Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Những khía cạnh pháp lý về đảm bảo tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.94 MB, 90 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
______ ___ _____________ _

NGÔ THỊ MINH THẢO

NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ VÊ BẢO ĐẢM TlỂN VAY
BẰNG TÀI SẢN HÌNH THÀNH TỪ VỐN VAY

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC s ĩ LUẬT HỌC








Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN AM HIỂU
~ T H Ư VI EM
ĨRƯONG ĐAI HỌC LUÂĨ HẢ NỘI
PHỎNG GV

HÀ NỘI - 2004



. .ro .c


1

Mưc L ư c
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1: NHŨNG VÂN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ BẢO ĐẢM TIEN v a y

3
ba n g tà i

SẢN HÌNH THÀNH TỪ VỐN VAY

1.1. Khái quát chung về bảo đảm tiền vay

11

1.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay

13

1.3. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo đảm tiền
vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay

29

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỂ BẢO ĐẢM TlỂN v a y b a n g t à i


SẢN HÌNH THÀNH TỪ VỐN VAY

2.1. Thực trạng pháp luật về giao dịch bảo đảm

32

2.2. Thực trạng pháp luật về nhận tài sản hình thành từ vốn vay để
bảo đảm tiền vay

34

2.3. Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và quá trình
tài sản hình thành

45

2.4. Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản hình thành từ vốn vay

52

2.5. Đăng ký giao dịch bảo đảm đối vớitàisản hình thành từ vốn vay 56
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỂ BẢO ĐẢM TlỂN
VAY BẰNG TÀI SẢN HÌNH THÀNH TỪ VỐN VAY

3.1. Cơ sở hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản
hình thành từ vốn vay
3.2. Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản

62



2

hình thành từ vốn vay

64

3.3. Hoàn thiện các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm
đối với tài sản hình thành từ vốn vay

74

3.4. Hoàn thiện các quy định khác liên quan đến bảo đảm tiền
vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay

76

KẾT LUẬN

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83


3

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Hoạt động của các tổ chức tín dụng với vai trò là một kênh huy động và
cung cấp vốn cho nền kinh tế đã và đang ngày càng khẳng định vị trí của mình
trong nền kinh tế nước ta. Là lĩnh vực kinh doanh khá đặc biệt và nhạy cảm kinh doanh tiền tệ - hoạt động của các tổ chức tín dụng có tác động đến hầu hết
các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Hoạt động kinh doanh lành mạnh của
các tổ chức tín dụng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế
xã hội của mỗi quốc gia.
Yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế ở
nước ta hiện nay đang đặt ra vấn đề phải tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật
đồng bộ, thống nhất nhằm tạo dựng một môi trường pháp lý ổn định cho hoạt
động của các tổ chức tín dụng. Báo cáo về chiến lược phát triển kinh tế, xã hội
2001-2010 tại Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định phải “Hình thành môi
trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng”,
theo đó nhiệm vụ phải thực hiện trước mắt là “Hình thành đồng bộ khuôn khổ
pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn
trong kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. Giải quyết nợ tồn đọng đi đôi với tăng
cường chế định pháp lý, kinh tế và hành chính về nghĩa vụ trả nợ của người đi
vay và bảo vệ quyền thu hồi nợ hợp pháp của người cho vay” [1, tr. 197].
“Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay” là một thuật ngữ
mới được sử dụng trong các văn bản pháp luật vài năm gần đây. Theo đó, loại tài
sản được dùng để bảo đảm tiền vay Là tài sản hình thành chính từ vốn vay của


4

các tổ chức tín dụng mà tại thời điểm giao dịch bảo đảm được xác lập tài sản đó
chưa hiện hữu hoặc đã hiện hữu nhưng chưa là một tài sản hoàn chỉnh với đúng
tên gọi, tính năng, công dụng của nó.
Theo quy định tại Điều 326 Bộ luật dân sự Việt Nam 1995 thì tài sản bảo

đảm phải hiện đang tồn tại và đối với tài sản cầm cố, thế chấp phải là tài sẩn
thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ (Điều 329, 346). Như vậy, tài sản hình thành
trong tương lai sẽ không được dùng làm tài sản bảo đảm, cũng như không được
cầm cố, thế chấp để vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Quy định này đã phần nào
hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của khách hàng vay.
Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 về giao dịch bảo đảm đã
quy định mở rộng loại tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là tài sản hình
thành trong tương lai bao gồm: động sản, bất động sản hình thành sau thời điểm
ký kết giao dịch bảo đảm và sẽ thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm như hoa
lợi, lợi tức, tài sản hình thành từ vốn vay, công trình đang xây dựng, các tài sản
khác mà bên bảo đảm có quyền nhận (khoản 7 Điều 2). Tại Nghị định số
178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng
đã dành Chương in quy định cụ thể về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành
từ vốn vay.
Có quan điểm cho rằng các quy định tại Nghị định nêu trên không phù
hợp với quy định tại Bộ Luật dân sự, nhưng trên thực tế nó đáp ứng được yêu
cầu vay vốn của khách hàng vay. Đến nay chưa có sự tổng kết đánh giá chính
thức về hiệu quả của việc cho phép nhận tài sản hình thành từ vốn vay để bảo
đảm tiền vay. Nhưng thực tế ở một số ngân hàng thương mại cho thấy các khoản
vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay được các tổ chức tín dụng


