Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận môn kế hoạch hóa - đánh giá thực hiện kế hoạch thương mại quốc tế giai đoạn 2001 -2010 2.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.35 KB, 38 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
Thương mại quốc tế là một hoạt động quan trọng của một quốc gia, đặc biệt
trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay thì các quan hệ hợp tác với nước ngoài có
thể có tác động rất lớn tới việc phát triển kinh tế. Việt Nam của chúng ta mới
chỉ bắt đầu mở cửa từ năm 1991 bằng việc tham gia liên hợp quốc và gần đây
nhất là việc gia nhập WTO vào năm 2007. Nó không chỉ đánh dấu một bước
tiến quan trọng trong hợp tác quốc tế mà còn cho thấy tầm quan trọng của
những chính sách thương mại quốc tế hiện nay. Trong những năm gần đây
chúng ta đã phát huy được thế mạnh rất lớn trong phát triển một số ngành mũi
nhọn cho xuất khẩu như gạo, dệt may, da giầy, dầu thô…tuy nhiên chúng ta
cũng nhập khẩu với con số lớn mà chủ yếu là nguyên vật liệu dùng cho sản
xuất. Nhập siêu liên tục tăng cao đã ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng và phát
triển kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới đang gặp khó khăn hiện
nay. Kế hoạch 5 năm 2006-2010 đã chỉ rõ nhiệm vụ chính của thương mại quốc
tế là tăng giá trị xuất khẩu các mặt hàng chủ lực và giảm nhập siêu tiến tới cân
bằng cán cân xuất-nhập khẩu. Trong thời gian qua chúng ta đã đi được 2/3
chặng đường nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết, rất nhiều nhiệm vụ
cần thực hiện.
1
2
A. LÝ LUẬN CHUNG
I. Khái niệm, nhiệm vụ của kế hoạch thương mại quốc tế
1. Khái niệm
Kế hoạch thương mại quốc tế là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội, nó đưa ra các định hướng phát triển thương mại quốc tế,
các mục tiêu về thương mại quốc tế cần thực hiện trong thời kỳ kế hoạch và
hệ thống các chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế
2. Nhiệm vụ:
Xác định quy mô và tốc độ hoạt động xuất nhập khẩu, đảm bảo phù hợp với
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và tiến trình hội nhập của đất nước


Xác định danh mục sản phẩm xuất khẩu chủ yếu. Đảm bảo phát huy được
lợi thế so sánh của đất nước và hiệu quả kinh tế của xuất khẩu
Xác định danh mục sản phẩm nhập khẩu, đảm bảo phục vụ cho sản xuất
trong nước.
Đề ra các chính sách biện pháp hợp lý để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu
II. Hoạt động xuất nhập khẩu
Thương mại quốc tế của một quốc gia bao gồm 2 hoạt động chủ yếu là:
Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá.
1 . Vai trò của xuất nhập khẩu:
Xuất nhập khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ với bên ngoài
của một quốc gia. Xuất nhập khẩu là các hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản,
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Xuất nhập khẩu có vai trò cực kỳ quan trọng
trong sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế .
2
3
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu: Để phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, cần phải có một nguồn vốn
lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại. Nguồn vốn ngoại tệ
chủ yếu từ các nguồn: xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, vay vốn, viện trợ, thu từ
hoạt động du lịch, các dịch vụ có thu ngoại tệ, xuất khẩu lao động... Xuất
khẩu là nguồn vốn chủ yếu để nhập khẩu.
Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Xuất khầu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển. Xuất khẩu
không chỉ tác động làm gia tăng nguồn thu ngoại tệ mà còn giúp cho việc gia
tăng nhu cầu sản xuất, kinh doanh ở những ngành liên quan khác. Xuất khẩu
tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, giúp cho Sản xuất ổn định và
kinh tế phát triển.vì có nhiều thị trường=> Phân tán rủi ro do cạnh tranh. Xuất
khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng
cao năng lực sản xuất trong nước. Thông qua cạnh tranh trong xuất khẩu,
buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến sản xuất, tìm ra những cách

