Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Thiết kế hệ thống bài tập toán học nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 1 (KLTN k41)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.8 KB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIÊU HỌC

VŨ THỊ LUYỆN

THIẾT KẾ HỆ THỐNG BÀI TẬP TOÁN HỌC
NHẰM PHÁT TRIỂN Tư DUY SÁNG TẠO
CHO HỌC SINH LỚP 1
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hà Nội,
2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIÊU HỌC

VŨ THỊ LUYỆN

THIẾT KẾ HỆ THỐNG BÀI TẬP TOÁN HỌC
NHẰM PHÁT TRIỂN Tư DUY SÁNG TẠO
CHO HỌC SINH LỚP 1
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn khoa học

ThS. PHẠM HUYỀN TRANG


Hà Nội,
2019


LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến cô giáo: ThS Phạm Huyền
Trang - Người cô đã luôn tận tâm tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em

đưa ra cho em những lời khuyên bổ ích để em có thể hoàn thành được đề tài
khóa luận này.
Bên cạnh đó, em cũng muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến những
người cô, người thầy trong Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 nói chung và
trong Khoa Giáo dục Tiểu học nói riêng, những người lái đò đã luôn dốc hết
nhiệt huyết của mình truyền cho chúng em những tri thức, kinh nghiệm,
truyền cho chúng em tình yêu với nghề, những người luôn luôn tạo mọi điều
kiện thuận lợi nhất để giúp em có thể hoàn thành được khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến ba mẹ những người đã sinh thành, nuôi
dưỡng, luôn bên cạnh làm điểm tựa, động viên em trong những lúc em gặp
khó khăn.
Và cuối cùng, em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo và các em học
sinh trường Tiểu học Tích Sơn đã giúp đỡ em để em có thể hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp này. Dù đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu xong khóa
luận vẫn còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô
giáo để khóa luận của em được hoàn chỉnh hơn.
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Vũ Thị Luyện



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài khóa luận: “Thiết kế hệ thống bài tập Toán
học nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 1” là kết quả mà tôi

trực tiếp tìm tòi, nghiên cứu dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của cô giáo - ThS
Phạm Huyền Trang.

Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi có tham khảo một số tài liệu, sách
báo, các công trình nghiên cứu có liên quan để làm cơ sở cho đề tài nghiên
cứu của mình và những tài liệu đó đều được hích dẫn đầy đủ trong danh mục
Tài liệu tham khảo.
Tôi xin cam đoan khóa luận này là thành quả mà tôi nỗ lực làm việc,
nghiên cứu trong một thời gian dài. Nó là đề tài nghiên cứu của riêng tôi
không giống với đề tài nghiên cứu của bất kì tác giả nào đã được công bố
trước đó.
Hà Nội, ngàỵ tháng 5 năm 2019
Sỉnh viên

Vũ Thị Luyện


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Giáo viên

GV

Học sinh


HS

Sách giáo khoa

SGK

Tư duy

TD

Tư duy sáng tạo

TDST


MỤC LỤC


MỞ ĐÀU
1. Lí do chọn đề tài

Từ xưa đến nay, từ các bậc hiền triết cho đến các nhà giáo dục đều
khẳng định “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đất nước đang ngày càng phát
triển đòi hỏi giáo dục phải đào tạo ra được nguồn nhân lực có trình độ, năng
động, sáng tạo và không ngừng sáng tạo để phục vụ ngày càng tốt hơn cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong tiến trình đổi mới ấy,
tư duy sáng tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tư duy sáng tạo là phẩm
chất trí tuệ quan trọng nhất của con người hiện đại, là điều kiện tiên quyết
giúp cho việc học tập và tiếp thu tri thức của trẻ trở lên tốt hơn. Nó giúp trẻ có

