Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Vận dụng nguyên lí của sự phát triển trong hoạt động dạy học ở trường tiểu học và trong cuộc sống ”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.29 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài………………………………………………………………..2
Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………….3
Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………………....3
Ý nghĩa đề tài…………………………………………………………………....3
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG (NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN)…….4
1.1

Khái niệm phát triển…………………………………………………...4

1.2

Tính chất của sự phát triển…………………………………………….4

1.3

Ý nghĩa phương pháp luận…………………………………………….6

2. VẬN DỤNG………………………………………………………………….8
2.1

Vận dụng trong giáo dục……………………………………………....8

2.2

Vận dụng trong cuộc sống…………………………………………....10

3. KẾT LUẬN…………………………………………………………………12
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………..13


1


MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài:
Lịch sử nhân loại trải qua những thời kì khác nhau. Có lúc huy hoàng, có
lúc suy yếu, cái mới hay thế cho cái cũ song đó là quy luật tất yếu để hình thành
nên nền văn minh lịch sử nhân loại cho đến ngày nay. Sự thay đổi không ngừng
ấy không phải diễn ra một cách tự nhiên, vô cớ mà diễn ra theo nguyên lí của sự
phát triển. Nguyên lí của sự phát triển là một trong hai nguyên lí quan trọng của
phép biện chứng duy vật phản ánh về quá trình vận động khách quan của sự vật,
hiện tượng theo khuynh hướng đi lên, cái mới ra đời sẽ thay thế cho cái cũ
nhưng không phủ định hoàn toàn cái cũ. Sự vận động tất yếu ấy luôn tồn tại trên
khắp mọi ngành, mọi lĩnh vực như khoa học, kinh tế, xã hội, lịch sử, …, đặc biệt
là giáo dục. Theo Leibniz: “Ai làm chủ giáo dục có thể thay đổi thế giới”.
Luật giáo dục 2005 của nước ta đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài” (Điều 9).
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then
chốt.”
Như vậy, việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, thi, kiểm tra và
đánh giá chất lượng giáo dục là vấn đề mà Đảng, Nhà nước ngành Giáo dục đặc
biệt quan tâm. Nhận thấy được vai trò của nguyên lí của sự phát triển của phép
biện chứng duy vật đến giáo dục nên tôi quyết định chọn đề tài: “Vận dụng
nguyên lí của sự phát triển trong hoạt động dạy học ở trường Tiểu học và trong
cuộc sống.”
2



Mục tiêu nghiên cứu:
Từ việc tìm hiểu, nghiên cứu các tính chất, mối quan hệ của nguyên lí
phát triển của chủ nghĩa duy vật Mác-xít và ý nghĩa phương pháp luận từ đó vận
dụng nguyên lý vào hoạt động dạy học ở trường Tiểu học một cách có hiệu quả
nhằm cải thiện và phát triển chất lượng giáo dục ở nhà trường Tiểu học và trong
cuộc sống.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở sở lí luận của việc vận dụng nguyên lý phát triển trong hoạt
động dạy học ở trường tiểu học.
- Nghiên cứu cụ thể về việc vận dụng một số tính chất, yêu cầu, ý nghĩa
phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển của triết học duy vật biện
chứng vào hoạt động dạy học ở nhà trường tiểu học.
Ý nghĩa đề tài
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lí luận và thực tiễn của nguyên lí về sự phát
triển của triết học duy vật biện chứng vào quá trình dạy học ở trường tiểu học và
cuộc sống.
- Đưa ra một số cách ứng dụng nguyên lí về về sự phát triển của triết học
duy vật biện chứng nhằm nuôi dưỡng, củng cố, phát triển năng lực, đạo đức, tâm
hồn của người học và người dạy không chỉ trong trường học mà còn trong cuộc
sống.

