Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Giải quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.83 MB, 116 trang )

1 1 - u v r> ụ iiẠ i. iri ụ u L A


:

r' ị

* K i

'

m
-

í



Ĩ Ị

-

--

A

T

"

p*



ũ

i

7

7



'•••••



4ss:

í

-

ỉ,

--

V

-

£


■HÀ

;v â ' : A
V ?^„ f i

i - Vn -i ! Y
f ĩ 1. 8
1 MI H
I Ỉ B,
i i .
ií.
ỉ..
ík
' “

7

■1

4

I

V

:

i - -te*'


í

U Í I ấi í ếỊ s- ’i

--

' ề- *

ịs

1 _ A

-

,



?

. DI

ỳ . .■*...

?•; -2 ỉ ;X - : ■■)
;

»



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN XUÂN THU

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG BẰNG TRỌNG TÀI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM








Chuyên ngành:

Luật Kinh tế

Mã số:

60 38 50

LUẬN VÃN THẠC s ĩ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học:



TS. Lưu Bình Nhưỡng

THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐAI HOC LŨAl HA NÒI
PHỎNG DO C

HÀ NỘI - 2004


LỜI CẢM ƠN

J lu â n DÌÍII f/à/j (tníìe h o à n th à n h rw'i i u ’ g iú p , itõ e ủ a n h iề u íití q u a n , tầ
eh ú c, Q lh à U h oa híì(‘, các. r ĩh à ụ @jò g iá o từt cáo b ạ n ítồttíỊ H íflù è p .

rjôi xin trân trútiíị eảm (íu oáo oán hà eủa r()tí p h á p aliỉ tẩng htìp (Bà
M ao đ ộ n g - ^ ĩh ư o tiq b in h o ù rẦ )ã h ộ i, rJ ỉa n p h á p lu ậ t £7Ổng J íièn ito ù n Ẩiíto

íTôttế/ (ĩ)ièt Q ta m , 7/5ỚÍ ĩtồ m j tro n g t à i ta o (tòiHỊ th à n h p h ô

Q íòi, ^Jt)òi

ĩtễ n y trọ ttíị t à i ỉa o đ ộ tiíỊ t h à n h p h ú ‘T ôầ (/Jh í Jltin fa... DÙ oáo Í7'hàụ g iá o , ê ổ

g iá tì, eáa Q lhù lilioa h o e eũnụ nhu' eúe. bạn itồtiíỊ n y h i è p .


rOặe biệt, tôi xin ỉ)à ụ tớ lòíitị blêí ớtt iâti Atíít tới Qhíttj (fiúo, YĨiên i ĩ Mưu
(Bình Qlhưỡttg - xĩhàụ hướng, íLatt (tã tâ n tìn h eíủ bủa cho tô i trontỊ q u á
tr ìn h th ự ã h iền M u ậti liá n .






Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2004
Học viên

Nguyễn Xuân Thu


IÌẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT

C hữ viết tắ t

Đọc đầy đủ là

BLLĐ

Bộ luật Lao động

TTLĐ

Trọng tài lao động


HĐTT

Hội đồng trọng tài

LĐTBXH

Lao động - Thương binh và Xã hội

LĐLĐVN

Liên đoàn Lao động Việt Nam

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

HGLĐCS

Hoà giải lao động cơ sở



MỤC LỤC

Phần mở đầu
Chương 1: Một số vấn đề chung về trọng tài lao động và giải quyết
tranh chấp lao động bằng trọng tài
1.1- Khái niệm và đặc điểm của trọng tài lao động
1.2- Phân loại trọng tài lao động
1.3- Vai trò của trọng tài lao động với lư cách là một phương thức giải
quyết tranh chấp lao động trong nền kinh tế thị trường
1.4- Các nguyên tắc cư bản của việc giải quyếl tranh chấp lao động bằng
trọng tài
1.5- Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về việc gải
quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài
Chương 2: Pháp luật hiện hành và thực tiễn giải quyết tranh chấp lao
động bằng trọng tài ở Việt Nam
2.1- Pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài
2.2- Thực tiễn giải quyết tranh chấp lao độngbằng trọng tài từ khi BLLĐ
có hiệu lực đến nay
2.3- Một số nhận xét về việc giải quyết tranh chấp lao động bằng trọng
tài theo pháp luật Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả của việc
giải quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài ở Việt Nam
trong thời gian tói
3.1- Những yêu cầu cơ bản
3.2- Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả của việc giải
quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài ử Việt Nam trong thời gian tới
Kết luận
Danh muc tài liêu tham khảo



1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quan hệ lao động thực sự đã thay đổi cả về số lượng và chất lượng khi nước
ta chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Một
trong những thay đổi căn bản đó là sự tồn tại và ihừa nhận quyền tự định đoạt
của các bên trong quan hệ lao động. Trong khuôn khổ pháp luật, các bên được
tự do Ihoả thuận để thiết lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ và lợi ích của
mình. Trong hành trình đó, bất đồng giữa các bôn luôn là một nguy cơ tiềm ẩn,
bất kỳ lúc nào cũng có thể trở thành tranh chấp bởi nhiều nguyên nhân khác
nhau. Một nhu cầu thực tiễn mang tính khách quan là những bất đồng, tranh
chấp ấy cần phải được giải quyết nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên chủ thể,
cho Nhà nước, tạo ra một lối mới cho quan hệ lao động phát triển và ổn định,
trật tự pháp luật được tôn trọng...N hũng yêu cầu này có được đáp ứng hay
không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó phần lớn phụ thuộc vào cơ chế giải
quyết do Nhà nước tạo ra, thừa nhận và đưa vào áp dụng trong thực tiễn cuộc
sống.
Hiện tại, nhìn về tổng thể, chúng la đã có một cơ chế giải quyết tranh chấp
lao động tương đối hợp lý. Song từng mắl xích trong cơ chế này còn ít nhiều hạn
chế, ảnh hưởng tới sự vận hành bình thường của cơ chế chung. TTLĐ là một
điển hình như vậy. Theo đánh giá chung, TTLĐ Việt Nam hầu như chưa phát
huy được vai trò trong thực tiễn đời sống lao động đầy sôi động và trong một số
trường hợp TTLĐ lự triệt tiêu những ưu thế của chính mình mà lẽ ra nó phải
được phát huy trong điều kiện kinh tế thị Irường.
Nghiên cứu làm sáng tỏ nhũng vấn đề lý luận, thực tiễn về TTLĐ, trên cơ
sở đó tìm ra nhũng giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
việc giải quyết tranh chấp lao động hằng trọng tài dường như là một vấn đề chưa
thực sự được quan tâm ở Việt Nam hiện nay. Trong khi đó yêu cầu nội tại của
nền kinh tế nước ta lại đang đòi hỏi TTLĐ phải thực sự phát huy được vai trò và


