Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Nghiên cứu biểu hiện microRNA 21, microRNA 122 huyết tương ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan nhiễm vi rút viêm gan b tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.83 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN QUÂN Y

ĐẶNG CHIỀU DƯƠNG

NGHIÊN CỨU BIỂU HIỆN MICRORNA-21,
MICRORNA-122 HUYẾT TƯƠNG Ở BỆNH NHÂN
UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN
NHIỄM VI RÚT VIÊM GAN B
Chuyên ngành: Nội khoa
Mã số: 9720107

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

HÀ NỘI - 2020


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
HỌC VIỆN QUÂN Y
Cán bộ hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Nguyễn Lĩnh Toàn
2. TS. Ngô Tất Trung

Phản biện 1: PGS.TS. Vũ Văn Khiên
Phản biện 2: GS.TS. Phan Văn Chi
Phản biện 3: PGS.TS. Bùi Vũ Huy

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường tại


Học viện Quân y vào hồi:… giờ,...ngày...tháng…năm 2020.

Có thể tìm luận án tại:
-

Thư viện Quốc gia

-

Thư viện Học viện Quân y


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư biểu mô tế bào gan (UTTBG) đại diện cho hơn 90%
ung thư gan nguyên phát, có tỷ lệ mắc đứng hàng thứ 6, tỷ lệ tử vong
cao thứ 4 trong các loại ung thư phổ biến trên thế giới. Tại Việt Nam,
UTTBG đứng hàng đầu về tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong, trên 80% có
liên quan đến tình trạng nhiễm vi rút viêm gan B. Một chiến lược
sàng lọc tốt sẽ giúp chẩn đoán sớm UTTBG, trong đó thường kết hợp
siêu âm bụng với AFP. Bên cạnh AFP cổ điển, một số dấu ấn sinh
học khác cũng được nghiên cứu áp dụng như AFP-L3, DCP… tuy
nhiên vẫn chưa đạt được hiệu quả mong muốn.
MicroRNA (miRNA) là RNA nội sinh kích thước nhỏ,
không mã hóa protein, có vai trò then chốt trong điều hòa biểu hiện
gen giai đoạn sau phiên mã. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng
minh miR-21, miR-122 huyết tương có nguồn gốc từ tế bào khối u
gan và có giá trị trong chẩn đoán, tiên lượng, đánh giá đáp ứng điều
trị đối với UTTBG. Ở Việt Nam, hiện chưa có nhiều nghiên cứu
đánh giá biểu hiện của miRNA huyết tương ở bệnh nhân UTTBG

nhiễm vi rút viêm gan B. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu biểu hiện microRNA-21, microRNA-122 huyết tương ở
bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan nhiễm vi rút viêm gan B” với
hai mục tiêu sau.
1. Đánh giá mức độ biểu hiện microRNA-21, microRNA122 huyết tương ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan nhiễm vi
rút viêm gan B.
2. Phân tích mối liên quan giữa microRNA-21, microRNA122 huyết tương với một số chỉ số lâm sàng, cận lâm sàng và giai


2
đoạn bệnh ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan nhiễm vi rút
viêm gan B.
BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Luận án gồm 137 trang, trong đó: đặt vấn đề 2 trang, tổng
quan 35 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 20 trang, kết
quả nghiên cứu 45 trang, bàn luận 33 trang, kết luận 1 trang, kiến
nghị 1 trang. Luận án có 36 bảng, 35 biểu đồ, 10 hình. 120 tài liệu
tham khảo (15 tài liệu tiếng Việt, 105 tài liệu tiếng Anh).
ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam tìm hiểu
về biểu hiện của miR-21, miR-122 huyết tương ở bệnh nhân UTTBG
nhiễm vi rút viêm gan B. Kết quả nghiên cứu cho thấy biểu hiện
miR-21, miR-122 tăng cao trong huyết tương nhóm UTTBG so với
nhóm VGBM và NKM ngay cả trong các trường hợp UTTBG giai
đoạn sớm và UTTBG có AFP ≤ 20ng/ml.
MiR-21, miR-122 có độ nhạy độ đặc hiệu cao hơn AFP trong
chẩn đoán UTTBG với VGBM. Trong trường hợp UTTBG giai đoạn
sớm, UTTBG có AFP ≤ 20ng/ml, miR-21, miR-122 vẫn có độ chính
xác cao khi phân biệt UTTBG với VGBM (AUC = 0,848; 0,979);
(AUC = 0,806; 0,915), UTTBG với NKM (AUC = 0,894; 0,993);

(AUC = 0,935; 0,991) tương ứng.
Khi phối hợp miR-21, miR-122 với AFP làm tăng hiệu quả
chẩn đoán UTTBG với nhóm VGBM (AUC = 0,868; 0,914).
Chưa thấy mối liên quan giữa miR-21, miR-122 huyết tương
với tuổi, giới, một số triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và giai