thức kinh doanh sao cho có hiệu quả, giảm chi phí và tăng năng suất .
Xuất khẩu tích cực giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống
người dân. Xuất khẩu làm tăng GDP, làm gia tăng nguồn thu nhập quốc dân,
từ đó có tác động làm tăng tiêu dùng nội địa-> nhân tố kích thích nền kinh tế
tăng trưởng. Xuất khẩu gia tăng sẽ tạo thêm công ăn việc làm trong nền kinh
tế, nhất là trong ngành sản xuất cho hàng hoá xuất khẩu, xuất khẩu làm gia
tăng đầu tư trong ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu -> Là nhân tố kích thích
nền kinh tế tăng trưởng .
Trong khi đó nhập khẩu sẽ giúp chúng ta cân bằng được lượng hàng hoá
trong nước, bù đắp được lượng hàng hoá thiếu hụt cho sản xuất và tiêu dùng .
Ngoài ra nhập khẩu còn thúc đẩy và nâng cao năng suất lao động khi chúng ta
3
4
tiếp nhận các khoa học công nghệ và dây chuyền sản xuất tiên tiến từ nước
ngoài.
2. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu.
2.1. Nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
- Nhân tố khách quan: Tình hình biến động kinh tế - chính trị thế giới và
khu vực: khủng hoảng kinh tế Mỹ, Trung Quốc gia nhập WTO, sự sụt
giảm của thị trường chứng khoán toàn cầu, …
Các nhân tố này có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến tình hình xuất khẩu
của nước ta, nó tác động đến tỷ giá hối đoái, lãi suất tiền gửi – cho vay, nhu
cầu tiêu thụ các mặt hàng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, thứ tự thị trường có
doanh thu lớn nhất…
Ví dụ: Việc Trung Quốc gia nhập WTO đã gây ra khá nhiều trở ngại và sự
cạnh tranh lớn cho xuất khẩu của Việt Nam, hầu hết tại các thị trường lớn và
tiềm năng như Mỹ, Nhật, EU … hàng hóa của Trung Quốc đều cạnh tranh rất
ác liệt với hàng hóa Việt Nam, không những thế, nhiếu mặt hàng của TQ đã
vượt qua Việt Nam, thay thế hàng hóa Việt Nam do hàng hóa TQ đa dạng về
chủng loại, màu sắc, kích cỡ và mẫu mã… tuy nhiên theo đánh giá của nhiều

người tiêu dùng, háng hóa Việt Nam thường có độ bền cao hơn và an toàn
trong sử dụng hơn, vì vậy thời gian tiếp theo, xuất khẩu VN cần quan tâm
nhiều hơn tới thế mạnh này.
- Nhân tố chủ quan: Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ
chức thương mại thế giới, Việt Nam đặt mối quan hệ ngoại thương với
trên 155 nước trên thế giới, khai thông các quan hệ với các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB (1992);gia nhập các tổ chức
khu vực và quốc tế như ASEAN (1995); gia nhập APEC (1998)... Việt
4
5
Nam cũng đã ký kết hiệp định thương mại song phương, hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư ký kết Hiệp định thương mại Việt Mỹ vào
7/2000....
II.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến nhập khẩu
- GDP của một nước sẽ là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình nhập
khẩu của nước đó. Một nền kinh tế có sức sản xuất cao sẽ có khả năng đáp
ứng được các nhu cầu trong nước và do vậy sẽ không phải nhập khẩu nhiều
các loại hàng hoá từ bên ngoài. Ngược lại, các nước đang phát triển hay kém
phát triển có sức sản xuất thấp sẽ phải nhập khẩu tương đối nhiều các loại
hàng hoá từ các nước khác. Việt Nam hiện nay vẫn được coi là một nước có
kim ngạch nhập khẩu cao vì sản xuất trong nước vẫn chưa thể đáp ứng được
các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên một thực tế tại Việt Nam hiện
nay là có rất nhiều loại hàng hoá mà trong nước sản xuất được nhưng các
doanh nghiệp vẫn nhập khẩu làm cho nền sản xuất của chúng ta phụ thuộc
khá nhiều vào bên ngoài như hiện nay.
- Ngoài yếu tố chủ yếu là GDP thì tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại
tệ được quy định cũng ảnh hưởng đến kim ngạch nhập khẩu. Nếu nhà nước
quy định một tỷ giá hối đoái cao thì nhập khẩu sẽ có xu hướng tăng lên. Điều
đó có nghĩa là khi nhà nước nâng cao giá trị đồng nội tệ thì hàng hoá nhập
khẩu sẽ giảm đi một cách tương đối trên thị trường trong nước và làm cho xu