thế mạnh trong việc giải quyết tranh chấp lao động. Từ đó cho thấy việc tiếp tục

nghiên cứu vấn đề "Giải quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài theo pháp
luật Việt N am " có tính thời sự, có giá trị lý luận, pháp lý và thực tiễn cao.
2. Mục đích nghiên cứu để tài
Việc nghiên cứu đề tài thực hiện các mục đích sau:
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản của việc giải quyết
tranh chấp lao động bằng trọng tài. Trên cơ sở đó đối chiếu với thực trạng giải
quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài theo pháp luật Việt Nam và rút ra
những nhận xét khoa học quan trọng về vấn đề này.
- Trên cơ sở các nhận xét, đánh giá những vấn đề có liên quan giữa lý luận
khoa học, luật thực định và thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động bằng trọng
tài, Luận văn sẽ đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
của việc giải quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài ở Việt Nam trong thời
gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Giải quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài theo pháp luật Việt Nam là
một vấn đề mới mẻ. Vì vậy, lần đầu tiên và trong khuôn khổ của một Luận văn
thạc sĩ chúng tôi không thể giải quyết được một cách trọn vẹn tất cả các vấn đề có
liên quan tới việc giải quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài theo pháp luật
Việt Nam. Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản, các
quy định pháp luật của Việt Nam về việc giải quyết tranh chấp lao động bằng
trọng tài, đưa ra cách tháo gỡ bước đầu những bất cập của pháp luật hiện hành và
các biện pháp bổ trợ nhằm giải quyết tốt hơn vấn đề này trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
M ác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, so sánh, tổng hợp.. .cũng
sẽ được sử dụng ở mức độ phù hợp để hoàn thành mục tiêu của Đề tài.


5. Những kết quả mới đạt được của Luận văn

Đây là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam tập trung nghiên cứu sâu
về vấn đề giải quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài. Đó chính là đóng góp
lớn nhất của Luận văn.
Những vấn đề cụ thể về lý luận, cách nhìn nhận, đánh giá luật thực định và
thực tiễn, từ đó đưa ra hướng hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này sẽ là những
đóng góp có giá trị đối với công tác nghiên cứu khoa học, công tác lập pháp và
áp dụng pháp luật của Luận văn.
6. Bô cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1 : Một số vấn đề chung về TTLĐ và giải quyết tranh chấp lao động
bằng trọng tài
Chương 2: Pháp luật hiện hành và thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động bằng
trọng tài ở Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả của việc giải quyết
tranh chấp lao động bằng trọng tài ở Việt Nam trong thời gian tới.
Vì đây là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu vấn đề giải quyết tranh
chấp lao động bằng trọng tài theo pháp luật Việt Nam một cách có hệ thống,
trong điều kiện thời gian eo hẹp, hầu như không có tài liệu tham khảo về lý luận
và thực tiễn giải quyết, cộng với khả năng có hạn của tác giả, nên Luận văn
không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Kính mong sự đóng góp
chân thành của các Nhà khoa học và bạn đọc để tác giả có điều kiện hoàn thiện
vấn đề này trong một công trình khoa học ở cấp cao hơn. Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2004
HV. Nguyễn X uân T hu/TG


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỂ CHUNG VỂ TRỌNG TÀI LAO ĐỘNG
VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG BẰNG TRỌNG TÀI


1.1- Khái niệm và đặc điểm của TTLĐ
1.1.1- Khái niệm trọng tài lao động
Thực tế tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về Iranh chấp lao động, song
một định nghĩa sau đây có thể được sử dụng rộng rãi và có ích: Tranh chấp lao
động là xung đột về quyền và lợi ích giữa các bên chủ thể trong quan hệ lao
động hoặc một s ố quan hệ có liên quan trực tiếp đến quan hệ ìao động được
biểu hiện ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định.
Tranh chấp lao động từ lâu đã được thừa nhận là một hiện tượng tất yếu
trong nền kinh tế thị trường - nơi mà quan hệ lao động được thiết lập và duy trì
trên cơ sở quyền tự do thoả thuận của các bên chủ thể.
Đổ phân biệt tranh chấp lao động với các dạng tranh chấp khác phát sinh
trong đời sống hàng ngày, người ta có thể căn cứ vào một số dấu hiệu cơ bản
như: chủ thể, nội dung và tính chất của tranh chấp.
Chủ thể của tranh chấp lao động trước hết là NLĐ (hoặc tập thể lao động)
và NSDLĐ. Trong một số trường hợp là các chủ thể trong các quan hệ có liên
quan trực tiếp đến quan hệ lao động (quan hệ việc làm, quan hệ học nghề, quan
hệ bồi thường thiệt hại...)Nội dung của tranh chấp lao động phải là những vấn đề thuộc về quyền,
nghĩa vụ và lợi ích của các bên chủ thể trong các mối quan hệ kể trên.
Tính chất của tranh chấp lao động sẽ được xem xét ở những mức độ khác
nhau tuỳ Ihuộc đó là tranh chấp lao động cá nhân hay tranh chấp lao động tập
thể. Song có một điều người ta đặc biệt quan tâm là tính chất của tranh chấp lao


động có thể thay đổi do sự thay đổi của quy mô chủ thể tham gia tranh chấp (sự
chuyển hoá từ tranh chấp lao động cá nhân Ihành tranh chấp lao động tập thể).
Những vấn đề vừa nêu cũng chính là những dấu hiệu cơ bản để nhận biết
tranh chấp lao động. Đây là cơ sở đầu tiên để xác định đúng cơ chế giải quyết
tranh chấp phát sinh trong thực tế. Từ lâu, các quốc gia trên thế giới đã sử dụng
nhiều phương thức giải quyết tranh chấp lao động khác nhau, như: thương

lượng, trung gian, hoà giải, trọng tài, quyết định chuyên gia, phiên toà mini, toà
án...N gay lừ ngày đầu thành lập nước, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà đã quy định về phương thức trọng tài bôn cạnh các phương thức giải quyết
tranh chấp lao động khác, như: thương lượng, hoà giải và toà án.
Để hiểu được TTLĐ là gì, trước tiên chúng ta nôn xuất phát từ khái niệm
trọng tài nói chung. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài và TTLĐ
trong các công trình nghiên cứu khoa học và các sách tham khảo. Sau đây là
một số ví dụ tham khảo:
Theo cuốn "Từ điển tiếng Việt", Nhà xuất bản Đà Nẩng 1998. Tr.1004,
Trọng tài là "người được cử ra đ ể phân xử, giải quyết những vụ tranh chấp"
Theo cuốn "Đại từ điển kinh tế thị trường" của Viện nghiên cứu và phổ
biến tri thức bách khoa xuất bản năm 1998 thì 'Trọng tài là một phương thức
giải quyết một cách hoà bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự tự
nguyên đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho người thứ ba có tư
cách công bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có hiệu
lực ràng buộc đối với cả hai bên" (Tr.1989)
Cuốn "Đạo đức và kỹ năng của Luật sư trong nền kinh tế thị trường" quyển II do PGS.TS Lê Hồng Hạnh làm chủ biên, xuất bản năm 2002 có viết:
"Theo cách hiểu chung nhất, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp,
theo đó, hai hoặc nhiều bên đưa vụ tranh chấp của họ ra trước bên thứ ba trung
lập đ ể chủ th ể này tiến hành giải quyết tranh chấp theo những thủ tục đặc trưng
của quá trình đó"