5

quan tâm và áp dụng với chiều hướng ngày càng tăng, tài sản hình thành từ vốn
vay được nhận làm bảo đảm tiền vay đa số là các dự án đầu tư xây dựng các
công trình cơ sở hạ tầng, các công trình xây dựng gắn liền với đất, các dây
truyền sản xuất... có sử dụng vốn vay trung và dài hạn. Tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Kỹ Thương hầu hết các khoản vay để đầu tư tài sản mới, tài sản bảo
đảm tiền vay đều là tài sản hình thành từ vốn vay [25, tr.45]. Có ngân hàng

thương mại nhận tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay với tỷ lệ
14% trên tổng món vay, trong đó khoảng 70% dự án đầu tư lớn, có sử dụng vốn
vay trung và dài hạn thường dùng chính tài sản hình thành từ vốn vay làm tài sản
bảo đảm.
Theo quy định pháp luật hiện hành, bảo đảm tiền vay không còn là điều
*

kiên bắt buộc đối với mọi khách hàng vay. Tuy nhiên, trong điều kiện của nước
ta hiện nay, do nhu cầu sử dụng vốn vay rất lớn, trong khi trình độ quản lý và
khả năng đánh giá, thẩm định dự án đầu tư của các tổ chức tín dụng còn nhiều
hạn chế, các tổ chức tín dụng thường yêu cầu khoản vay phải có tài sản bảo đảm
nhằm phòng ngừa và hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Với việc mở rộng loại
tài sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai, tài sản hình thành từ vốn
vay đã tạo điều kiện cho khách hàng vay có khả năng tiếp cận được với nguồn
vốn tín dụng mà vẫn đảm bảo an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay góp phần làm thay đổi hoạt
động của các tổ chức tín dụng theo cơ chế thị trường.
Như vậy, các quy định tưởng như mâu thuẫn này đã góp phần tháo gỡ
những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của khách hàng vay.
Điều này đặt ra yêu cầu tiếp tục hoàn thiện tính đồng bộ, thống nhất và phù hợp
giữa các quy định của pháp luật, tạo môi trường pháp lý đầy đủ, hoàn thiện cho


6

hoạt động của các tổ chức tín dụng. Do đó, tôi đã chọn đề tài “Những khía
cạnh pháp lý về

bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay”


làm luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu

Liên quan đến bảo đảm tiền vay đến nay đã có một số công trình nghiên
cứu, báo cáo khoa học và một số bài báo tìm hiểu về biện pháp bảo đảm tiền vay
như: luận án tiến sĩ kinh tế “Những giải pháp đảm bảo cho vay của ngân hàng
thương mại ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Như Minh; các luận văn thạc sĩ
luật học “Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đổng tín dụng ngân hàng” của
tác giả Trương Thị Kim Dung; “Các biện pháp đảm bảo họp đồng kinh tế” của
tác giả Lê Quốc Hiền; “Chế định hợp đồng vay tài sản trong Bộ Luật dân sự
Việt Nam” của tác giả Trần Công Đoàn; “Bảo đảm tiền vay ngân hàng - thực
trạng và giải pháp” của tác giả Lê Thu Hiền. Tuy nhiên, các luận án mới chỉ tập
trung nghiên cứu các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản và tài sản để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ là tài sản đã hiện hữu.
Các công trình nghiên cứu và luận án đều chưa đề cập đến loại tài sản
hình thành trong tương lai hay tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trả nợ. Đây là loại tài sản bảo đảm mới xuất phát từ nhu cầu sử
dụng vốn tín dụng và đòi hỏi thực tiễn của các quan hệ bảo đảm tiền vay. Do đó,
các quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay
còn thiếu tính đồng bộ và thống nhất trong cách hiểu và áp dụng, gây lúng túng
cho các tổ chức tín dụng khi thực hiện.
Với nội dung nghiên cứu của đề tài về “Những khía cạnh pháp lý về bảo
đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay”, mong muốn góp phần phân


7

tích và chứng minh việc mở rộng loại tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm
tiền vay là có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn, có thể mở rộng, phát triển việc áp
dụng loại tài sản bảo đảm này trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín

dụng.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của Luận văn.