hướng nhập khẩu gia tăng. Nhập khẩu xét về bản chất là dựa trên lợi thế tương
đối (lợi thế so sánh) hay chi phí so sánh để sản xuất hàng hoá.Khi những chi
phí về nhập khẩu một loại hàng hoá thấp hơn chi phí để sản xuất ra chúng thì
chúng ta sẽ chọn cách nhập khẩu hàng hoá đó.
5
6
- Yếu tố xuất khẩu cũng ảnh hưởng đến nhập khẩu của một quốc gia. Một
chính sách phát triển một ngành hay lĩnh vực nào đó để xuất khẩu cũng đòi hỏi
một chính sách nhập khẩu hợp lý nhằm cung ứng đầy đủ các yếu tố kỹ thuật,
nguyên vật liệu để phát triển ngành hay lĩnh vực đó. Ví dụ như ngành da giầy
của chúng ta hiện nay, muốn phát triển ngành này nhằm phục vụ cho xuất khẩu
thì ta phải nhập các loại da giầy cao cấp và đạt tiêu chuẩn chất lượng từ bên
ngoài khi mà trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu đó. Và thực tế thì các mặt
hàng xuất khẩu chủ đạo của chúng ta đang gặp tình trạng trên.
- Thuế và các chính sách bảo hộ hàng trong nước của chính phủ. Thuê là
yếu tố tác động gián tiếp đến việc nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước.
Nếu với một mức thuế nhập khẩu cao hay một chính sách bảo hộ hàng trong
nước thì sẽ làm cho các doanh nghiệp cân nhắc về quyết định nhập khẩu một
loại hàng hoá nào đó từ nước ngoài, nó cũng sẽ hạn chế tiêu dùng đối với những
hàng hoá này trên thị trường trong nước.
B. ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN
I. Tình hình xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2006-2008
1. Xuất khẩu
1.1. Kim ngạch xuất khẩu:
6
7
(đơn vị: tỷ USD)
Năm 2006, xuất khẩu ước tính đạt 39,6 tỷ USD và đã vượt 4,9% so với kế
hoạch cả năm. Có tới 9 mặt hàng vượt ngưỡng 1 tỉ USD: Dầu thô (8,32 tỉ
USD); dệt may (5,8 tỉ USD); giày dép (3,55 tỉ USD); thuỷ sản (3,36 tỉ USD);

sản phẩm gỗ (1,94 tỉ USD); linh kiện điện tử và máy tính (1,77 tỉ USD); gạo
(1,3 tỉ USD); caosu (1,27 tỉ USD); càphê (1,1 tỉ USD).
Hoa Kỳ vẫn là đối tác đầu bảng xuất khẩu của VN (8 tỉ USD); kế đến là EU
(6,8 tỉ USD); ASEAN (6,56 tỉ USD); Nhật Bản (5,2 tỉ USD); Trung Quốc (3,2
tỉ USD)...
Năm 2007, hoạt động xuất của nước ta đã đạt được một số kết quả khả quan thể
hiện trên các mặt: Kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so
với năm 2006, vượt 3,1% so với kế hoạch Chính phủ đặt ra. Trong đó: Kim
ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 27,3 tỷ USD, chiếm 56,9%
kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 18,6% so với năm 2006; khu vực doanh
nghiệp trong nước tăng 23,1% so với năm 2006.
7
8
Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2007 tăng 8,2 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch
xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản tăng 1,7 tỷ USD, nhóm nhiên liệu,
khoáng sản tăng 0,2 tỷ USD, nhóm công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tăng 3,7
tỷ USD và nhóm hàng khác tăng 2,6 tỷ USD.
10 mặt hàng và nhóm hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD là thuỷ sản,
gạo, cà phê, cao su, dầu thô, dệt may, giầy dép, điện tử và linh kiện máy tính,
sản phẩm gỗ và nhóm sản phẩm cơ khí. Trong đó, ngoài 4 mặt hàng lớn truyền
thống là dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản kim ngạch mỗi mặt hàng đạt
trên 3 tỷ USD, thì 2 mặt hàng điện tử và sản phẩm gỗ cũng đã đạt trên 2 tỷ
USD.
Xuất khẩu năm 2008 đạt tốc độ tăng trưởng 22% với kim ngạch xuất khẩu theo
ước tính đạt 58,6 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm,
thuỷ sản đạt 10,65 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 8,2%; nhóm khoáng sản đạt 9,7
tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 3,3%; nhóm hàng công nghiệp chế biến đạt 28 tỷ
USD, tốc độ tăng trưởng 30,8%; nhóm hàng hoá khác đạt 10,25 tỷ USD, tốc độ
tăng trưởng 39,5%. Kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng đều tăng so
với cùng kỳ năm 2007, trong đó 8 mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD là: Dầu thô đạt