TS. Lưu Bình Nhưỡng quan niệm trọng tài là một chủ thể thứ ba trung lập,
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi có yêu cầu1.
Theo Frank Elkouri & Edna Asper E lkouri2 thì TTLĐ ỉà một tiến trình đơn
giản được ìựa chọn bởi các bên liên quan mong muốn việc tranh chấp được
phán quyết bởi một quan toà khách quan mà quyết định của họ s ẽ dựa trên tình
huống sự việc, các bên liên quan đồng ỷ trước sẽ chấp nhận những quyết định
này là quyết định cuối cùng và có tính bắt buộc thi hành"

"Khung tiêu chuẩn giải quyết tranh chấp lao động Australia" của Uỷ ban
quốc gia về tư vấn giải quyết tranh chấp - tháng 4/2001 đưa ra một định nghĩa
chi tiết hơn về TTLĐ. Theo đó, 77'LĐ được hiểu là một quá trình mà trong đó
hai người hoặc nhiều hơn nhất trí rằng một cuộc tranh chấp lioặc một cuộc
tranh chấp có th ể xảy ra giữa họ s ẽ được giải quyết theo hình thức ràng buộc về
mặt pháp luật, được tiến hành bởi một (hoặc nhữỉig) người không thiên vị bằng
cách phân xử. Việc phân xử s ẽ được tiến hành dựa trên những chứng cứ được
trình bày với (những) người phân xử. Thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài được gọi là thoả thuận trọng tài hoặc đệ trình vụ việc ra trọng tài sau
khi vụ tranh chấp đã xảy ra và khỉ vụ tranh chấp được trình lên ịnhững) người
phân xử như vậy đ ể đưa ra quyết định. Quá trình này được gọi là trọng tài và
quyết định đưa ra được gọi là phán quyết3.
Qua các định nghĩa trên đây về trọng tài và TTLĐ, chúng ta thấy có tác giả
tiếp cận khái niệm trọng tài và TTLĐ là một phương thức giải quyết tranh chấp,
có tác giả lại quan niệm đó là một quá trình, một thủ tục hay một chủ thể giải
quyết tranh chấp. Điều đó chứng tỏ khái niệm trọng tài nói chung và TTLĐ nói
riêng đều có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, v ề phương diện lý
luận và thực tiễn, chỉ khi tiếp cận TTLĐ từ tất cả các góc độ thì mới có thể hiểu

1 Lưu Bình Nhưỡiig - Luận án tiến sĩ Luật học: Tài phán lao dộng iheo quy định của Pháp luật Việt Nam - Hà
N ội năm 2002. Tr.32
2 Tác giả cuốn "How Arbitration Works"
3 Theo tài liệu tập huấn trọng tài lao động của ILO năm 2002 (trong khuôn khổ Dự án VIE/97/003)


được bản chất của TTLĐ. Bước đầu, chúng ta có thể xem xét TTLĐ ở một số
góc độ sau đây:
* Dưới góc độ phương thức giải quyết tranh chấp lao động, TTLĐ được coi
là một phương thức giải quyết tranh chấp lao động mà trong đó một bên thứ ba
trung lập (trọng tài viên hoặc HĐTT) sẽ đứng ra phân xử vụ tranh chấp theo yêu

cầu của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Trên một bình diện chung,
TTLĐ được xếp vào nhóm các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn. Tuy
nhiên, trong những trường hợp cụ thể, TTLĐ lại có thể là một phương thức giải
quyết tranh chấp bắt buộc. Vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể trong phần phân
loại TTLĐ.
* Dưới góc độ hành vi, TTLĐ là hoạt động của trọng tài viên hoặc HĐTT
nhằm giải quyết vụ tranh chấp lao động khi được các bên yêu cầu hoặc phải giải
quyết vụ tranh chấp lao động theo quy định của pháp luậi quốc gia. TTLĐ là
một dạng của "tài phán lao động".
* Dưới góc độ tổ chức, TTLĐ là một trọng tài viên duy nhất hoặc một
HĐTT được thành lập, tổ chức và hoạt động đổ thực hiện chức năng giải quyết
các vụ việc về lao động, mà chủ yếu là các tranh chấp lao động theo yêu cầu của
các bcn tranh chấp hoặc theo quy định của pháp luật.
* Dưới góc độ thể chế, TTLĐ bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh việc thành lập; chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn; tổ chức bộ máy; nguyên tắc hoạt động; trình tự, thủ tục giải
quyết tranh chấp lao động... của TTLĐ. Tuỳ hình thức tổ chức là TTLĐ vụ việc
hay thường trực, TTLĐ tự nguyện hay bắt buộc mà các quốc gia có những quy
định khung hay quy định chi tiết về TTLĐ.
Qua việc tham khảo các khái niệm về trọng tài nói chung và TTLĐ nói
riêng, qua nghiên cứu pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước trên thế
giới, từ các góc độ tiếp cận trên đây, chúng tôi xin đưa ra một khái niệm bước
đầu về TTLĐ như sau:


ĨT L Đ là một phương thức giải quyết tranh chấp lao động mà theo đố một
trọng tài viên duy nhất hoặc một H Đ T Í có thẩm quyền sẽ đứng ra giải quyết các
tranh chấp lao động trên cơ sở những quy tắc nhất định theo sự thoả thuận hợp
pháp của các bên tranh chấp hoặc theo quy định của pháp luật. Phán quyết
trọng tài có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên tranh chấp.