3
đoạn bệnh của BN UTTBG nhiễm HBV. Có mối tương quan yếu
giữa miR-21, miR-122 huyết tương với tải lượng HBV.
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. MicroRNA
MicroRNA (miRNA) là RNA nội sinh kích thước nhỏ không
mã hóa protein, có vai trò quan trọng trong điều hòa biểu hiện gen.
MiRNA ngăn chặn dịch mã bằng cách thúc đẩy sự suy thoái của
mRNA mục tiêu. Các miRNA được nhận thấy có tham gia vào quá
trình sửa đổi histone và methyl hóa promoter của gen. MiRNA đầu
tiên được phát hiện vào năm 1993 bởi Victor Ambors và các cộng sự
khi nghiên cứu về sự phát triển của giun tròn C. elegans, đến năm
2014 có 2588 miRNA của người đã được định danh. MiRNA đóng
vai trò quan trọng trong các quá trình sinh lý cũng như bệnh lý của tế
bào, như điều hòa sự tăng sinh, biệt hóa, hay quá trình chết tế bào
theo chương trình (apoptosis). Trong những năm gần đây, mối liên hệ
giữa các miRNA và bệnh gan mạn tính được nhận thấy, đặc biệt là
các miR-21, miR-122 trong bệnh lý UTTBG. Với tính chất chỉ điểm
đặc hiệu u, tính lưu thông và tính bền vững trong các dịch cơ thể,
miR-21, miR-122 còn được nhận thấy ổn định trong huyết tương lưu
trữ ở nhiệt độ phòng hay nhiệt độ âm. Chính vì vậy, đây là cơ sở
khoa học ứng dụng định lượng miR-21, miR-122 trong huyết tương
với khuynh hướng như những chỉ dấu sinh học hữu ích cho chẩn

đoán và tiên lượng UTTBG.


4
1.2. MicroRNA-21
MicroRNA-21 (miR-21) là một đoạn RNA ngắn gồm 22
nucleotide, gen miR-21 của người nằm trên nhiễm sắc thể 17 ở vị trí
17q23.1, trong một gen mã hóa Transmembrane protein 49
(TMEM49) còn gọi là protein màng không bào 49. Phân tử miR-21
trưởng thành được cấu tạo bởi 22 nucleotide, là một trong những
miRNA đầu tiên được mô tả liên quan đến ung thư. Nồng độ cao của
miR- 21 được tìm thấy trong huyết tương của bệnh nhân có khối u ác
tính, điều này làm cho nó trở thành một chỉ dấu sinh học tiềm năng
đối với bệnh lý ung thư. MiR-21 có liên quan đến một số bệnh ung
thư như ung thư thực quản, ung thư dạ dày, ung thư đại trực tràng
nhưng phổ biến nhất là UTTBG. Các nghiên cứu gần đây cho thấy
miR-21 có biểu hiện tăng cao trong huyết tương bệnh nhân UTTBG
và có độ nhạy, độ đặc hiệu cao hơn AFP trong chẩn đoán UTTBG
với bệnh gan mạn tính không ung thư. Hơn nữa, miR-21 còn được
chứng minh có liên quan đến tăng sinh mạch, xâm lấn và theo dõi
đáp ứng điều trị.
1.3. MicroRNA-122
MicroRNA-122 (miR-122) ban đầu được xác định trong mô
gan chuột chiếm 72% các miRNA được phân tích tại gan. Ở người,
miR-122 được mã hóa bởi một gen duy nhất trong nhiễm sắc thể 18
ở vị trí 18q21.31. MiR-122 được quy định bởi Rev - Erba alpha,
tham gia vào biểu hiện sinh học gen thông qua điều chỉnh sự biểu
hiện của khá nhiều phân tử mRNA mục tiêu. MiR-122 được thấy có



5
độ đặc hiệu cao cho mô gan. Trong trường hợp UTTBG liên quan
đến HBV, miR-122 ức chế nhân lên của vi rút bằng cách nhắm mục
tiêu NDRG3 (N-myc downstream-regulated gene 3), một thành viên
trong họ gen N-myc. Nghiên cứu cho thấy cả hai miR-122 và
NDRG3 trong điều trị là khả thi cho UTTBG liên quan HBV. MiR122 có thể đại diện cho dấu ấn sinh học chính trong chẩn đoán và có
tiềm năng trong phối hợp điều trị UTTBG liên quan HBV. Biểu hiện
của miR-122 được phát hiện giảm mạnh trong chính mô khối u gan,
trong khi đó nó lại có biểu hiện tăng cao trong huyết tương bệnh
nhân UTTBG. Điều này có thể do miR-122 được chuyển từ mô khối
u vào lưu thông trong máu. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra
miR-122 có độ nhạy độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán UTTBG, hơn
nữa miR-122 còn được thấy có giá trị trong theo dõi đáp ứng với một
số phương pháp điều trị UTTBG.
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nhóm bệnh: Gồm 101 bệnh nhân UTTBG có nhiễm HBV
điều trị nội trú tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (TƯQĐ 108).
Nhóm chứng: Bao gồm 46 bệnh nhân viêm gan B mạn
(VGBM) điều trị nội trú tại Bệnh viện TƯQĐ 108 và 103 người khỏe
mạnh (NKM).
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 3 năm 2014 đến tháng 3
năm 2017.


