Anh (chị) hãy nêu các quan điểm tiếp cận và khái niệm
về phong cách chính luận báo chí
Đặc sắc ngôn ngữ chính luận của nhà báo Hoàng Tùng
giai đoạn từ 1995 đến 2010
MỤC LỤC
PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU............................................................................................2
1. Tính cấp thiết...................................................................................................2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................3
2.1. Mục đích nghiên cứu.................................................................................3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................4
3. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................4
4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................4
4.2. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................4
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.............................................................................5
5.1. Ý nghĩa lý luận...........................................................................................5
5.2. Ý nghĩa thức tiễn........................................................................................5
6. Kết cấu bài tiểu luận.........................................................................................5
PHẦN HAI: NỘI DUNG..........................................................................................6
Chương 1: Quan điểm tiếp cận và khái niệm về phong cách cá nhân của nhà
báo viết chính luận.................................................................................................6
1. Khái quát chung về báo chí...........................................................................6
2. Khái niệm phong cách..................................................................................6
3. Phong cách ngôn ngữ....................................................................................9
4. Phong cách ngôn ngữ báo chí.......................................................................9
5. Phong cách chính luận báo chí....................................................................11
6. Phong cách cá nhân của nhà báo viết chính luận:.......................................11
Chương 2. Đặc điểm ngôn ngữ báo chí chính luận của nhà báo Hoàng
Tùng.Phân tích và so sánh một số tác phẩm tiêu biểu qua từng giai đoạn ..........13
1
1. Tiểu sử nhà báo Hoàng Tùng......................................................................13
2. Đặc sắc ngôn ngữ chính luận của nhà báo Hoàng Tùng.............................15
2.1. Nghệ thuật đặt tên tác phẩm:................................................................16
2.2. Ngôn ngữ tác phẩm:..............................................................................16
2.3. Đề tài:...................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................20
PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Trong dòng chảy bất tận tự nhiên của đời sống xã hội, nhiều ngành nghề
đã ra đời như một mệnh đề tất yếu của cuộc sống. Nếu như sứ mệnh của nghề
luật là bảo vệ công lý, nghề bác sĩ là cứu sống tính mạng con người thì báo chí
ra đời mang trong mình trọng trách là “người môi giới thông tin thật thà”. Ngay
từ thuở ban sơ, nghề báo đã địn hình và phát triển với tính chất, mà theo PGS.TS
Nguyễn Thị Minh Thái đã nhận định là: “Cùng với sự ra đời của báo chí là sự
hiện diện của nghề báo, một nghề thông tin đặc thù với chủ thể thông tin là nhà
báo. Ngay từ buổi bình minh của nghề thông tin đặc biệt này, câu hỏi triết học về
nghề thông tin đã được xác lập. Đó là câu hỏi “Cái gì mới”. Trả lời câu hỏi này
là nhiệm vụ của các nhà báo chân chính ở mọi thời đại, mọi thời điểm. Cốt lõi
của nghề báo bao giờ và lúc nào cũng luôn luôn là thông tin và thông tin. Với
tính chất là thông tin – cốt lõi sợi chỉ đỏ, mục tiêu tiến đến của báo chí chính là
sự thật. Sự thật, đó là sức mạnh của báo chí. Sự thật có sức quyến rũ ghê gớm
đối với những nhà báo chân chính. Có thể nói, nghề báo gói gọn trong một chữ
“tin” – thông tin cốt lõi và sự thật để có niềm tin của độc giả.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, với sự ra đời của hàng trăm tờ báo in,
báo mạng (chưa kể những trang tin, blog, mạng xã hội) cùng với đó là sự ra đời
của nhiều chuyên mục, nhiều sản phẩm thông tin. Tuy nhiên, chất lượng không
phải lúc nào cũng đồng hành cùng số lượng. Nhiều tin tức được nhắc đi nhắc lại,
những bài báo viết hao hao giống nhau tạo nên những sản phẩm truyền thông
nhàn nhạt, vô giá trị. Trong khi đó, công chúng ngày này nay ngày càng khó tính
2
hơn trong việc lựa chọn thông tin. Muốn sống giữa thời đại luôn ngồn ngộn
thông tin, ào ạt những bài báo cạnh tranh nhau hàng giờ hàng phút như hiện nay
thì rất cần sự đổi mới theo kịp thời đại và đặc biệt cần phải khẳng định bản sắc
riêng của mình trong lĩnh vực báo chí hiện đại và khắc nghiệt này.
Đã có rất nhiều nhà báo nổi tiếng và thành công nhờ tạo cho mình một
phong cách viết rất riêng. Mặc dù bản chất của báo chí là sự thật, thông tin sự
thật nhưng việc tạo nên một cách viết, một giọng văn ấn tượng cũng là một điều
hết sức cần thiết. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay, khi có những cái na ná
nhau, những cái trùng lặp ra đời thì một phong cách, một tiếng nói riêng thực sự
là một điều tốt, một đóng góp giá trị vào làng báo chí Việt Nam.