Luận văn

nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận về bảo đảm

nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai nói chung và bảo đảm tiền vay
bằng tài sản hình thành từ vốn vay nói riêng. Đồng thời xem xét, đánh giá thực
trạng pháp luật về vấn đề này nhằm làm sáng tỏ những yêu cầu khách quan của
việc bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
tài sản hình thành từ vốn vay trong giai đoạn hiện nay.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, Luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm tiền vay, bảo đảm tiến vay
bằng tài sản hình thành từ vốn vay; Nghiẽn cứu quan hệ giữa bảo đảm tiền vay
bằng tài sản hình thành từ vốn vay và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng
tài sản hình thành trong tương lai.
- Nghiên cứu bản chất, đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình
thành từ vốn vay và các yếu tố ảnh hưởng tới bản chất, đặc điểm đó để làm rõ
vai trò của bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay và những yêu
cầu khách quan của việc cho phép nhận loại tài sản này bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ trả nợ trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình
thành từ vốn vay trong hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm nói chung, pháp


luật về bảo đảm tiền vay nói riêng và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
-


Kiến nghị hướng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng

tài sản nói chung và bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài
sản hình thành từ vốn vay, mối quan hệ của các qui định pháp luật này trong
tổng thể hệ thống pháp luật về bảo đảm tiền vay và sự tác động của hệ thống
pháp luật đối với thực tiễn bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay
của các tổ chức tín dụng.
Luận văn không đi sâu tìm hiểu tất cả các vấn đề về bảo đảm tiền vay mà
tập trung nghiên cứu khía cạnh pháp lý, cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung
pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Trên cơ sở
đó, Luận văn đề xuất những khuyến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật về bảo
đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay trong hoạt động của các tổ chức
tín dụng.
5. Phương pháp nghiên cứu.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, là cơ sở phương pháp
luận để nghiên cứu và thực hiện đề tài này.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong nghiên cứu gồm: phương
pháp logíc, thống kê; phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm làm sáng
tỏ những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện đề tài.


9

6. Đóng góp khoa học của đề tài.

Với việc nghiên cứu đề tài “Những khía cạnh pháp lý về bảo đảm tiền vay

bằng tài sản hình thành từ vốn vay”, Luận văn dự kiến đóng góp một số nội
dung sau:
- Nghiên cứu, so sánh giữa bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ
vốn vay và bảo đảm thực hiên nghĩa vụ dân sự bằng tài sản hình thành trong
tương lai để làm rõ bản chất pháp lý của bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình
thành từ vốn vay.
- Nghiên cứu bản chất, đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình
thành từ vốn vay để chứng minh rằng việc nhận tài sản hình thành từ vốn vay để
bảo đảm tiền vay là có cơ sở và thực sự cần thiết, nhằm tạo điều kiện cho khách
hàng có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn tín dụng, đáp ứng yêu cầu về vốn cho đầu
tư và phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài
sản hình thành từ vốn vay và thực trạng áp dụng các quy định pháp luật này
trong hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay tại các
tổ chức tín dụng.
- Kiến nghị hướng sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật hiên hành
về cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
7. Bô cục của Luận văn.

Với đề tài “Những khía cạnh pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản
hình thành từ vốn vay”, bố cục của Luận văn được chia làm 3 phần chính:


10

- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo đảm tiền vay bằng tài
sản hình thành từ vốn vay.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình
thành từ vốn vay.
- Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng

tài sản hình thành từ vốn vay.

Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã tìm đọc và nghiên cứu một khối lượng
lớn các tài liệu và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Do điều kiện hạn
chế về thời gian, Luận văn khó tránh khỏi một số hạn chế, khiếm khuyết, rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo, bạn bè và
đồng nghiệp để Luận văn này được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin đặc biệt cảm ơn sự giúp đỡ của Tiến sĩ Nguyễn Am Hiểu; cảm ơn các
thầy giáo, cô giáo đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu trong quá trình
học tập tại Trường Đại học Luật Hà Nội; cám ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã
cung cấp nhiều thông tin, tài liệu liên quan để giúp tôi hoàn thành Luận văn
này./.


11

CHƯƠNG 1
NHỮNG VÂN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ BẢO ĐẢM TlỂN VAY
BẰNG TÀI SẢN HÌNH THÀNH TỪ VỐN VAY
1.1. Khái quát chung về bảo đảm tiền vay

Trong nền kinh tế thị trường, các nguồn vốn cung cấp cho đầu tư phát
triển khá đa dạng và phong phú. Một trong những nguồn vốn truyền thống và
giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế đó là nguồn vốn tín dụng từ các tổ chức
tín dụng. Hoạt động đặc trưng của các tổ chức tín dụng là hoạt động tín dụng
(hay hoạt động cấp tín dụng) được thực hiện dưới hình thức cho vay. Theo nghĩa
ban đầu thì “tín dụng” bắt nguồn từ thuật ngữ La tinh “Creditum” là sự tin
tưởng, tín nhiệm lẫn nhau và hoạt động tín dụng được biểu hiện dưới hình thức
quan hệ vay mượn tiền tệ trên cơ sở tín nhiệm có hoàn trả. v ề sau, do tính chất
đặc biệt và nhạy cảm của lĩnh vực này - kinh doanh tiền tệ trên cơ sở đi vay để

cho vay, hoạt động tín dụng không thể chỉ dựa trên sự tín nhiệm và tin tưởng lẫn
nhau. Để bảo đảm thu hồi được khoản tiền đã cho vay, tổ chức tín dụng thường
yêu cầu khách hàng vay phải có sự bảo đảm cho khoản vốn vay.
Quan hệ cho vay được thực hiện trên cơ sở thoả thuận giữa tổ chức tín
dụng và bên vay dưới hình thức hợp đồng tín dụng, do đó, bản chất của quan hệ
cho vay là quan hộ hợp đồng. Các cam kết về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ
cũng được thực hiện trên cơ sở thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và bên bảo đảm
thông qua các biện pháp bảo đảm như: cầm cố, thế chấp bằng tài sản của bên
vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, mà trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng được gọi là các biện pháp bảo đảm tiền vay. Như vậy, quan hệ bảo