bộ óc thông minh, tỉnh táo để nhìn nhận, đánh giá và giải quyết được những
vấn đề khó khăn, phức tạp trong học tập và trong cuộc sống một cách dễ dàng
hơn. Chính vì vậy, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh là việc làm hết sức
cần thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và giúp các em hoàn
thiện nhân cách sau này.
Đối với học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng thì
nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu trong dạy học hiện nay là phát triển tư duy
sáng tạo. Và một trong những môn học đóng vai trò quan trọng trong việc
phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh là môn Toán. Trong quá trình giảng
dạy môn Toán, cùng với nhiệm vụ trang bị tri thức, rèn luyện kĩ năng cho học
sinh thì giáo viên có thể phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh bằng nhiều
cách khác nhau thông qua hệ thống bài tập đa dạng, phong phú. Với hệ thống
bài tập ấy, học sinh sẽ tích cực suy nghĩ, tư duy để có được những cách giải
hay và chính xác nhất. Các em sẽ có cơ hội được bộc lộ năng lực toán học của
bản thân thông qua việc giải các bài tập.

7


Trên thực tế, phần lớn giáo viên Tiểu học cho rằng hệ thống các bài tập
toán được xây dựng cho học sinh ở lớp 1 hiện nay chưa thực sự phát huy
đượctối đa tư duy sáng tạo của các em. Các bài tập được xây dựng vẫn chú
trọng
đến việc giúp các em nắm được những kiến thức cơ bản, nền tảng hơn là phát
triển tư duy sáng tạo. Bên cạnh đó, có nhiều học sinh còn gặp khó khăn và
bộc lộ những hạn chế về năng lực tư duy sáng tạo của mình khi thực hiện giải
các bài tập. Vì vậy, việc thiết kế hệ thống các bài tập nhằm phát triển tư duy
sáng tạo cho học sinh là một yêu cầu cấp thiết. Xuất phát từ những lí do trên,
chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Thiết kế hệ thống bài tập toán học nhằm
phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 1 ”,

2. Mục đích nghiên cứu

Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập toán nhằm góp phần phát triển tư
duy sáng tạo cho học sinh lớp 1 từ đó nâng cao chất lượng học tập.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Bài tập toán lớp 1 nhằm phát triển tư duy sáng tạo
cho học sinh.
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học toán ở lớp 1.
4. Giả thuyết khoa học

Nếu xây dựng được hệ thống bài tập toán theo định hướng phát triển tư
duy sáng tạo cho học sinh, đồng thời đảm bảo được các nguyên tắc thiết kế cơ
bản thì sẽ nâng cao được chất lượng, hiệu quả dạy học toán ở lớp 1 hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về việc thiết kế hệ thống bài tập toán
nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 1.
- Khảo sát thực trạng dạy học môn Toán ở lớp 1 nhằm phát triển tư duy sáng
tạo cho học sinh.

8


- Thiết kế hệ thống các bài tập toán nhằm góp phần phát triển tư duy sáng tạo
cho học sinh lớp 1.

9



6. Phạm vi nghiên cứu

- Đe tài chỉ tập trung nghiên cứu môn Toán lớp 1.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:

Tôi đâ tiến hành đọc sau đó phân tích và khái quát hóa một số tài liệu sau:
- SGK toán lớp 1, các sách toán tham khảo và các bài viết sáng kiến kinh
nghiệm của thầy cô.
- Các công trình nghiên cứu về toán nhằm phát triển tư duy sáng tạo có liên
quan phục vụ cho đề tài.
- Các tài liệu về giáo dục học, tâm lí học dạy học môn Toán.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

- Phương pháp quan sát: quan sát hoạt động học của học sinh lớp 1 thông qua
các tiết dự giờ môn Toán và thái độ học tập của các em.
- Điều ưa, khảo sát thực tế dạy học toán của giáo viên thông qua phỏng vấn,
dự giờ, xem giáo án nhằm đánh giá thực trạng về việc dạy học toán nhằm phát
ưiển tư duy sáng tạo cho học sinh ở lớp 1 hiện nay.
8. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phần nội dung
khóa luận gồm 02 chương:
Chương r. Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Thiết kế hệ thống các bài tập