5,6 tỷ USD, tăng 49% so với cùng kỳ năm trước; hàng dệt may đạt 4,1 tỷ
USD, tăng 17,7%; giày dép đạt 2,3 tỷ USD, tăng 16,9%; thủy sản đạt 1,9 tỷ
USD, tăng 14%; gạo đạt 1,5 tỷ USD, tăng 99%; sản phẩm gỗ đạt 1,4 tỷ USD,
tăng 20,4%; điện tử máy tính đạt 1,2 tỷ USD, tăng 32,4%; cà phê đạt 1,2 tỷ
USD, giảm 4,1%.
1.2. Các mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu của Việt Nam
Nhóm hàng nông -lâm – thủy sản
8
9
Giai đoạn 2006 – 2008, nhóm mặt hàng này cũng đã đóng góp một tỷ trọng
tương đối lớn trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta,
Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản sẽ giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu hàng hoá
xuất khẩu của Việt Nam từ 19,1% năm 2006 xuống còn 13,7% năm 2010. .
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết trong tháng 10 năm 2008 tình
hình tiêu thụ nông lâm, thuỷ sản gặp nhiều khó khăn trở ngại do nguồn cung
một số mặt hàng tăng như (gạo, cao su, cà phê), xuất khẩu bị chững lại và giảm
nhẹ. Kim ngạch xuất khẩu tháng 10 ước khoảng 1,39 tỷ USD, tăng 25,6% so
với tháng 10 năm 2007, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 10 tháng đầu năm ước
13,7 tỷ USD tăng 25,7% so với cùng kỳ. Trong đó, các mặt hàng nông sản đạt
7,4 tỷ USD, tăng 30%; lâm sản 2,46 tỷ USD tăng 16,7%; thuỷ sản ước 3,8 tỷ
USD tăng 23,8%. Tính đến tháng 10 năm 2008, ngành nông nghiệp đã có 5 mặt
hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD gồm gao, thuỷ sản, gỗ và sản phẩm gỗ, cà
phê và cao su trong tổng số 11 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1tỷ USD của cả
nước.
Cụ thể các mặt hàng chính như tổng lượng gạo xuất khẩu 10 tháng đầu năm ước
đạt trên 4 triệu tấn, kim ngạch đạt 2,65 tỷ USD, so cùng kỳ năm trước tăng 90%
về giá trị. Gạo là mặt hàng có mức tăng kim ngạch cao nhất trong các mặt hàng
nông lâm sản trong 10 tháng đầu năm nay. Theo số liệu của Tổng Cục Hải
quan, giá gạo xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm đạt 649 USD/T, tăng gấp
hơn 2 lần so cùng kỳ năm trước. Cà phê ước 805 ngàn tấn, kim ngạch xấp xỉ 1,7