3


1. Cơ sở lí luận chung:
Nguyên lí về sự phát triển:
1.1


Khái niệm:

Phát triển là một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật,hiện
tượng theo khuynh hướng đi lên từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
“Mỗi một sự tiến bộ trong sự phát triển hữu cơ đồng thời lại là sự thoái
bộ, vì nó cũng cố sự phát triển phiến diện và loại trừ khả năng phát triển theo
nhiều khuynh hướng khác nhau” (Engles).
Vận động là một phạm trù của triết học Mác - Lênin dùng để chỉ về một
phương thức tồn tại của vật chất (cùng với cặp phạm trù không gian và thời
gian), đó là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra
trong không gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp.
Hai khái niệm phát triển và vận động là khác nhau.
1.2

Tính chất của sự phát triển:

Sự phát triển có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Các tính
chất đó của sự phát triển phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới vật chất
Thứ nhất, tính khác quan:
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật, hiện tượng,
không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay không muốn thì bản
thân sự vật, hiện tượng luôn luôn nằm trong quá trình phát triển.

4


Thứ hai, tính phổ biến:
Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng trong mọi lĩnh vực

tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái
mới tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật khách quan.
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú:
Phát triển là khuynh hướng chung của sự vật, hiện tương. Sự phát triển
thường diễn ra quanh co, phức tạp, có thể trải qua những khâu trung gian, thậm
chí có những bước thụt lùi tạm thời, nhưng chính sự thụt lùi ấy lại đóng vai trò
là tiền đề, điều kiện cho một vận động đi lên.
Sự phát triển không hoàn toàn giống nhau ở các sự vật, hiện tượng khác
nhau, trong những điều kiện không gian và thời gian khác nhau, trong những
lĩnh vực hiện thực khác nhau.
Trong thế giới tự nhiên sự phát triển thể hiện ở:
- Mức độ hoàn thiện của tổ chức vật chất
- Sự xuất hiện của những giống loài mới ngày càng phức tạp hơn
- Khả năng thích nghi của cơ thể với các điều kiện môi trường khác
nhau….
Trong lĩnh vực xã hội, sự phát triển thể hiện ở:
- Trình độ của nền sản xuất xã hội
- Khả năng chinh phục thế giới tự nhiên của con người

5


- Quá trình nhân đạo hóa đời sống xã hội loài người và hoàn thiện bản
chất con người…
Trong tư duy, sự phát triển thể hiện ở:
- Trình độ nhận thức của con người
- Trình độ tư duy logic
- Khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa…
Quan điểm biện chứng về sự phát triển còn chỉ ra rằng, cách thức của sự

phát triển là từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược
lại; nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn nội tại của bản thân các
sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối đối lập; khuynh
hướng của sự phát triển là phủ định của phủ định, sau mỗi chu kỳ phủ định của
phủ định, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao
hơn.
1.3

Ý nghĩa phương pháp luận

Nguyên lí về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình nhận thức và thực tiễn
cần phải tuân theo quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm phát triển yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần đặt nó trong trạng thái vận động,
biến đổi không ngừng.
- Cần vạch ra cái tương lai trong cái hiện tại, phát hiện ra những nhân tố
mới tiến bộ đang tiềm ẩn trong cái cũ, chỉ rõ những tính chất đứng im trương
đối, tạm thời của cái cũ; vạch ra xu hướng phát triển của cái mới và tạo mọi điều
kiện cho cái mới, cái tiến bộ ra đời. Cái mới lúc đầu được ra đời có thể còn non
6


yếu, mỏng manh, nhưng nhất định sẽ trở thành vững chắc; còn cái cũ cho dù có
bền vững đến mấy thì nhất định cũng sẽ bị phá vỡ và được thay thế bằng cái mới
tiến bộ hơn.
- Cần phải phân chia quá trình phát triển thành các giai đoạn, nghiên cứu để
vạch ra đặc điểm, nội dung của từng giai đoạn. Từ đó, đề ra các giải pháp, biện
pháp tác động một cách phù hợp nhằm thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của
sự vật, hiện tượng, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại cho đời sống của
con người và xã hội.