10


Chương 1. Cơ SỞ LÍ LUẬN VÀ THựC TIỄN

1.1. Tư duy
1.1.1.

Các quan điểm về tư duy

Tư duy là một trong những vấn đề lớn luôn được mọi người quan tâm,
chú ý đến và cho đến ngày nay khi hỏi: “Tư duy là gì?” thì có rất nhiều quan
điểm khác nhau đã được nêu ra. Chẳng hạn như:
Tâm lí học Tiểu học cho rằng: “Tư duy là một quá trình nhận thức phản
ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có
tính quy luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó
ta chưa biết.” [7,tr 122]
Mặt khác, A.Spiếckin lại cho rằng: “Tư duy của con người phản ánh
hiện thực, về bản chất là quá trình truyền đạt gồm hai tính chất: Một mặt, con
người hướng về vật chất, phản ánh những nét đặc trưng và những mối liên hệ
của vật ấy với vật khác, và mặt khác con người hướng về xã hội để truyền đạt
những kết quả của tư duy mình”[l,tr28].
Tác giả Hoàng Phê nêu lên quan điểm của mình về tư duy trong cuốn
Từ điển Tiếng Việt: “Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu
vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức
như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lí” [10].
Art Costa - một trong số những tác giả đi đầu về nghiên cứu tư duy
quan niệm: “Tư duy là sự cảm nhận của chúng ta khi chúng ta nhận được
những dữ kiện, những thông tin diễn ra trong các mối quan hệ” hay hiểu theo
cách đơn giản là: “Chúng ta suy nghĩ” [16].
Theo Đặng Phương Kiệt: “Tư duy là một quá trình tâm trí phức tạp, tạo
ra một biểu tượng mới bằng cách làm biến đổi thông tin có sẵn” [8, tr 292].

11



Theo Từ điển triết học: “Tư duy, sản phẩm cao nhất của vật chất được
tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, là quá trình phản ánh tích cực thế giới
quan trong các khái niệm, phán đoán, lí luận. Tư duy xuât hiện trong quá trình
hoạt động sản xuất xã hội của con người và đảm bảo phản ánh thực tại một
cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật. Tư duy chỉ tồn tại
trong mối liên hệ không thể tách rời khỏi hoạt động lao động và lời nói, là
hoạt động chỉ tiêu biểu cho xã hội loài người cho nên tư duy của con người
được thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ với lời nói và những kết quả của tư
duy được ghi nhận trong ngôn ngữ. Tiêu biểu cho tư duy là những quá trình
như trừu tượng hóa, phân tích, tổng hợp, việc nêu lên là những vấn đề nhất
định và tìm cách giải quyết chung, việc đề xuất những giả thuyết, những ý
niệm. Kết quả của quá trình tư duy bao giờ cũng là một ý nghĩ nào đó.”
M.N. Sacđacop cho rằng: “Tư duy là quá trình tâm lí mà nhờ đó không
những con người tiếp thu được những tri thức khái quát mà còn tiếp tục nhận
thức và sáng tạo ra những cái mới.”
Tóm lại, có thể hiểu 1 cách đơn giản nhất: Tư duy chính là khỉ chúng ta
tiến hành suy nghĩ. Tư duy là kết quả của nhận thức, là kết quả hoạt động của
não bộ khi chịu tác động, kích thích từ môi trường bên ngoài hay nói cách
khác tư duy chính là sản phẩm cấp cao của bộ não người và kết quả của tư
duy là một ỷ nghĩ, là những nhận thức mới dưới dạng các khái niệm, quy tắc,
định lý,...
1.1.2.

Đặc điểm của tư duy

Là một hiện tượng tâm lí xuất hiện dưới sự điều khiển của não bộ. Là
một quá trình không ngừng phát triển năng động và sáng tạo, tư duy tồn tại
với 5 đặc điểm cơ bản sau:
a) Tính “có vấn đề” của tư duy:


12


Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của tư duy là tính “có vấn đề”.
Tư duy xuất hiện khi con người ta gặp phải những tình huống mà trong đó
chứa đựng những vấn đề mới (đó là những tình huống xảy ra trong học tập
hay trong cuộc sống mà họ cảm thấy bị vướng mắc và cần phải tháo gỡ nhưng
bằng những hiểu biết, kinh nghiệm cũ của bản thân họ không đủ để có thể giải
quyết được) khi đó đòi hỏi họ phải tư duy, phải vượt ra khỏi phạm vi những
hiểu biết cũ để tìm ra giải pháp mới.
b) Tính gián tiếp của tư duy:
Trong quá trình tư duy, khi con người không thể trực tiếp tri giác các sự
vật, hiện tượng thì họ có thể sử dụng các công cụ, phương tiện hỗ trợ khác
nhau để nhận thức các sự vật, hiện tượng đó và ngôn ngữ là một trong những
công cụ biểu hiện tính gián tiếp của tư duy. Các kết quả của tư duy như các
khái niệm mới, các quy tắc, định luật, định lí, các mối liên hệ,...được thể hiện
bằng ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể sử dụng được kho tàng
tri thức nhân loại, sử dụng được các công cụ phương tiện cùng với kinh
nghiệm vốn có của bản thân vào quá trình tư duy và từ đó tư duy giúp con
người phát hiện ra những bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng trong thực
tế khách quan.
c) Tính trừu tượng và khái quát của tư duy:
Sau khi phát hiện ra các bản chất, quy luật, các mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng tư duy sẽ tiến hành gạt bỏ khỏi những sự vật, hiện tượng đó
những thuộc tính, những cái riêng lẻ, cá biệt và chỉ giữ lại những đặc điểm
chung nhất. Sau đó khái quát chúng thành một nhóm, một phạm trù để phản
ánh cái bản chất chung có tính quy luật của loạt sự vật, hiện tượng đó.
d) Tư duy của con người có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ:


13


Ý nghĩ là kết quả của quá trình tư duy và nó được cụ thể hóa, thể hiện
trực tiếp qua ngôn ngữ hay nói cách khác ngôn ngữ là phương tiện biểu đạtkết
quả của tư duy. Ngôn ngữ và tư duy có quan hệ mật thiết, thống nhất với
nhau tuy nhiên chúng lại không đồng nhất và có thể tách rời nhau.
e) Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính:
Để sản phẩm tư duy của mình gắn liền với thực tiễn thì nhận thức cảm
tính đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Qua tri giác của các giác quan, trên
cơ sở trực quan sinh động và dựa trên các tài liệu cảm tính tư duy của con
người không ngừng được nâng cao. Đồng thời, kết quả của tư duy cũng ảnh
hưởng ngược lại đến quá trình nhận thức cảm tính. Điều này cho thấy, tư duy
và nhận thức cảm tính có mối quan hệ hai chiều tác động qua lại, ảnh hưởng
lẫn nhau.
1.1.3.

Các giai đoạn của quá trình tư duy

Tư duy là một quá trình gồm nhiều giai đoạn khác nhau và nó diễn ra
khi con người ta gặp phải những vấn đề khó khăn nảy sinh trong quá trình
nhận thức hay trong cuộc sống hàng ngày. Mỗi hành động của tư duy diễn ra
theo một trình tự nhất định và gồm 5 giai đoạn hết sức cụ thể, đó là:
Giai đoạn 1: Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề
1
Giai đoạn 2: Huy động các tri thức, kinh nghiệm
1
Giai đoạn 3: Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết
1
Giai đoạn 4: Kiểm ưa giả thuyết