tỷ USD, tăng 10% về kim ngạch. Tổng khối lượng cao su 10 tháng đầu năm ước
đạt 519 ngàn tấn và kim ngạch đạt 1,4 tỷ USD, giảm 8,6% về khối lượng, tăng
31% về giá trị so với cùng kỳ năm 2007. Chè ước trên 90 ngàn tấn, kim ngạch
đạt 127 triệu USD, tăng 25,8% về giá trị. 10 tháng đầu năm xuất khẩu được 136
9
10
ngàn tấn điều nhân, thu về 769 triệu USD, tăng 9,6% về lượng và 46,8% về giá
trị.
Bảng cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam 10 tháng đầu 2008
Mặt hàng Sản lượng Đơn vị Kim ngạch Mức độ gia tăng
về giá trị
Gạo
Cà phê 850 Ngàn tấn 1,7 tỷ USD 10%
Cao su 519 - 1,4 tỷ USD 31%
chè 90 - 127triệu USD 25,8%
Điều 136 - 769 triệu USD 46,8%
Nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản
Trong những năm gần đây, chỉ tính riêng 2 mặt hàng là than đá và dầu thô đã
chiếm gẩn 20% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước. Sản lượng khai thác
của loại mặt hàng này không ổn định, khối lượng khai thác dầu thô chỉ tăng
trong những năm đầu giai đoạn 2001- 2007, những năm sau trữ lượng khai thác
đã giảm do những mỏ dầu đang khai thác dần cạn kiệt còn công tác thăm dò tìm
kiếm mỏ mới lại không thuận lợi, không đạt kế hoạch đặt ra.
Thời gian tiếp theo, để tiết kiệm nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường, Bộ
thương mại đã đặt ra chủ trương hạn chế xuất khẩu tài nguyên và kế hoạch
dành một phần sản lượng khai thác dầu phục vụ cho các nhà mày lọc dầu trong
nước. Vì vậy điều chỉnh mục tiêu xuất khẩu của nhóm mặt hàng này giảm
xuống, chỉ còn chiếm 9,6 % vào năm 2010, trong đó giá trị xuất khẩu dầu thô
còn 6,1 tỷ USD và than đá còn 325 triệu USD.
Nhóm hàng quặng và các loại khoáng sản chế biến khác: Hiện tại, nhóm

hàng này đang có qui mô xuất khẩu khoảng 145 triệu USD và tăng mạnh trong
một số năm gần đây, chủ yếu bao gồm các loại quặng sắt, đồng, bôxit nhôm.
10
11
Dự kiến xuất khẩu của nhóm khoáng sản này trong giai đoạn 2006-2010 tăng
bình quân 28,1%/năm và đạt khoảng 500 triệu USD vào năm 2010.
Nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ.
Trong khi hai nhóm hàng trên đều có xu hướng giảm dần tỷ trọng kim ngạch
thì riêng nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ lại tăng khá mạnh từ
45,9% năm 2006 lên 54,1% năm 2010 với kim ngạch đạt được trên 39 tỷ USD.
Theo dự đoán của các chuyên gia, Giai đoạn 2006-2010, nhóm sản phẩm công
nghiệp và thủ công mỹ nghệ dự kiến sẽ là nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng cao
nhất đạt 36,3%/năm, chiếm 50,6% tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn
2006-2010 của cả nước.
Các sản phẩm thuộc nhóm hàng này bao gồm: dệt may, da- giày, điện tử, linh
kiện máy tính; thủ công mỹ nghệ; sản phẩm gỗ, nhựa; xe và phụ tùng xe; dây -
cáp điện; thép và các sản phẩm từ gang thép; máy biến thế và động cơ điện; hóa
mỹ phẩm và chất tẩy rửa;vật liệu xây dựng, đóng tàu… Trong đó các mặt hàng
có kim ngạch xuất khẩu lớn như dệt may đạt 9,5 tỷ USD, tăng 22,1%; giày dép
đạt 4,5 tỷ USD, tăng 13,6%. Dự kiến một số mặt hàng thuộc nhóm này có mức
tăng trưởng rất cao như hàng điện tử và linh kiện máy tính tăng 60,6%; thủ
công mỹ nghệ tăng 35,1%; dây điện và cáp điện tăng 47%; sản phẩm nhựa tăng
37,9%. ( số liệu dự kiến đạt được cảu năm 2008).
Trong nhóm hàng này, việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các
mặt hàng đều tập trung vào yếu tố gia tăng qui mô xuất khẩu, trong đó bao gồm
cả các mặt hàng mới nổi có nhiều tiềm năng phát triển. Tuy nhiên cần nhìn
nhận thực tế là hiện nay, giá trị đóng góp của các ngành này vẫn chủ yếu là giải
quyết khâu lao động là chính, đa số các ngành đều cần đến nguồn nguyên vật
liệu nhập khẩu, công nghệ lạc hậu, lao động trình độ cao còn rất hạn chế, phụ
11

