ngân hàng. Đây có thể là
các kiểm soát viên, cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng, cán bộ lãnh đạo... khi họ
thực hiện chức năng kiểm soát tính hợp lý, hợp lệ của nghiệp vụ.
Kiểm soát trước khi cho vay gồm các hoạt động: Thiết lập một hệ thống
chính sách và thủ tục tín dụng bằng văn bản; Thẩm định trước khi cho vay;
Phê duyệt khoản vay.
Kiểm soát trong khi cho vay gồm các hoạt động: Xác lập Hợp đồng tín

dụng; Giám sát quá trình giải ngân.
Kiểm soát sau khi cho vay gồm các hoạt động: Theo dõi, đôn đốc thu hồi
nợ; Giám sát tín dụng; Tái xét tín dụng và phân hạng tín dụng; Kiểm soát tín
dụng nội bộ độc lập; Đánh giá lại chính sách tín dụng.
Kiểm soát tín dụng của NHTM là một nhiệm vụ của hệ thống kiểm soát nội
bộ của NHTM, vì vậy có thể được hiểu là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy
trình, quy định nội bộ và cơ cấu tổ chức của NHTM trong hoạt động tín dụng
nhằm hạn chế rủi ro tín dụng và đạt được các mục tiêu tín dụng mà ngân hàng đã
đặt ra. Như vậy, việc thiết lập hệ thống kiểm soát tín dụng nhằm mục đích đạt
hiệu quả, thông qua việc thực hiện các mục tiêu cụ thể, chủ yếu sau đây:
- Hiệu quả và an toàn trong hoạt động tín dụng.
- Bảo đảm hệ thống thông tin quản lý tín dụng trung thực, hợp lý, đầy
đủ và kịp thời.
- Bảo đảm tuân thủ pháp luật và các quy chế, quy trình, quy định nội bộ
trong hoạt động tín dụng.
1.2.2. Các yêu cầu đối với công tác kiểm soát tín dụng
- Hệ thống kiểm soát tín dụng phải đảm bảo mọi rủi ro có nguy cơ gây ảnh
hưởng xấu đến hiệu quả và mục tiêu tín dụng của NHTM đều phải được nhận


20

dạng, đo lường đánh giá một cách thường xuyên, liên tục để kịp thời phát hiện,
ngăn ngừa và có biện pháp quản lý rủi ro tín dụng thích hợp. Mỗi khi có sự thay
đổi về các mục tiêu hoạt động tín dụng, đưa vào sử dụng sản phẩm tín dụng mới,
NHTM phải nhận dạng dự báo các rủi ro liên quan để xây dựng, sửa đổi, bổ
sung các cơ chế, quy trình, quy định kiểm tra, kiểm soát tín dụng nội bộ phù hợp.
- Hoạt động kiểm soát tín dụng là một phần không tách rời của các hoạt
động tín dụng hàng ngày của NHTM. Cơ chế kiểm soát tín dụng được thiết kế,
cài đặt, tổ chức thực hiện ngay trong mọi quy trình nghiệp vụ tín dụng, tại tất cả

các bộ phận liên quan đến hoạt động tín dụng dưới nhiều hình thức như :
+ Có cơ chế kiểm tra chéo giữa các cá nhân, các bộ phận cùng tham gia
trong quy trình tín dụng.
+ Quy định về hạn mức tín dụng cụ thể đối với từng cá nhân, bộ phận
trong việc thực hiện các giao dịch.
+ Có quy trình và cơ chế thẩm định, kiểm tra, chấp thuận và duyệt cho
phép thực hiện các giao dịch; đảm bảo một quy trình nghiệp vụ phải có ít nhất
hai cán bộ tham gia, không có cá nhân nào có thể một mình tiến hành thực hiện
và quyết định một quy trình nghiệp vụ, một giao dịch cụ thể, ngoại trừ những
giao dịch trong hạn mức được NHTM cho phép phù hợp với quy định của pháp
luật.
- Cơ chế phân cấp ủy quyền phải được thiết lập, thực hiện một cách hợp lý,
cụ thể, rõ ràng, tránh các xung đột lợi ích; đảm bảo một cán bộ không đảm nhiệm
cùng một lúc những cương vị, nhiệm vụ có mục đích, quyền lợi mâu thuẫn hoặc
chồng chéo với nhau, đảm bảo mọi cán bộ trong tổ chức tín dụng không có điều
kiện để thao túng hoạt động, bưng bít thông tin phục vụ các mục đích cá nhân
hoặc che giấu các hành vi vi phạm quy định của pháp luật và quy định nội bộ.
- Đảm bảo mọi cán bộ tín dụng đều phải quán triệt được tầm quan trọng
của hoạt động kiểm soát tín dụng; vai trò của từng cá nhân trong quá trình kiểm
soát tín dụng có liên quan đến chức năng nhiệm vụ của bản thân họ và phải tham
gia thực hiện một các đầy đủ và có hiệu quả các quy định, quy trình kiểm soát tín