Mỗi thể loại báo chí đều có những đặc điểm của thể loại với những ưu thế
và nét độc đáo riêng. Và trong từng miền đất độc đáo ấy, lại có những tên tuổi
nhà báo thành công với những tác phẩm báo chí để đời hay những chuyên mục
gắn liền với tên tuổi của họ. Trong thể loại báo chí chính luận đã xuất hiện
những tác giả, nhà báo không ngừng sáng tạo trong việc sử dụng thể loại báo chí
với ngôn ngữ, giọng điệu mang đặc trưng riêng để tạo ra những sản phẩm báo
chí hấp dẫn bởi vừa có khả năng thông tin sự kiện, vừa sử dụng lý lẽ soi vào sự
kiện, hiện tượng nhằm định hướng công chúng đến hành động tích cực.
Nhà báo Hoàng Tùng là một trong số ít những tác giả đó. Là nhà hoạt
động cách mạng chuyên nghiệp và từng giữ nhiều vị trí quan trọng, với nền tảng
tri thức sâu rộng, mỗi khi đặt bút, ông phân tích, lý giải các vấn đề hết sức thông
tuệ, thuyết phục, độc đáo. Có thể nói, chính điều này đã làm cho giọng văn
chính luận của nhà báo Hoàng Tùng rất đặc biệt, mang đậm phong cách cá nhân,
không lẫn với bất kì tác giả nào khác.
Ông là một nhà báo lão thành của làng báo chí Việt Nam. Những tác
phẩm chnhs luận xuất sắc của ông đã để lại ấn tượng sâu sắc với độc giả, góp
phần hoàn thiện thêm bức tranh muôn màu sắc của báo chí hiện nay. Bài tiểu
luận sẽ đi sâu vào tìm hiểu khái niệm về phong cách cá nhân của nhà báo viết
chính luận và phân tích đặc điểm ngôn ngữ báo chí chính luận của nhà báo
Hoàng Tùng qua một số tác phẩm chính luận của ông.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.
Mục đích nghiên cứu
- Qua việc nghiên cứu các quan điểm tiếp cận và khái niệm về phong cách
cá nhân của nhà báo chính luận cũng như đặc sắc ngôn ngữ chính luận của nhà
báo Hoàng Tùng, bài tiểu luận là cơ sở , tài liệu tham khảo cho những ai quan
tâm nghiên cứu phong cách cá nhân của nhà báo viết chính luận và học hỏi
phong cách chính luận của nhà báo Hoàng Tùng. Đồng thời bài tiểu luận cũng
cho thấy những đóng góp của một nhà báo lão thành trong nền báo chí cách
mạng Việt Nam. Bài tiểu luận hy vọng sẽ góp phần bổ sung cho kiến thức lý
luận báo chí về phong cách của các nhà báo hiện đại.
2.2.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và xây dựng các quan điểm, khái niệm liên quan đến vấn đề
nghiên cứu , góp phần làm rõ khung lí thuyết về phong cách cá nhân của nhà
báo viết chính luận và đặc sắc trong phong cách chính luận của nhà báo Hoàng
Tùng.
- Tìm hiểu các tác phẩm báo chí chính luận của nhà báo Hoàng Tùng đã
đăng tải trên báo Nhân Dân qua các giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2010.
- Tìm hiểu những ý kiến , quan điểm về phong cách cá nhân của nhà báo
viết chính luận ; những nhận xét từ báo giới, từ công chúng, từ các nhà lãnh đạo
có uy tín về phong cách chính luận của nhà báo Hoàng Tùng.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê: thống kê về tần suất sử dụng các yếu tố có tính lặp
lại trong phong cách viết của nhà báo Hoàng Tùng.
- Phương pháp phân tích: Phân tích định tính và định lượng dưới góc độ nội
dung (như cách cọn chủ đề, đề tài, v.v…) và góc độ hình thức (tít, ngôn
ngữ, kết cấu, v.v…)
- Phương pháp so sánh: so sánh phong cách chính luận của nhà báo Hoàng
Tùng qua các giai đoạn.
4
- Phương pháp tổng hợp: tổng hợp các dữ kiện và rút ra kết luận.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.
Đối tượng nghiên cứu
- Quan điểm, cách tiếp cận, khái niệm về phong cách cá nhân nhà báo viết
chính luận.
- Đặc sắc ngôn ngữ chính luận của nhà báo Hoàng Tùng.
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
- Tìm hiểu về các bài báo chính luận của nhà báo Hoàng Tùng trên tờ báo
Nhân Dân từ năm 1945 đến năm 2010.
- Các bài viết, các cuốn sách viết về phong cách cá nhân nhà báo viết chính
luận.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
5.1.
Ý nghĩa lý luận
Với mục đích của bài tiểu luận như đã xác định , hệ thống hóa và xây
dựng các khái niệm liên quan đến phong cách cá nhân của nhà báo viết chính
luận. Bài tiểu luận bước đầu nhận diện đặc sắc trong phong cách chính luận
của nhà báo Hoàng Tùng.
5.2.
Ý nghĩa thức tiễn
Qua việc nghiên cứu các tác phẩm báo chí chính luận của Hoàng Tùng , bài
tiểu luận tổng kết , đánh giá những đóng góp giá trị của nhà báo Hoàng Tùng
ở thể loại báo chí chính luận .
6. Kết cấu bài tiểu luận
- Chương 1:
Quan điểm tiếp cận và khái niệm về phong cách cá nhân của nhà báo viết
chính luận
- Chương 2:
5
Đặc điểm ngôn ngữ báo chí chính luận của nhà báo Hoàng Tùng. Phân
tích một số tác phẩm tiêu biểu trong từng giai đoạn và so sánh.