6
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
2.1.1.1. Nhóm bệnh
- Bệnh nhân UTTBG được chẩn đoán xác định theo tiêu
chuẩn của Bộ Y tế Việt Nam năm 2012:

+ Có bằng chứng giải phẫu bệnh.
+ Hình ảnh điển hình trên chụp CLVT có tiêm thuốc cản
quang hoặc CHT có thuốc cản từ + AFP > 400 ng/ml.
+ Hình ảnh điển hình của UTTBG trên chụp CLVT ổ bụng
có cản quang hoặc CHT có thuốc cản từ + AFP tăng cao hơn bình
thường (chưa đến 400ng/ml) + nhiễm vi rút viêm gan B, C.
- Các bệnh nhân UTTBG có xét nghiệm HBsAg dương tính.
2.1.1.2. Nhóm chứng
* Bệnh nhân viêm gan B mạn: Chúng tôi lựa chọn những
bệnh nhân viêm gan B mạn được chẩn đoán theo hướng dẫn của Bộ
Y tế Việt Nam năm 2014.
- HBsAg (+) > 6 tháng hoặc HBsAg (+) và Anti HBc IgG
(+).
- AST, ALT tăng từng đợt hoặc liên tục trên 6 tháng.
- Có bằng chứng tổn thương mô bệnh học tiến triển được xác
định bằng sinh thiết gan.
* Người khỏe mạnh: là những tình nguyện viên hiến máu
nhân đạo chưa có tiền sử bệnh lý, có xét nghiệm âm tính với HBV,
HCV, HIV (bao gồm cả test nhanh và kỹ thuật NAT: nucleic acid
test).
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân UTTBG có xét nghiệm Anti-HCV dương tính.


7
- Bệnh nhân UTTBG đã được điều trị: phẫu thuật, nút mạch,
đốt nhiệt bằng sóng cao tần, tiêm cồn tuyệt đối hay điều trị với
sorafenib.
- Bệnh nhân có bệnh lý phối hợp: Suy tim nặng, suy hô hấp,
xuất huyết tiêu hóa và bệnh lý ung thư khác.

- Bệnh nhân có rối loạn đông máu nặng: TC < 50 G/L; PT <
50%.
- Những người không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, có so sánh đối chứng.
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
Cỡ mẫu được thực hiện theo phương pháp chọn mẫu thuận
tiện.
2.2.3. Phương tiện nghiên cứu
- Máy PCR 9700 và máy Realtime PCR 7500 hãng Applied
Biosystems của Mỹ, đặt tại khoa Sinh học phân tử, Bệnh viện TƯQĐ
108.
2.2.4. Định lượng miR-21, miR-122
Các miR-21, miR-122 được định lượng tương đối so với nội
chuẩn bằng phương pháp Realtime PCR.
Lấy 5ml máu tĩnh mạch vào buổi sáng khi bệnh nhân chưa
ăn cho vào ống có chất kháng đông Ethylenediaminetetra acid
(EDTA), mang ngay đến Khoa sinh học phân tử, Bệnh viện TƯQĐ
108. Ly tâm 3000 vòng/phút trong 5 phút, tách lấy huyết tương để tủ
lạnh âm 800c. Khi lấy đủ mẫu tiến hành định lượng miR-21, miR122.


8
2.2.5. Các chỉ tiêu nghiên cứu
- Tuổi, giới, triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng, đặc điểm u
gan, giai đoạn bệnh UTTBG theo BCLC.
- Biểu hiện miR-21, miR-122 huyết tương ở các nhóm đối
tượng nghiên cứu.
2.2.6. Phân tích và xử lý số liệu

- Số liệu được xử lý bằng phương pháp thống kê y học, sử
dụng phần mềm SPSS 21.0.
- Tính tỉ lệ phần trăm, giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, trung
vị. So sánh tìm sự khác biệt giữa các quan sát, xác định giá trị chẩn
đoán của các dấu ấn sinh học bằng đường cong ROC, tính diện tích
dưới đường cong (AUC), độ nhạy, độ đặc hiệu. Phân tích mối liên
quan sử dụng hồi quy logistic, tính “OR”. Phân tích tương quan, tính
hệ số tương quan “r”
2.2.7. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu tuân thủ các quy định về đạo đức nghiên cứu y
học.
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện Trung ương Quân
đội 108 từ tháng 3 năm 2014 đến tháng 3 năm 2017. Bao gồm 101
bệnh nhân UTTBG, 46 bệnh nhân VGBM, 103 người khỏe mạnh đủ
tiêu chuẩn được lựa chọn.


9
3.1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm của đối tượng nghiên
cứu
- Tuổi trung bình BN UTTBG (55,6 ± 12,34), bệnh nhân ít
tuổi nhất 23 tuổi, bệnh nhân lớn nhất là 92 tuổi. Nam chiếm chủ yếu
(93,1%), nữ (6,9%), tỷ lệ nam/nữ ~ 13/1.
- Triệu chứng cơ năng BN UTTBG thường gặp là mệt mỏi
(63,4%), chán ăn (61,4%), đau tức hạ sườn phải (61,4%), sút cân
(47,5%). Triệu chứng toàn thân BN UTTBG hay gặp như sao mạch
(14,85%), bàn tay son (11,88%), vàng da và củng mạc (10,89%), các
triệu chứng ít gặp hơn như sốt, phù, xuất huyết dưới da có tỷ lệ

