Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Một số khía cạnh pháp lý về công ty cổ phần dưới góc độ so sánh giữa pháp luật việt nam và pháp luật cộng hoà pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.56 MB, 96 trang )


TRƯỜNG Đ Ạ I HỌ C LUẬ T
HÀ N Ộ I

TRƯỜNG Đ Ạ I HỌ C T ổ N G HỢP
PA N T H É O N - A SSA S PARIS II

BẠCH THỊ LỆ THOA

MỘT SỐ KHÍA CẠNH PHÁP LÝ VÊ CỒNG TY c ổ PHẦN
DƯỚI GÓC DỘ■ SO SÁNH PHÁP LUẬT
■ VIỆT
■ NAM VÀ
PHÁP LUẬT CỘNG HÒA PHÁP

C huyên ngành: Kinh tế
Mã số: 603850

LU Ậ N V ĂN THẠC SỸ LUẬ T HỌ C








Người hướng dẫn khoa học
TS Phan Chí Hiếu

GS. H ervé LEC U YER



THƯ VIỆ N
TRƯỜNG ĐẠI H Ọ C LỮẬTHA NOI
PHONG <

HÀ N Ộ I - NẢM 2004

r*

'


1

LỜI N Ó I ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới, công ty cổ phần và pháp luật về công ty cổ phần đã có lịch sử
phát triển hàng trăm năm nay. Ở Việt Nam, do những điều kiện lịch sử - xã
hội nhất định nên việc tổ chức, quản lý công ty cổ phần còn rất hạn chế cả về
lý luận và thực tiễn.
Trong những năm gần đây, N hà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về công ty, trong đó có pháp luật về công ty cổ
phần. Năm 1990, Luật Công ty ra đời đã tạo nền tảng pháp lý cho sự ra đời
của công ty cổ phần. Sau một thời gian áp dụng, đạo luật này đã bộc lộ nhiều
bất cập. Bởi vậy, cuối năm 1999 để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các
công ty ra đời và hoạt động, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ban hành Luật Doanh nghiệp thay thế cho Luật Công ty. Với sự ra đời
của Luật Doanh nghiệp năm 1999, địa vị pháp lý của công ty cổ phần đã đươc
hoàn thiện một bước căn bản. Luật Doanh nghiệp, cùng với các văn bản pháp
luật có liên quan về chứng khoán và thị trường chửng khoán, về k ế toán, thống

kê, cơ bản đã tạo được hành lang pháp lý cho công ty cổ phần ra đời và phát
triển.
Từ thực tế đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện về công ty cổ phần và pháp
luật về công ty cổ phần, phân tích những khía cạnh pháp lý cơ bản của loại
hình doanh nghiệp này trong mối liên hệ với điều kiện cụ thể của nền kinh tế
Việt Nam hiện nay là một nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.
Cộng hòa Pháp - tiêu biểu cho các nước theo truyền thống Châu Âu lục địa,
có nhiều kinh nghiệm quản lý công ty cổ phần. Việc đối chiếu so sánh để thấy
được sự tương đổng và khác biệt trong địa vị pháp lý của còng ty cổ phần theo

B Ạ C IÍ THỊ LỆ THOA - LUẬN VÃN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


2
pháp luật Việt nam và pháp luật Cộng hòa Pháp, từ đó tiếp nhận nhũng kinh
nghiệm nước ngoài để hoàn thiện pháp luật Việt nam về công ty cổ phần là
cần thiết . Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “M ợí sô khía cạnh pháp lý về công ty cổ
phản dưới góc độ so sánh pháp luật Việt nam và pháp luật Cộng hòa Pháp ”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật với hy vọng góp một phần công sức
nhỏ bé của mình vào việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn và lý luận về
công ty cổ phần đang đặt ra hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Đổ tài đặt ra nghiên cứu làm rõ các khía cạnh pháp lý cơ bản của công ty cổ
phần trong quan hệ so sánh giữa pháp luật Việt nam và pháp luật Cộng hòa
Pháp; đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Việt nam về
công ty cổ phần; chỉ ra những kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp phù hợp với
điều kiện thực tiễn của Việt nam để hoàn thiện pháp luật Việt nam.
Để đạt được mục tiêu này, luận văn phải giải quyết nhiệm vụ sau:
- Làm rõ các khía cạnh pháp lý của công ty cổ phần và đánh giá vai trò của

công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường;
- Đánh giá thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với công ty cổ phần ở Việt
nam;
- Từ kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật đối với công ty cổ phần của Cộng hòa
Pháp đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty cổ phần của Việt
nam;
Các nội dung nghiên cứu luôn đặt trong mối liên hệ, so sánh với pháp luật của
Cộng hòa Pháp để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt, chỉ ra những kinh
nghiệm hay của Pháp từ đó tiếp thu cho Việt Nam.

BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


3
Để thực hiện mục đích đã đề ra, luận án nghiên cứu những nội dung của pháp
luật hiện hành về công ty cổ phần ở Việt nam như bản chất pháp lý, cấu trúc
vốn, việc tổ chức quản lý, có liên hệ với Cộng hòa Pháp, chỉ ra điểm bất hợp
lý và đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật công ty cổ phần Việt nam theo kinh
nghiệm Cộng hòa Pháp. Tuy nhiên, chế định công ty cổ phần có phạm vi rộng,
phức tạp và liên quan tới nhiều chế định pháp luật khác. Vì vậy, luận án chỉ
tập trung nghiên cứu sâu những vấn đề pháp lý cơ bản nhất về công ty cổ phần
(quy định trong Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành).
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối, chính sách phát triển
kinh tế của Đảng cộng sản, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể mà đề tài đặt ra, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, so sánh, khảo sát
thực tiễn. Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài thì phương pháp
chủ đạo được sử dụng là phương pháp so sánh pháp luật.

4. Những đóng góp của luận văn
Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện những
vấn đồ pháp lý cơ bản về công ty cổ phần dưới góc độ so sánh giữa pháp luật
Việt nam và pháp luật cộng hòa Pháp. Những kết luận, kiến nghị nêu ra trong
luận văn là những quan điểm khoa học của tác giả, thể hiện sự đóng góp có ỹ
nghĩa cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học pháp lý.
5. Kết cấu của luận văn
Kết cấu cuả luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm
vi nghiên cứu. Luận văn bao gồm các phần sau:

BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VÀN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


4
Lời nói đầu
Ba chương:
Chương I: Khái quát về công ty cổ phần và pháp luật về công ty cổ phần
Chương II: M ột số quy định về công ty cổ phần theo pháp luật Việt nam và
pháp luật Cộng hòa Pháp.
Chương III: M ột số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về công ty cổ phần ở
Việt nam tiếp cận từ kinh nghiệm Cộng hòa Pháp.
Kết luận

BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VÃN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


5
CHƯƠNG 1.

KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY c ổ PHAN


và pháp

LUẬT VỀ CÔNG TY c ổ PHAN
1.1.