- Quan điểm phát triển chống lại quan điểm chủ quan, tả khuynh, nóng vội,
duy ý chí, vội vàng xóa bỏ cái cũ, tạo ra cái mới khi chưa có đầy đủ điều kiện
chín muồi.
- Quan điểm phát triển chống lại quan điểm bảo thủ trì trệ, hữu khuynh, gây
cản trở sự phát triển, cứ giữ khăng khăng cái cũ, không chịu tạo ra cái mới khi
đã hội đủ điều kiện chín muồi.
Như vậy, quan điểm phát triển là cơ sở trí tuệ của tinh thần lạc quan của
những người cách mạng.
Khái quát ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối quan
hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, tức là phương pháp biện chứng trong
nhận thức và thực tiễn, Ph. Ăngghen viết: “Phép biện chứng là phương pháp mà
điểu căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư
tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận
động, sự phát sinh và tiêu vong của chúng”
V. I. Lênin cho rằng: “Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả
các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan
hệ đó, chứ không phải lấy một mẩu ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia.”
7


2. Vận dụng:
2.1

Vận dụng trong giáo dục:

- Trong quá trình dạy học: mỗi học sinh có sự phát triển về trí tuệ và thể
chất khác nhau, giáo viên cần tôn trọng sự phát triển khác nhau giữa các học
sinh để áp dụng các phương pháp dạy học, hình thức tổ chức, dạng bài tập tương
ứng với học sinh để giúp học sinh càng hoàn thiện, nâng cao thể lực, trí tuệ, cảm
xúc.

- Khi dạy một kiến thức mới thì giáo viên cần dựa trên những kiến thức cũ
mà học sinh đã tích lũy được. Từ đó việc tiếp thu kiến thức mới đối với học sinh
dễ dàng hơn, tạo động lực cho việc học tập.
- Khi xem xét đánh giá học sinh: Cần xem xét cả quá trình phấn đấu, nỗ lực
của trẻ, không nên chỉ dựa vào điểm số tức thời mà đưa ra kết luận quy chụp.
Chẳng hạn một học sinh có thành tích không được tốt trong bài kiểm tra, nhưng
trong quá trình học tập học sinh ấy không ngừng nổ lực, cải thiện bản thân, sự
tiến bộ của học sinh đó không nhiều nhưng xét lại đó là sự phát triển từng bước
một, cần có thời gian để hoàn thiện. Vì thế giáo viên cần xem xét kĩ vấn đề rồi
hãy đưa ra đánh giá.
- Với những học sinh có hành vi, thái độ chưa đúng đắn phù hợp. Giáo viên
nên tìm hiểu kĩ nguyên nhân vì sao học sinh đó lại có hành vi, thái độ như thế để
can thiệp xử lí tốt nhất. Vì bản chất của mỗi đứa trẻ đều xuất phát là đứa trẻ
ngoan nhưng khi các yếu tố xung quanh các em tác động đến các em làm cho
các em phản ứng thể hiện bằng những hành động, thái độ không phù hợp. Việc
xử lí từ các yếu tố nguyên nhân hình thành sẽ giúp người giáo viên ứng xử, can
thiệp có hiệu quả, tạo được sự tin tưởng, công bằng đối với học sinh. Nhưng
muốn uốn nắn có hiệu quả thì cần phải phát hiện và xử lí càng sớm càng tốt.
8


- Quan tâm đến những khả năng tiềm ẩn như năng khiếu, sở thích, sự tiến
bộ tích cực,… để vạch ra xu hướng phát triển, khuyến khích, động viên, tạo điều
kiện để học sinh phát triển năng lực, năng khiếu của các em.
Chẳng hạn, mỗi học sinh sẽ có những thế mạnh ưu điểm của bản thân
khác nhau. Có em có khả năng vẽ, có em có khả năng ghi nhớ tốt, có em có khả
năng âm nhạc,… thì người giáo viên cần quan sát, phát hiện ra những yếu tố
tiềm ẩn trong mỗi học sinh và đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện để các em
phát huy cũng như nâng cao khả năng tiềm ẩn ấy.
- Quá trình giáo dục là một quá trình lâu dài không phải một sớm một