1.1.2- Đặc điểm của trọng tài lao động
Như trên đã phân tích, TTLĐ được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, vì
vậy rất khó để đưa ra được những đặc điểm chung nhất của TTLĐ. Chúng tôi
xin đưa ra một vài đặc điểm sơ bộ về TTLĐ như sau:
* Thứ nhất, về tổ chức: TTLĐ được tổ chức gọn nhẹ và đơn giản
TTLĐ có thể là một tổ chức do Nhà nước thành lập với những lên gọi khác
nhau, như: HĐTT, u ỷ ban quốc gia về lao động, Toà án trọng tài...(sau đây gọi
chung là HĐTT). Thông thường HĐTT bao gồm đại diện Nhà nước, NLĐ và
NSDLĐ. Ngoài ra tuỳ từng quốc gia mà thành phần tham gia HĐTT có thể được
mử rộng tới những nhà luật gia, nhà quản lý...(chẳng hạn như HĐTT của Việt
Nam hiện nay). Chính thành phần tham gia này đã tạo ra tính dân chủ rất cao
trong quá trình trọng tài và tạo nên sự khác nhau căn bản trong tổ chức bộ máy
của HĐTT lao động so với HĐTT thương mại. Cơ cấu tổ chức của HĐTT lao
động là đồng nhất, bao gồm chủ tịch, thư ký và các thành viên Hội đồng. Ở một
số nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tổ chức trọng tài có thể là của tư
nhân được tổ chức và hoạt động dưới dạng các Trung tâm TTLĐ (ví dụ ở Mỹ).
Nhìn chung về tổ chức của các Trung tâm TTLĐ này cũng rất gọn nhẹ và đơn
giản.
TTLĐ cũng có thể là một trọng tài viên duy nhất hoặc một Hội đồng gồm 3
người do các bên tranh chấp lựa chọn hoặc do cơ quan Nhà nước có Ihẩm quyền
chỉ định.
Chính sự gọn nhẹ trong tổ chức sẽ là điều kiện để thực hiện sự đơn giản,
linh hoạt về Ihủ tục, sự giảm thiểu về thời gian, kinh phí cho các bên - những ưu
thế của TTLĐ so với tố tụng loà án.


* Thứ hai, về thẩm quyền: nhìn chung TTLĐ có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp lao động. Một số ít quốc gia còn quy định cho TTLĐ thẩm quyền
giải quyết đình công và giải công (như Philippin). Điều đáng nói ở đây là thông
thưòng thẩm quyền thực tế của TTLĐ phụ thuộc vào nguyện vọng của các bên

tranh chấp. Khi thiết lập quan hệ lao động hoặc khi tranh chấp lao động xảy ra,
các bên có quyền thoả thuận đưa vụ việc của họ ra trọng tài giải quyết. Thậm
chí ngay trong quá trình giải quyết vụ việc, thẩm quyền của TTLĐ có thể bị
chấm dứt bởi chính các bên tranh chấp.
Khác với trọng tài thương mại, trong một số trường hợp đặc biệt (chẳng hạn
tranh chấp gắn liền với đình công, giải công; tranh chấp xảy ra trong khu vực
kinh tế thiết yếu cho an toàn công công, cho nền kinh tế quốc dân hoặc an ninh
quốc phòng...) mà các quốc gia có quy định bắt buộc vụ tranh chấp phải đưa ra
trọng tài phân xử nếu thương lượng hoặc hoà giải không thành (đây là quy định
của hầu hết các quốc gia thuộc khối ASEAN 4). Trong những trường hợp này
thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTLĐ là đương nhicn, không phụ thuộc
vào quyết định của các bên tranh chấp. Cá biệt có quốc gia quy định thủ tục
TTLĐ là bắt buộc đối với mọi trường hợp trước khi các bên đưa vụ tranh chấp
lao động ra TAND (ví dụ: Việt Nam hiện nay quy định mọi vụ tranh chấp lao
động tập thể trước khi yêu cầu TAND giải quyết thì nhất thiết phải qua thủ tục
TTLĐ)
* Thứ ba, về thủ tục: TTLĐ là một hình thức tài phán lao động theo một thủ
tục đơn giản và linh hoạt
Khác với thương lượng, trung gian, hoà giải, tố tụng mini, TTLĐ được xếp
vào hệ thống tài phán lao động ở các quốc gia bởi quá trình TTLĐ là một quá
trình ra phán quyết về vụ tranh chấp đã thụ lý. Trong khi đó ở các phương thức
thương lượng, trung gian, hoà giải hay tố tụng mini người ta không biết đến bất
kỳ một phán quyết nào, mà kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp lao động
ở đây hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp. Tuy nhiên, cũng

4 Theo cuốn Một số tài liệu Pháp luật Lao dộng nước ngoài - Bộ LĐTBXII năm 1993


cần phải phân biệt TTLĐ với phương thức "quyết định chuyên gia". "Quyết định
chuyên gia" cũng là quá trình xem xét tài liệu, chứng cứ để ra phán quyết về vụ

tranh chấp theo sự lựa chọn của các bên tranh chấp, song "quyết định chuyên
gia" là một phương thức được sử dụng không có sự hiện diện của các bên tranh
chấp và không được tiến hành theo một Ihủ tục đặc thù của quá trình xét xử,
phán quyết do chuyên^Ẽa đưa ra khó có cơ hội để được cưỡng chế thi hành.
Ngược lại, TTLĐ là một quá trình xét xử (thẩm vấn, tranh luận, ra quyết định),
có sự hiện diện của các bên tranh chấp, phán quyết của trọng tài có tính cưỡng
chế thi hành. Cũng vì những lẽ đó mà TTLĐ được đánh giá cao hơn phương thức
"quyết định chuyên gia".
Mặc dù là một hình thức tài phán lao động, song xét về mặt thủ tục, tố tụng
TTLĐ khác với tố tụng toà án ở chỗ nó đơn giản, linh hoạt và ít mang tính lễ
nghi hơn. Đây cũng chính là một trong những điểm tạo nên sự hấp dãn của trọng
tài đối với các bên tranh chấp. Thủ tục trọng tài thường do các bên tranh chấp tự
lựa chọn cho phù hợp với tính chất và yêu cầu của từng loại tranh chấp. Trường
hợp pháp luật có quy định thủ tục cho TTLĐ bắt buộc thì đó cũng chỉ là những
quy định mang tính nguyên tắc chung, thông thoáng và gọn nhẹ. Còn cụ thể luỳ
theo diễn biến từng vụ việc mà các trọng tài viên hoặc HĐTT áp dụng một cách
rất linh hoạt.
*

Thứ tư, về phán quyết trọng tài: phán quyết của TTLĐ có giá trị chung

thẩm và có tính xã hội - pháp lý.
Theo lý thuyết trọng tài nói chung và TTLĐ nói riêng thì phán quyết của
trọng tài sẽ khép lại vụ tranh chấp giữa các bên. Các bên tranh chấp không thể
yêu cầu TAND giải quyết lại vụ tranh chấp về nội dung, mà chỉ có Ihể yêu cầu
TAND xem xét lại vấn đề thủ tục để công nhận hay huỷ bỏ quyết định trọng tài.
Khi quyết định trọng tài đã có hiệu lực hoặc không bị toà án huỷ bỏ thì buộc các
bên phải thi hành quyết định đó. Nếu các bên không tự giác thi hành thì quyết
định trọng tài sẽ được cưỡng chế thi hành bằng lệnh của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền. Điều này là hợp lý bởi về nguyên tắc chung, TTLĐ là tự nguyện.