12

đảm tiền vay cũng là quan hộ hợp đổng, các cam kết về bảo đảm tiền vay có thể
được thể hiện trong hợp đồng tín dụng hoặc trong hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Theo Từ điển tài chính ngân hàng của Viện tiền tệ tín dụng, Nhà xuất bản
Ngoại văn năm 1991 thì “Bảo đảm tín dụng là việc ngân hàng có thể nhận thế
chấp một bất động sản, hay đòi hỏi phải đem thế đồ làm tin một loại dụng cụ
nào đó, hay một chứng thư. Ngân hàng có thể chấp nhận sự bảo lãnh của người
thứ ba” [49, tr.209]. Theo Từ điển thuật ngữ tài chính tín dụng của Viện khoa
học tài chính, Bộ Tài chính, Nhà xuất bản Tài chính năm 1996 thì “Bảo đảm tín
dụng (Credit Warrant) là cơ sở mà dựa vào đó người cho vay có thể thu hồi được
số tiền đã cho vay trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ” [50,
tr.25].
Bảo đảm tiền vay là một thuật ngữ mới, lần đầu tiên được quy định tại
Điều 52 Luật các tổ chức túi dụng 1997 và tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số
178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các
tổ chức tín dụng (viết tắt là Nghị định số 178 ngày 29/12/1999) bảo đảm tiền
vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo

cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được khoản nợ đã cho khách hàng vay.
Bảo đảm tiền vay được coi là biện pháp có tính phòng ngừa nhằm ngăn
chặn và hạn chế những rủi ro ở mức thấp nhất có thể xảy ra cho tổ chức túi dụng
trong hoạt động túi dụng, tạo cơ sở kinh tế và khả năng thu hồi nợ cho các tổ
chức tín dụng trước các khoản vay không có bảo đảm khác. Bảo đảm tiền vay
được thể hiện bằng các cam kết, thỏa thuận trong hợp đồng giữa tổ chức tín
dụng và khách hàng vay, bên bảo lãnh về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Bảo đảm tiền vay là cơ sở pháp lý ràng


13

buộc nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ tín dụng, là cơ sở góp phần ổn định
các giao dịch kinh tế, dân sự cũng như góp phần ổn định hoạt động của hệ thống
tín dụng ngân hàng.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng
thỏa thuận với bên bảo đảm về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản
nhằm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản
của khách hàng vay, của bên bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho
tổ chức tín dụng. Trong trường hợp bên vay không thực hiện được nghĩa vụ trả
nợ và bên bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ bảo lãnh theo như cam kết
với tổ chức tín dụng thì tài sản bảo đảm tiền vay sẽ được xử lý để thu hồi nợ, khi
đó tổ chức tín dụng sẽ có vị trí được un tiên thanh toán thu hồi nợ trước các chủ
nợ không có bảo đảm khác.
1.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay

1.2.1. Khái niệm tài sản hình thành từ vốn vay
Tài sản, theo nghĩa thông thường, là một vật được con người sử dụng, một
vật cụ thể, có thể nhận biết được bằng giác quan hoặc qua tiếp xúc. Dưới góc độ
pháp lý, tài sản là của cải được con người sử dụng. Của cải hay vật chỉ có thể là

tài sản nếu chúng có thể được sở hữu, tức là nó phải thuộc riêng về một ngưòi
nào đó, một chủ thể nào đó của quan hệ pháp luật dân sự [5, tr.5].
Theo quy định tại Điều 84 Bộ Luật dân sự Nhật Bản thì chỉ có đồ vật mới
được coi là tài sản (Điều 84). Các nhà khoa học cho rằng đồ vật là những gì có
thể chiếm một khoảng không gian nhất định như: các chất thuộc thể lỏng, rắn.
Đây được coi là quan niệm mang tính chất truyền thống [9, tr. ] 03]. Điều 516 Bộ


