Nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao
Giữa lúc dòng văn học hiện thực phê phán (1930-1945) tưởng như chấm dứt thời kỳ vàng
son của mình thì Nam Cao xuất hiện như một ngôi sao lạ trên bầu trời đầy sao. Với tác phẩm
“Chí Phèo” (1940), Nam Cao đã đóng góp cho dòng văn học hiện thực một điển hình nông
dân mới lạ, sâu sắc, độc đáo với tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
Chí Phèo ra đời thật là thê thảm: “Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương đã
thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh cái lò gạch bỏ không,
anh ta rước lấy và đem cho người đàn bà goá mù. Người đàn bà goá mù này bán hắn cho bác
phó cối không con và khi bác phó cối chết đi thì hắn bơ vơ, hết đi ở nhà này đên ở nhà nọ.
Thân phận của đứa con hoang thật là bi thảm. May thay, xã hội cũng còn chút tình thương
nên Chí mới có thể tồn tại mà trưởng thành. Nếu ở trong một xã hội bình thường thì Chí vẫn
có thể trở thành người lương thiện. Năm 20 tuổi hắn đã là một thanh niên khoẻ mạnh làm
canh điền cho Bá Kiến, “hắn ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ
dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
Nhưng mơ ước nhỏ nhoi ấy cũng không thành.
Hắn cũng có lòng tự trọng. Khi bị bà Ba nhà cụ Bá gọi lên bóp chân, bóp đùi gì đó thì”
hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất lương thiện trong sáng ấy của Chí đã
bị xã hội huỷ diệt.
Bá Kiến ghen với anh canh điền được bà Ba quyền thu quyền bổ trong nhà nên đã
ngầm đẩy Chí Phèo đi ở tù. Sau bảy, tám năm tù, Chí trở về thành một tên lưu manh côn đồ
thứ thiệt. Nhà tù đã cướp đi bộ mặt lương thiện của hắn, biến hắn trở thành “con quỷ dữ của
làng Vũ Đại”, “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng,
hai mắt gờm gờm trông gớm chết”
Bá Kiến và nhà tù thực dân đã xô đẩy Chí Phèo vào con đường lưu manh tội lỗi. Từ
đấy, đối với đời là một cơn say. Những cơn say của hắn tràn từ cơn này đến cơn khác. Hắn ăn
trong lúc say, ngủ trong lúc say và thức dật hãy còn say, đập đầu, rạch mặt trong lúc say…để
rồi say nữa, say vô tận. Hành vi lưu manh côn đồ của hắn có mấy biểu hiện: Hắn đập đầu,
rạch mặt, đe doạ, ăn vạ, tống tiền bọn cường hào mà tiêu biểu là Bá Kiến. Đối với dân làng,
hắn là con quỷ dữ giết người không gớm tay. Dân làng ai cũng sợ hắn. Hắn lại bị bọn cường
hào lợi dụng để thanh trừng lẫn nhau. Bá Kiến có lần đã sai Chí đi đòi nợ Đội Tảo. Chí làm
được việc, vênh váo ra về “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”.
Với hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã nêu lên một hiện tượng khá phổ biến, có tính
quy luật ở nông thôn Việt Nam xưa. Những người lao động lương thiện bị xã hội đẩy vào con
đường cùng đã quay lại chống trả bằng con đường lưư manh để tồn tại. Trước Chí Phèo, làng
Vũ Đại đã có Năm Thọ rồi Binh Chức. Sau khi Chí Phèo chết, hiện tượng đó chắc gì đã chấm
đứt. Biết đâu lại có một Chí Phèo con ra đời trong cái lò gạch cũ?.
Điều chắc chắn là còn bọn cường hào ức hiếp dân lành, không cho họ đựoc sống
lương thiện thì họ phải rơi vào con đường lưu manh, giành lấy miếng ăn, tức là bị huỷ diệt
nhân tính và bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. “Chí Phèo”đã làm nổi bật cái quy luật tàn
bạo đó của xã hội cũ.
