Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÔN TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VỀ TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.26 KB, 19 trang )

ĐỀ CƯƠNG
MÔN TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG
VỀ TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG
Câu 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống lợi dụng Tôn giáo?
Câu 2. Phân tích các chức năng của Tôn giáo? Chức năng nào là cơ bản nhất? Vì sao?
Câu 3. Phân tích quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết Tôn giáo và dân tộc?
Câu 4. Nêu ý nghĩa của vấn đề đoàn kết Tôn giáo và dân tộc trong giai đoạn hiện nay?
BÀI LÀM
Câu 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống lạm dụng Tôn giáo?
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm sâu sắc về cách mạng Việt Nam. Trong đó,
Người luôn coi các giá trị nhân bản của các tôn giáo là những di sản vǎn hoá tinh thần quý báu
của nhân loại, bằng tri thức cách mạng, vốn hiểu biết về vǎn hoá sâu sắc và cái nhìn duy vật
biện chứng, Người đã phát hiện và tiếp nhận cái thiện, cái mỹ, cái cốt lõi nhân vǎn trong các
tôn giáo. Bên cạnh đó, Người kịch liệt phê phán chủ nghĩa giáo hội bị lợi dụng bởi mục đích
thực dân, nhưng luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân. Người kiên quyết bài trừ mê tín
dị đoan, bài trừ những hủ tục, làm cản trở sự vận động và phát triển của xã hội Việt Nam.
Thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo là nhằm xây dựng, củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chính sách tôn giáo theo tư tưởng của Người, thể hiện tính nhất quán, lâu dài, thực sự tôn
trọng tín ngưỡng, tôn giáo; thái độ mềm dẻo, khéo léo trong việc giải quyết các vấn đề tôn
giáo. Trong "Tám điều mệnh lệnh" của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ghi rõ: Chính
phủ, quân đội và đoàn thể phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, phong tục tập quán của đồng bào.
- Tuy nhiên, Hồ Chí Minh từng khẳng định nhiều lần rằng, có những kẻ lợi dụng sự dễ
tin của đồng bào để tuyên truyền Việt Minh là Cộng sản, Cộng sản là việt minh, cộng sản sẽ
tiêu diệt tôn giáo. Chúng tuyên truyền: khi chủ nghĩa cộng sản “chủ nghĩa vô thần” thành
công, tôn giáo là trở ngại lớn nhất, cộng sản sẽ không cùng chung chuyến thuyền đối với tôn
giáo, tôn giáo sẽ bị tiêu diệt...Chính điều này, đã làm phức tạp thêm mối quan hệ giữa Việt
Minh và đồng bào tôn giáo, việc đoàn kết, tập hợp lực lượng của chúng ta vô cùng khó khăn,
làm đảo lộn tình hình chính trị, kinh tế, xã hội lúc bấy giờ. Người luôn nhắc nhở đồng bào về
việc chống địch lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đối với vấn đề này, Người đã viết: "Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự


tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ
nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu
điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta.
1


Khổng Tử, Giê su, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu
cầu hạnh phúc cho loài người, cho xã hội. Nếu nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại
một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân
thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy ".
Người đã nhấn mạnh điểm chung giữa lý tưởng của chủ nghĩa Mác với tôn giáo và các
học thuyết có tính tiến bộ, đó là mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Đây là một đặc điểm lớn
được Hồ Chí Minh khai thác một cách triệt để và tài tình trong giải quyết các vấn đề có liên
quan đến tôn giáo.
Ở nước ta, sau khi miền Bắc được giải phóng, một số tín đồ còn băn khoăn về sinh hoạt
tôn giáo trong chế độ mới, để đồng bào có đạo an tâm HCM đã nêu rõ: “ĐCS chẳng những
không tiêu diệt tôn giáo mà còn bảo hộ tôn giáo. Đảng cộng sản chỉ tiêu diệt tội ác người bóc
lột người”.
Ngày 10/5/1958, khi trả lời câu hỏi của các cử tri Hà Nội: “Tiến lên CNXH thì tôn giáo
có bị hạn chế không? HCM một lần nữa nhắc lại thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo:
“Không, ở các nước XHCN, tín ngưỡng hoàn toàn tự do. Ở Việt Nam cũng vậy”.
Hay, trong thư gửi tướng Trần Tu Hòa: "Việt Nam độc lập đồng minh không phải là một
Đảng mà là một mặt trận toàn dân, bao gồm các đảng phái (đảng Dân chủ, phái Xã hội), các
phần tử Quốc dân Đảng, Đảng cộng sản (đã tự động giải tán) và các đoàn thể yêu nước không
đảng phái như Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phật giáo cứu quốc, Hội Cơ đốc giáo cứu
quốc...", Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh cái chung, cái tương đồng của các tôn giáo để thực
hiện đoàn kết tôn giáo, các lực lượng tôn giáo vào sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc.
- Ngay từ khi chính quyền còn non trẻ, Người đã chỉ đạo ban hành nhiều chính sách hết
sức đúng đắn, tôn trọng tự do tín ngưỡng. Chẳng hạn, ngày 5-4-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu 6 điều nên và không nên làm, trong đó ghi: "Không nên xúc phạm đến tín ngưỡng,