12
thuộc nhiều vào các nhà đầu tư nước ngoài và thiếu vốn để đầu tư.
Nhóm hàng dịch vụ xuất khẩu
Xuất khẩu dịch vụ có vai trò quan trọng trong khả năng cạnh tranh và phát
triển của Việt Nam. Hiện nước ta có các loại hình dịch vụ được nằm trong
nhóm ưu tiên phát triển trong chiến lược xuất khẩu dịch vụ quốc gia: dịch vụ
phần mềm và máy tính, dịch vụ pháp lí, dịch vụ tư vấn, dịch vụ công trình, dịch
vụ kiến trúc, dịch vụ vận chuyển hàng hoá và các dịch vụ về nghiên cứu và phát
triển.
Những dịch vụ này đều được các công ty nước ngoài đang hoạt động tại Việt
Nam đánh giá cao về khả năng cạnh tranh về các mặt giá cả, chất lượng và tính
linh hoạt, đáp ứng được những điều kiện cơ bản của một ngành dịch vụ trọng
điểm như có một hiệp hội ngành hoạt động có hiệu quả, liên kết hỗ trợ kĩ thuật
tốt, sẵn sàng về nguồn nhân lực và có nhu cầu lớn trên thị trường khu vực và
nội địa. Hầu hết các khách hàng dịch vụ nước ngoài đánh giá cao giá cả cạnh
tranh của phần lớn dịch vụ do các công ty của Việt Nam cung cấp và xem giá cả
thấp là một điểm mạnh của các công ty dịch vụ Việt Nam.
Số liệu của Tổng cục thống kê cho biết mặc dù giá trị dịch vụ tạo ra trong sáu
tháng đầu năm 2008 chỉ tăng 7,7% so với cùng kỳ 2007 nhưng tăng trưởng của
dịch vụ trong xuất khẩu khá, cao hơn 20%. Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ đạt
2,53 tỷ USD, tương đương với kim ngạch nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam
trong những tháng đầu năm
Hàng hóa vô hình này hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của Việt Nam,
chiếm từ 30-40% GDP. Qui mô và tầm quan trọng của dịch vụ được thể hiện
12
13
trong tỷ trọng GDP và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hàng năm Việt
Nam xuất khẩu khoảng 4-5 tỷ USD dịch vụ, chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch
xuất khẩu quốc gia, tương đương với giá trị kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt
may hoặc lượng ngoại tệ có được từ kiều hối do Việt kiều gởi về nước hàng

năm.
Việt Nam đẩy mạnh phát triển lĩnh vực dịch vụ và xuất khẩu tại chỗ cũng như
xuất khẩu ra nước ngoài với mục tiêu của năm 208 từ 6,2-6,7 tỷ USD, tức tăng
hơn 10% so với năm ngoái trong tổng kim ngạch kế hoạch là 38,44 tỷ USD,
tăng 18,5% so với 2005
Nhận thức tầm quan trọng của giá trị gia tăng do dịch vụ xuất khẩu mang lại
cho nền kinh tế, vừa qua Chính phủ đã đưa ra chiến lược phát triển xuất khẩu
quốc gia, trong đó có lĩnh vực dịch vụ. Theo đó, mức tăng trưởng xuất khẩu
dịch vụ phải đạt 16,5% bình quân hàng năm, đến 2010 đạt kim ngạch 12 tỷ
USD, tức gấp đôi kim ngạch dự tính của năm 2006.
1.3 . Thị trường xuất khẩu của Việt Nam
Trong tháng 9 đầu năm 2008, bên cạnh sự sụt giảm của xuất khẩu thì cơ cấu thị
trường hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đang có những thay đổi. Theo thống
kê, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đang tăng trưởng nhanh ở các thị
trường châu Á (40%), châu Phi và Tây Nam Á (33%), nhưng tăng chậm lại đối
với châu Mỹ (23%), châu Âu (13%) và châu Đại Dương (khoảng 11,6%), chủ
yếu do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng thị trường nhà đất tại Mỹ và kinh tế
châu Âu đi xuống
Xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN
13
14
Nhìn vào cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN năm 2006, có thể thấy
hai mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch và tỷ trọng lớn nhất là dầu thô (thường
chiếm tỷ trọng xung quanh mức 40% - năm 2005 lên tới trên 46,6%), sau đó là
gạo (chiếm tỷ trọng trên 10%). Các nước nhập khẩu gạo lớn trong ASEAN như
Inđônêxia, Philipin, Malaixia đều coi gạo là mặt hàng đặc biệt quan trọng và
thực hiện nhiều biện pháp phi quan thuế để quản lý mặt hàng này.
Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu khá lớn khác sang ASEAN là linh kiện
điện tử, vi tính, hải sản, hàng dệt may… hầu hết đều được Việt Nam và các
nước ASEAN đưa vào trong danh mục IL để thực hiện CEPT/AFTA từ khá