Các bên tranh chấp đã tín nhiệm trọng tài viên hoặc HĐTT, đã cùng tự nguyện


đưa vụ tranh chấp của mình ra trước trọng tài thì lẽ đương nhiên họ phải tôn
trọng và thi hành phán quyết của trọng tài về vụ tranh chấp đó. Giá trị chung
thẩm của quyết định trọng tài vẫn được xem là hợp lý khi vụ tranh chấp phải đưa
ra TTLĐ bắt buộc theo quy định của pháp luật trong một số trường hợp đặc biệt
như chúng tôi đã đề cập ở phần trước, bởi chính tính cấp bách của những trường
hợp này5.
Cùng với giá trị chung thẩm, quyết định TTLĐ còn là sự kết hợp giữa tính
pháp lý và tính xã hội.
Tính pháp lý của quyết định trọng tài thể hiện ở chỗ để ra được quyết định
giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên, nhìn chung trọng tài viên hoặc HĐTT
phải căn cứ vào hệ thống luật thực định về nội dung cũng như thủ tục để đảm
bảo nguyên tắc "đúng luật" trong tố tụng trọng tài. Kể cả trong trường hợp phải
dựa vào "luật công bằng" để ra phán quyết thì vẫn phải bảo đảm không trái
những nguycn tắc pháp lý chung. Có như vậy phán quyết trọng tài mới đảm bảo
chính xác và mới có khả năng cưỡng hành. Bên cạnh đó, những tài liệu, chứng
cứ, những nhu cầu xã hôi của các bên tranh chấp cũng là rất quan trọng khi
trọng tài quyết định giải quyết vụ tranh chấp. Nói cách khác, "lẽ công bằng" cần
được đặc biệt tôn trọng trong phán quyết trọng tài. Chính điều này thể hiện tính
xã hội đặc trưng của phán quyết trọng tài. Cùng với nó, tính xã hội hoá trong
việc giải quyết tranh chấp lao động thông qua cơ cấu tổ chức của các HĐTT lao
động và sự tham gia của tất cả các bên có liên quan đến tranh chấp lao động
cũng góp phần tạo nên tính xã hội sâu sắc trong phán quyết trọng tài. Những
điều này làm cho phán quyết trọng tài khác hẳn với phán quyết của TAND.
Song nó có thể làm cho quyết định trọng tài khó được thực hiện triệt để trên thực
tế nếu thiếu cơ chế phối hợp giữa TTLĐ và TAND cũng như hệ thống cơ quan
thi hành án. Hầu hết trong hệ thống luật thực định của các quốc gia đều chú ý
tới cơ chế phối hợp này.


5 Ỏ uưóc ta, theo quy định của pháp luật hiện hành, phán quyết trọng tài không có giá tiị chung thẩm. (TG)


1.2- Phân loại TTLĐ
Cách phân loại trọng tài truyền thống là căn cứ vào tổ chức và hoạt động
của trọng tài để phân chia chúng thành hai loại: trọng tài vụ việc và trọng tài
thường trực. TTLĐ, ngoài những điểm chung của trọng tài, còn có những điểm
khác biệt so với trọng tài thương mại (điều này xuất phát từ đặc điểm riêng của
quan hệ lao động, tranh chấp lao động so với quan hệ thương mại, tranh chấp
thương mại). Vì thế, ngoài cách phân loại truyền thống, TTLĐ còn được phân
loại theo tính chất (hay hình thức) của nó. Tiếp cận ở cả hai cách phân loại này
chúng ta mới có thể hiểu tương đối đầy đủ về TTLĐ.
1.2.1-

Căn cứ vào tổ chức và hoạt động của TTLĐ, TTLĐ được chia

thành hai loại: TTLĐ vụ việc và TTLĐ thường trực.
* Trọng tài lao động vụ việc (Labour ad - hoc Arbitration)
TTLĐ vụ việc (hay còn gọi là TTLĐ lâm thời) là loại hình trọng tài do các
bên tranh chấp thoả thuận lập nên hoặc do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chỉ
định để giải quyết tranh chấp lao động một lần duy nhất. Theo đó một HĐTT
hoặc một trọng tài viên duy nhất sẽ được lựa chọn với nhiệm vụ duy nhất là giải
quyết vụ tranh chấp giữa các bên. Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ hoặc các bên
không cần đến hoặc chính bản thân trọng tài không đủ điều kiện hay khả năng
tiếp tục giải quyết tranh chấp thì trọng tài vụ việc sẽ chấm dứt hoạt động.
Một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với TTLĐ vụ việc là việc lựa chọn trọng
tài. Trường hợp trọng tài vụ việc được thành lập bởi sự lựa chọn của các bên
tranh chấp thì bao giờ giữa họ cũng phải có thoả thuận trọng tài. Nội dung thoả
thuận có thể bao gồm các vấn đề: đưa vụ tranh chấp ra trọng tài giải quyết, vấn

đề chỉ định trọng tài viên hoặc HĐTT, quy tắc trọng tài sẽ được lựa chọn để áp
dụng...N ếu TTLĐ vụ việc được xác lập theo quyết định của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền thì thông thường trong hệ thống luật thực định đã dự liệu trước tổ
chức trọng tài sẽ được lựa chọn phù hợp với trường hợp tranh chấp đã dự liệu
phải chỉ định trọng tài. Trong thực tế, phần lớn TTLĐ vụ việc được thành lập bởi
ý chí của các bên tranh chấp.


TTLĐ vụ việc là hình thức trọng tài xuất hiện từ rất sớm. So với TTLĐ
thường trực thì TTLĐ vụ việc xuất hiện sớm hơn và nhìn chung trong đời sống
lao động ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, đa số các phán
quyết trọng tài được đưa ra bởi TTLĐ vụ việc6.
Các ưu điểm cơ bản của TTLĐ vụ việc có thể kể đến là:
- Thứ nhất, nhìn chung TTLĐ vụ việc đảm bảo tối đa quyền tự định đoạt
của các bên tranh chấp. Họ không những có quyền quyết định có đưa vụ tranh
chấp ra trước trọng tài hay không, mà còn có quyền trực tiếp lựa chọn trọng tài
viên, lựa chọn quy tắc trọng tài... Điều này rất thuận lợi trong trường hợp tranh
chấp lao động liên quan tới nhiều lĩnh vực, nhất là liên quan đến chuyên môn,
kỹ thuật...trong nghề nghiệp, bởi các trọng tài viên sẽ được lựa chọn từ nhiều
lĩnh vực cho phù hợp và có khả năng mang lại một kết quả tốt.
- Thứ hai, TTLĐ vụ việc tiết kiệm tối đa thời gian và chi phí cho các bên
tranh chấp.
Ở TTLĐ vụ việc, thông thường chính các bên tranh chấp sẽ quyết định độ
dài thời gian tiến hành trọng tài, mức độ đơn giản hay phức tạp của thủ tục trọng
tài. Điều đó tạo cơ hội cho các bên có thể tiết kiệm được thời gian và kinh phí
một cách tối đa - điều mà bất kể bên nào cũng mong muốn.
Bên cạnh những ưu điểm lớn đó, TTLĐ vụ việc có một số hạn chế sau đây:
- Thứ nhất, ngoại trừ trường hợp do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chỉ
định, việc thành lập trọng tài vụ việc không hề đơn giản bởi sự không thống nhất
được ý chí hoặc không có sự thoả hiệp của hai bên tranh chấp, nhất là trong