Bản chất pháp lý của công ty cổ phần

1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần trong khoa học pháp lý
Với tính chất là một hiện tượng kinh tế - xã hội, khái niệm doanh nghiệp nói
chung và công ty cổ phần nói riêng có thể hiểu theo nhiều nghĩa khi tiếp cận
từ các góc độ khác nhau. Từ góc độ kinh tế, công ty cổ phần là một tổ chức
kinh tế chuyên thực hiện các hoạt động kinh doanh vì mục đích kiếm lời. Dưới
góc độ pháp lý, công ty cổ phần là một pháp nhân kinh tế, được thành lập trên
cơ sở góp vốn cổ phần của các tổ chức, cá nhân.
Công ty cổ phần là đối tượng nghiên cún của nhiều ngành khoa học trong đó
có khoa học pháp lý. Trong khoa học pháp lý, công ty cổ phần được tiếp cận
như là một thương nhân - pháp nhân. Các nhà nghiên cứu, các luật gia trên thế
giới đưa ra rất nhiều định nghĩa về công ty cổ phần. Trong cuốn Đại từ điển
kinh tế thị trường của nước CHND Trung Hoa, công ty cổ phần (gọi là công ty
hữu hạn cổ phần) được định nghĩa “ là m ột loại h ìn h công ty m à toàn bộ vốn
chia thành các c ổ phần có mức bằng nhau, cổ phần p h á t hành công khai
theo luật p h á p bằng h ìn h thức cổ p h iếu và tự do chuyển nhượng. Trong
công ty hữu hạn c ổ phần, s ố c ổ đông rất nhiều, tài sản cá nhản tách riêng
kh ỏ i tài sản công ty, trách nhiệm dôi vói các m ón n ợ của công ty hạn chê ở
mức bỏ vốn của từng người”'.
Từ điển Bách khoa Việt nam định nghĩa “ Công ty c ổ phần là những công ty
dược hình thành trên cơ sở liên hợp tư bản cá nhân bằng cách phát hành và
bán cổ phiếu và lợi nhuận của công ty được phân phối giữa các cổ đông theo


1 Đ ại từ điển kinh lế thị trường - tài liệu dịch để tham khảo củ a V iện nghiên cứu và phổ biến tri thức Bách
khoa H à nội năm 1998, trang 1947.

BẠCH TIIỊ L Ệ TIIOA - LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


6
s ố lượng cổ p h ầ n ” 2. Định nghĩa theo từ điển Bách khoa nhấn mạnh chủ yếu
khía cạnh kinh tế, cụ thể là tính chất của việc phân phối lợi nhuận, tính chất
hợp vốn của công ty.
Khác với cách tiếp cận từ góc độ kinh tế, các nhà luật học Việt Nam đã đưa ra
một định nghĩa khá rõ ràng và cụ thể về công ty cổ phần theo đó công ty cổ
phần là: “Công ty trong đố điều lệ được chia thành những phần nhỏ nhất và
bằng nhau gọi là c ổ phần. Người sở hữu cổ phần của công ty gọi là cổ đông.
C ổ đông chỉ chịu trách nhiệm trước nghĩa vụ của công ty đến hết giá trị cổ
phần mà họ nắm giữ. Công ty có quyền phát hành chứng khoán đ ể công khai
huy động vốn ’ 3. Định nghĩa này nhấn mạnh đến tính chất và cấu trúc vốn
cũng như chế độ trách nhiệm của thành viên.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng các định nghĩa về công ty cổ phần là không
đồng nhất với nhau, nhung nhũng định nghĩa trên đều nêu những điểm chung
nhất thể hiện bản chất của công ty cổ phần là doanh nghiệp vốn góp với cơ
cấu Vốn đặc thù và chế độ trách nhiệm hữu hạn của các thành viên.
Những quan điểm khác nhau về công ty cổ phần trong khoa học kinh tế, pháp
]ý dẫn đến hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau cũng có những cách
tiếp cận khác nhau về công ty cổ phần.
Ở Đức là quốc gia theo hệ thống dân luật (Civil Law), khái niệm về công ty cổ
phần được quy định bởi Luật ban hành ngày 4/4/1892 và được sửa đổi ngày
4/7/1980. Theo đó, vốn pháp định tối thiểu của công ty phải là 100.000 Mác,

2. Từ điển Bách K hoa V iệt N am - T rung tâm biên soạn từ điển Bách k hoa V iệt nam , trang 593.


1 Từ điển giải thích luật học trường Đ ại học L uật H à nội. phần L uật kinh tế, L uật M ôi trường, luật tài chính,
luật N gân hàng. N X B C ông an N hân dân năm 2000, trang 22.

BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VÁN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


7
ít nhất là 1/4 giá trị đăng ký của mỗi cổ phần phải được đóng góp ngay từ khi
thành lập công ty.
Tại Pháp, theo “Luật quy định điều kiện để công ty phát hành các loại chứng
khoán” ngày 14/12/1985 thì công ty cổ phần được gọi là công ty vô danh, ở đó
phải có ít nhất 7 cổ đông, vốn pháp định tối thiểu là 25.000 FF (đối với các
công ty không phát hành chứng khoán), và 1.500.000 FF (đối với các công ty
phát hành chứng khoán), mệnh giá thống nhất mỗi cổ phiếu là 100FF. Các cổ
đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần. Công ty nếu đủ điều kiện, có thể
phát hành chứng khoán để huy động vốn.
Khác với các nước theo hệ thống dân luật, các nước theo hệ thống pháp luật
A nh-M ỹ (hay còn gọi là Common law) không phân chia công ty đối vốn thành
công ty trách nhiệm hữu hạn một cách rõ ràng. Tuy nhiên, ở các nước này tồn
tại công ty có tính chất pháp lý tương tự như công ty cổ phần theo hệ thống
dân luật. Tại Vương quốc Anh, công ty cổ phần còn có tên gọi là công ty công
cộng (public limited company) hay công ty trách nhiệm hữu hạn theo cổ phần
(com pany lim ited share). Tư cách pháp lý của công ty được xác định bởi Luật
công ty ban hành năm 1948, theo đó, vốn pháp định tối thiểu của công ty là
500.000 bảng Anh, có cấu trúc vốn linh hoạt, các cổ phần đều có thể nhượng
bán, trừ khi điều lệ công ty có quy định khác 4.
Tại Hoa Kỳ, theo pháp luật thương mại Hoa Kỳ, có ba loại công ty chính: Hợp
danh (Partnership), công ty đóng ( Close corparation) và công ty mở (Public
Corporation) trong đó công ty mở có đặc điểm pháp lý giống như công ty hữu

hạn ở Anh.