14

Luật dân sự Pháp không đưa ra khái niệm về tài sản mà chỉ quy định “Tất cả
mọi tài sản đều là động sản và bất động sản”, theo đó tài sản là bất động sản do
tính chất, do mục đích sử dụng hoặc do đối tượng gắn liền với tài sản; tài sản là
động sản do tính chất hoặc do luật định [10, tr.162]. Theo quy định tại Điều
172 Bộ Luật dân sự Việt Nam 1995 tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị
giá được bằng tiền và các quyền tài sản.
Trên thực tế, có nhiều quan niệm về tài sản, tuy nhiên, tài sản trong giao
dịch dân sự có thể được hiểu là tất cả những “vật” mang giá trị và xác định được
nó thuộc sở hữu của một người hay một tổ chức cụ thể.
Như vậy, tài sản hình thành từ vốn vay có thể được hiểu là “vật” được tạo
nên hay có được bằng việc có sử dụng tiền vay của người khác.
Trong quan hệ tín dụng, tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản được tạo
nên hay có được từ tiền vốn vay của tổ chức tín dụng. Thời điểm hình thành hay
có được tài sản này là sau thời điểm ký kết hợp đồng vay vốn. Nói cách khác là
tại thời điểm vay vốn, tài sản này chưa hiện hữu, chưa là một tài sản hoàn chỉnh
hoặc chưa thuộc sở hữu của khách hàng vay về mặt giá trị pháp lý. Tài sản đó
chỉ có thể được tạo nên sau quá trình sử dụng vốn vay. Thời gian hình thành tài
sản có thể được xác định tuỳ từng loại tài sản: phụ thuộc vào thời gian hoàn
thành dự án đầu tư; thời hạn sản xuất kinh doanh, theo mùa vụ, chu trình sản
xuất hoặc có thể ngay sau khi tổ chức tín dụng giải ngân khoản vay cho khách

hàng (ví dụ như cho vay để mua xe ôtô, mua thiết bị máy m óc.. .)• Do vậy, thực
chất tài sản hình thành từ vốn vay có nhiều điểm tương đổng với tài sản hình
thành trong tương lai. Hay nói cách khác, “gốc” của tài sản hình thành từ vốn
vay chính là tài sản hình thành trong tương lai.


15

Tuy nhiên, điểm phân biệt giữa tài sản hình thành từ vốn vay và tài sản
hình thành trong tương lai là ở nguồn gốc hình thành nên tài sản: tài sản hình
thành từ vốn vay được hình thành nên từ vốn vay của các tổ chức tín dụng; tài
sản hình thành trong tương lai có thể hình thành từ bất cứ nguổn vốn nào bao
gồm cả tài sản hình thành từ vốn vay. Như vậy, tài sản hình thành từ vốn vay
được hiểu theo nghĩa hẹp hơn tài sản hình thành trong tương lai và là một phần
của tài sản hình thành trong tương lai.
Quá trình sử dụng vốn vay đó có thể tạo nên toàn bộ tài sản hoặc chỉ một
phần tài sản, nhưng dấu hiệu có sử dụng vốn vay của tổ chức tín được coi là đặc
trưng cơ bản để phân biệt tài sản hình thành từ vốn vay với loại tài sản khác, ở
khía cạnh kinh tế, tài sản hay phần tài sản hình thành từ vốn vay phải mang giá
trị nhất định, giá trị tài sản hình thành từ vốn vay thông thường phải tương xứng
với tỷ lệ giá trị khoản vay. ở khía cạnh pháp lý, tài sản đó phải là tài sản thuộc
sở hữu của bên vay vốn hoặc có cơ sở pháp lý để chắc chắn xác định được tài
sản có sử dụng vốn vay sẽ thuộc sở hữu của bên vay vốn (hoặc thuộc quyền
quản lý, sử dụng của bên vay vốn).
Theo quy định tại khoản 7 Điều 2 Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày
19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (viết tắt là Nghị định số 165
ngày 19/11/1999) quy định “Tài sản hình thành trong tương lai là động sản, bất
động sản hình thành sau thời điểm ký kết giao dịch bảo đảm và sẽ thuộc quyền
sở hữu của bên bảo đảm như hoa lợi, lợi tức, tài sản hình thành từ vốn vay, công
trình đang xây dựng, các tài sản khác mà bên bảo đảm có quyền nhận.”.



16

Khoản 3 Điều 2 Nghị định số 178 ngày 29/12/1999 quy định tài sản hình
thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng vay mà giá trị của tài sản được tạo
nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của tổ chức tín dụng.
Như vậy, có thể hiểu tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách
hàng vay sẽ có trong tương lai từ việc có sử dụng vốn vay của các tổ chức tín
dụng để tạo nên một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tài sản hay phần tài sản hình
thành từ vốn vay có giá trị tương đương với giá trị khoản vốn vay mà bên vay đã
sử dụng để tạo nên tài sản hoặc phần tài sản đó.
1.2.2. Khái niệm bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Hiểu theo nghĩa thông thường thì bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình
thành từ vốn vay là việc các bên trong quan hệ túi dụng thoả thuận dùng tài sản
hình thành từ vốn vay để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ
Qua tìm hiểu pháp luật của một số nước Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Thái Lan...
không có quy định về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Pháp luật của một số nước có quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
bằng tài sản hình thành trong tương lai, chẳng hạn: tại khoản 2 Điều 2118 Bộ
Luật dân sự Pháp quy định chỉ có thể đem thế chấp “quyền hưởng hoa lợi trên
một tài sản và những vật phụ trong thời gian có quyền hưởng hoa lợi” [10, tr.
532], hay theo Điều 5 Luật mẫu của Ngân hàng tái thiết và phát triển Châu Âu
quy định tài sản bảo đảm bao gồm tất cả các quyền tài sản hoặc vật mà tại thời
điểm giao dịch bảo đảm được thiết lập hoặc sau đó được hình thành gắn liền
hoặc liên quan đến tài sản được bảo đảm ...[53, tr.5]. Tuy nhiên, theo các quy
định này thì tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là hoa lợi, lợi tức, tài
sản được hình thành gắn liền hoặc liên quan đến tài sản bảo đảm, quy định này