trường hợp chỉ là một trọng tài viên duy nhất. Thêm vào đó, có thể quá trình
trọng tài sẽ bị phá vỡ bởi chính các bên tranh chấp, từ đó làm cho quá trình giải
quyết tranh chấp bị kéo dài, nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp.
- Thứ hai, vai trò của TTLĐ vụ việc chỉ là tạm thời, quá trình trọng tài
thường không lâu. Vì thế các trọng tài viên ít có cơ hội đi sâu tìm hiểu và suy

6 Theo cuốn Arbitration tribunals - International Labour Office


nghĩ thật kỹ về vụ tranh chấp, từ đó ít nhiều ảnh hưởng tới chất lượng của phán
quyết trọng tài. Cũng từ tính chất lâm thời mà sau khi ra phán quyết, TTLĐ vụ
việc sẽ giải tán và hết trách nhiệm. Điều này đôi khi ảnh hưởng không tốt tới
việc thi hành phán quyết của trọng tài sau đó. Phán quyết của trọng tài trong
trường hợp này thường sẽ không được sử dụng là tiền lệ cho những lần xử sau
của TTLĐ.
* Trọng tài lao động thường trực (Labour permanent Arbitration)
TTLĐ thường trực (hay còn gọi là TTLĐ quy chế) là loại hình trọng tài có
kết cấu, tổ chức bộ máy rõ ràng, có điều lệ hoạt động, có danh sách trọng tài
viên và có bộ phận thường trực.
TTLĐ thường trực thường được tổ chức dưới dạng trung tâm trọng tài hoặc
cơ quan trọng tài hoạt động theo nhiệm kỳ hoặc không. Đây là mô hình tổ chức
của TTLĐ thường trực ở tất cả các quốc gia khu vực Đông Nam á và nhiều nước
khác trcn thế giới. Tuy nhiên, ở một số quốc gia có nền kinh tế thị trường nói
chung và trọng tài nói riêng phát triển ở mức độ cao, những trọng tài viên được
khách hàng lựa chọn làm việc thường xuycn theo hợp đổng ký giữa trọng tài và
khách hàng (thường khách hàng là những công ty lớn) cũng được gọi là TTLĐ
thường trực (Mỹ là một ví dụ điển hình). Trong trường hợp này, quyền hạn,
quyền lợi và trách nhiệm của trọng tài được xác định theo hợp đồng đã ký kết.
Trọng tài thường trực theo kiểu này làm việc theo chế độ bán thời gian, sẩn sàng
đi làm bất kỳ lúc nào khi khách hàng yêu cầu. Nhìn chung ở đâu sử dụng hình

thức trọng tài thường trực này thì đó là dấu hiệu chứng tỏ ở đó quan hệ lao động
đã đạt đến một trình độ khá cao7.
TTLĐ Việt Nam hiện nay được xếp vào loại hình TTLĐ thường trực với tên
gọi chung là HĐTT lao động cấp tỉnh, hoạt động trong nhiệm kỳ 3 năm kể từ
ngày ký quyết định thành lập.
TTLĐ thường trực có một số ưu điểm lớn sau đây:

7 Theo cuốn How Arbitration VVorks của Frank Elkouri & Edna Asper Elkouii


- Thứ nhất, việc xác định trọng tài và quy tắc trọng tài thường đưn giản và
nhanh chóng hơn trọng tài vụ việc. Điều này có thể tránh tình trạng kéo dài việc
giải quyết tranh chấp lao động ngoài sự mong muốn của các bên có liên quan.
- Thứ hai, là loại hình trọng tài hoạt động thường xuyên và thẩm quyền giải
quyết tranh chấp lao động có thể đã được xác định từ trước nên trọng tài thường
trực một mặt có điều kiện tìm hiểu kỹ vụ việc, thông hiểu các vấn đề có liên
quan đến vụ tranh chấp, mặt khác phán quyết của trọng tài trong nhiều trường
hợp có thể được sử dụng là tiền lệ cho các phiên trọng tài khác. Đây là một lợi
thế rất lớn của TTLĐ thường trực, đặc biệt đối với các nước áp dụng nguyên tắc
"tiền lệ án" trong việc giải quyết tranh chấp lao động.
- Thứ ba, vai trò của trọng tài thường trực không chấm dứt sau khi đã ra
phán quyết về vụ tranh chấp. Vì vậy trọng tài thường trực có thể đóng vai trò
giám sát và đảm bảo cho việc thi hành phán quyết, đôi khi còn giải quyết những
vấn đề phát sinh sau quá trình giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên
hoặc quy định của pháp luật.
Mặc dù có nhiều ưu điểm như vậy, nhưng TTLĐ thường trực cũng có một
số nhược điểm sau:
- Thứ nhất, vì thẩm quyền, quy tắc trọng tài đã được ấn định từ trước nên so
với TTLĐ vụ việc, có thể TTLĐ thường trực sẽ làm hạn chế hơn quyền tự định
đoạt của các chủ thể tranh chấp.