4 X em Pháp luật về công ty của N guyễn T hị V ân -- V iện N ghiên cứu kh o a học pháp lý 1996, trang 49.

BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VÁN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


8
Hệ thống pháp luật các nước ASEAN, kể cả pháp luật công ty chịu ảnh hưởng
sâu sắc hệ thống pháp luật của các nước trước đây đã từng áp đặt ách thống trị.
Do các nước ASEAN chiụ khá nhiều ảnh hưởng khác nhau từ các nước Anh,
Mỹ, Pháp, nên trong pháp luật công ty cũng có những dấu ấn của ảnh hưởng
trên. K hông có gì ngạc nhiên khi cách tiếp cận về công ty cổ phần của một vài
nước ASEAN giống với các nước theo hệ thống dân luật và hệ thống pháp luật
Anh-M ỹ.
ở Việt Nam, công ty cổ phần ra đời rất muộn so với nhiều nước phát triển trên
thế giới. Năm 1986, kể từ sau Đại hội VI, Việt nam chủ trương chuyển nền
kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường. Tới
năm 1990 với sự ra đời của Luật Công ty, pháp luật Việt Nam mới quy định về
loại hình doanh nghiệp này. Năm 1999 với sự ra đời của Lụật Doanh nghiệp,
địa vị pháp lý của công ty cổ phần đã được hoàn thiện một bước căn bản.
Khác với Luật Công ty trước đây, Luật Doanh nghiệp năm 1999 không đưa ra
định nghĩa khái quát về công ty cổ phần, mà chỉ liệt kê những dấu hiệu pháp
lý 5 có thể hiểu công ty cổ phần như sau: Công ty cổ phần là loại hình công
ty đối vốn, vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần, hình thức của cổ phần là cổ phiếu, người sở hữu cổ phần là cổ đông,
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của công ty trong phạm vi
giá trị cổ phần mà họ nắm giữ, công ty cổ phần được phát hành chứng
khoán để huy động vốn.
Tựu chung lại, pháp luật của các nước khác nhau trên thế giới có quy định

phong phú và đa dạng về công ty cổ phần bởi pháp luật của mỗi nước được
hình thành dựa trên nguồn gốc lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau.
Tuy nhiên, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì pháp luật của các quốc gia cũng

5 X em L uật D oanh nghiệp, Đ iều 51.

BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VĂN TÔT NGHIỆP CAO HỌC


9
đều ghi nhận những đặc điểm pháp lý cơ bản tương đối thống nhất về công ty
cổ phần. Có thể khái quát những điểm chung đó như sau:
Thứ nhất, Công ty cổ phần là một pháp nhân kinh tế có tài sản riêng, là một
pháp nhân hoạt động độc lập, có tổ chức chặt chẽ, cấu trúc vốn hoàn thiện, tài
sản do các cổ đông đóng góp vào công ty tồn tại tách bạch với các tài sản khác
của cổ đông. Cổ đông là các đồng chủ sở hữu công ty nhưng không có quyền
sở hữu tài sản cuả công ty, tài sản trong công ty thuộc sở hữu của chính bản
thân công ty.Việc thay đổi cổ đông không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công
ty cổ phần. Với tư cách là một chủ thể kinh tế dựa trên chế độ đa sở hữu, công
ty cổ phần có khả năng huy động nhiều nhà đầu tư tham gia góp vốn thành lập
và có khả năng tập trung được nguồn vốn lớn để thực hiện các hoạt động kinh
doanh.
Thứ hai, Công ty cổ phần là loại công ty đối vốn điển hình. Khi tham gia vào
công ty cổ phần, các cổ đông không quan tâm đến nhân thân của nhau mà chỉ
quan tâm đến phần vốn góp (cổ phần). Cơ cấu tổ chức bô máy quản lý, những
vấn đề về quản lý nội bộ, quyền lợi và nghĩa vụ của các cổ đông được giải
quyết chủ yếu dựa trên nguyên tắc đối vốn (tức là căn cứ vào giá trị cổ phần
mà các cổ đông nắm giữ). Đặc điểm này cùng với khả năng chuyển nhượng cổ
phần dễ dàng trên thị trường, làm cho công ty cổ phần có phạm vi, quy mô
kinh doanh lớn, số lượng cổ đông đông đảo và có khả năng tập trung huy động

vốn lớn để phát triển sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, Công ty cổ phần có cấu trúc vốn linh hoạt, mang tính xã hội hóa cao.
Với cấu trúc vốn mở, vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành các cổ
phần bằng nhau. Có nhiều loại cổ phần khác nhau như cổ phần phổ thông và
các loại cổ phần ưu đãi. Sự đa dạng hoá các loại cổ phần tạo điều kiện thuận
lợi cho công ty trong việc thiết lập một cơ cấu vốn hợp lý, tính chuyển nhượng
dễ dàng của cổ phần trên thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho công ty cổ
phần trong việc tạo lập và huy động vốn vào công ty. Trong quá trình hoạt
BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VÃN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