6
PHẦN HAI: NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm tiếp cận và khái niệm về phong cách cá nhân của
nhà báo viết chính luận
1. Khái quát chung về báo chí
Báo , hay còn gọi đầy đủ là báo chí (xuất phát từ hai từ “báo” - thông báo
và “chí” – giấy), nói một cách khái quát là những xuất bản, những ấn phẩm định
kì như nhật báo hay tạp chí. Nhưng cũng để chỉ cả các loại hình truyền thông
khác như phát thanh, truyền hình. Định nghĩa này cũng áp dụng được cho một
tạp chí liên tục xuất bản (báo điện tử). Báo chí, dựa trên những điều tra, tìm hiểu
để làm sang tỏ đời sống xã hội, văn hóa. Đây chính là một bộ máy của chính
quyền để tìm hiểu thông tin, phổ biến và phân tích tin tức. Báo chí là những cơ
quan ngôn luận, cung cấp thông tin và ý kiến về mọi vấn đề. Chính vì thế, báo
chí được gọi là quyền lực thứ tư. Báo chí góp phần nói lên sự thật, phản ánh
nguyện vọng của nhân dân, qua đó, cải tiến bộ máy xã hội. Báo chí ngày nay
phát triển rất đa dạng: báo in, báo điện tử, báo truyền hình, báo phát thanh,…
2. Khái niệm phong cách
Phong cách tiếng Hy Lạp cổ là “stylos” nghĩa là một cái que vót nhọn để
viết trên các tấm bảng đã phủ nến”. Ban đầu, các nhà văn La Mă dùng từ trên
theo lối hoán đổi để chỉ ra các đặc điểm của lời văn viết của một tác giả nào đó.
Sau này, khái niệm phong cách đă được dùng rộng răi, phổ biến, không chỉ trong
lĩnh vực văn học nghệ thuật mà còn được dùng trong nhiều ngành khoa học và
đời sống như kiến trúc, điện ảnh, thời trang...
Đầu thế kỉ XX, thuật ngữ phong cách đă được quan tâm sâu sắc. Ở Liên
Xô cũ, viện sĩ M.B.Khrápchencô đă dành khá nhiều công sức nghiên cứu vấn đề
này. Trong cuốn: “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học”,
ông đă thống kê và đưa ra đến gần 20 cách hiểu khác nhau về phong cách. Hê
Ghen trong cuốn “Mĩ học tập 1” cũng chỉ ra rằng: “Phong cách nói chung bao
hàm tính chất độc đáo của một chủ thể nhất định. Chủ thể này sẽ biểu lộ trong
7
phương thức biểu đạt, trong cách nói năng”. Ông khẳng định: “Hạt nhân của
phong cách nghệ thuật là tính chất độc đáo của một chủ thể nhất định”.
Ở nước ta, măi những năm 80 của thế kỉ XX, việc nghiên cứu về phong cách
mới được chú ý đến. Cuốn “Từ điển văn học” do Đỗ Đức Hiểu chủ biên (1984) đă
đưa ra định nghĩa: phong cách “Là chỗ độc đáo mang phẩm chất thẩm mĩ cao được
kết tinh trong sự sáng tạo của nhà văn. Không phải nhà văn nào cũng tất yếu có
phong cách”; “Phong cách không chấp nhận sự chóng phai mờ, nhưng phải lặp đi
lặp lại một cách đổi mới”.
Cuốn “150 thuật ngữ văn học” do Lại Nguyên Ân biên soạn, “Từ điển
thuật ngữ văn học” do tập thể các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi (đồng chủ biên) cũng nêu lên khái niệm phong cách.
Tác giả Phương Lựu khi viết cuốn “Lý luận văn học” cũng đă khẳng định:
“Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm
mĩ được thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú. Nó đòi hỏi trước hết
nhà văn phải đem lại tiếng nói mới cho văn học”.
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” (1999), phong cách là quy luật thống
nhất các yếu tố của chỉnh thể nghệ thuật, là một biểu hiện của tính nghệ thuật.
Không phải bất kỳ nhà văn nào cũng có phong cách. Chỉ những nhà văn nào có
tài năng có bản lĩnh mới có được phong cách riêng độc đáo. Cái nét riêng đó thể
hiện ở tác phẩm và được lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm của nhà văn làm ta
có thể nhận ra sự khác nhau giữa nhà văn này với nhà văn khác.
Dù diễn đạt dưới những hình thức khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu
đều chỉ ra rằng: Điểm cốt lõi, yếu tố quyết định tạo lên phong cách nghệ thuật
của nhà văn là tính độc đáo thể hiện trong sáng tác.
Như vậy, xét về khái niệm phong cách, tùy theo mỗi con người cụ thể,
phong cách có thể tập trung thể hiện ở bất kỳ đặc điểm nào hay một vài yếu tố
nào đó trong tác phẩm của mình.
Phong cách bắt nguồn sâu xa từ hiện thực khách quan, bằng thực tiễn
sống của nhà báo. Nhà báo muốn tạo cho mình phong cách riêng trước hết phải
có cách cảm nhận thế giới độc đáo, có tư tưởng nghệ thuật độc đáo, và có
8
phương thức thể hiện độc đáo phù hợp với nội dung của nó. Bởi vì sự thống nhất
của các phương tiện biểu hiện phù hợp với cách nhìn độc đáo đối với đời sống
sẽ tạo nên “diện mạo riêng biệt” trong tác phẩm báo chí và đó chính là phong
cách của người làm báo.