17

cũng tương tự như tài sản là hoa lợi, lợi tức được quy định tại Điều 346 Bộ luật
dân sự Việt Nam.
Tại Điều 9-204 Luật thương mại Mỹ (Uniform Commercial Code, viết tắt
là UCC) có quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành
trong tương lai [51, tr.ll]. Theo Từ điển về pháp luật (Black’s Law Dictionary)
thì tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản của con nợ được hình
thành sau khi giao dịch bảo đảm được thực hiện. Tài sản hình thành sau thời
điểm giao dịch bảo đảm có hiệu lực sẽ trở thành tài sản bảo đảm bổ sung cho
việc thanh toán nợ nếu trong thoả thuận giao dịch bảo đảm có quy định tài sản
hình thành trong tương lai (từ điển này có dẫn chiếu đến Điều 9-204 Luật
thương mại Mỹ) [52, tr.39]. Điều khoản về tài sản hình thành trong tương lai là
điều khoản thoả thuận bảo đảm quy định bất cứ tài sản nào của con nợ được
hình thành sau khi hợp đồng vay có hiệu lực sẽ tự động trở thành tài sản bảo
đảm bổ sung cho khoản vay [52, tr.39]. Quy định về tài sản bảo đảm là tài sản
hình thành trong tương lai theo luật của Mỹ được hiểu theo nghĩa rộng hơn,
không bị bó hẹp trong phạm vi tài sản là hoa lợi, lọi tức mà bao gồm tất cả tài
sản hình thành trong tương lai.

Có quan

điểm cho rằng “Điều 9

ucc

là một

trong những đóng góp quan trọng nhất trong sự phát triển của luật tư trong thế
kỷ này...” [54, tr.29].

Theo quy định tại khoản 5 Điều 2 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày
29/12/1999 bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách
hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả
nợ cho chính khoản vay đó đối với tổ chức tín dụng.

T H Ư VIỆ N
TRƯƠNG Đ A I H O t LỎÁT H m 'Mỏ i

p HÒN G G V

s~ ậ f

-


18

CÓ quan điểm cho rằng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình
thành từ vốn vay cũng chính là một trong những biện pháp bảo đảm tiền vay
trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản của người vay [20,
tr.7]. Về mặt lý thuyết, quan điểm này là có cơ sở vì tại thời điểm giao dịch bảo
đảm được xác lập, tài sản bảo đảm này chưa có, chưa hiên hữu. v ề mặt pháp lý,
chỉ đến khi tài sản hình thành (tài sản đã có đầy đủ tính năng, công dụng đúng
với tên gọi của nó) được đưa vào khai thác, sử dụng và đã được cấp chứng nhận
đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng (đối với một số tài sản phải hoàn thành
thủ tục này thì mới xác định được quyền sở hữu, quyền sử dụng của khách
hàng), thì lúc đó khoản vay mới được coi là có tài sản bảo đảm, hay nói cách
khác lợi ích được bảo đảm gắn liền với thời điểm có tài sản. Tuy nhiên, khoản
vay không có tài sản bảo đảm này chỉ có tính chất “tạm thời”, ngay khi tài sản
hình thành được đưa vào khai thác, sử dụng, quyền sở hữu được xác lập cho

khách hàng vay thì đồng thời quyền chủ nợ của tổ chức tín dụng trên tài sản đó
cũng được xác lập.
Trong thực tế hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng có nhận tài sản
hình thành từ vốn vay để bảo đảm khoản vay thường khá quen thuộc vói cụm từ
“cho vay theo dự án” hay “tài trợ dự án” vói thời hạn sử dụng vốn vay thông
thường là trung hạn hoặc dài hạn. Cho vay theo dự án là việc các tổ chức tín
dụng cho vay trên cơ sở dự án đầu tư đòi hỏi vốn đầu tư lớn như: xây dựng cơ sở
hạ tầng, xây dựng nhà máy, khách sạn, cao ốc văn phòng, xây dựng các khu du
lịch... Trong đó, bên vay phải có một tỷ lệ vốn đầu tư nhất định đưa vào dự án
đầu tư, tỷ lệ này trước đây thường là 50%, trường hợp đặc biệt có thể thấp hơn.
Hiện nay, tỷ lệ này bị khống chế ở mức tối thiểu là 15% (theo quy định tại