10
động kinh doanh công ty cổ phần được phát hành các loại chứng khoán, trong
đó có cổ phần ra công chúng để huy động vốn. Do đó, sự ra đời và phát triển
của công ty cổ phần gắn liền với sự ra đời và phát triển của thị trường chứng
khoán.
Thứ tư, Công ty cổ phần có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Để bảo vệ quyền lợi cho
tất cả các thành viên, cũng như các chủ thể có thể tham gia quan hệ với công
ty, pháp luật của hầu hết các nước đều quy định chặt chẽ về cơ cấu tổ chức,
quản lý, điều hành và giám sát công ty, về nguyên tắc hoạt động của các cơ
quan trong công ly, chế độ trách nhiệm của công ty, những người quản lý
công ty ....
1.1.2. Các đặc trung pháp lý của công ty cổ phần
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hầu như không tồn tại công ty với
bản chất đặc trưng của nó là sự liên kết của các thành viên, cùng góp vốn
nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, dù trên thực
tế có rất nhiều tổ chức kinh tế được gọi là công ty. Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới, chủ trương xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách này đã được thể chế hóa bằng nhiều

văn bản pháp luật. Trong số đó có Luật Công ty năm 1990 - văn bản quan
trọng cho sự xuất hiện và hoạt động của công ty cổ phần và công ty trách
nhiệm hữu hạn. Theo Luật Công ty năm 1990, công ty cổ phần và công ty
trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty đối vốn có sự liên kết của nhiều
thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận và cùng chịu lỗ trong phạm vi
phần vốn góp. Xét ở nhiều khía cạnh, Luật Công ty năm 1990 có cách tiếp cận
về công ty cổ phần khá đồng nhất với cách tiếp cận về công ty cổ phần với
pháp luật nhiều nước nhất là các nước theo hệ thống dân luật, điển hình là ở
Pháp. Luật Công ty năm 1990 không nêu định nơhĩa về công ty cổ phần mà
chỉ nêu những dấu hiệu cơ bản, đặc trung thể hiện bản chất của nó. Khoản 1,2,
BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


11
Điều 30 Luật Công ty 1990 quy định: “ Công ty c ổ phần là công ty trong đố
s ố thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt
động ít nhất là 7, vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần. M ỗi cổ đông có th ể mua một hoặc nhiều c ổ phần”.
Công ty cổ phần, theo Luật Doanh nghiệp Việt nam, có các đặc trưng pháp lý
như sau:
T hứ nhất, về cấu trúc vốn, thể hiện ở vốn điều lệ là số vốn do tất cả các cổ
đông góp (bằng mua cổ phần) và được ghi vào điều lệ công ty 6. Vốn điều lệ
của công ty cổ phần phải được chia thành những phần nhỏ nhất có giá trị bằng
nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là m ệnh giá (giá trị danh nghĩa)
của cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu 1. Tư cách cổ đông của công ty
được xác định dựa trên căn cứ quyền sở hữu cổ phần. Đây là đặc trưng khác
biệt của công ty cổ phần so với công ty trách nhiệm hữu hạn: vốn điều lệ của
công ty cổ phần và vốn Ihực của nó ở thời điểm thành lập có thể có sự chênh
lệch, song điều này không thể xảy ra đối với công ty trách nhiệm hũu hạn. Các
cổ đông trong công ty cổ phần góp vốn bằng cách mua các cổ phần. Các cổ

đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phần phụ thuộc vào khả năng của mình.
Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn góp vốn bằng cách góp trực tiếp và
phải góp đầy đủ, đúng hạn số vốn mà họ đã cam kết góp vào công ty.
Các cổ đông trong công ty cổ phần có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần trừ
khi pháp luật có quy định khác. Mức độ tự do chuyển nhượng cổ phần phụ
thuộc vào tính chất của từng loại cổ phần. Ngoài ra đặc điểm về cấu trúc vốn
của công ty cổ phần còn thể hiện ở khả năng huy động vốn bằng phát hành

6 X em K hoản 8 - Đ iều 3 L uật D oanh nghiệp

7 C ông ty cổ phần có thể bán (phát hành cổ phần mà không cần cổ phiếu. Trường hợp này các thông tin cần
thiết dể xác định quyền sở hữu cổ phần của cổ dông dược ghi trong sổ đáng ký cổ dông)

BẠCH r m LỆ THOA - LUẬN VÁN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


12
chứng khoán. Do đó, sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần gắn liền với
sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khóan - đỉnh cao của thị trường
vốn và là sản phẩm của nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao. Trong
công ty trách nhiệm hữu hạn việc chuyển nhượng vốn bị hạn chế. Theo quy
định của Luật Doanh nghiệp việc chuyển nhượng vốn của công ty trách nhiệm
hữu hạn được thực hiện trước hết giữa các thành viên trong nội bộ công ty.
Các thành viên chỉ được chuyển nhượng ra bên ngoài khi các thành viên công
ty không mua hoặc mua không hết và được chuyển nhượng theo một trình tự
khá khắt khe.
Thông thường số lượng thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn không
lớn và chủ yếu chỉ giới hạn ở những người quen biết hoặc có họ hàng với
nhau. Thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn không muốn trao quyền
quản lý và kiểm soát công ty cho người khác, cấu trúc quản lý công ty không

mang tính chất chuyên nghiệp. Đây là điểm khác với bộ máy quản lý của công
ty cổ phán. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, những vấn đề về quản lý nội bộ,
quyển lợi và nghĩa vụ của các cổ đông trong công ty cổ phần dược giải quyết
chủ yếu dựa trên nguyên tắc đối vốn (tức là căn cứ vào giá trị cổ phần mà các
cổ đông nắm giữ). Đặc điểm này cùng với khả năng chuyển nhượng cổ phần
dỗ dàng trên thị trường, làm cho công ty cổ phần có phạm vi, quy mô kinh
doanh lớn, số lượng cổ đông đông đảo và có khả năng tập trung huy động vốn
lớn để phát triển sản xuất kinh doanh.
T hứ hai, về chế độ trách nhiệm tài sản là công ty đối vốn, công ty cổ phần
phải tự chịu trách nhiệm một cách độc lập về các nghĩa vụ tài sản bằng toàn
bộ tài sản của công ty. c ổ đông không phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ
tài sản của công ty ngoài phạm vi giá trị cổ phần mà cổ đông nắm giữ.
Thứ ba, về thành viên (cổ đông): cổ đông của công ty cổ phần thường rất lớn
về số lượng và không quen biết nhau. Luật Doanh nghiệp chỉ hạn định số
lượng tối thiểu mà không giới hạn số lượng tối đa của các cổ đông của công ty
BẠCII THỊ LỆ THOA - LUẬN VÀN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


13
cổ phần, theo đó công ty cổ phần phải có ít nhất 3 cổ đông trong suốt quá
trình hoạt động. Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn đều là loại
hình công ty đối vốn, song công ty trách nhiệm hữu hạn vẫn mang nhiều nét
của công ty đối nhân. Vì vậy, thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn
thường có mối quan hệ tin cậy lẫn nhau lớn, số lượng thành viên cũng bị hạn
chế hơn. ở V iệt nam, theo quy định của Luật Doanh nghiệp 1999, số lượng
thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn không vượt quá 50 thành viên.
Như vậy, rõ ràng xét ở tiêu chí này thì quy mô công ty cổ phần lớn hơn nhiều
so với công ty trách nhiệm hữu hạn.
Thứ tư, công ty cổ phần là một pháp nhân kinh tế. Theo Luật Doanh nghiệp,
công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận

đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần là một pháp nhân kinh tế hoạt động độc
lập có tính tổ chức chặt chẽ, cấu trúc vốn hoàn thiện, hoạt động mang tính xã
hội hóa cao. Tài sản của công ty cổ phần được hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau nhung chủ yếu được hình thành từ nguồn vốn do các cổ đông góp và tách
bạch rõ ràng với tài sản của các cổ đông, c ổ đông có quyền sở hữu một phần
trong công ty tương ứng với giá trị cổ phần mà mình nắm giữ, nhung không có
quyền sở hữu tài sản cuả công ty. Việc thay đổi số lượng cổ đông không ảnh
hưởng đến sự tồn tại của công ty cổ phần. Chính vì vậy, người ta cho rằng một
trong những đặc điểm cuả công ty cổ phần là tính tồn tại bền vững của nó.
Công ty cổ phần là chủ thể tạo được sự ổn định cao cho các nhà đầu tư khi
muốn tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Với tư cách là m ột chủ thể pháp luật, công ty cổ phần có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ của một chủ thể pháp luật khi tham gia hoạt động kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, công ty nhân
danh chính mình thông qua người đại diện theo pháp luật, đồng thời phải chịu
trách nhiệm vô hạn trước các nghĩa vụ phát sinh đến hết giá trị tài sản của
công ty. Với tư cách là một thực thể kinh tế dựa trên chế độ đa sở hữu, công ty
cổ phần có khả năng huy động nhiều nhà đầu tư tham gia góp vốn thành lập và
BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VÃN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


14

có khá năng tập trung được nguồn vốn lớn để thực hiện các hoạt động kinh
doanh.
Theo Điều L225-1 của Bộ Luật Thương mại Cộng hòa Pháp, công ty cổ phần
là công ty được các thành viên sáng lập, vốn điều lệ được chia thành nhiều
phần bằng nhau. Có hai hình thức thành lập công ty cổ phần. Thứ nhất là công
ty kêu gọi vốn đầu tư công khai (gọi là công ty mở). Thứ hai là công ty không
kêu gọi vốn đầu tư công khai (công ty đóng). Số vốn tối thiểu để thành lập đối

với công ty đóng thì vốn pháp định tối thiểu là 37.000 euros. Tuy nhiên tùy
theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh đã được luật quy định mà số vốn pháp
định này có thể thay đổi. Vốn được góp bằng tiền mặt hoặc hiện vật. Theo
Điều L225-3, Khoản 2 Luật Thương mại Pháp quy định để thành lập công ty
thì sự góp vốn bằng tiền mặt phải đảm bảo đạt được tối thiểu ít nhất là 1/2 số
vốn góp ban đầu, số chênh lệch còn lại phải được đảm bảo tiếp trong 5 năm
tiếp theo. Tiếp theo, Điều L225-8, khoản 1 Luật Thương mại Pháp tất cả vốn
đầu tư bằng hiện vật phải được định giá thông qua một người được Tòa án
thương mại chỉ định và ủy quyền theo yêu cầu của một hay nhiều sáng lập
viên. Người được ủy quyền này có trách nhiệm phải xây dựng một bản báo
cáo xác thực về giá trị tài sản góp vốn bằng hiện vật. Bản báo cáo này sẽ được
các cổ đông trong tương lai lưu giữ tại trụ sở công ty. Các cổ đông sẽ thỏa
thuận ký vào bản điều lệ chứng thực giá trị số vốn bằng hiện vật này. Khác với
việc góp vốn bằng tiền mặt, sự góp vốn bằng hiện vật được giải quyết hoàn
toàn ngay sau khi góp vốn. Giá trị ghi danh của công ty cổ phần được xác định
một cách tự do, không bắt buộc phải ghi vào bản điều lệ thành lập công ty cổ
phần.
Quyền lợi và trách nhiệm của các sáng lập viên khi tham gia góp vốn thành
lập công ty theo pháp luật Việt nam thể hiện ngay khi công ty cổ phần được
cấp giấy phép hoạt động. Vốn cuả các sáng lập viên đựợc xác lập trên cơ sở
bản danh sách cổ đông góp vốn và bằng chính cam kết của họ đối với công ty
thông qua bản diều lệ công ty. Việc góp vốn này có thể bằng tiền hoặc tài sản.
BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VÁN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


15
Pháp luật Cộng hòa Pháp quy định rõ ràng và nhất quán hơn trong trường hợp
những người góp vốn bằng tiền mặt buộc phải ký vào một biên bản giao nhận,
đồng thời họ cần phải chuyển lập tức một nửa số tiền ứng với cổ phần mà họ
đăng ký. Muộn nhất là sau 8 ngày, danh sách cổ đông và vốn tương ứng sẽ

được nộp cho nhà băng, chính cơ quan này sẽ xác nhận bản đăng ký bằng một
giấy chứng nhận. Giấy chứng nhận này được lập dựa trên biên bản giao nhận
(Luật thương mại Pháp Điều L225-6). Một nửa số vốn còn lại sẽ được đóng
gổp đầy đủ trong kỳ hạn 5 năm tính từ khi công ty đăng ký hoạt động kinh
doanh.
1.2.

Công ty cổ phần - một loại hình doanh nghiệp quan trọng trong

nền kinh tê thị trường
1.2.1. Điều kiện cho sụ ra đời và phát triển của công ty cổ phần
Với những đặc điểm về công ty cổ phần như đã trình bày, công ty cổ phần chỉ
có thể phát triển m ạnh và trở thành xu hướng chủ đạo của hoạt động kinh
doanh khi nền kinh tế thị trường phát triển và đảm bảo nhũng điều kiện cần
thiết cho công ty cổ phần có thể phát huy những thế mạnh của mình. Những
điều kiện cần thiết đó là:
1.2.1.1 V ề điều kiên kinh tế- x ã hôi:
Thứ nhất, trong nền kinh tế hoạt động kinh doanh đã phát triển đến một trình
độ nhất định và đạt được mức độ xã hội hóa cao. M uốn vậy, tự do kinh doanh
phải được xem như nguyên tắc cốt lõi của cơ chế thị trường, quyền tự do kinh
doanh phải được đảm bảo cả về mặt pháp lý và thực tế.
Thứ hai, trong nền kinh tế tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau đối với tài
sản. Các hình thức sở hữu được đảm bảo tự do phát triển và bình đẳng. Có thể
nói sự phái triển của các hình thức sở hữu là tiền đề quan trọng để xã hội hóa
hoạt động kinh doanh, và trên cơ sở đó những công ty có cấu trúc vốn linh
hoạt như công ty cổ phần có thể phát triển.
BẠCII TIIỊ LỆ THOA - LUẬN VĂN TÔT NGHIỆP CAO HỌC