Như vậy, căn cứ duy nhất để khẳng định phong cách tác giả là những yếu
tố thể hiện sự độc đáo trong tác phẩm báo chí của nhà báo, thể hiện tài năng của
người làm báo. Phong cách có thể được biểu hiện ở nội dung tư tưởng, cách
nhìn, cách khám phá hiện thực của nhà văn. Cách nhìn ấy sẽ chi phối đến thế
giới nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ...tức là chi phối đến hình thức nghệ thuật
của tác phẩm.
Nói đến phong cách tức là tác giả có những nét riêng, những nét đặc biệt
được lặp đi lặp lại tạo nên một màu sắc chỉ có ở tác giả đó. Phong cách ấy có thể
bộc lộ ở cách chọn đề tài, ở cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm, trong việc khắc
họa hình tượng nhân vật. Phong cách cũng biểu hiện ở thể loại trong ngôn ngữ,
phương thức diễn đạt, v.v…
Nói tóm lại: Thuật ngữ phong cách là một khái niệm chung, khái quát và
được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, địa hạt khác nhau đặc biệt là trong văn học –
nghệ thuật. Nó chỉ ra những nét riêng, những đặc điểm đặc biệt của một con người
thể hiện trong các hoạt động, hành động sống. Nó cũng có thể chỉ về nội dung và
hình thức của từng sản phẩm trong từng lĩnh vực hoạt động sáng tạo khác nhau mà
tác giả thể hiện rõ nét dấu ấn cá nhân, cá tính của mình mà không thể trộn lẫn với
bất kỳ ai, tạo cho mình một thế đứng vững chắc trong lĩnh vực hoạt động và nhận
được sự quan tâm, đánh giá của công chúng. Phong cách chính là những biểu hiện
độc đáo của tài năng sáng tạo nghệ thuật, có tính chất thống nhất và tương đối ổn
định được lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm, thể hiện cái nhìn và sự chiếm lĩnh
nghệ thuật độc đáo đối với thế giới và con người. Phong cách cá nhân vừa thống
nhất, ổn định vừa luôn vận động biến đổi qua mỗi giai đoạn, mỗi chặng đường hoạt
động, nó chịu sự chi phối của các yếu tố khách quan: môi trường, xã hội, thời đại.
Tuy vậy, yếu tố độc đáo mang tính chất thẩm mĩ - hạt nhân của phong cách nhà báo
vẫn ổn định, bền vững và vẫn thường xuyên lặp lại.
9
3. Phong cách ngôn ngữ
Ngôn ngữ được coi là một công cụ quan trọng trong hoạt động sống của
con người, là một phương tiện phục vụ quá trình giao tiếp. Cùng với sự thay đổi
và phát triển của xã hội loài người, ngôn ngữ cũng có bước tiến và phân vùng rõ
nét. Với các lĩnh vực giao tiếp khác nhau, những tình huống giao tiếp khác nhau,
ngôn ngữ được dùng với những chức năng khác nhau nhằm mục đích chuyển tải
được ý nghĩa của thông tin mà chủ thể định truyền tải đến khách thể trong quá
trình tiếp nhận thông tin.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, trên cơ sở các phân chia khác nhau của
các nhà nghiên cứu, xét trong tình hình ứng dụng ngôn ngữ vào hoạt động sống
của con người trong thời nay, có thể chia ngôn ngữ làm sáu phong cách chức
năng: phong cách khẩu ngữ tự nhiên, phong cách khoa học, phong cách hành
chính, phong cách hành chính chính luận, phong cách văn chương, phong cách
báo chí.
Sáu phong cách ngôn ngữ trên được thực hiện trong cuộc sống, có hiệu
quả chức năng được ứng dụng với ngôn ngữ là công cụ giao tiếp của con người
ở mọi lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, trong khóa luận này chỉ đi vào nghiên cứu
về một lĩnh vực gắn liền với hoạt động truyền thông đại chúng, một trong nhũng
hoạt động phát huy được hiệu quả trong thời đại xã hội thông tin hiện nay:
phong cách ngôn ngữ báo chí.
4. Phong cách ngôn ngữ báo chí.
Bản thân báo chí hết sức đa dạng về loại hình và phong phú về thể loại.
báo chí bản thân nội tại của nó có quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ rất
đa dạng với sự phân chia của nhiều loại hình, thể loại và những ứng dụng vào
thực tiễn khác nhau. Với mỗi hoàn cảnh, tình huống truyền thông khác nhau,
phong cách ngôn ngữ báo chí được sử dụng theo những chiều hướng riêng biệt.
Trong phong cách ngôn ngữ báo chí, người ta sử dụng tất cả các loại
phong cách (khẩu ngữ tự nhiên, khoa học, hành chính, chính luận, văn chương)
10
nhằm tái hiện sinh động, chân thực sự kiện, hiện tượng, con người,… mà nó
phản ánh.