chiều. Ở trường tiểu học được chia thành 5 cấp lớp khác nhau tương ứng với với
từng độ tuổi, tâm lí, khả năng tri thức khác nhau. Mỗi cấp học này được đề ra
các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ riêng biệt cho nên người giáo viên cần
linh hoạt và lưu ý để có thể truyền thụ kiến thức đúng và cách ứng xử với mỗi
cấp lớp học sinh khác nhau.
- Trong giáo dục không nên nóng vội. Để nâng cao thêm cho một học sinh
khá để nâng cao kiến thức, tư duy cho học sinh đó thì giáo viên nên đưa các bài
tập bước đệm để học sinh từng bước tri nhận kiến thức đó. Nếu đột ngột đưa
một bài tập quá khó học sinh chưa biết thì sẽ khiến học sinh đó chán nản, áp lực,
buông xuôi.
- Cần chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ. Hiện nay, giáo dục mỗi ngày
không ngừng thay đổi và đổi mới từ nguồn tư liệu dạy học, phương tiện dạy học
cho đến các phương pháp cũng như hình thức tổ chức dạy học. Cho nên để có
thể là một người giáo viên giỏi, có chuyên môn, là một người dẫn đường tốt cho
các thế hệ mầm non đất nước, giáo viên không ngừng học tập, tra cứu tài liệu,
cập nhật các phương pháp dạy học cũng như trao dồi khả năng sử dụng công
nghệ thông tin trong dạy học. Việc cứ khăng khăng giữ vẫn cách dạy truyền
9


thống xuyên suốt giữa các tiết dạy “thầy giảng, trò nghe” thì sẽ không mang lại
giá trị cho bản thân người học và bản thân người dạy.
- Không phải lúc nào thì giáo viên luôn luôn đúng. Chúng ta cần lắng nghe
các ý kiến phản hồi từ phía học sinh. Những ý tưởng, nhận xét của mỗi học sinh
trong quá trình học tập, tham gia các hoạt động ở trường giáo viên cần tôn trọng
và mở rộng hoặc điều chỉnh nếu cần thiết. Không bác bỏ, phủ định hoàn toàn
suy nghĩ của học sinh, không áp đặt mọi suy nghĩ, đáp án của giáo viên lên học
sinh. Nếu đều đó xảy ra lâu ngày học sinh đó sẽ mất đi sự tự tin, thụ động không
dám bày tỏ suy nghĩ, quan điểm của các em.
2.2


Vận dụng trong đời sống:

- Khi mới gặp mặt một người nào đó đừng vội đánh giá người đó qua bề
ngoài, những lời nhận xét của người khác về người đó. Chúng ta cần tiếp xúc,
giao tiếp với người đó qua một quá trình lâu dài để đưa ra nhận xét của bản thân
người đó như thế nào. Có thể tại một thời điểm nào đó người bạn ấy là một
người chưa tốt nhưng qua một quá trình người bạn đó rèn luyện, thay đổi bản
thân tốt hơn thì chúng ta nên nhìn nhận cả của quá trình của người đó.
- Khi cần giải quyết một vấn đề chúng ta cần xem xét các mặt của vấn đề
đó đừng chỉ nhìn theo chiều hướng một chiều. Chẳng hạn, việc chọn chú chó
Shiba Nhật để đóng “cậu Vàng” trong bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm văn
học kinh điển của Việt Nam “Lão Hạc”. Có nhiều ý kiến cho rằng đây là một bộ
phim Việt Nam lại chọn chú chó Nhật. Nhưng chúng ta cần xem xét rằng lí do
không chọn chú chó thuần Việt có lẽ vì chó thuần Việt là loại chó thiên hướng
tự nhiên khá dữ, dễ cắn người khó điều khiển, vấn đề về kinh phí, hình tượng
đẹp,… Nhưng cái cốt yếu quan trọng là dù bộ phim có chú chó Nhật đóng
nhưng chung quy tổng thể nếu bộ phim đó mang đậm hơi thở linh hồn của Việt
Nam thì chúng ta nên có cái nhìn khách quan hơn.
10


- Bệnh bảo thủ trì trệ là tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa
dẫm vào người khác thậm chí cản trở cái mới. Đây là một căn bệnh vô cùng
nguy hiểm. Để ngăn chặn căn bệnh này chúng ta phải rèn luyện ý thức tự chủ,
độc lập, tham học hỏi tiếp thu các tư tưởng, văn hóa, khoa học công nghệ tiến bộ
một cách có chọn lọc phù hợp với văn hóa của dân tộc. Ngày nay, chúng ta là
công dân toàn cầu, việc học thêm các ngoại ngữ, áp dụng các phần mềm, máy
móc của nước ngoài trong việc ứng dụng sản xuất, trong cuộc sống hằng ngày,
trong học tập là điều cần thiết. Nếu chúng ta cứ khăng khăng rằng tôi là người