16


Thứ ba, trong nền kinh tế, nơi mà có thị trường tài chính phát triển, trong đó
bộ phận quan trọng là thị trường chứng khoán. Thị trường tài chính là nơi diễn
ra các hoạt động m ua bán và chuyển nhượng vốn (cung và cầu về vốn gặp
nhau). Thông qua thị trường tài chính, các khoản vốn nhàn rỗi trong xã hội
được huy động vào đầu tư, tạo động lực cho phát triển kinh tế. Cấu trúc của thị
trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn trong đó có sự
phát triển của thị trường vốn có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của công
ty cổ phần. Thị trường vốn là thị trường có chức năng cung cấp tài chính (vốn)
cho các khoản đầu tư dài hạn và được chia thành thị trường vay nợ dài hạn và
thị trường chứng khoán. Trong mối quan hệ giữa công ty cổ phần và thị trường
vốn thì sự tác động qua lại giữa công ty cổ phần và thị trường chứng khoán có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Công ty cổ phần là một trong những nhân tố chủ
yếu thúc đẩy sự ra đời, phát triển của thị trường chứng khoán, là chủ thể sản
xuất hàng hóa (cổ phiếu, trái phiếu) cho thị trường chứng khoán, đồng thời có
thể tham gia thị trường chứng khoán với tư cách là người kinh doanh, lưu
chuyển chứng khoán (các công ty chúng khoán). Thị trường chứng khoán có
tác động tích cực trở lại đối với sự phát triển của công ty cổ phần. Thị trường
chứng khoán là chiếc cầu nối giữa nhà đầu tư và công ty cổ phần, nó cung cấp
môi trường đầu tư thuận lợi và hiệu quả cho cồng chúng. M ặt khác cũng nhờ
thị trường chứng khoán mà việc dịch chuyển vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu nội
tại của nền kinh tế được thực hiện một cách dễ dàng. Thực tiễn các nước trên
thế giới cho thấy không thể có sự phát triển mạnh của các công ty cổ phần nếu
không có thị trường chứng khoán phát triển.
1.2.1.2 V ề điều kiên pháp lý:
Để phát triển hoạt động kinh tế cần phải có môi trường pháp lv thích hợp. Môi
trường pháp lý dược thể hiện trước hết và chủ yếu ở hệ thống pháp luật. Công
ty cổ phần, cũng như các loại hình doanh nghiệp khác không chỉ đòi hỏi sự
ghi nhận của pháp luật mà quan trọng hơn là sự đảm bảo của pháp luật, nói
cách khác là đòi hỏi hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của chúng phải

BẠCII THỊ LỆ THOA - LUẬN VÃN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


17
đầy đủ, phù hợp. Lý luận và thực tiễn đều cho thấy, để các công ty cổ phần có
thể phát triển thì trước hết cần phải có những quy định phù hợp về tổ chức,
hoạt động của công ty, và mặt khác không thể thiếu sự hỗ trợ của các quy định
về kế toán, thống kê, về kiểm toán, các quy định về chứng khoán.... Tuy
nhiên, cần lun ý rằng toàn bộ hệ thống pháp luật về kinh tế nói chung, trực
tiếp hoặc gián tiếp đều tác động đến sự phát triển của công ty cổ phần. Vì vậy,
điều kiện pháp lý để công ty cổ phần phát triển chỉ được đảm bảo thực sự khi
có hệ thống pháp luật về kinh tế hoàn thiện và đáp ứng được những yêu cầu
của nền kinh tế đặt ra.
1.2.2. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường của Việt
Nam:
Cơ chế thị trường luôn hàm chứa những điều kiện tạo nên sự phong phú, đa
dạng của các mô hình tổ chức kinh doanh. Gắn với quá trình vận hành của nền
kinh tế thị trường, các mô hình tổ chức kinh doanh có lịch sử hình thành, phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Cho đến nay, lý luận cũng như
thực tiễn đều khẳng định rằng công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp phù
hợp nhất với cơ chế thị trường. Mặc dù kinh tế thị trường đã sản sinh ra công
ty cổ phần và quy định sự tồn tại, phát triển của nó, nhưng mặt khác công ty
cổ phẩn ra đời đã thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển với tốc độ nhanh
hơn, hiệu quả và toàn diện hơn. Hoạt động của các công ty cổ phần có tác
động tích cực tới quá trình xã hội hóa tư bản (vốn), huy động tối đa nguồn vốn
nhàn rỗi vào đầu tư, từ đó đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. C.Mác đã đánh giá vai trò của công ty cổ phần:
“N ếu ph ả i chờ đợi tư bản tư nhân tích tụ cho đến lúc nó đủ sức làm các con
đường sắt thì có lẽ cho đến ngày nay Châu Ầu vẫn chưa cố đường sắt, nhưng
nhờ việc thực thành lập các công ty cô phần nền việc ấy đ ã được làm d ễ dàng


BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VÃN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


18
như trở bản tay vậy” 8. Thật vậy, với ưu thế về cấu trúc vốn và tính chất thành
viên, công ty cổ phần có khả năng thực hiện dễ dàng và nhanh chóng việc tập
trung vốn của toàn xã hội, nhờ đó việc mở rộng quy mô kinh doanh không còn
bị lệ thuộc vào sự tích tụ của đơn lẻ các nhà kinh doanh thường phải trải qua
một quá trình lâu dài. ở phương diện khác, như đã trình bày, vai trò của công
ty cổ phần đối với nền kinh tế còn được thể hiện ở chỗ nó là động lực cơ bản
thúc đẩy sự ra đời phát triển của thị trường vốn, giai đoạn đỉnh cao của nền
kinh tế thị trường.
Đối với Việt Nam, trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường, nền kinh tế đòi hỏi phải được tạo lập những tiền
đề kinh tế xã hội cần thiết cho quá tình chuyển đổi. Công ty cổ phần với tư
cách là một loại hình doanh nghiệp, đựơc xem như nhân tố quan trọng góp
phần đẩy nhanh xã hội hóa sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đưa nền
kinh tế từ kinh tế hàng hóa (vận hành theo cơ chế thị trường) sang nền kinh tế
thị trường thực sự. Vai trò của công ty cổ phần thể hiện ở những khía cạnh cơ
bản sau:
Thứ nhất, trong điều kiện tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở
hữu (trên cơ sở nguyên tắc tự do kinh doanh), công ty cổ phần là mô hình kinh
tế hiệu quả nhất để hòa nhập và phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế,
các hình thức sở hữu trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó, hoạt
động kinh doanh có khả năng sinh lợi cao, góp phần thực hiện mục tiêu “tăng
trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vữ ng.. .”y
Thứ hai, công ty cổ phần có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chủ trương

s Tư bản, tập 1, phần i, trang 156.