1

14


Giai đoạn 5: Giải quyết vấn dề

15


Quan sát sơ đồ trên, ta có thể dễ dàng nhận thấy các giai đoạn của quá
trình tu duy có sụ gắn kết chặt chẽ với nhau. Truớc hết tu duy chỉ nảy sinh
khi con nguời gặp phải những tình huống “có vấn đề” và họ nhận thúc đuợc
mình cần phải giải quyết chúng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Chủ thể tu
duy sẽ tiến hành xác định vấn đề mà mình gặp phải là gì? phát hiện mâu thuẫn
chứa đụng trong tình huống có vấn đề đó, sau đó đề ra nhiệm vụ tiếp theo cho
quá trình tu duy. Ở giai đoạn đầu tiên này, chủ thể cần tỉnh táo để tránh xác
định chệch huớng vấn đề dẫn tới khó tìm ra đuợc phuơng án giải quyết phù
hợp. Vì vậy, xác định vấn đề và biểu đạt đuợc chính xác vấn đề cần giải quyết
là giai đoạn đầu tiên hết sức quan trọng có vai trò quyết định, ảnh huởng trực
tiếp đến kết quả của quá trình tu duy sau này. Khi đã xác định đuợc vấn đề
cần giải quyết đòi hỏi chủ thể phải tu duy để huy động vốn kiến thúc, kinh
nghiệm của bản thân hoặc tìm kiếm các nguồn tu liệu có liên quan đến vấn đề
để hình thành cho mình những liên tuởng xung quanh vấn đề cần giải quyết.
Sau đó, chủ thể sẽ tiến hành sàng lọc, gạt bỏ những liên tuởng chua phù hợp,
giữ lại những liên tuởng phù hợp, đáng tin cậy với nhiệm vụ để đua vào hình
thành một số giả thuyết (tức cách giải quyết có thể có đối với nhiệm vụ tu
duy). Tuy nhiên, muốn tìm ra đuợc giả thuyết có thể giải quyết đuợc vấn đề
một cách hiệu quả nhất, thì truớc hết cần tiến hành kiểm ưa các giả thuyết
xem giả thuyết nào tuơng ứng với các điều kiện và vấn đề nào tù đó khắng

định, chính xác hóa hoặc phủ định nó. Kết quả của việc kiểm ưa này sẽ đua ra
kết quả cuối cùng đó là: nếu khi giả thuyết đã đuợc kiểm ưa và khẳng định là
đúng thì nó sẽ đuợc tiến hành hay nói cách khác là nó sẽ đua ra câu trả lời
hoặc đáp số cho vấn đề đuợc đặt ra. Neu mọi giả thuyết đã có đều bị phủ định
thì một quá ưình tu duy mới lại đuợc bắt đầu để tìm ra giả thuyết mới khác về
cách giải quyết vấn đề.

16


Tóm lại, dù vấn đề bắt nguồn từ đâu, trong học tập hay trong cuộc sống
thì quá trình tư duy nhất thiết phải được thực hiện theo đúng trình tự gồm 5
giai đoạn trên.
1.1.4.

Các thao tác tư duy

Được xem như là “hành động trí tuệ căn bản” hay “các quy luật bên
trong của tư duy” - các thao tác tư duy chính là cơ sở nền tảng để quá trình tư
duy có thể diễn ra. Nó giúp mỗi cá nhân có thể nhìn nhận đối tượng hoặc đưa
ra cách giải quyết các vấn đề hay nhiệm vụ đặt ra một cách chính xác và toàn
diện dưới dạng các phán đoán, suy luận, suy lý,... Thông thường, quá trình tư
duy diễn ra với 5 thao tác cơ bản đó là:
- Phân tích và tổng hợp: Khi chủ thể tư duy gặp phải một vấn đề hay
một đối tượng nào đó cần nhận thức mà được đặt trong các mối liên hệ phức
tạp, muốn nhận thức được một cách toàn diện đối tượng đó yêu cầu chủ thể
phải dùng khối óc để tiến hành bóc tách, phân chia vấn đề (đối tượng) thành
từng bộ phận, từng thành phần riêng lẻ và xem xét chúng dưới nhiều góc độ
khác nhau từ đó vạch ra được những đặc điểm, những dấu hiệu, những thuộc
tính bản chất của đối tượng để nhận thức chúng sâu sắc hơn thì thao tác này

người ta gọi là thao tác phân tích. Sau đó, từ những đặc điểm, những dấu hiệu,
những thuộc tính bản chất của đối tượng đã được phân tích, hoạt động tư duy
dùng trí óc kết hợp, sắp xếp chúng thành một chỉnh thể mang những ý nghĩa
cụ thể để từ đó đối tượng được nhận thức một cách tổng thể, toàn diện và bao
quát hơn người ta gọi đó là tổng hợp. Thao tác phân tích và tổng hợp có tác
động qua lại với nhau trong một quá trình thống nhất, chúng bổ sung cho
nhau và có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau.