Trong luận văn “Phong cách hài trong các tiểu phẩm báo chí hiện đại qua
ba nhà báo Lý Sinh Sự,Lê Thị Liên Hoan, Thảo Hảo” tác giả Trần Xuân Thân
đã đưa ra quan niệm về phong cách ngôn ngữ báo chí như sau: phong cách ngôn
ngữ báo chí là phong cách ngôn ngữ đặc thù (bao hàm nhiều phong cách chức
năng ngôn ngữ) mà báo chí sử dụng trong hoạt động thông tin về các vấn đề thời
sự chính trị - xã hội nhằm truyền tải thông tin bằng các thông điệp báo chí đến
với đại chúng một cách nhanh, chính xác, dễ hiểu, đảm bảo vừa thông tin vừa
giữ gìn và phát huy sử trong sáng của tiếng Việt.
Có thể nói, để khẳng định phong cách của mình, đó là ước mơ của nhiều
người cầm bút mà trước hết là nhà văn,nhà báo. Để tạo được phong cách ngôn
ngữ cho riêng mình, mỗi tác giả đều phải lao động trên mảnh đất chữ nghĩa để đi
tìm cái mới mẻ nhằm tạo ra một con đường đi riêng, chứ không phải đi trên con
đường người khác đã đi.
Trong lĩnh vực báo chí, mặc dù bản chất thông tin nhưng cũng rất cần việc
thể hiện cá tính, của những con người biết “khơi những nguồn chưa ai khơi”,
dám thể hiện tiếng nói riêng, cá tính của mình trong việc truyền tải những thông
tin khách quan đến cho công chúng .
Một trong những yếu tố quan trọng đối với phong cách ngôn ngữ báo chí
là sự chế định của những chệch chuẩn đối với phong cách ngôn ngữ nhà báo.
Việc sử dụng chệch chuẩn trên báo chí đồng nghĩa với việc nhà báo đạt được
một sự sáng tạo về phương diện thể hiện. Không phải ở bất kì bài báo nào và
không phải tất cả những thể loại báo chí đều cho phép nhà báo có cơ hội bộc lộ
tài năng sáng tạo này. Việc sử dụng chệch chuẩn có vai trò chủ yếu trong việc
làm nên phong cách ngôn ngữ nhà báo. Nói cách khác, nhà báo càng sáng tạo
được nhiều chệch chuẩn và càng đi theo nhiều kiểu chệch chuẩn thì phong cách
ngôn ngữ càng rõ nét. Có thể nói, một nhà báo có phong cách tức là họ đã có
những chệch chuẩn ngôn ngữ nhất định ở lĩnh vực, thể loại của họ. Chệch
chuẩn ngôn ngữ không có ngĩa là đi chệch khỏi quỹ đạo của ngôn ngữ trong
11
sáng, của cái đúng và phù hợp, nó vẫn giúp công chúng hiểu được một cách
nhanh nhất, sâu sắc nhất nhưng đồng thời tạo nên những hiệu quả bất ngờ thú vị
khiến công chúng nhớ mãi.
5. Phong cách chính luận báo chí
Có những nhà nghiên cứu phong cách học cho rằng: “ dựa vào chức năng
xã hội, đặc trưng phong cách, đặc điểm ngôn ngữ khẳng định rằng trong giai
đoạn phát triển hiện nay của tiếng Việt tiểu phong cách báo đã tách ra khỏi
phong cách chính luận để trở thành một phong cách chức năng độc lập. Tuy
nhiên theo cách hiểu truyền thống của đa số các nhà phong cách học thì chính
luận là một thể văn độc lập nhưng không phải là một phong cách độc lập mà chỉ
là môt phong cách trung gian giữa phong cách khoa học và phong cách báo chí.
Khi phân chia phong cách chức năng tiếng Việt, đa số các nhà nghiên cứu
đều thống nhất coi phong cách chính luận là một phong cách độc lập trong hệ
thống các phong cách chức năng bao gồm: phong cách khẩu ngữ, phong cách
văn chương, phong cách chính luận, phong cách khoa học, phong cách hành
chính.
Như vậy có thể khẳng định: phong cách chính luận được dùng trong văn
bản chính luận để bày tỏ ý kiến của tác giả về một vấn đề nào đó thuộc lĩnh vực
chính trị, xã hội nhằm tạo dư luận xã hội và định hướng dư luận xã hội.
Báo chí chính luận là một thể loại báo chí có nội dung phản ánh những
vấn đề thời sự trong cuộc sống mang tính chính trị sâu rộng như: chính trị, kinh
tế, văn hóa, tư tưởng,…Các bài báo chí chính luận hướng tới mục đích tác động
đến dư luận xã hội đương thời, đến lối sống, các quyền lợi chính trị hiện hành;
đề xuất việc củng cố hoặc thay đổi chúng cho phù hợp với quyền lợi giai cấp
hoặc với lí tưởng xã hội, đạo đức.
Một số ý kiến cho rằng chính luận là nhóm thể tài báo chí dùng lí lẽ để soi
sáng sự kiện, giúp công chúng hiểu đúng sự thật, hướng họ đến hoạt động tích
cực, phù hợp với quan điểm, tư tưởng, ý đồ của tác giả.
12
6. Phong cách cá nhân của nhà báo viết chính luận:
Phong cách cá nhân của nhà báo viết chính luận là những nét riêng, những
đặc điểm đặc biệt của nhà báo thể hiện trong các hoạt động báo chí nói chung và
tác phẩm báo chí chính luận nói riêng. Nó cũng chỉ nội dung và hình thức của các
tác phẩm báo chí chính luận mà nhà báo thể hiện rõ nét dấu ấn cá nhân, cá tính của
mình mà không thể trộn lẫn với bất kỳ ai, tạo cho mình một thế đứng vững chắc
trong lĩnh vực báo chí và nhận được sự quan tâm, đánh giá của công chúng.