Nhưng nếu truyện dừng lại ở đó thì Nam Cao không có gì mới hơn các nhà văn hiện
thực phê phán đi trước. Nét đặc sắc và độc đáo của Nam Cao là đã rọi ánh sáng vào tâm hồn
đen tối ấy để thấy rằng Chí Phèo vẫn còn một chút lương tri. Nhưng rọi bằng cách nào, Nam
Cao đã rọi bằng ánh sáng của tình thương, tình yêu, chỉ có những tình cảm ấy mới có thể rọi
vào tâm hồn của một con quỷ. Trong một cơn say, dưới đêm trăng ngoài bãi vắng, hắn vừa la
làng vừa yêu Thị Nở, người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ở cái làng Vũ Đại này. Nhưng điều
kì diệu là nếu như lúc đầu Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng sinh vật ở người đàn ông say rượu
Chí Phèo, thì sau đó sự chăm sóc đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc chân thành của Thị
Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người nông dân lao động . Sau khi ăn bát cháo
của Thị Nở thì Chí tỉnh hẳn. Hắn bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Lần đầu tiên
từ ngày về làng, sáng dậy hắn nghe tiếng chim kêu, hắn nghe rõ tiếng cười nói của người đi
chợ, anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đàn bà đi chợ về…
Những âm thanh bình thường quen thuộc ấy đã trở thành tiếng gọi của sự sống và đã lay động
sâu xa tâm hồn Chí. Cuộc gặp gỡ Thị Nở đã loé sáng như một tia chớp trong cuộc đời tối tăm
dằng dặc của Chí. Chí bỗng nhận ra tất cả tình trạng bi đát của số phận mình. Tình yêu
thương đã thức tỉnh Chí. Chí bỗng thấy thèm lương thiện, muốn làm hoà với mọi người biết
bao. Chí khao khát được mọi người nhận ra anh trở lại vào cái xã hội bằng phẳng của những
người lương thiện. Tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người.
Nhưng tội nghiệp cho Chí Phèo, Chí mà cầu cứu vào Thị Nở để trở lại làm người
lương thiện thì chẳng khác nào người sắp chết đuối vớ phải mảng bèo.Thị Nở là một phụ nữ
u mê, đần độn. không tự định đoạt được vận mệnh của minh. Đã ở với Chí Phèo năm ngày
năm đêm trong túp lều bên bờ sông, mà khi bà cô ngăn cản, thị lập tức chạy sang nhà Chí
Phèo: “Thôi! Dừng yêu”. Cuộc đời Chí Phèo bị tường cao bao bọc chỉ còn một ngõ ngách để
trở về cuộc sống lương thiện. Bà cô Thị Nở đứng ở đó và ngăn chặn. Chúng ta cũng không
trách bà cô Thị Nở. Bà cũng như dân làng Vũ Đại đã quen coi Chí là tên lưu manh, là con quỷ
dữ rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về nhưng không ai nhận ra. Thế là Chí Phèo thật sự rơi vào
một bi kịch tinh thần đau đớn. Chí Phèo thật sự đã bị xã hội cự tuyệt. Chí vật vã quằn quại
trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn lại uống, lại uống, Nhưng càng uống càng tỉnh ra, không
nghe mùi rượu mà chỉ nghe mùi cháo hành. Hắn càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận
mình. Rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống say mèm. Hắn ra đi với một con dao ở
thắt lưng. hắn lẩm bẩm; “Tao phải đâm chết nó”. Hắn định vào nhà Thị Nở thì lại vào đúng
nhà Bá Kiến. Đây là một tình tiết của thiên tài, vì trong tiềm thức, trong vô thức Bá Kiến mới
là kẻ thù chính của Chí. Vả lại cũng thuộc đường, thuộc ngõ. Bá Kiến đang nằm ngủ trưa.
Hắn đang nằm ngủ trưa. Hắn đang bực mình với bà Tư, không biết đi đâu mà lâu quá “Sao bà
ấy còn trẻ quá, gần bốn mươi tuổi mà trông cứ phây phây, càng phây phây quá đi nữa! Mà
thấy ghét những thằng trai trẻ…Cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ ở tù”. Thì chinh
lúc đó, con người trai trẻ bị hắn đẩy vào tù năm hai mươi tuổi vung dao xông vào. Chí Phèo
dõng dạc: “Tao muốn làm người lương thiện… Không ai cho tao lương thiện”. Hắn vung dao
nhào tới. Bá Kiến chết rồi hắn tự sát, khi người ta đến thì hắn “đang giãy đành đạch ở giữa
bao nhiêu là máu tươi”. “Chí Phèo đã chết ở ngưỡng cửa trở về cuộc đời đóng chặt trước hắn.
Chí đã chết trong niềm đau thương lớn lao và niềm khao khát mãnh liệt là được sống làm
người nhưng đã bị cự tuyệt. Câu hỏi cuối cùng của Chí: “Ai cho tao lương thiện” là câu hỏi
phẫn uất, đau đớn còn làm day dứt người đọc. Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra
câu hỏi lớn ấy. Đó là vấn đề có ý nghĩa xã hội, có ý nghĩa triết học, có tầm vóc lớn lao.
Nhân vật Chí Phèo là một điển hình nông dân mới mẻ, độc đáo, sâu sắc mà Nam Cao đã
góp vào cho dòng văn học hiện thực. Với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, với cách phân tích
tâm lí sâu sắc, Nam Cao đã đặt ra và giải quyết tấn bi kịch của người nông dân. Bi lkịch bị cự
tuyệt quyền làm người. Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo xã hôij thực dân
phong kiến. Xã hội đó đã cướp đi những gì Chí Phèo có và đã cướp đi những gì Chí Phèo
muốn. Và Nam Cao chẳng những là một nhà văn hiện thực sâu sắc mà còn là một nhà văn có
tinh thần nhân đạo cao quý.