17


- So sánh: là cơ sở cho mọi sự hiểu biết của tư duy và là thao tác trí tuệ
dùng trí óc để tìm ra những điểm giống và khác nhau giữa các đối tượng khi
chúng được đặt cạnh nhau. So sánh cho chúng ta thấy được sự đồng nhất
haykhông đồng nhất, thấy được những dấu hiệu bản chất và không bản chất thứ
yếu của chúng để từ đó giúp cho ta hiểu sâu sắc hơn, có hệ thống hơn, biết
được mối liên hệ, sự giống nhau và khác nhau căn bản về các đối tượng cần
nhận thức.
- Trừu tượng hóa và khái quát hóa: Những thuộc tính, những bộ phận,
những mối liên hệ không cần thiết, thứ yếu ở mặt nào đó sẽ bị não bộ trừu
xuất, gạt bỏ và chỉ giữ lại những yếu tố bản chất cần thiết để tư duy đó chính
là trừu tượng hóa. Sau khi tiến hành gạt bỏ những quan hệ thứ yếu, hoạt động
tư duy sẽ dùng trí óc để khái quát, tổng hợp lại những thuộc tính chung giống
nhau về bản chất của các đối tượng thành một loại, một nhóm quá trình này
người ta gọi là khái quát hóa.
Qua đây có thể thấy các thao tác tư duy có mối liên hệ mật thiết, bền
chặt với nhau. Tuy nhiên trong thực tế, không phải quá trình tư duy nào cũng
đều thực hiện tuân theo trình tự 5 thao tác trên mà nó có thể bỏ qua một vài
thao tác hoặc các thao tác đó đan chéo vào nhau tùy theo từng nhiệm vụ tư
duy cụ thể.

Ngoài ra, nếu hoạt động tư duy của con người chỉ dừng lại ở 5 thao tác
cơ bản trên thì con người mới chỉ lĩnh hội được những khái niệm, định luật,
quy luật,... mang tính chung chung, trừu tượng mà chưa thể đưa chúng trở
thành chân lý trong thực tiễn. Muốn các tri thức trừu tượng, khái quát đã lĩnh
hội được trở thành chân lý thì chủ thể cần vận dụng chúng vào cuộc sống để
giải quyết các nhiệm vụ cụ thể hay còn gọi là thao tác cụ thể hóa.
1.2. Tư duy sáng tạo

18


1.2.1.

Khái niệm tư duy sáng tạo

Hiện nay, tư duy sáng tạo là cụm từ mà chúng ta không ngừng được nghe
thấy, được nhắc đến ở rất nhiều nơi. Vậy tư duy sáng tạo là gì?

19


Theo Nguyễn Cảnh Toàn: “Sáng tạo là sự vận động của tư duy từ
những hiểu biết đã có đến những hiểu biết mới”. Có cùng quan điểm với ông,
tác giả Chu Quang Tiềm cho rằng: “Sáng tạo, căn cứ vào những ý tưởng đã có
sẵn làm tài liệu rồi cắt xén, chọn lọc, tổng hợp lại để thành một hình tượng
mới” [12, tr 295].
Mặt khác, theo Nguyễn Đức Uy ông lại quan niệm: “Sáng tạo là sự đột
khởi thành hành động của một sản phẩm liên hệ mới mẻ, nảy sinh từ sự độc
đáo của một cá nhân và những tư liệu, biến cố, nhân sự, hay những hoàn cảnh
của đời người ấy”[15,Zr9]. Ta có thể nhận ra trong quan điểm này, tác giả cho

rằng đã là sáng tạo thì không có khác biệt dù sáng tạo nhiều hay ít.
Willson M - Nhà tâm lý học người Mỹ cũng đưa ra quan điểm của
mình về sáng tạo, ông cho rằng: “Sáng tạo là quá trình mà kết quả là tạo ra
những kết hợp mới cần thiết từ các ý tưởng dạng năng lượng, các đơn vị
thông tin, các khách thể hay tập hợp của hai ba các yếu tố nêu ra”[14,írl8].
Torrance P.E lại cho rằng: “Sáng tạo là quá trình trở nên nhạy cảm hay
nhận biết nhiều vấn đề, sự thiếu hụt hay lỗ hổng trong kiến thức, sự thiếu hụt
các yếu tố hay sự thiếu hòa hợp,...cùng nhau đưa đến các mối quan hệ mới
với những thông tin hiện đại có giá trị từ đó dẫn đến tìm kiếm những phương
án giải quyết, những phỏng đoán, công thức hóa về vấn đề” [18, tr 102].
X. L Rubinstêin một nhà tâm lý học người Nga nhận định "sự sáng tạo
là hoạt động của con người tạo ra những chất liệu mới có ý nghĩa xã hội và
những chất liệu mới ấy có thể là giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần” [19].
Theo Trần Hiệp và Đỗ Long: “Sáng tạo là hoạt động tạo lập phát hiện
những giá trị vật chất và tinh thần. Sáng tạo đòi hỏi cá nhân phải phát huy
năng lực, phải có động cơ tri thức, kĩ năng và với điều kiện như vậy mới tạo
nên sản phẩm mới, độc đáo, sâu sắc” [5].