ngang nhau (1,98%). Triệu chứng thực thể thường gặp nhất ở BN
UTTBG là gan to (21,78%), các triệu chứng ít gặp hơn như lách to
(6,93%), tuần hoàn bàng hệ cửa chủ (3,96%), không bệnh nhân nào
có cổ trướng.
- Hoạt độ enzym gan AST, ALT, nồng độ bilirubin toàn phần
và tải lượng HBV ở nhóm UTTBG thấp hơn ở nhóm VGBM (p <
0,05). Nồng độ AFP huyết thanh ở nhóm UTTBG cao hơn nhóm
VGBM (p < 0,05).
- Bệnh nhân UTTBG có AFP ≤ 20ng/ml chiếm tỷ lệ 35,6%.
3.1.2. Đặc điểm khối u gan
- Bệnh nhân UTTBG có một khối u (64,36%), 2-3 khối
(13,86%), trên 3 khối (21,78%).
- Kích thước trung bình khối u lớn nhất (7,78 ± 3,41) cm.
Bệnh nhân có khối u gan kích thước dưới 5cm (28,71%).
- Bệnh nhân UTTBG có huyết khối tĩnh mạch cửa (22,77%).


10
- Bệnh nhân UTTBG có độ biệt hóa tế bào ở mức độ vừa
chiếm đa số (45,55%), biệt hóa cao (24,75%), biệt hóa thấp (9,90%)
- Phân loại giai đoạn bệnh UTTBG theo BCLC: Giai đoạn
sớm (15,84%), giai đoạn trung gian (49,51%), giai đoạn tiến triển
(34,65%).
3.2. Biểu hiện miR-21, miR-122 ở các đối tượng nghiên cứu
3.2.1. Biểu hiện miR-21, miR-122 ở bệnh nhân UTTBG, VGBM
và NKM
Bảng 3.13. Biểu hiện miR-21 huyết tương BN UTTBG, VGBM và
NKM
miR-21 (2-ΔCt)


Trung vị

UTTBG (n=101)

10,78

194,05 ± 564,16

0,10 – 3743,05

VGBM

(n=46)

2,02

3,79 ± 7,46

0,12 – 50,91

NKM

(n=103)

0,73

0,83 ± 0,55

0,10 – 2,42


Khoảng giá trị

Nhận xét: Giá trị miR-21 huyết tương dao động trong
khoảng lớn ở các nhóm nghiên cứu. MiR-21 nhóm UTTBG có biểu
hiện lớn hơn nhóm VGBM và NKM.
Bảng 3.14. Biểu hiện miR-122 huyết tương BN UTTBG, VGBM và
NKM
miR-122 (2-ΔCt)

Trung vị

UTTBG (n=101)

436,54

Khoảng giá trị
3158,58 ± 7707,36 0,14 – 47975,16

VGBM (n=46)

3,61

31,63 ± 84,27

0,002 – 508,46

NKM

0,10


1,07 ± 2,09

0,00002 – 13,17

(n=103)

Nhận xét: Giá trị miR-122 huyết tương dao động trong
khoảng lớn ở các nhóm nghiên cứu. MiR-122 nhóm UTTBG có biểu
hiện lớn hơn nhóm VGBM và NKM.


11

Biểu đồ 3.5. Đường cong ROC của miR-21, miR-122 ở nhóm bệnh
nhân UTTBG và VGBM
Nhận xét: Trong chẩn đoán giữa nhóm bệnh nhân UTTBG
và VGBM, miR-21 có độ nhạy (68,3%), độ đặc hiệu (78,3%); miR122 có độ nhạy (79,2%), độ đặc hiệu (89,1%). Độ nhạy độ đặc hiệu
của miR-122 cao hơn độ nhạy độ đặc hiệu của miR-21 trong chẩn
đoán giữa nhóm UTTBG với VGBM.


12
Biểu đồ 3.7. Đường cong ROC của AFP, miR-21, miR-122 ở nhóm
bệnh nhân UTTBG và VGBM
Nhận xét: Điện tích dưới đường cong của miR-21 lớn hơn
điện tích dưới đường cong của AFP nhưng chưa có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05). Diện tích dưới đường cong của miR-122 lớn hơn diện tích
dưới đường cong của AFP và miR-21 có ý nghĩa với (p < 0,05).
- Khi phối hợp miR-21 với AFP cho điện tích dưới đường
cong tăng lên có ý nghĩa so với miR-21 và AFP đơn độc (p < 0,05).

- Khi phối hợp miR-122 và AFP cho điện tích dưới đường
cong tăng cao so với AFP (p < 0,05), nhưng chưa tăng có ý nghĩa so
với miR-122 (p > 0,05).
- Diện tích dưới đường cong của miR-21 phối hợp với AFP
nhỏ hơn diện tích dưới đường cong của miR-122 phối hợp với AFP
(p < 0,05). Khi phối hợp miR-21 và miR-122 với AFP cho điện tích
dưới đường cong tăng lên so với miR-21 phối hợp với AFP (p <
0,05).