- Thứ hai, thủ tục của TTLĐ thường trực nhìn chung kém linh hoạt hơn so
với TTLĐ vụ việc. Đây cũng là điểm để các bên tranh chấp lựa chọn trọng tài
cho phù hợp với nhu cầu của mình.
1.2.2-

Căn cứ vào tính chất, TTLĐ được chia thành hai loại: TTLĐ tự

nguyện và TTLĐ bắt buộc
* Trọng tài lao động tự nguyện:
TTLĐ tự nguyện là một hình thức giải quyết tranh chấp lao động do các
bên tranh chấp thoả thuận lựa chọn. Chỉ khi nào các bên tranh chấp cùng nhất trí


đưa vụ tranh chấp lao động của họ ra trước trọng tài thì trên thực tế mới tồn tại
thủ tục trọng tài cho vụ tranh chấp đó. Đây là hình thức TTLĐ phổ biến đang
được sử dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
TTLĐ tự nguyên được ưa chuộng vì nó thực sự tạo cho các bên tranh chấp
thế chủ động hầu như là tuyệt đối. Người tiến hành trọng tài, địa điểm, thời gian,
quy tắc trọng tài...đều thuộc quyền kiểm soát triệt để của các đương sự. Từ đó
tạo cơ hội cho chính các đương sự có thể đạt được lợi ích tối đa từ quá trình giải
quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài.
Trong cơ chế TTLĐ tự nguyện bao giờ cũng tồn tại giữa các bên thoả thuận
(hay hiệp nghị) trọng tài. Thoả thuận trọng tài thường được thể hiện trong một
hoặc một số điều khoản của thoả ước lao động tập thể, hợp đồng lao
động...Đ iều khoản trọng tài có một vị trí hoàn toàn độc lập so với các điều
khoản khác trong HĐLĐ hoặc thoả ước tập thể giữa NLĐ (hoặc tập Ihể lao
động) và NSDLĐ. Bản thân HĐLĐ hoặc thoả ước tập thể giữa hai bên có thể vô
hiệu, nhưng điều khoản trọng tài vẫn hoàn toàn có giá trị nếu nó đáp ứng đầy đủ
các điều kiên luât đinh (nếu khổng thuộc trường hợp thoả thuân trong tài vô
hiệu). Chính vì vậy, một vấn đề quan trọng cần phải xem xét kỹ lưỡng ử cơ chế

trọng tài này là tính hợp pháp của thoả thuận trọng tài. Pháp luật của mỗi quốc
gia có thể quy định khác nhau, nhưng tựu trung lại, thoả thuận trọng tài phải bảo
đảm rõ ràng về người trọng tài, địa điểm, quy tắc trọng tài...Các bên có thể lựa
chọn bất kỳ ai (không vi phạm điều cấm của pháp luật) làm trọng tài cho vụ
tranh chấp, các bên cũng có thể chọn từ danh sách trọng tài viên do các trung
tâm TTLĐ cung cấp, thậm chí các bên có thể thống nhất chỉ định một trung tâm
TTLĐ (TTLĐ thường trực) nào đó đứng ra giải quyết tranh chấp cho mình. Quy
tắc trọng tài do các bên tự sáng tạo phù hợp với quy định của pháp luật hoặc lựa
chọn một hệ thống quy tắc phù hợp của bất kỳ một trung tâm trọng tài có uy tín
nào...Ở quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh như Mỹ, các công


ty lớn thường ký hợp đồng làm việc thường xuyên với các trung tâm TTLĐ8.
Đây có lẽ là biểu hiện đỉnh cao của TTLĐ tự nguyện.
Đối với cơ chế TTLĐ tự nguyện, hầu như pháp luật của các quốc gia chỉ
kiểm soát chặt chẽ hai vấn đề. Đó là: thoả thuận trọng tài giữa các bên tranh
chấp và việc thi hành phán quyết của trọng tài. Còn lại hoàn toàn do các bên
tranh chấp tự định đoạt. Vì thế về nguyên tắc, các bên phải tôn trọng và thi hành
phán quyết của trọng tài một cách "vô điều kiện". Khi các bên nhất trí đưa vụ
việc ra trọng tài thì cũng có nghĩa họ mất quyền khởi kiện vụ việc ra toà án.
Trong trường hợp này toà án buộc phải từ chối thụ lý vụ việc nếu giữa các bên
vẫn đang tồn tại một thoả thuận trọng tài hợp pháp. Toà án chỉ có thể chấp nhận
yêu cầu xét lại quyết định của trọng tài vổ mặt thủ tục theo yêu cầu của các bên,
hỗ trợ trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc tạo cơ chế cưỡng
chế thi hành phán quyết của trọng tài.
ở Việt Nam, cơ chế TTLĐ tự nguyện đã từng được quy định trong Nghị
định 233/HĐBT ngày 22/6/1990 về ban hành Quy chế lao động đối với các xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sau này cơ chế này đã bị xoá bỏ và hiện tại
trong pháp luật lao động hiện hành của Việl Nam không còn quy định về TTLĐ
tự nguyện.

* Trọng tài lao động bắt buộc:
Điểm khác biệt lớn giữa hệ thống TTLĐ và Irọng tài thương mại là bên
cạnh TTLĐ tự nguyên, ở nhiều quốc gia còn tồn tại hình thức TTLĐ bắt buộc.
Các quốc gia thuộc khối các nước ASEAN có xu hướng sử dụng TTLĐ bắt buộc
nhiều hơn các quốc gia thuộc các khu vực khác. Ở những quốc gia này TTLĐ
bắt buộc thường được sử dụng trong các trường hợp đặc biệt, như: tranh chấp lao
động gắn liền với đình công của NLĐ hoặc giải công của NSDLĐ, tranh chấp

8 Theo cuốn How Arbỉtation Works - Frank Elkouii & Eđna Asper Elkouri và cuốn Labour dispute resolution
(An introductory guidc) - Robcrt Ileron and Caroline Vandenabeele - IiỊiiitnaúonal Iaboui' OÍÌIce.

THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÙẦĨ HẢ NỘI
PHỎNG ĐỌ C


gây ảnh hưởng xấu tới lợi ích quốc gia (Philippin), trong trường hợp khẩn cấp
(Malaixia) hay tranh chấp ở xí nghiệp công cộng (Thái lan)9...
TTLĐ bắt buộc bao gồm hai loại:
- Thứ nhất, TTLĐ bắt buộc triệt để (tuyệt đối)
Ở hình thức TTLĐ bắt buộc triệt để (tuyệt đối), việc đưa vụ tranh chấp ra
TTLĐ giải quyết là bắt buộc theo sự chỉ định của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền hoặc theo quy định của pháp luật. Vì vậy thẩm quyền giải quyết tranh
chấp lao động của trọng tài trong trường hợp này là đương nhiên, không phụ
thuộc vào ý chí của bất kỳ bên tranh chấp nào. Các vấn đề khác có liên quan,
như: địa điểm, thời gian, quy tắc trọng tài... đều mang tính bắt buộc.
Đã từ lâu, nhiều quốc gia trong khối ASEAN như Indonexia, Malaxia, Thái
Lan, Philippin, Singapore đều sử dụng hình thức trọng tài này10. Ở Việt Nam,
dưới chế độ Việt Nam Cộng hoà, cơ chế TTLĐ bắt buộc chỉ định cũng đã được
sử dụng để giải quyết các tranh chấp lao động tập thể sau khi hoà giải không

thành11. Hiện nay chúng ta không sử dụng hình thức này vào việc giải quyết
tranh chấp lao động.
- Thứ hai, TTLĐ bắt buộc hạn chế.
Ở hình thức TTLĐ bắt buộc hạn chế, việc có đưa vụ tranh chấp lao động ra
trước trọng tài hay không là do chính các bên tranh chấp quyết định, các bên
không bắt buộc phải yêu cầu trọng tài giải quyết nếu không muốn. Như vậy,
thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động thực tế của TTLĐ chỉ phát sinh khi
có yêu cầu của các đương sự. Song điều quan trọng ở đây là thủ tục TTLĐ là bắt
buộc trước khi các bên yêu cầu giải quyết vụ tranh chấp giữa họ bằng mộl thủ
tục khác (như toà án chẳng hạn)12. Chính vì thế, nhiều khi dù không muốn, các
bên vẫn (phải) yêu cầu trọng tài giải quyết để đảm bảo tính hợp pháp về thủ tục