21

dụng nội bộ liên quan.
1.2.3. Nội dung công tác kiểm soát tín dụng
1.2.3.1. Kiểm soát tín dụng thông qua việc thực hiện chính sách tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động truyền thống và cơ bản bao trùm của
NHTM. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện

theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó
là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng là các nguyên tắc cơ bản chi phối
hoạt động tín dụng, chính sách tín dụng đưa ra khuôn khổ tín dụng và nêu lên
mục tiêu tổng thể trong hoạt động cho vay. Chính sách tín dụng phản ánh
cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ
tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động
tín dụng nhằm đảm bảo hoạt động tín dụng được kiểm soát đầy đủ về tổng thể
cũng như từng khoản vay.
Toàn bộ các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung đều được
xem xét và đưa ra trong chính sách tín dụng như: Quy mô, cơ cấu tín dụng
toàn ngân hàng và từng chi nhánh, đối tượng khách hàng vay vốn, lãi suất cho
vay, kỳ hạn vay, đảm bảo tiền vay, thẩm quyền phê duyệt tín dụng, xử lý các
khoản tín dụng có vấn đề và các nội dung khác.
a. Quy mô, cơ cấu tín dụng:
Ngân hàng phải đưa ra được các mức giới hạn tối đa đối với dư nợ như:
Tỷ lệ tối đa được phép giữa tổng dư nợ cho vay và tổng tài sản của ngân
hàng; tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng hàng năm; tỷ trọng dư nợ theo thời
hạn, theo loại sản phẩm...; cơ cấu danh mục cho vay của ngân hàng (quy mô
đối với từng ngành, từng nhóm khách hàng, từng khách hàng...).
Thông thường tại NHTM, Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm phê duyệt
chính sách tín dụng theo từng giai đoạn (2, 3 hoặc 5 năm), xác định rõ định
hướng phát triển tín dụng, các chỉ tiêu tín dụng cụ thể của toàn ngân hàng,
đảm bảo hoạt động tín dụng theo đúng chiến lược phát triển đã đặt ra và mục
tiêu chung của ngành ngân hàng. Ban Tổng giám đốc chịu trách nhiệm triển


22

khai thực hiện chính sách tín dụng thông qua việc phân bổ chỉ tiêu tín dụng
tới từng chi nhánh để đảm bảo kiểm soát các chỉ tiêu tín dụng của toàn ngân

hàng trong giới hạn Hội đồng quản trị đã phê duyệt.
b. Chính sách khách hàng:
Khách hàng nhận tín dụng của ngân hàng rất đa dạng. Ngân hàng phải
tiến hành phân loại khách hàng thị trường mục tiêu, truyền thống và khách
hàng khác. Loại khách hàng của thị trường mục tiêu, truyền thống và quan
trọng thường được hưởng chính sách ưu đãi của ngân hàng. Đây là nội dung
có liên quan đến chính sách marketing nên thường được các ngân hàng cân
nhắc đưa ra cho khách hàng biết.
Thông thường NHTM phân loại khách hàng theo nhóm để từ đó đưa ra
chính sách khách hàng đa dạng, phù hợp áp dụng đối với từng đối tượng
khách hàng theo định hướng phát triển của ngân hàng, nhằm lựa chọn và thu
hút được các khách hàng mục tiêu, khách hàng chiến lược và khách hàng có
chất lượng tốt nhất cho ngân hàng. Việc thực hiện chính sách khách hàng giúp
NHTM duy trì và từng bước nâng cao chất lượng tín dụng, hỗ trợ kiểm soát
rủi ro trong hoạt động tín dụng.
c. Lãi suất và phí tín dụng:
Ngân hàng có các mức lãi suất tín dụng khác nhau tùy theo kỳ hạn, tùy
theo loại tiền, tùy theo loại khách hàng. Ngân hàng khi thỏa thuận về lãi suất
tín dụng phải tính đến rủi ro, lãi suất hòa vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị
trường. Bên cạnh khung lãi suất định trước, ngân hàng còn cung cấp các lãi
suất thỏa thuận đối với từng khách hàng cụ thể.
d. Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ:
Thời hạn tín dụng có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn. Ngân hàng
thường xác định rõ kỳ hạn tín dụng trong hợp đồng tùy theo chu kỳ sản xuất
kinh doanh sau khi thỏa thuận với khách hàng. Trong chính sách tín dụng,
ngân hàng cần xác định rõ, ngân hàng sẵn sàng cung ứng tín dụng với thời
hạn như thế nào. Bài toán thời hạn phải giải quyết mối quan hệ thời hạn của