sớm nhưng kim ngạch xuất khẩu sang các nước ASEAN không ổn định, năm
tăng năm giảm, không có mặt hàng nào có kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục.
Như vậy có thể thấy rằng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN chủ yếu là
nông sản, hải sản và khoáng sản thô, sơ chế có giá trị thấp, hàm lượng giá trị gia
tăng không cao. Những mặt hàng này tuy hầu hết đều được hưởng thuế NK ưu
đãi CEPT tại các nước nhập khẩu nhưng do có giá trị thấp, giá cả phụ thuộc vào
biến động trên thế giới, nên kim ngạch xuất khẩu không ổn định. Trừ linh kiện
điện tử và vi tính, hàng công nghiệp tiêu dùng có hàm lượng chế biến và giá trị
gia tăng như may mặc, giày dép… chỉ chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng
kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN. Gần đây Việt Nam bắt đầu xuất khẩu được
một số mặt hàng chế tạo mới sang ASEAN như dây điện và dây cáp điện, đồ
chơi trẻ em, xe đạp và phụ tùng xe đạp….những mặt hàng này tuy có nhiều
triển vọng nhưng kim ngạch vẫn còn khá khiêm tốn.
Xuất khẩu của Việt Nam sang EU
EU là thị trường lớn, có tầm quan trọng đối với xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, kinh tế thế giới sa sút, giá dầu mỏ tăng cao và nhiều biến động khác,
14
15
việc duy trì mức tăng trưởng xuất khẩu vào EU đã và đang chịu tác động không
nhỏ.
Năm qua, thương mại Việt Nam EU được đánh giá là rất năng động, tổng kim
ngạch hai chiều đạt 14,23 tỷ USD (tăng 39,26%), vượt mức dự báo trước đó.
Trong đó, Việt Nam xuất khẩu 9,1 tỷ USD (tăng 28,2%) và nhập khẩu 5,14 tỷ
USD (tăng 64,3%). Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu từ EU là tác động mở cửa thị
trường của Việt Nam và sự tăng đầu tư của EU vào Việt Nam.
Các mặt hàng xuất khẩu chính là giày dép (2, 184 tỷ USD), dệt may (l,498 tỷ
USD), hải sản (924 triệu USD), cà phê (879 triệu USD), thủ công mỹ nghệ (238
triệu USD). Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu gồm máy móc thiết bị (2,542 tỷ
USD), tân dược (298 triệu USD), nguyên phụ liệu may dệt ( l 28 triệu USD), sắt
thép (84 triệu USD)...

Giày dép mặc dù bị áp thuế chống bán phá giá 10% vẫn tăng 1l,4%. Dệt may
tăng 16,5% so với năm 2006 và 70,2% so với năm 2005, điều đó cho thấy thỏa
thuận bỏ hạn ngạch dệt may là có lợi cho Việt Nam. Xuất khẩu cà phê tăng 65%
nhờ giá cà phê thế giới tăng mạnh.
Năm 2008, xuất khẩu của Việt Nam vào EU sẽ khó khăn hơn do nhu cầu ở thị
trường này yếu bởi tăng trưởng kinh tế chậm lại, kinh tế toàn cầu suy giảm bởi
tác động của kinh tế Mỹ và dư âm của cuộc khủng hoảng trên thị trường tài
chính. Các nước EU đang nỗ lực điều phối nền kinh tế tốt hơn nhưng rất khó
đạt được mức tăng trưởng khả quan.
Theo dự báo thị trường châu Âu năm 2008 của Vụ châu Âu Bộ Công Thương,
xuất khẩu của Việt Nam vào EU đạt l 1,18 tỷ USD, tăng 23%, thấp hơn mức
28,2% của năm 2007. Một số mặt hàng xuất khẩu chính được dự báo có mức
tăng trưởng thấp hơn. Cụ thể, giày dép tăng 8% (so với l l ,4% của năm 2007),
cà phê nhân tăng trưởng 30% ( so với 65% của năm 2007). Lưu ý thêm, mặt
15

×