20


Theo Từ điển Tiếng Việt: “Sáng tạo là tìm ra cái mới, cách giải quyết
mới, không bị gò bó phụ thuộc vào cái đã có” [13].
Nguyễn Bá Kim cho rằng: “Tính linh hoạt, tính độc lập và tính phê
phán là những điều kiện cần thiết của tư duy sáng tạo, là những đặc điểm về
những mặt khác nhau của tư duy sáng tạo. Tính sáng tạo của tư duy thể hiện
rõ nét ở khả năng tạo ra cái mới, phát hiện vấn đề mới, tìm ra hướng đi mới,
tạo ra kết quả mới. Nhấn mạnh cái mới không có nghĩa là coi nhẹ cái cũ” [9].
Tôn Thân quan niệm: “Tư duy sáng tạo là một dạng tư duy độc lập tạo
ra ý tưởng mới, độc đáo, và có hiệu quả giải quyết vấn đề cao. Tư duy sáng

tạo không bị gò bó phụ thuộc vào cái đã có. Tính độc lập của nó bộc lộ vừa
trong việc đặt mục đích vừa trong việc tìm giải pháp. Mỗi sản phẩm của tư
duy sáng tạo đều mang rất đậm dấu ấn của mỗi cá nhân đã tạo ra nó” [11].
J.DanTon cho rằng: “Tư duy sáng tạo đó là những năng lực tìm thấy
những ý nghĩa mới, tìm thấy những mối quan hệ, là một chức năng của kiến
thức, trí tưởng tượng và sự đánh giá, là một quá trình, một cách dạy và học
bao gồm những chuỗi phiêu lưu, chứa đựng những điều như: sự khám phá, sự
phát sinh, sự đổi mới, trí tưởng tượng, sự thí nghiệm, sự thám hiểm” [17] .

21


Các nhận định khác nhau về tư duy sáng tạo cho thấy ở từng góc nhìn
khác nhau sẽ có những quan niệm khác nhau. Các khái niệm về tư duy sáng
tạo tuy thể hiện sự không đồng nhất trong quan niệm của mỗi người nhưng
đều cho rằng: “Sáng tạo là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò
bó phụ thuộc vào cải đã có”. Và trong đề tài khóa luận này, chúng tôi có
chung quan niệm với Tôn Thân cho rằng: “TDST là một dạng tư duy độc lập
tạo ra ý tưởng mới, độc đảo, và có hiệu quả giải quyết vấn đề cao. Tư duy
sáng tạo không bị gò bó phụ thuộc vào cái đã có. Tính độc lập của nó bộc
lộvừa trong việc đặt mục đích vừa trong việc tìm giải pháp. Mỗi sản phẩm của
tư duy sảng tạo đều mang rẩt đậm dấu ẩn của mỗi cả nhân đã tạo ra nó”.
1.2.2.