13
Biểu đồ 3.12. Đường cong ROC của miR-21, miR-122 ở nhóm bệnh
nhân UTTBG và NKM
Nhận xét: Trong chẩn đoán giữa nhóm bệnh nhân UTTBG
và NKM, miR-21 có độ nhạy (81,2%), độ đặc hiệu (94,2%); miR122 có độ nhạy (94,1%), độ đặc hiệu (99,0%).
3.2.2. Biểu hiện miR-21, miR-122 ở bệnh nhân UTTBG có AFP ≤
20ng/ml
- Biểu hiện miR-21, miR-122 trong huyết tương ở nhóm
bệnh nhân UTTBG có AFP ≤ 20ng/ml tăng cao hơn so với nhóm
bệnh nhân VGBM và NKM (p < 0,001).
Bảng 3.23. Độ nhạy, độ đặc hiệu của miR-21, miR-122 trong chẩn
đoán UTTBG có AFP ≤ 20ng/ml và VGBM
UTTBG (n =
36)
VGBM

(n =

AUC


Điểm

Độ nhạy

Độ đặc hiệu

cắt

(%)

(%)

3,62

75,0

78,3

55,33

80,6

89,1

46)
miR-21 (2-∆Ct)

0,80
6


-∆Ct

miR-122 (2

)

0,91
5

Nhận xét: Trong chẩn đoán giữa nhóm bệnh nhân UTTBG
có AFP ≤ 20ng/ml và VGBM: miR-21 có độ nhạy (75%), độ đặc hiệu
(78,3%); miR-122 có độ nhạy (80,6%), độ đặc hiệu (89,1%).
Bảng 3.25. Độ nhạy, độ đặc hiệu của miR-21, miR-122 trong chẩn
đoán UTTBG có AFP ≤ 20ng/ml và NKM
UTTBG (n = 36)

AUC

Điểm

Độ nhạy

Độ đặc hiệu


14
NKM

(n = 103)


miR-21 (2-∆Ct)

0,93

cắt

(%)

(%)

2,17

83,3

98,1

8,3

94,4

99,0

5
-∆Ct

miR-122 (2

)

0,99

1

Nhận xét: Trong chẩn đoán giữa nhóm bệnh nhân UTTBG
có AFP ≤ 20ng/ml và NKM: miR-21 có độ nhạy (83,3%) độ đặc hiệu
(98,1%); miR-122 có độ nhạy (94,4%), độ đặc hiệu (99%).
3.2.3. Biểu hiện miR-21, miR-122 ở bệnh nhân UTTBG giai đoạn
sớm
- Biểu hiện miR-21, miR-122 tăng cao trong huyết tương
nhóm UTTBG giai đoạn sớm (BCLC: A) so với nhóm VGBM và
NKM (p < 0,001).
Bảng 3.27. Diện tích dưới đường cong của AFP, miR-21, miR-122
trong chẩn đoán UTTBG giai đoạn sớm và VGBM
Chỉ số

Diện tích dưới đường

p

cong (AUC)

AFP (1)

0,617

p1,2 < 0,05

miR-21 (2)

0,848


p1,3 < 0,05

miR-122 (3)

0,979

p2,3 < 0,05

Nhận xét: miR-21, miR-122 có giá trị cao trong chẩn đoán
UTTBG giai đoạn sớm và VGBM. Diện tích dưới đường cong của
miR-21, miR-122 lớn hơn diện tích dưới đường cong của AFP trong
chẩn đoán UTTBG giai đoạn sớm và VGBM (p < 0,05).


15
Bảng 3.28. Diện tích dưới đường cong của miR-21, miR-122 trong
chẩn đoán UTTBG giai đoạn sớm và NKM
Diện tích dưới đường

Chỉ số

p

cong (AUC)

miR-21

0,894

miR-122


0,993

p < 0,05

Nhận xét: miR-21, miR-122 có giá trị cao trong chẩn đoán
UTTBG giai đoạn sớm và NKM. Diện tích dưới đường cong của
miR-122 lớn hơn diện tích dưới đường cong của miR-21 trong chẩn
đoán UTTBG giai đoạn sớm và NKM (p < 0,05).
3.3. Mối liên quan giữa miR-21, miR-122 với một số chỉ số lâm
sàng, cận lâm sàng và giai đoạn bệnh ở bệnh nhân UTTBG.
Bảng 3.29. Tương quan giữa miR-21, miR-122 với tuổi
Tuổi
UTTBG

miR-21

miR-122

r

p

r

p

0,157

> 0,05


0,163

> 0,05

Nhận xét: Chưa thấy mối tương quan giữa miR-21, miR-122
huyết tương với tuổi ở nhóm bệnh nhân UTTBG ( < 0,3; p > 0,05).


16
Bảng 3.30. Liên quan giữa miR-21, miR-122 với giới
miR-21

miR-122

Giới

(95%
(95%
OR
p
CI)
CI)
0,071 0,295 UTTBG 0,383 0,266
1,391 0,676
2,075
6,559
Nhận xét: Chưa thấy mối liên quan giữa miR-21, miR-122
OR


p

huyết tương với giới ở nhóm bệnh nhân UTTBG (p > 0,05).
Bảng 3.33. Tương quan giữa miR-21 với một số chỉ số xét nghiệm ở
bệnh nhân UTTBG
miR-21
Chỉ số
Tiểu cầu (G/L)
Prothrombin (%)
AST (U/L)
ALT (U/L)
Blirubin TP (µmol/l)
Protein TP (g/l)
Albumin (g/l)
AFP (ng/ml)
HBV-DNA{Log(bản sao/ml)}

Hệ số tương
quan (r)
- 0,139
0,102
- 0,037
0,012
- 0,107
- 0,128
0,047
- 0,008
0,502

p

> 0,05
> 0,05
> 0,05
> 0,05
> 0,05
> 0,05
> 0,05
> 0,05
< 0,05

Nhận xét: Chưa thấy tương quan giữa miR-21 với số lượng
tiểu cầu, tỷ lệ prothrombin, hoạt độ enzym gan AST, ALT, nồng độ
bilirubin TP, protein TP, Abumin và AFP ở bệnh nhân UTTBG ( <
0,3; p > 0,05). Có mối tương quan yếu giữa miR-21 huyết tương với
tải lượng HBV (r = 0,502; p < 0,05).