Phong cách cá nhân chính là những biểu hiện độc đáo của tài năng sáng tạo
báo chí của nhà báo. Nó có tính chất thống nhất và tương đối ổn định được lặp đi
lặp lại trong nhiều tác phẩm, thể hiện cái nhìn độc đáo đối với thế giới và con người
và xã hội. Phong cách cá nhân vừa thống nhất, ổn định vừa luôn vận động biến đổi
qua mỗi giai đoạn, mỗi chặng đường hoạt động báo chí, nó chịu sự chi phối của các
yếu tố khách quan: môi trường, xã hội, thời đại.
13
Chương 2. Đặc điểm ngôn ngữ báo chí chính luận của nhà báo Hoàng
Tùng.Phân tích và so sánh một số tác phẩm tiêu biểu qua từng giai đoạn .
1. Tiểu sử nhà báo Hoàng Tùng
Hoàng Tùng (1920-2010), Nhà báo Việt Nam; nguyên Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương khóa V; Tổng Biên tập Báo Nhân dân; Giám đốc Nhà xuất bản
Sự thật của Ðảng Cộng sản Việt Nam; Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam các khóa III, IV, V, VI, VII.
Hoàng Tùng, tên thật là Trần Khánh Thọ, sinh ngày 14 tháng
1 năm 1920; quê quán xã Nhân Hòa, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Năm 1935, ông tham gia phong trào công nhân chống Pháp ở Cẩm Phả, bị
bắt tù và được Lê Ðức Thọ giới thiệu giúp việc cho Bí thư Tỉnh ủy Đảng Cộng
sản Đông Dương tỉnh Nam Ðịnh.
Từ năm 1937, ông tham gia hoạt động trong tổ chức Ðoàn Thanh niên
Dân chủ và sau đó là Ðoàn Thanh niên phản đế; phụ trách tổ chức đoàn thanh
niên tại thành phố Nam Ðịnh.
Tháng 6 năm 1940, ông bị bắt, bị tòa án chính quyền đương thời kết án 5
năm tù khổ sai và giam giữ tại nhà tù Sơn La.
Tháng 11 năm 1943, Hoàng Tùng gia nhập vào Ðảng Cộng sản Việt Nam
tại Chi bộ nhà tù Sơn La.
Sau cuộc đảo chính của Nhật, ông tham gia lãnh đạo những người tù
chính trị phá bỏ nhà tù, vượt ngục về địa phương hoạt động.
Tháng 4 năm 1945, nhà báo trở về Bắc Ninh hoạt động, đã tích cực mở
rộng phong trào quần chúng lao động và xây dựng tổ chức cơ sở của Đảng Cộng
sản Việt Nam, chuẩn bị khởi nghĩa và được chỉ định tham gia vào Tỉnh ủy Đảng
Cộng sản Việt Nam tỉnh Bắc Ninh.
Tháng 5 năm 1945, ông được phân công về tham gia Ban Chỉ đạo khu an
toàn của Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam, sau đó làm Bí thư Đảng của Ban
Chỉ đạo khu an toàn của Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam.
14
Tháng 8 năm 1945, ông tham gia chỉ đạo khởi nghĩa ở ngoại thành Hà Nội
và được chỉ định làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng khi mới 25 tuổi.
Trong những ngày đầu của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ông đảm
nhận nhiều chức vụ quan trọng khác của Đảng.
Tháng 10 năm 1945, ông làm Ủy viên Xử ủy Bắc kỳ, Bí thư Thành ủy Hà
Nội thay ông Trần Danh Tuyên.
Tháng 4 năm 1946, ông làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng thay ông Lê
Quang Đạo về làm Bí thư Thành úy Hà Nội.
Tháng 8 năm 1946, ông làm Xử ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ của Ðảng Cộng
sản Việt Nam.
Tháng 2 năm 1947, ông làm Phó Bí thư Khu ủy III (Khu Tả ngạn Sông
Hồng).
Tháng 1 năm 1948, ông làm Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương
Đảng và Thư ký Tạp chí "Sinh hoạt nội bộ" của Ðảng.
Tháng 6 năm 1948, ông làm Phó Trưởng ban Thi đua Trung ương;
Tháng 1 năm 1950, ông làm Chủ nhiệm Báo "Sự thật" của Ðảng Cộng sản
Việt Nam.
Ðầu năm 1951, ông phụ trách Văn phòng Tổng Bí thư Trường Chinh.
Từ tháng 8 năm 1951 đến tháng 3 năm 1953, ông đi học lý luận ở Trung
Quốc cùng ông Nguyễn Duy Thân.
Tháng 4 năm 1953, ông làm Chánh Văn phòng Trung ương Ðảng.
Từ tháng 2 năm 1954 đến năm 1982, ông làm Tổng Biên tập Báo Nhân
dân, cơ quan ngôn luận của Đảng, là Tổng biên tập báo Đảng lâu nhất; từ năm
1968 ông kiêm chức Phó trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương.