''

Báo cáo chính 11 ị củ a Ban cấp hành T W Đ ảng CSVN K hóa V II tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đ ẳng CSVN

lần thứ Viii phần m ục tiêu đến 2020.

BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VÃN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


19
“tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực...
ra sức cần kiệm để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế” l0. Với khả năng thu hút vốn đầu tư từ
rộng rãi các tầng lớp, các đối tượng trong xã hội bằng nhiều hình thức huy
động vốn khác nhau, công ty cổ phần có thể tận dụng tối đa vốn nhàn rỗi
trong dân chúng, từ đó đẩy nhanh quá trình xã hội hóa hoạt động kinh doanh,
dần tạo nên bộ mặt sinh động của nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, để tiến tới kinh tế thị trường phát triển, một trong những vấn đề quan
trọng phải giải quyết là vấn đề xây dựng thị trường vốn. Thị trường vốn “là
yếu tố cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường hiện đại, là cơ sở hạ tầng của xã
hội, có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội”
Để xây dựng thị trường vốn và đặc biệt là thị trường chứng khoán phải có một
quá trình với những cách thức và bước đi thích hợp, trong đó trước hết là tạo
lập tiền đề để thiết lập và đảm bảo sự hoạt động của thị trường. Đảng ta khẳng
định phải “phát triển thị trường vốn bằng nhiều cách... mở rộng việc phát
hành trái phiếu, cổ phiếu và xúc tiến chuẩn bị về thể chế, cán bộ và các điều
kiện cần thiết cho việc thiết lập thị trường chứng khoán và bảo đảm sự hoạt
động lành mạnh của thị trường này”. Trong hoàn cảnh như vậy, công ty cổ
phần có vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện ở những điểm sau:

Công ty cổ phẩn là “chủ thể sản xuất hàng hoá” cho thị trường chứng khóan.
Việc phát hành chứng khoán của công ty cổ phần là cơ sở quan trọng góp
phần hình thành thị trường chứng khoán sơ cấp. Trong nền kinh tế Việt Nam
hiện nay công ty cổ phần là chủ thể có quyền phát hành chứng khoán rộng rãi
nhất bao gồm cả cổ phiếu và trái phiếu. Trên thực tế, công ty cổ phần đang giữ

1(1 N ghị quyết H ội nghị lần thứ V Ban chấp hành T W Đ ảng khóa VIII.

11 Cơ c h ế thị trường và vai trò của N hà nước trong q uản lý nền kinh tế ở nước ta hiện nay - tài liệu đã dẫn
trang 120.

BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VÃN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


20
vai trò chủ yếu trong việc cung cấp chứng khoán cho thị trường chứng khoán ở
Việt nam '2. Tuy nhiên để đáp ứng được nhu cầu về cung chứng khoán ở Việt
nam hiện nay thì vấn đề cần quan tâm là số lượng và quy mô các công ty cổ
phần. Để giải quyết vấn đề này cần đẩy mạnh sự phát triển các công ty cổ
phần bằng các chính sách và biện pháp phù hợp (trong đó bao gồm cả chương
trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước).
Theo pháp luật Cộng hòa Pháp, cụ thể tại Điều L842 Luật Dân sự Pháp,
chứng khoán (titre de valeur) là phương thức tài chính chủ yếu của các công ty
lớn. Đó là những pháp nhân có thể chuyển nhượng được từ một công ty nhà
nước hay tư nhân đem lại cho người sở hữu những quyền lợi giống nhau khi
cùng một đợt phát hành. Những pháp nhân này được định giá tại thị trường
chứng khoán. Chỉ nhũng công ty được pháp luật cho phép mới có thể lưu hành
những giá trị như vậy. Điều L288-1 Luật Thương mại Pháp nhấn mạnh lại
điều này một lần nữa chỉ có những công ty cổ phần mới có quyền này.
Ngoài ra, công ty cổ phần có thể hoạt động với chức năng là các công ty

chứng khóan - tế bào quan trọng của thị trường chứng khoán. Theo pháp luật
hiện hành của Việt nam và pháp luật Cộng hòa Pháp, chỉ có công ty cổ phần
và công ty trách nhiệm hữu hạn, khi có đủ điều kiện theo quy định thì mới có
thể trở thành công ty chứng khoán và là thành viên của Sở giao dịch chứng
khóan. Công ty chứng khoán có chức năng thực hiện một hoặc nhiều hoạt
động kinh doanh chứng khoán và là chiếc cầu nối giữa nhà đầu tư với thị
Irường chứng khoán thứ cấp. Lý luận cũng như thực tiễn đều khẳng định công
ty chứng khoán là nhân tố không thể thiếu cho hoạt động của thị trường chứng
khoán thứ cấp.

I: H iện nay những chứng khóan do doanh nghiệp phát hnàh niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung ở Việt
nam đều là cùa các công ly cổ phần.

BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


21
1.3 Pháp luật về công ty cổ phần
1.3.1. Sụ ra đời và phát triển của pháp luật vê công ty cổ phần
Điều kiện lịch sử đã tạo nên sự ra đời muộn và chậm phát triển của luật pháp
về công ty ở Việt Nam. Chế định thương mại, trong đó có pháp luật về công ty
nói chung và về công ty cổ phần nói riêng chỉ thực sự hiện hữu ở Việt Nam kể
từ thời Pháp thuộc. Với chính sách chia để trị, pháp luật thương mại Pháp
được áp dụng trên các vùng lãnh thổ khác nhau của Việt Nam với sự phân
định về phạm vi và đối tượng áp dụng rất phức tạp 13. Và đương nhiên, các quy
định về công ty cổ phần (công ty vô danh) trong Bộ luật Thương mại Cộng
hòa Pháp đã từng có hiệu lực trên lãnh thổ Việt nam. Năm 1942, triều đình
Huế Ban hành Bộ luật Thương mại trong đó có quy định về công ty cổ phần
(gọi là công ty vô danh) từ Điều 102 đến Điều 104 (các quy định chung) và từ
điều 159 đến điều 171 (các quy định riêng). Được coi là Bộ luật thương mại

đầu tiên trong lịch sử các Nhà nước ở Việt Nam, nhưng Bộ luật thương mại
Trung phần năm 1942 chịu ảnh hưởng nội dung sâu sắc của pháp luật Pháp,
thậm chí nhiều điều khoản mang tính sao chép. Các quy định về công ty vô
danh trong Bộ luật này, về cơ bản, được mô phỏng theo Bộ luật thương mại
của Pháp.
Sau khi giành được chính quyền năm 1945, chủ trương của Đảng cộng sản
Việt nam là “kháng chiến, kiến quốc”, nhiệm vụ của nhà nước ta là “Bảo toàn
lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân
chủ” . Trong điều kiện lịch sử, chính trị hết sức khó khăn, pháp luật thời kỳ
này cơ bản mang tính chất củng cố chính quyền. Các quy định về kinh doanh
thương mại ít được quan tâm và chưa có các quy định về công ty cũng như
công ty cổ phần.

13 X cm L ê Tài T riển - L uật T hương m ại V iệt N am dẫn giải - K im lại ấn Q uán 1972.
BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VÀN TỐT NGHIỆP CAO HỌC

\


22
Trong kháng chiến giai đoạn chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) đất nước ta bị
chia cắt thành hai miền Nam-Bắc. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền
tay sai tiếp tục duy trì Bộ luật thương mại Pháp để điều chỉnh các quan hệ
thương mại. Đến năm 1972, chính quyền Việt nam cộng hòa ban hành Bộ luật
thương mại. Theo Bộ luật này công ty cổ phần (gọi là hội nặc danh) được quy
định từ điều 236 đến điều 278 (các quy định chung) và từ điều 295 đến điều
314 (các quy định riêng). Các vấn đề pháp lý hội nặc danh được quy định khá
đầy đủ và chi tiết như: vấn đề thành lập hội, góp cổ phần và chuyển nhượng cổ
phần, vấn đề tổ chức quản lý hội, quyền và nghĩa vụ của các hội viên... Dưới
giác độ khoa học, chế định hội nặc danh trong Bộ luật thương mại Sài Gòn

năm 1972 ở mức độ nhất định đã đạt được những thành công cả về kỹ thuật
luật pháp và nội dung pháp lý.
Trong thời kỳ trước năm 1975 ở Miền Bắc và từ 1975 đến 1986 trên phạm vi
cả nước, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế vận hành theo
cơ chế kế hoạch hóa tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc
doanh và tập thể. Với sự chi phối của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh
tế không chứa đựng những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của
các công ty kinh doanh 14. Vì vậy, giai đoạn này không có pháp luật về công

Từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới sâu sắc và toàn
diện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước đã hình thành. Dưới sự chi phối của cơ chế thị trường, nền kinh tế
Việt Nam sau năm 1986 đã dần tạo lập những tiền đề kinh tế - xã hội cho sự
ra đời và phát triển của các loại hình công ty, trong đó có Công ty cổ phần. Từ

14 Thời kỳ này trong nền kinh tế nước ta tuy có nhưng dơn vị kinh tế được gọi là công ty, nhưng thực chất là
đơn vị kinh tế q uốc doanh, không phải là các công ty kinh doanh theo đúng n g h ĩa bản chất của chúng.

BẠCI-I THỊ LỆ THOA - LUẬN VÀN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


23
thực tiễn như vậy, ngày 21/12/1990, Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thông qua luật Công ty 15, theo đó thuật ngữ Công ty c ổ
phần cùng những vấn đề pháp lý về nó đầu tiên được luật h ó a16. Chế định
Công ty Cổ phần cùng với các quy định khác của Luật Công ty đã tạo cơ sở
pháp lý cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta là một mốc quan
trọng có ý nghĩa quyết định trong quá trình đổi mới kinh tế. Tuy nhiên, vì
những lý do khách quan và chủ quan nhất định, qua hơn 8 năm áp dụng, Luật

Công ty dần bộc lộ nhiều thiếu sót và không phù hợp. Pháp luật về công ty cổ
phần còn rất nhiều bất cập, thể hiện nhiều quy định không hợp lý, và thiếu
vắng các qưy định liên quan đến các vấn đề như: Trách nhiệm của người quản
lý trong công ty, quyền và nghĩa vụ của cổ đông, vấn đề phát hành chứng
khoán, vấn đề công khai hóa giao dịch tư lợi và lợi ích liên quan, điều kiện
phân chia cổ tức, vấn đề chuyển đổi hình thức pháp lý và tổ chức lại công ty ...
Trước tình hình đó cùng với yêu cầu tiếp tục đổi mới kinh tế, hoàn thiện môi
trường kinh doanh để phát huy nội lực, từng bước hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới, ngày 12/6/1999 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua Luật Doanh nghiệp để thay thế cho Luật Công ty. Với Luật
Doanh nghiệp chế định công ty c ổ phần đã được hoàn thiện một bước, toàn
diện và đầy đủ hơn so với quy định trong Luật công ty. Địa vị pháp lý của
công ty cổ phần được xác định, một mặt, dựa trên điều kiện cụ thể và yêu cầu
nội địa hóa của nền kinh tế Việt Nam, mặt khác có tính đến sự tương thích với
các nguyên tắc và chuẩn mực cơ bản của loại hình doanh nghiệp này ở các
nước trên thế giới.

15 Luật có hiệu lực ngày 15/04/1991

16 Trước khi ban hành L uật công ty, mô hình công ly cổ phần được ghi n h ận trong bản quy định về chính sách
đối với kinh tế cá thể, k inh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải ban hành
kèm theo N ghị định số 27/H Đ B T ngày 09/03/1988 củ a HĐBT. Tuy nhiên, các quy định trong vãn bản này
còn rất sơ sài, các vấn đề về bản chât và địa vị pháp lý củ a công ty cổ phần chưa được quy định rõ ràng, cụ

BẠCH THỊ LỆ THOA - LUẬN VẢN TỐT NGHIỆP CAO HỌC


×