17
Bảng 3.34. Tương quan giữa miR-122 với một số chỉ số xét nghiệm
ở bệnh nhân UTTBG
miR-122
Chỉ số
Tiểu cầu (G/L)
Prothrombin (%)
AST (U/L)
ALT (U/L)
Blirubin TP (µmol/l)
Protein TP (g/l)
Albumin (g/l)
AFP (ng/ml)

HBV-DNA {Log(bản sao/ml)}

Hệ số tương
quan (r)
- 0,051
0,186
- 0,097
- 0,037
- 0,131
- 0,076
0,159
0,004
0,369

p
> 0,05
> 0,05
> 0,05
> 0,05
> 0,05
> 0,05
> 0,05
> 0,05
< 0,05

Nhận xét: Chưa thấy tương quan giữa miR-122 với số lượng
tiểu cầu, tỷ lệ prothrombin, hoạt độ enzym gan AST, ALT, nồng độ
bilirubin TP, protein TP, Abumin và AFP ở bệnh nhân UTTBG ( <
0,3; p > 0,05). Có mối tương quan yếu giữa miR-122 huyết tương với
tải lượng HBV ở nhóm bệnh nhân UTTBG (r = 0,369; p < 0,05).

Bảng 3.35. Liên quan giữa miR-21 với chức năng gan theo phân loại
Child - Pugh, đặc điểm khối u gan và giai đoạn bệnh theo BCLC
Chỉ số
Child - Pugh
Số lượng khối u
Kích thước khối u
Huyết khối TMC
Độ biệt hóa tế bào
BCLC

OR
1,316
0,868
0,883
1,148
1,710
1,092

miR-21
p
0,665
0,733
0,777
0,771
0,141
0,756

(95% CI)
0,379 - 4,565
0,384 - 1,961

0,373 - 2,092
0,453 - 2,913
0,837 - 3,492
0,627 - 1,902


18
Nhận xét: Chưa thấy mối liên quan giữa miR-21 huyết tương
với chức năng gan theo phân loại Child – Pugh, số lượng khối u, kích
thước khối u, tình trạng huyết khối tĩnh mạch cửa, độ biệt hóa tế bào
và giai đoạn bệnh UTTBG theo phân loại BCLC (p > 0,05).
Bảng 3.36. Liên quan giữa miR-122 với chức năng gan theo phân
loại Child - Pugh, đặc điểm khối u gan và giai đoạn bệnh theo BCLC
Chỉ số
Child - Pugh
Số lượng khối u
Kích thước khối u
Huyết khối TMC
Độ biệt hóa tế bào
BCLC

OR
1,316
1,031
0,489
0,731
1,219
0,730

miR-122

p
0,665
0,941
0,112
0,511
0,575
0,272

(95% CI)
0,379 - 4,565
0,457 - 2,328
0,202 - 1,182
0,286 - 1,864
0,609 - 2,441
0,416 - 1,280

Nhận xét: Chưa thấy mối liên quan giữa miR-122 huyết
tương với chức năng gan theo phân loại Child – Pugh, số lượng khối
u, kích thước khối u, tình trạng huyết khối tĩnh mạch cửa, mức độ
biệt hóa tế bào và giai đoạn bệnh UTTBG theo phân loại BCLC (p >
0,05).


19
Chương 4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
UTTBG có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên có sự
khác nhau về tỷ lệ mắc ở các nhóm tuổi khác nhau. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, khoảng tuổi mắc UTTBG khá rộng, BN nhỏ tuổi nhất
là 23 tuổi, BN lớn nhất là 92 tuổi, tuổi trung bình (55,6 ± 12,34), giới

nam chiếm chủ yếu (93,1%), nữ (6,9%), tỷ lệ nam/nữ ~13/1.
UTTBG thường tiến triển thầm lặng, khi có biểu hiện triệu
chứng là đã ở giai đoạn muộn, khối u có kích thước lớn hoặc suy
giảm chức năng gan kèm theo. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy các triệu chứng cơ năng thường gặp là mệt mỏi (63,4%), chán
ăn (61,4%), đau tức hạ sườn phải (61,4%), sút cân (47,5%). Triệu
chứng thực thể nhiều nhất là gan to (21,78%). Nồng độ AFP trung
bình nhóm bệnh nhân UTTBG (339,29 ± 574,02) ng/ml, trong đó
35,6% BN UTTBG có AFP huyết thanh ở mức ≤ 20ng/ml.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phần lớn các trường hợp có
u gan kích thước lớn, kích thước trung bình khối u lớn nhất (7,78 ±
3,41)cm. Bệnh nhân có khối u gan kích thước dưới 5cm chỉ chiếm
(28,71%). Bệnh nhân UTTBG có một khối u (64,36%), u gan đa ổ
gặp ở 35,64% trong đó 2-3 khối (13,86%), trên 3 khối (21,78%). Kết
quả của chúng tôi tương tự như kết quả nghiên cứu của một số tác
giả trong và ngoài nước, đa phần bệnh nhân UTTBG có một khối u
gan. Xâm lấn mạch máu là dấu hiệu thể hiện giai đoạn muộn của
UTTBG, thể hiện tình trạng lan rộng và phá hủy của tổ chức ung thư
vào các mạch máu lân cận như tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch gan và tĩnh
mạch chủ dưới… Hình thái xâm lấn mạch máu được thể hiện thông
qua hình ảnh huyết khối tĩnh mạch, tỷ lệ huyết khối tĩnh mạch cửa