Tại Ðại hội Ðảng Cộng sản Việt Nam III, ông được bầu làm Ủy viên Dự
khuyết Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam Khóa III (19601976).
Tại Ðại hội Ðảng Cộng sản Việt Nam IV, ông tiếp tục được bầu lại vào
Ban Chấp hành Trung ương Khóa IV (1976 – 1982).
Năm 1980, ông làm Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương.
15
Tại Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ V của Ðảng Cộng sản Việt Nam, tiếp
tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Khóa V (1982-1986), được
Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Ban Bí thư và được phân công phụ
trách công tác tư tưởng, thôi giữ chức vụ Tổng biên tập báo Nhân dân.
Tháng 4 năm 1987 đến năm 1989, làm Giám đốc Nhà xuất bản Sự thật.
Ông là đại biểu Quốc hội các khóa III (1964-1971), IV (1971-1975), V
(1975-1976), VI (1976-1981), VII (1981-1987).
Ông về nghỉ hưu, sống tại số nhà 6B Ðường Thành, phường Cửa Ðông,
quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Ngày 29 tháng 6 năm 2010 (tức ngày 18-5 năm Canh Dần), ông mất (15
giờ 20 phút) tại Hà Nội; hưởng thọ 91 tuổi. An táng ngày 2 tháng 7 năm 2010
tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
2. Đặc sắc ngôn ngữ chính luận của nhà báo Hoàng Tùng
Trong sự nghiệp làm báo của mình, nhà báo lão thành Hoàng Tùng đã viết
hàng nghìn bài báo. Ông là cây bút chính luận sắc sảo của làng báo cách mạng
Việt Nam. Văn chính luận của ông ngắn gọn, hàm súc, thuyết phục người đọc
bởi những lập luận vững vàng và cách sử dụng từ ngữ đậm đà sắc thái dân gian.
Bằng bút pháp riêng độc đáo, lời văn hào hùng, điêu luyện, các bài viết sắc sảo
của ông không những trình bày sinh động quan điểm của Đảng ta đối với những
vấn đề đặt ra mà còn cho người đọc thấy được xu thế và bước đi của cách mạng
trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Nhận xét về nhà báo Hoàng Tùng, GS. TS Tạ Ngọc Tấn - Ủy viên Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương cho
rằng: “Trong cuộc sống đời thường, Hoàng Tùng là một người thông tuệ, rất
hóm hỉnh, đôi khi pha chút hài hước. Khi viết báo, ông là một cây bút sắc sảo
với lối tư duy rất riêng, không chấp nhận lối mòn, luôn hướng tới sự mới mẻ,
độc đáo. Đó cũng chính là những đặc điểm làm nên phong cách chính luận
Hoàng Tùng, không thể lẫn với những cây bút nổi tiếng đương thời”.
16
Nhà báo Phan Quang, nguyên Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam,
nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam đánh giá: Nhà báo Hoàng Tùng là học
trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về báo chí và truyền thông. Ông là nhà
báo, là người chỉ đạo báo chí sắc sảo, năng động, hiểu biết rộng, nhạy bén với
cái mới, chan hòa với thực tiễn, am tường nghiệp vụ truyền thông. Yêu cầu khắt
khe với chính mình, đòi hỏi cao mà thông thoáng với cộng sự, khó mà dễ, tưởng
dễ thực ra khó, đấy chính là nét tiêu biểu tạo nên phong cách nhà báo và nhà
lãnh đạo Hoàng Tùng.
2.1.
Nghệ thuật đặt tên tác phẩm:
Bản thân nhà báo là người giàu trải nghiệm, vốn từ phong phú, có thế
mạnh trong việc sử dụng từ ngữ nên tít bài của ông luôn cuốn hút, gây ấn tượng
mạnh với độc giả. Hơn thế, tít bài đặc biệt phù hợp với thể loại báo chí chính
luận: tít bài ngắn gọn k quá nhiều chữ, luôn nhắc đến đối tượng của bài báo
trong tít, thể hiện thái độ, sự bình luận của mình ngay ở tít bài. Từ đó gây sự tò
mò, hứng thú, hấp dẫn, thu hút sự chú ý của độc giả. Chẳng hạn bài báo “Độc
lập, tự do, hạnh phúc” (2/9/1973) , gây tò mò, gợi hứng thú cho độc giả. Bởi lẽ,
lúc bấy giờ, nước ta đang ở trong giai đoạn nước rút trong công cuộc kháng
chiến chống Mỹ giành độc lập dân tộc, sáu chữ ấy là khát vọng ấp ủ hàng chục
năm của toàn dân ta.
2.2.
Ngôn ngữ tác phẩm:
Trong các tác phẩm chính luận của mình, nhà báo Hoàng Tùng đã sử dụng
hệ thống ngôn ngữ chính luận sắc sảo, giàu tính chiến đấu, chính xác và đầy xúc
cảm. Với sự vận dụng khéo léo ngôn ngữ sinh động, giàu biểu cảm,sử dụng các
biện pháp tu từ, sử dụng từ ngữ địa phương, lời ăn tiếng nói của nhân dân, từ
ngữ chuyên ngành trong tác phẩm, các bài viết của ông đều hấp dẫn người đọc.
2.3.