Việt, tôi chỉ ở đất nước của mình Việt Nam, tôi không cần học tiếng nước ngoài
thì việc này không chỉ khiến cá thể ấy thụt lùi đi so với thời đại tiến bộ mà nếu
nhiều cá thể có suy nghĩ như vậy sẽ gây tổn thất cho đất nước.
- Chúng ta cần nhìn nhận được những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân
từ đó xây dựng cho mình một kế hoạch hoặc một tiến trình để cải thiện điểm
yếu, phát triển điểm mạnh hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn của kế hoạch cần xem
xét lại bản thân đã hoàn thành được những gì, chưa thực hiện được gì để tiếp tục
hoàn thiện. Ví dụ: bạn đặt ra mục tiêu có thể giao tiếp sử dụng được Tiếng Anh.
Bạn cần biết điểm mạnh của bạn, điểm yếu của bạn. Có thể bạn có khả năng ở kĩ
năng viết, đọc nhưng kĩ năng nghe và nói chưa tốt. Bạn đặt ra mục tiêu mỗi ngày
sẽ nghe 5 phút, khi bạn quen với việc mỗi ngày nghe 5 phút bạn sẽ tăng thời
lượng nghe nhiều hơn dần dài điều đó sẽ thành thói quen và khả năng nghe của
bạn sẽ được cải thiện.
- Chúng ta không ngừng học tập, đọc sách một cách có ý nghĩa. Có ý nghĩa
ở đây là từ việc học, việc đọc tạo ra giá trị cho chúng ta. Học đi đôi với hành.
Đọc cần phải suy nghĩ, hệ thống hóa, tổng hợp các kiến thức thông điệp đã đọc,
đã học mở rộng hiểu biết, suy nghĩ, tình cảm để áp dụng trong học tập và trong
cuộc sống.
11


3 Kết luận:
Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nội dung cơ bản quan trọng của
phép duy vật biện chứng. Nguyên lí này nghiên cứu về quá trình vận động của
các sự vật, hiện tượng, xem các sự vật, hiện tượng như một chỉnh thế có thể phát
triển theo những quy luật khác quan và trong sự phát triển của chính nó. Vì thế,
trong quá trình tìm hiểu các tài liệu và tìm hiểu thực tiễn về việc áp dụng nguyên
lý phát triển của phép biện chứng duy vật trong việc giáo dục ở nhà trường tiểu
học và trong cuộc sống, tôi nhận thấy rằng để vận dụng có hiệu quả nguyên lý
này đòi hỏi người giáo viên cần nhận thức sâu sắc giá trị, ý nghĩa phương pháp

luận của quan điểm này, đồng thời áp dụng một cách toàn diện, lâu dài, có hiệu
quả trong công việc giáo dục và trong cuộc sống hằng ngày của mỗi giáo viên.
Từ đó, góp phần hoàn thiện kĩ năng, chuyên môn của giáo viên trong công việc
giáo dục, nuôi dưỡng và phát triển tiềm năng của các mầm non của đất nước.
Ngoài ra, còn góp phần hoàn thiện bản thân về nhận thức, về ý thức phát triển
của bản thân trong đời sống tinh thần.

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Khá, Giáo trình Chuyên đề triết học, NXB Đại học Sư
phạm, TP. Hồ Chí Minh, 2017.
2. Nguyễn Ngọc Khá, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới phát triển
toàn diện với việc xây dựng và phát triển con người Việt Nam hiện nay”,
Tạp chí Khoa học, Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh, số 4 (69), 2015.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mac – Lênin (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng không chuyên
ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB Chính trị Quốc gia Hà
Nội, 2011.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Triết học (Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên
cao học không thuộc chuyên ngành triết học), (3 tập), NXB Chính
trị Quốc gia Hà Nội, 1999.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB CTQG, Hà Nội, 2011.
6. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t. 20, NXB CTQG, Hà Nội, 1995, tr.
38
7. V. I. Lênin, Toàn tập, t. 42, NBX Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr. 238

13




×