23


nguồn (chủ yếu là do người gửi và người cho ngân hàng vay quyết định) và
thời hạn tài trợ (xuất phát từ yêu cầu của người vay do đặc điểm luân chuyển
vốn và quy mô thu nhập quyết định). Ngân hàng thường dựa trên kỳ hạn của
nguồn để quyết định chính sách thời hạn cho vay. Nếu ngân hàng có khả năng
chuyển hoán nguồn và huy động nguồn trung và dài hạn tốt, chính sách thời
hạn tín dụng và kỳ hạn nợ nghiêng về đáp ứng kỳ hạn của người vay.
e. Chính sách về bảo đảm tiền vay:
Ngân hàng tài trợ dựa trên uy tín của khách hàng. Trong trường hợp
khách hàng truyền thống, có uy tín, ngân hàng có thể không cần bảo đảm
tiền vay. Trong những trường hợp độ an toàn của khoản vay không chắc
chắn, ngân hàng yêu cầu phải có tài sản bảo đảm. Các biện pháp bảo đảm
của ngân hàng nhằm hạn chế bớt các thiệt hại cho ngân hàng khi khách
hàng có khó khăn không trả được nợ. Bảo đảm có thể bằng hình thức cầm
cố hoặc thế chấp. Các bảo đảm tiền vay thường là giấy tờ có giá, hàng hóa
trong kho, nhà cửa, thiết bị, hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Chính sách bảo
đảm tiền vay bao gồm các quy định về các loại bảo đảm cho mỗi loại hình
tín dụng, mức cho vay trên giá trị bảo đảm tiền vay, đánh giá và phương
thức quản lý tài sản bảo đảm...
f. Quyết định tín dụng:
Thông thường người ra quyết định tín dụng là những nhân viên có trình độ,
có kinh nghiệm và có uy tín tại ngân hàng. Việc phân công, phân chia nhiệm vụ
thuộc chính sách và phương pháp quản trị của mỗi ngân hàng có thể tập trung
quyền ra quyết định cho một người (như Giám đốc) hoặc một nhóm (như Ban
tín dụng, Hội đồng tín dụng...). Cách này có ưu điểm dễ điều hành vốn, dễ điều
chỉnh cơ cấu tín dụng theo mục tiêu định sẵn. Tuy nhiên sẽ rất khó khăn nếu
ngân hàng có một số lượng lớn khách hàng xin cấp tín dụng một lúc. Bên cạnh
đó có thể dẫn đến những tiêu cực do việc ra quyết định tín dụng tập trung vào
một người hay một nhóm người. Hơn nữa áp dụng cách này có thể tạo tâm lý ỷ