9 Theo cuốn Một số tài liệu Pháp luật lao động nước ngoài của Bộ LĐTBXH năm 1993
11Theo Bộ luật lao động Việt Nam Cộng hoà
12Nhiều người gọi hình thức này là trọng tài lao động bắt buộc về thủ tục (TG)


và trong những trường hợp như vậy thường họ chỉ coi việc trọng tài có tính hình
thức, là một bước đệm để đạt được mục đích thực sự là đưa vụ tranh chấp ra giải
quyết bằng một thủ tục khác mà theo họ sẽ có hiệu quả hơn. Điều này quả là
nguy hiểm cho trọng tài và cho chính các bên tranh chấp.
Cần phân biệt hình thức TTLĐ bắt buộc hạn chế với TTLĐ tự nguyên.
Thoạt nhìn người ta có thể nhầm lẫn vì ở cả hai hình thức trọng tài này, việc có
đưa vụ tranh chấp lao động ra trước trọng tài hay không là do các bên tranh chấp
tự quyết định. Song về thực chất chúng lại hoàn toàn khác nhau, ở TTLĐ tự
nguyện, thẩm quyền của trọng tài chỉ được xác lập khi cả hai bên tranh chấp
cùng nhất trí đưa vụ tranh chấp của họ ra giải quyết bởi trọng tài, đồng thời
những vấn đề có liên quan như địa điểm, thời gian, quy tắc trọng tài...đều do
các bên tự quyết định. Ngược lại, với cơ chế TTLĐ bắt buộc hạn chế, chỉ cần
một bên tranh chấp yêu cầu trọng tài giải quyết là thẩm quyền của TTLĐ đã

được xác lập, bên kia dù muốn hay không cũng phải chấp nhận quá trình trọng
tài này. Việc có thể đưa vụ tranh chấp ra cơ quan hoặc người trọng tài nào cũng
đã có đia chỉ theo quy đinh của pháp luât. Các bên tranh chấp cũng không có
quyền lựa chọn địa điểm, thời gian, quy tắc trọng tài...
TTLĐ Việt Nam hiện nay là một ví dụ điển hình cho loại TTLĐ bắt buộc này.
1.3- Vai trò của trọng tài lao động với tư cách là một phương thức giải
quyết tranh chấp lao động trong nền kinh tế thị trường
Nhiều người đã từng nhất trí rằng, trọng tài là một phương thức giải quyết
tranh chấp được ưa chuộng và có lợi thế hơn so với phương thức xét xử tại toà
án. Những lợi thế căn bản của trọng tài có thể kể tới là: tính hiệu quả và nhanh
chóng; tiết kiệm; sự kín đáo và bí mật; có khả năng cưỡng chế thi hành và được
thực hiện theo pháp luật và theo quyền của các bên. Còn khi bàn về vai trò của
TTLĐ, người ta cần xem xét ở một diện rộng hơn. TTLĐ, với tư cách là một
phương thức giải quyết tranh chấp lao động, có tác dụng tích cực tới mọi mặt
của đời sống kinh tế- xã hội. Trong phần này chúng tôi chỉ xin đề cập tới những
vai trò cơ bản nhất của TTLĐ.


* Thứ nhất, TTLĐ đảm bảo triệt đ ể quyền tự định đoạí của các bên tranh
chấp, giúp các bên tự quyết định các vấn đề mội cách tối đa vì quyền lợi của họ.
Nói tới trọng tài và TTLĐ người ta thường hình dung ngay tới một cơ chế
giải quyết tranh chấp tự nguyện. Mọi vấn đề, từ việc lựa chọn trọng tài viên có
đủ tài, đức, cho tới việc lựa chọn địa điểm, thời gian, quy tắc trọng tài...đều
thuộc quyền tối cao của chính các bên tranh chấp. Ngay cả trong trường hợp các
quốc gia áp dụng cơ chế TTLĐ bắt buộc thì với thủ tục nhanh gọn, linh hoạt, ít
tính lễ nghi, bầu không khí làm việc dân chủ, thân m ật..., TTLĐ bao giờ cũng
thể hiện là một quá trình giúp các bên tự quyết định các vấn đề vướng mắc vì
chính quyền lợi của họ. Chỉ chừng nào khả năng tự giải quyếl của các bên thực
sự không còn trên thực tế thì việc phân định "thắng", "thua" bằng một quyết
định trọng tài mới được ihực hiện. Tất cả những vấn đề này trong tố lụng toà án

rất khó hoặc không thể đạt được.
Chính vì tác dụng này mà trọng tài đã tạo nên một sự hấp dẫn lớn đối với
các bcn tranh chấp.
* Thứ hai, T IL Đ khôi phục, bảo vệ quyền lợi cho các bên Iranh chấp, giúp
các bên tháo gỡ, gạt bỏ mâu thuẫn và hàn gắn quan hệ lao động.
Mục đích trước hết của các bên khi tham gia tranh chấp và yêu cầu giải
quyếl tranh chấp lao động là bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, sau đó là
giải toả mâu thuẩn và hàn gắn lại quan hệ giữa hai bên. Với cơ chế bảo đảm tối
đa quyền tự định đoạt của các đương sự, với năng lực chuyên môn cao, sự vô tư,
trong sáng...của các trọng tài viên, TTLĐ dễ dàng giúp các bên tranh chấp đạt
được những mục đích của họ.
Đặc biệt với nguyên tắc kết hợp giữa "luật thực định" và "luật công bằng",
TTLĐ không chỉ khôi phục lại quyền lợi hợp pháp cho bên bị vi phạm, mà còn
có thể đáp ứng cả những yêu sách chính đáng (tranh chấp về lợi ích) của các bên
trong phạm vi thẩm quyền của mình. Có thể nói cơ chế này bảo vệ quyền lợi cho
các bên một cách hợp lý, công bằng và triệt để nhất.


×