19

khoản 2 Điều 15 Nghị định 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 178/1999/NĐ-CP).
Có quan điểm cho rằng tài sản hình thành từ hoạt động cho thuê tài chính
cũng được coi là tài sản hình thành từ vốn vay (hình thành từ khoản vốn tín dụng
được thể hiện dưới hình thức tài sản là máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển...) và tài sản này có thể bảo đảm cho chính khoản vốn túi dụng trong
hoạt động cho thuê tài chính. Xét về nguồn hình thành nên tài sản thì hai loại tài
sản này có nhiều điểm giống nhau, tuy nhiên hai loại tài sản này có một số
điểm khác nhau, cụ thể: trong hoạt động cho vay bằng tiền truyền thống, khi tổ
chức tín dụng ứvưyỉn tíển cho bên vay vốn, bên vay vốn có toàn quyền sử dụng
số tiền đó như là tiền thuộc sở hữu của mình với các điều kiện sử dụng vốn theo
đúng cam kết với tổ chức tín dụng. Tài sản hình thành từ vốn vay sẽ là tài sản
thuộc sở hữu của khách hàng vay. Đây chính là đặc trưng khác biệt cơ bản giữa
tài sản hình thành từ vốn vay và tài sản hình thành từ hoạt động cho thuê tài
chính.

Khác với cho vay bằng tiền, cho thuê tài chính hay còn gọi là cho thuê
vốn [7, tr.369] là việc bên cho thuê là các tổ chức tín dụng cam kết mua tài sản
theo yêu cầu của bên đi thuê, chuyển giao tài sản cho bên đi thuê sử dụng và
nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Như vậy, bản chất của cho thuê
tài chính là cho thuê tài sản và trong thời gian thực hiện hợp đồng cho thuẽ, tài
sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê. Bên đi thuê chỉ có quyền
sử dụng đối với tài sản đó và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê theo
thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Do đó, không đặt ra vấn đề dùng
tài sản đi thuê để bảo đảm cho chính hợp đồng thuê tài sản (hợp đổng cho thuê
tài chính).


20

Tóm lại, từ việc xem xét các quan điểm về bảo đảm tiền vay bằng tài sản
hình thành từ vốn vay có thể đưa ra khái niệm như sau: bảo đảm tiền vay bằng
tài sản hình thành từ vốn vay là việc tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng
vay về việc áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản hĩnh thành từ vốn vay để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của
khách hàng vay được tạo nên trong tương lai từ việc sử dụng vốn vay của các tổ
chức tín.
1.2.3. Đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn
vay
Một tài sản được nhận làm bảo đảm tiền vay khi tài sản đó phải là tài sản
có thể được giao dịch; phải thuộc sở hữu của khách hàng vay; là tài sản



thể mua bán, chuyển nhượng được. Do đó, đối với sản hình thành từ vốn vay khi
được dùng làm tài sản bảo đảm tiền vay, tổ chức túi dụng phải xác định được tài

sản đó là tài sản có thể được giao dịch; xác định được hoặc có cơ sở pháp lý để
xác định được quyền sở hữu, quyền quản lý, sử dụng của khách hàng vay đối
với tài sản hình thành từ vốn vay (thông thường quyền quản lý, sử dụng tài sản
chỉ đặt ra đối với tài sản của doanh nghiệp nhà nước); tài sản đó có thể mua bán,
chuyển nhượng được; đồng thời tổ chức tín dụng phải kiểm tra, giám sát được
quá trình tài sản hình thành để chắc chắn rằng khoản vay đang có sự bảo đảm
bằng tài sản.
Với tư cách là một loại tài sản bảo đảm, tài sản hình thành từ vốn vay có
các đặc điểm riêng sau:


21

+ Tài sản được hình thành sau thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng và
được hình thành nên từ một phần hoặc toàn bộ khoản vốn vay của tổ chức tín
dụng.
+ Tài sản hình thành từ vốn vay phải là tài sản mang giá trị, nói cách khác
là có sự chuyển hoá tiền vay thành tài sản mang giá trị. Giá trị tài sản hoặc phần
giá trị tài sản hình thành từ vốn vay phải tương đương với giá trị khoản vay hoặc
phần giá trị khoản vay. Đây là một trong những đặc điểm quan trọng, bởi khi
xem xét và quyết định cho vay, tổ chức túi dụng phải nghiên cứu, đánh giá tính
khả thi của dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Trong đó,
phải đánh giá được hiệu quả khai thác lợi ích từ tài sản đó đem lại cho khách
hàng vay, tạo cơ sở kinh tế để khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn.
Qua tìm hiểu thực tế tại một số ngân hàng thương mại được biết trong quá trình
xét duyệt cho khách hàng vay vốn thì thẩm định dự án là một khâu hết sức quan
trọng, quyết định tới 80% thành công của dự án đầu tư.
+ Tài sản đó phải là tài sản của khách hàng vay vốn, hay nói cách khác,
tài sản đó phải xác định được quyền sở hữu của khách hàng hoặc có cơ sở pháp
lý để xác định được tài sản đó sau khi được hoàn thành sẽ thuộc sở hữu của