24

lại cấp trên của nhân viên cấp dưới khi tham gia thẩm định, đặc biệt không phân
định rõ ràng được trách nhiệm của các cá nhân tham gia vào quá trình hình thành
quyết định tín dụng. Cách này chỉ thích hợp với các ngân hàng nhỏ, khách hàng
không quá nhiều và đội ngũ nhân sự có trình độ thấp, thiếu kinh nghiệm.
Cách thứ hai thường gặp trong hoạt động tín dụng ngày nay là cách phân
quyền bằng quy định các mức phán quyết tín dụng (credit authorization) cho
từng loại nhân viên. Mức phán quyết là mức tín dụng tối đa mà một nhân viên
tín dụng được quyền quyết định cho vay. Ở Việt Nam, cách này phù hợp với luật
các tổ chức tín dụng về “nguyên tắc phân định trách nhiệm” ở các khâu. Mức
phán quyết phụ thuộc vào:
+ Kinh nghiệm của nhân viên.
+ Thời hạn cho vay.
+ Loại cho vay: chiết khấu, cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho
vay có bảo đảm hay không có bảo đảm.
+ Đồng tiền cấp tín dụng (nội tệ hay ngoại tệ).
Đối với cách phân quyền này nhà quản trị phải xác định rõ trình độ và kinh
nghiệm của nhân viên khi tham gia vào giai đoạn này, từ đó quy định số tiền tối
đa mà họ có quyền ra quyết định tín dụng. Mức phán quyết tăng lên theo trình độ
và kinh nghiệm của nhân viên. Phân quyền phán quyết sẽ phát huy tính độc lập
và tự chịu trách nhiệm của các nhân viên, giảm sức ép lên nhà quản trị, giảm thời
gian lưu trữ hồ sơ, tạo cơ sở kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng. Những
khoản tín dụng lớn thường được một hội đồng tín dụng xem xét và quyết định.
Bên cạnh đó việc phân quyền đòi hỏi phải quy định những trường hợp vượt hạn
mức phán quyết, hoặc kết quả quyết định tín dụng trái ngược với nhận xét của
khâu thẩm định. Trong những trường hợp như vậy, có thể quy định cấp trên xem
xét lại. Phương pháp này tuy nhanh nhưng có thể không đảm bảo tính chính xác
và khách quan. Vì vậy nhiều ngân hàng đã quy định trong những trường hợp vượt hạn mức hoặc có mâu thuẫn trong kết quả ra quyết định tín dụng thì phải đưa

ra Hội đồng tín dụng phán quyết.


25

g. Chính sách đối với các tài sản có vấn đề:
Các tài sản có vấn đề bảo gồm các khoản nợ xấu (đã quá hạn, hoặc khó
đòi, hoặc không đòi được) và các tài sản có biểu hiện đáng ngờ. Chính sách
đối với các tài sản có vấn đề gồm quy định mức rủi ro có thể chịu đựng được
và chuẩn bị các điều kiện chung sống với rủi ro, các yếu tố cấu thành khoản
tín dụng có vấn đề, có mức độ “xấu” của khoản nợ, trách nhiệm giải quyết,
phạm vi thanh lý và khai thác. Do hoạt động của ngân hàng luôn gắn với rủi
ro, mức rủi ro có thể chấp nhận được cần được hoạch định cho từng nhóm
khách hàng, từng ngành hoặc từng vùng.
1.2.3.2. Kiểm soát tín dụng thông qua việc tuân thủ quy trình cho vay
a. Kiểm soát trước khi cho vay thông qua phân tích tín dụng, phê duyệt
khoản vay
Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách
hàng về sử dụng vốn tín dụng cũng như khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng.
Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể dẫn tới rủi
ro cho ngân hàng và tiên lượng khả năng kiểm soát của ngân hàng về các loại rủi
ro đó cũng như dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế các thiệt hại có thể
xảy ra. Mặt khác, phân tích tín dụng giúp ngân hàng kiểm tra tính chính xác của
các thông tin do khách hàng cung cấp từ đó có nhận định đúng về thái độ của
khách hàng.
Các thông tin làm cơ sở để phân tích tín dụng: Nguồn thông tin để phân
tích ở giai đoạn này rất phong phú và đa dạng cả về chủng loại cũng như phương
pháp thu thập. Ngoài nguồn thông tin mà ngân hàng đã thu thập từ giai đoạn
trước, bên cạnh việc kiểm tra lại độ chính xác và tính cập nhật của những dữ liệu
này, ngân hàng còn phải xác định mức độ đầy đủ của chúng, để từ đó thu thập

thêm thông tin cần thiết cho phân tích tín dụng.
Nội dung phân tích tín dụng: Phân tích tín dụng được chia làm hai lĩnh vực:


×