20
trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm 22,77%. Độ biệt hóa tế bào là
yếu tố quan trọng không thể thiếu khi nói đến bất kỳ một loại ung
thư nào. Trong UTTBG, độ biệt hóa được xem là một yếu tố tiên
lượng quan trọng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, những bệnh nhân
UTTBG có độ biệt hóa tế bào mức độ vừa chiếm đa số (45,55%),
biệt hóa cao (24,75%), biệt hóa thấp (9,90%). Không xác định độ

biệt hóa (19,80%), đây là những trường hợp UTTBG loại tế bào sáng
và các BN được chọc hút tế bào u gan bằng kim nhỏ. Tỷ lệ mức độ
biệt hóa tế bào nhóm UTTBG của chúng tôi tương đương với nghiên
cứu của tác giả Thái Doãn Kỳ, Nguyễn Tiến Thịnh và Lê Văn
Trường. Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng hệ thống phân loại
BCLC để đánh giá giai đoạn bệnh của các bệnh nhân UTTBG. Kết
quả nghiên cứu cho thấy BN UTTBG giai đoạn trung gian BCLC B
chiếm 49,51%, giai đoạn tiến triển BCLC C (34,65%), giai đoạn sớm
BCLC A (15,84%), không có BN UTTBG giai đoạn muộn BCLC D.
4.2. Biểu hiện của miR-21, miR-122 ở bệnh nhân UTTBG
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, miR-21, miR-122
có biểu hiện tăng cao trong huyết tương ở nhóm UTTBG so với
nhóm bệnh nhân VGBM và người khỏe mạnh với p < 0,001. Biểu
hiện cao của miR-21 trong mô ung thư tế bào gan đã được báo cáo từ
nhiều năm trước. Nghiên cứu tại Trường Đại Học Ohio ở Mỹ năm
2007 tác giả Meng F. và cộng sự đã báo cáo biểu hiện tăng cao của
miR-21 trong mô ung thư tế bào gan so với mô gan lành ở người.
Nghiên cứu của tác giả Tomimaru Y. và cộng sự (2012) tại Nhật Bản
cho thấy biểu hiện miR-21 tăng cao trong huyết tương bệnh nhân
UTTBG so với nhóm viêm gan mạn và người khỏe mạnh với p <
0,0001. Nghiên cứu ở Trung Quốc báo cáo tháng 5 năm 2017, tác giả


21
Guo X. và cộng sự nghiên cứu biểu hiện miR-21 huyết thanh trên
453 đối tượng bao gồm 175 bệnh nhân UTTBG, 64 bệnh nhân viêm
gan B mạn, 78 bệnh nhân xơ gan và 136 người khỏe mạnh tình
nguyện. Kết quả cho thấy miR-21 huyết thanh ở nhóm UTTBG cao
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm viêm gan B mạn, xơ gan và
người khỏe mạnh (p < 0,0001). Báo cáo từ những năm 2006 của tác

giả Kutay H. đến từ Đại học Y bang Ohio Mỹ, khi nghiên cứu những
thay đổi của của các miRNA ở mô gan chuột được gây UTTBG thực
nghiệm. Kết quả cho thấy miR-122 biểu hiện phong phú ở mô gan
lành, trong khi đó miR-122 giảm nặng ở mô gan ung thư. Trong khi
giảm biểu hiện ở mô gan ung thư thì miR-122 lại được nhận thấy
tăng lên trong huyết tương ở bệnh nhân UTTBG so với những người
không UTTBG. Nghiên cứu trên 152 đối tượng trong đó 70 bệnh
nhân UTTBG nhiễm HBV, 48 bệnh nhân viêm gan B mạn không có
ung thư và 34 người khỏe tình nguyện của tác giả Qi P. và cộng sự
(2011). Kết quả cho thấy biểu hiện miR-122 huyết tương tăng cao có
ý nghĩa thống kê ở nhóm bệnh nhân UTTBG so với nhóm người
khỏe mạnh (p < 0,001) và viêm gan B mạn (p < 0,05). Tương tự như
nghiên cứu của chúng tôi, nghiên cứu trên bệnh nhân UTTBG ở Ấn
Độ năm 2019, tác giả Bharali, D và cộng sự thấy biểu hiện miR-21,
miR-122 tăng cao có ý nghĩa thống kê ở nhóm bệnh nhân UTTBG so
với nhóm xơ gan, viêm gan mạn và người khỏe mạnh với p < 0,05.
Khảo sát giá trị của miR-21, miR-122 trong phân biệt chẩn
đoán UTTBG với VGBM và NKM. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy miR-21, miR-122 có độ nhạy độ đặc hiệu cao. Trong
đó, diện tích dưới đường cong, độ nhạy độ đặc hiệu của miR-122 cao
hơn điện tích dưới đường cong, độ nhạy độ đặc hiệu của miR-21