khách hàng vay. Việc xác định này giúp tổ chức tín dụng khẳng định tính chắc
chắn, hiện thực của tài sản hình thành từ vốn vay với vai trò của một tài sản bảo
đảm. Ví dụ: chủ một dự án đầu tư vay vốn tại tổ chức tín dụng để đầu tư xây
dựng một nhà máy trên mảnh đất mà họ đã có chứng nhận quyền sử dụng đất;
hay Công ty dịch vụ vận tải biển A ký kết hợp đồng đóng tàu với Công ty đóng
tàu B để đóng mới một tàu biển. Công ty A sử dụng vốn vay của tổ chức tín
dụng để đầu tư vào dự án đóng mới con tàu này, trên cơ sở hợp đổng đóng tàu


22

quyền sở hữu của công ty A đối với con tàu sẽ được xác lập sau khi con tàu
hoàn thành.
Việc tìm hiểu và phân tích các đặc điểm của tài sản hình thành từ vốn vay
chứng minh một điều là trong hoạt động cấp tín dụng, nếu tổ chức tín dụng thực
hiện tốt khâu thẩm định dự án đầu tư, kết hợp thực hiện các quyền của tổ chức
tín dụng trong việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và quá trình
hình thành vốn vay, thì tài sản hình thành từ vốn vay sẽ là một tài sản hiện hữu
và mang giá trị, là cơ sở để khách hàng vay khai thác, sử dụng, tạo ra nguồn tiền
thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng. Như vậy, tài sản hình thành từ
vốn vay hoàn toàn có thể là một tài sản bảo đảm cho chính khoản vay đã tạo nên
tài sản. Với cách nhìn nhận này, hoạt động của các tổ chức tín dụng trong giai
đoạn hiện nay đã có nhiểu thay đổi phù hợp hơn trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, trong đó chú trọng nhiều hơn tới hiệu quả và khả năng khai thác lợi ích
từ tài sản hình thành từ vốn vay.
Từ những đặc điểm nêu trên của tài sản hình thành từ vốn vay, bảo đảm
tiền vay bằng loại tài sản này có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, tại thời điểm quan hệ bảo đảm được xác lập chưa có tài sản bảo
đảm. Trong suốt quá trình bên vay sử dụng vốn vay để tạo nên tài sản, khoản
vay của tổ chức tín dụng thực chất là khoản vay chưa có tài sản bảo đảm tiền

vay. Tuy nhiên, khoản vay chưa có tài sản bảo đảm này chỉ có tính chất “tạm
thời”, ngay khi tài sản hình thành được đưa vào khai thác, sử dụng và quyền sở
hữu được xác lập cho khách hàng vay thì đồng thời quyền chủ nợ của tổ chức tín
dụng trên tài sản đó cũng được xác lập.


23

Thứ hai, trong quan hệ bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn
vay phát sinh một thực tế: bên cho vay (tổ chức tín dụng) thừa nhận quyền sở
hữu của bên vay (khách hàng vay) đối với tài sản và bên vay thừa nhận quyền
của bên cho vay (quyền của chủ nợ) đối với tài sản hình thành từ vốn vay, quyền
của chủ nợ sẽ theo đuổi tài sản bảo đảm trong suốt quá trình tài sản hình thành
và được đưa vào khai thác, sử dụng cho đến khi bên vay hoàn thành hết nghĩa vụ
trả nợ.
Thứ ba, các biện pháp bảo đảm tiền vay được áp dụng trong bảo đảm tiền
vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay chỉ có thể là biện pháp cầm cố và thế
chấp tài sản.
Khi được vay vốn, bên vay vốn sẽ sử dụng nguồn vốn đó để đầu tư vào dự
án đã được tổ chức tín dụng đánh giá và chấp thuận cho vay. Tài sản bảo đảm là
tài sản được tạo nên từ vốn vay của tổ chức túi dụng, do đó quan hệ bảo đảm
tiền vay trong trường hợp này chỉ có thể được xác lập giữa bên cho vay và bên
vay (khách hàng vay hay chủ đầu tư dự án), mà không thể áp dụng biện pháp
bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba.
Thứ tư, do tài sản bảo đảm là tài sản chưa hình thành tại thời điểm xác lập
giao dịch bảo đảm, nên tổ chức tín dụng phải tổ chức việc giám sát sử dụng vốn
vay chặt chẽ hơn so với bảo đảm tiền vay bằng tài sản thông thường.
Hiện nay, có quan điểm cho rằng việc cho vay có bảo đảm tiền vay bằng
tài sản hình thành từ vốn vay là hoạt động cho vay mà tổ chức tín dụng giữ vai
trò của một nhà đầu tư vốn, đây là cách nhìn nhận mới trong hoạt động cho vay

có bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Do đó, đòi hỏi các tổ
chức tín dụng phải có trình độ và khả năng quản lý cao hơn trong việc đánh giá


×