Đề tài:
Chủ đề các bài viết của ông phần nhiều thuộc "quốc gia đại sự": Cách
mạng giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân Pháp, chiến lược và sách
17
lược chống Mỹ cứu nước, đấu tranh thống nhất nước nhà, cải tạo kinh tế và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, lịch sử Đảng Cộng sản và lịch sử cách mạng Việt Nam,
tính chất thời đại, tình đoàn kết quốc tế dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh,
v.v..Tiêu biểu là
các tác phẩm: Một dân tộc có truyền thống đánh dẻo dai và
đánh thắng (18/3/1962), Xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh (2/9/1976), Chân lý chủ nghĩa Mác mãi sáng tỏ (5/5/1992), Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản mãi là ngọn cờ giải phóng nhân loại (24/2/1998),…
Mỗi lần cách mạng có bước ngoặt, hoặc đơn giản hơn, thời cuộc vừa diễn
ra một sự kiện quan trọng, hay là lãnh đạo vừa quyết định một chủ trương công
tác mới, thế nào báo Đảng cũng phải có ngôn luận. Nhiều bài do các ban chịu
trách nhiệm, song những bài quan trọng nhất thì không thể ai khác ngoài tổng
biên tập. Chính vì vậy, sau những sự kiện quan trọng như các kỳ họp Tê Ư , một
số cuộc họp Bê Xê Tê (Bộ Chính trị) mọi người chờ đọc chính luận báo Nhân
dân.
Một số bài ông viết thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, về Đảng, về Bác
Hồ… có thể xếp vào loại "kim cổ hùng văn". Hùng hồn mà không sáo rỗng nhờ
lập luận chặt chẽ, cứ liệu không ai phản bác nổi. Tính cổ động và sức tập hợp
cao, văn chính luận vốn khô khan nhưng vào tay ông vẫn đi thẳng vào lòng
người. Ngôn luận của báo Đảng có sứ mệnh thông tin, thuyết phục công chúng,
đôi khi nó đồng thời có thể là lời cảnh cáo những ai đó có toan tính ngược vòng
quay lịch sử, viết không "kín nhẽ" sao xuôi.
Một mảng chủ đề quan trọng của Hoàng Tùng là chân dung các nhân vật
lịch sử đương đại có công đầu với nước, với dân. Sau khi thôi công việc báo
hằng ngày, ông có điều kiện đi sâu vào lịch sử, mặt khác các bài ông thể hiện
cũng không phải quá gò bó về khuôn khổ số từ như khi viết báo hằng ngày.
Riêng một tập Tuyển khoảng 120 bài báo chính luận của ông, do Nhà Chính trị
quốc gia xuất bản cách đây mươi năm, đã có đến 12 bài viết về Bác Hồ, cùng cả
chục bài khác viết về các đồng chí Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh
Khai, Nguyễn Văn Cừ, Ngô Gia Tự, Phạm Hồng Thái, Tô Hiệu, Trường Chinh,
Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt…
18
Bảng so sánh một số tác phẩm tiêu biểu qua từng giai đoạn
19
Giai đoạn
1945 – 1954
Tên tác phẩm tiêu Ngôn ngữ
Kết
biểu
pháp (loại câu,
Việt ngôn ngữ dùng trong cấu chặt chẽ, hào
(1/5/1951)
sinh hoạt của nhân logic
dân
Sử dụng nhiều
câu ghép
Một dân tộc có Giàu tính biểu cảm, Sử dụng biện Ca ngợi, tự
truyền
thống sinh động
đánh dẻo dai và
đánh
1965 – 1974
pháp tu từ
hào
Kết cấu logic
thắng
(18/3/1962)
Độc lập, tự do, Giàu tính biểu cảm, Kết cấu logic
hạnh
1975 – 1984
cú Giọng điệu
đặt câu,…)
Đồng chí Hoàng Dễ hiểu, gần gũi với Bài viết có kết Ca ngợi, tự
Quốc
1955 – 1964
cấu,
phúc sinh động
Ca ngợi, tự
Sử dụng nhiều hào
(2/9/1973)
Xây dựng nước ta Dễ hiểu, gần gũi
câu khẳng định
Kết cấu logic
Tin
thành một nước
Câu cảm thán
quyết tâm
tưởng,
xã hội chủ nghĩa
giàu
1985 – 1994
mạnh
(2/9/1976)
Dân chủ hóa, yêu Từ ngữ sinh động, Kết cấu logic
Chân
cầu và động lực chọn lọc các từ
gần gũi, định
của
hướng
nhận
thức
Chân
thực,
phát
(19/4/1990)
1995 – 2010
triển “đắt” đưa vào bài
báo
Bác Hồ sáng lập Sử dụng nhiều thuật Kết cấu logic
thực,
nền Báo chí Cách ngữ chuyên ngành, Sử dụng nhiều gần gũi
mạng
nước
(21/6/2000)
ta chọn lọc các từ câu có thành
“đắt” đưa vào bài phần phụ chú
báo
để nhấn mạnh
Nhìn chung, các tác phẩm chính luận của Hoàng Tùng luôn mang tính
định hướng nhận thức cho độc giả. Phần định hướng ấy luôn được ông đặt ở
phần kết của mỗi bài báo.
20
21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngôn ngữ báo chí – NXB Thông tấn, Vũ Quang Hào.
2. Đặc điểm phong cách ngôn ngữ văn bản chính luận - Tạp chí Ngôn
ngữ, Lê Xuân Thại.
22