22
trong chẩn đoán giữa bệnh nhân UTTBG với bệnh nhân VGBM và
NKM. Không chỉ có vậy, khi so sánh giá trị chẩn đoán của miR-21,
miR-122 với AFP qua diện tích dưới đường cong ROC cho thấy diện
tích dưới đường cong của miR-21, miR-122 lớn hơn điện tích dưới
đường cong của AFP. Kết quả của chúng tôi tương tự như kết quả
của một số tác giả trên thế giới đều thấy miR-21, miR-122 có độ

nhạy độ đặc hiệu cao hơn AFP trong chẩn đoán UTTBG với các
nhóm đối chứng. Khi phối hợp miR-21 với AFP cho điện tích dưới
đường cong tăng lên có ý nghĩa so với miR-21 và AFP đơn độc p <
0,05. Hay khi phối hợp miR-122 với AFP cho điện tích dưới đường
cong tăng cao hơn so với AFP đơn độc p < 0,05. Kết quả này cho
thấy khi phối hợp miR-21, miR-122 với AFP làm tăng hiệu quả chẩn
đoán của AFP do đó có thể bổ trợ cho AFP trong chẩn đoán UTTBG.
Hơn nữa, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy biểu
hiện của miR-21, miR-122 tăng cao trong huyết tương ở nhóm bệnh
nhân UTTBG có AFP ≤ 20ng/ml so với nhóm bệnh nhân VGBM và
người khỏe mạnh p < 0,001. Trong chẩn đoán giữa nhóm UTTBG có
AFP ≤ 20ng/ml với VGBM, diện tích dưới đường cong, độ nhạy, độ
đặc hiệu của miR-21, miR-122 ở mức (0,806; 75,0%; 78,3%) và
(0,915; 80,6%; 89,1%) tương ứng. Tương tự, giữa nhóm UTTBG có
AFP ≤ 20ng/ml với nhóm người khỏe mạnh, diện tích dưới đường
cong, độ nhạy, độ đặc hiệu của miR-21, miR-122 (0,935; 83,3%;
98,1%) và (0,991; 94,4%; 99,0%) tương ứng. Trong cả hai trường
hợp này, miR-122 đều có độ nhạy độ đặc hiệu cao hơn so với miR-21
(p < 0,05). Chúng tôi tiến hành khảo sát giá trị chẩn đoán của miR21, miR-122 ở nhóm bệnh nhân UTTBG giai đoạn sớm (BCLC A)
với các nhóm chứng bao gồm VGBM và NKM. Kết quả cho thấy,


23
miR-21, miR-122 có hiệu quả cao trong chẩn đoán UTTBG với
VGBM (AUC = 0,848; 0,979), UTTBG với NKM (AUC = 0,894;
0,993). Đặc biệt miR-21, miR-122 có giá trị cao hơn AFP trong chẩn
đoán giữa nhóm UTTBG giai đoạn sớm với nhóm VGBM (p < 0,05).
4.3. Liên quan giữa miR-21, miR-122 với một số chỉ số lâm sàng,
cận lâm sàng và giai đoạn bệnh ở bệnh nhân UTTBG.
Nhằm mục tiêu xem xét yếu tố tuổi giới, tình trạng hủy hoại

tế bào gan, mức độ suy gan có tác động đến biểu hiện của miR-21,
miR-122, chúng tôi khảo sát mối liên quan giữa miR-21, miR-122
với tuổi, giới ở nhóm bệnh nhân UTTBG. Chúng tôi chưa thấy mối
liên quan giữa miR-21, miR-122 với tuổi, giới ở bệnh nhân UTTBG
(p > 0,05). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tình trạng hủy hoại tế
bào gan hay sự biểu hiện của suy gan thông qua các chỉ số sinh hóa,
huyết học chưa được ghi nhận liên quan đến biểu hiện miR-21, miR122 huyết tương ở bệnh nhân UTTBG. Có mối tương quan yếu giữa
miR-21, miR-122 huyết tương với tải lượng HBV (r = 0,502; r =
0,369; p < 0,05). Tương tự như kết quả nghiên cứu của chúng tôi,
Waidnamn và cộng sự cũng thấy có mối tương quan yếu giữa miR122 với tải lượng HBV. Trong khi đó một số nghiên cứu khác tại Đức
và Nhật Bản lại không nhận thấy có mối liên quan giữa miR-21,
miR-122 với tải lượng HBV, điều này chứng tỏ mối liên quan giữa
tải lượng HBV với miR-21, miR-122 chưa thực sự rõ và thống nhất,
cần nhiều nghiên cứu với quy mô lớn hơn để làm sáng tỏ vấn đề này.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chưa thấy mối liên quan giữa biểu
hiện miR-21, miR-122 huyết tương với số lượng, kích thước khối u
gan, độ biệt hóa tế bào, mức độ bệnh theo phân loại BCLC ở bệnh
nhân UTTBG (p > 0,05).


×