Các đặc trưng của tư duy sáng tạo

Khi nghiên cứu về tư duy sáng tạo, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất
nhiều quan điểm khác nhau về những đặc trưng cơ bản của tư duy sáng tạo.
Tuy nhiên, điểm chung của các quan điểm này đó là: họ đều cho rằng tư duy
sáng tạo mang những đặc trưng cơ bản bao gồm tính mềm dẻo, tính độc đáo,

tính độc lập, tính nhuần nhuyễn, tính hoàn thiện, tính linh hoạt, tính phê phán,
tính nhạy cảm vấn đề,...
Không phải ngày nay tư duy sáng tạo mới được đề cập đến như một đối
tượng nghiên cứu mà bằng chứng cụ thể cho thấy từ xa xưa ông cha ta đã đúc
kết những kinh nghiệm về sáng tạo trong suy nghĩ, tư duy và hành động thành
các thành ngữ, tục ngữ để truyền lại cho con cháu đời sau như: “đi với bụt
mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy” hay “tùy cơ ứng biến”,...
Nổi bật nhất trong nghiên cứu về tư duy sáng tạo có lẽ phải nhắc đến
nhà nghiên cứu tâm lý học nổi tiếng người Mỹ Guilíord J.p, ông cho rằng:
“TDST là sự tìm kiếm và thể hiện những phương pháp logic trong tình huống
có vấn đề, tìm kiếm những phương pháp khác nhau và mới của việc giải quyết
vấn đề, giải quyết nhiệm vụ” [20]. Trong quan điểm của mình, Guilíord J.p đã
nhìn nhận tư duy sáng tạo với các đặc trưng đó là việc tiến hành suy nghĩ, tìm

22


kiếm các phương pháp mới, các phương pháp khác nhau có sự logic nhằm
giải quyết các vấn đề hay nhiệm vụ đặt ra một cách sáng tạo và chính xác
nhất. Ông coi sáng tạo là một thuộc tính và là một phấm chất của tư duy nên
gọi đó là tư duy sáng tạo.

23


Thống nhất quan điểm với các nhà tâm lý học nổi tiếng thế giới, cũng
như đồng quan điểm với Guilíord J.p, Loowenfeld (1962),... trong đề tài
nghiên cứu này chúng tôi cũng cho rằng có 5 yếu tố chính thể hiện đặc trưngcủa
tư duy sáng tạo đó là: tính mềm dẻo, tính nhuần nhuyễn, tính độc đáo,
tính hoàn thiện và tính nhạy cảm vấn đề.

a) Tính mềm dẻo (Aexibility)
Tính mềm dẻo là khả năng dễ dàng chuyển đổi từ góc độ quan niệm
này sang góc độ quan niệm khác hay nhanh chóng định nghĩa lại các đối
tượng nhận thức (sự vật, hiện tượng) mà chủ thể đang quan tâm nếu như quá
trình suy nghĩ, tư duy gặp phải trở ngại. Tính mềm dẻo của TDST thể hiện ở
việc dễ dàng điều chỉnh hệ thống tri thức có trật tự sắp xếp đã cũ bên cạnh đó
không bị chi phối, không áp đặt những kiến thức, kinh nghiệm cũ của bản
thân vào môi trường mới từ đó xây dựng được những phương pháp tư duy
mới, nhận ra được bản chất của các đối tượng cần nhận thức và hình thành sự
vật mới trong các mối quan hệ mới,... Đặc biệt tính mềm dẻo còn thể hiện ở
khả năng dễ dàng chuyển đổi những thái độ đã lâu bền, đã ăn sâu ở trong hoạt
động trí tuệ của con người.
b) Tính nhuần nhuyễn (Auency)
Tính nhuần nhuyễn (thuần thục) của TD là năng lực làm chủ tư duy,
nhận thức của bản thân chủ thể. Đặc trưng của tính nhuần nhuyễn là khả năng
tạo ra các giả thiết về các ý tưởng mới một cách nhanh chóng bằng cách kết
hợp các yếu tố riêng lẻ của các tình huống hay các đối tượng cần tri giác. Khi
gặp phải vấn đề mới, người có tư duy nhuần nhuyễn (thuần thục) có khả năng
nhìn nhận vấn đề trên nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau từ đó đề xuất ra
được nhiều giải pháp khác nhau để giải quyết được vấn đề đó một cách tối ưu
nhất. Ngoài ra, việc nhớ được nhanh và tái hiện nhanh các từ, các thành ngữ
hay những liên tưởng liên quan đến các ý tưởng đã được lưu trữ trong trí óc
cũng là biểu hiện cho tính nhuần nhuyễn.

24


c) Tính độc đáo (originality)

25



×