phong tục của dân". Chính cương của mặt trận Liên Việt ở điểm 1, điều 7 có ghi: "Tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng cho mọi người". Sắc lệnh 234/SL do Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký ngày 14-6-1955 đã thể hiện rõ tính nhất quán lâu dài của chính sách tôn trọng tự do
tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Hồ Chủ tịch thấy cần phải nói rõ để tránh sự
hiểu lầm của tín đồ các tôn giáo. Phải vạch trần những luận điệu xuyên tạc của bọn đế quốc
và bè lũ tay sai hòng lừa dối, chia rẽ đồng bào như chúng thường nói Chính phủ cấm đạo và
nhiều điều vô lý khác.
- Tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo
phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Tuyên truyền chiến tranh, phá hoại đoàn kết,
ngăn trở tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm phạm đến tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng
2


của người khác hoặc làm những việc trái pháp luật. Bảo vệ tự do tín ngưỡng, nhưng kiên
quyết trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo để phản Chúa, phản nước”.
Về nguyên tắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi các tổ chức tôn giáo phải hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật, theo quy định tại Điều 14 (chương IV) Sắc lệnh về tôn giáo số 234 do
Người ký: "Các tổ chức tôn giáo phải tuân thủ theo pháp luật của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, như mọi tổ chức khác của nhân dân". Trên cơ sở nguyên tắc ấy, các vấn đề nảy
sinh trong quan hệ giữa các tôn giáo, quan hệ giữa người theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa tôn
giáo với chính quyền... đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xử lý hài hòa. Người phân định rạch
ròi thái độ, cách thức ứng xử theo các mức độ khác nhau, như đối với chủ nghĩa thực dân và
các thế lực tôn giáo phản động cấu kết với nhau, đó là đấu tranh chống kẻ địch; còn đối với
đồng bào tôn giáo làm sai chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước là đấu tranh trong nội bộ
nhân dân. Một điển hình về xử lý những xung đột, mâu thuẫn, rắc rối xảy ra sau Cách mạng
Tháng Tám của Người là thái độ đối với bọn phản động đội lốt tôn giáo lợi dụng một số sai
sót của chính quyền Cách mạng ở một vài nơi nhằm kích động một bộ phận trong đồng bào
chưa giác ngộ ở các vùng công giáo Bùi Chu, Phát Diệm. Vụ việc liên quan đến tôn giáo
phức tạp đến mức khiêu khích giết cố đạo, thủ tiêu cán bộ Việt Minh, lôi kéo tín đồ hành lễ
liên miên, bỏ cả sản xuất... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã theo dõi tình hình một cách thường

xuyên và chỉ đạo giải quyết rất kịp thời. Người là kiên trì, nhẫn nại, chân tình. Nếu đã hết sức
kiên trì mà không đạt kết quả thì Người rất kiên quyết, rất nghiêm khắc: "Trong Hiến pháp
nước ta đã định rõ quyền tự do tín ngưỡng, kẻ nào vi phạm Hiến pháp và khiêu khích bà con
Công giáo sẽ bị xử lý".
- Để hạn chế sự lợi dụng và chi phối bởi chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh có đặt vấn đề
Tam tự ( Tự trị, Tự dưỡng, Tự truyền) cho Giáo Hội Việt Nam.
Về vấn đề này Người nhìn sang Trung Quốc, năm 1951, trong giáo dân Trung Quốc, bắt
đầu cuộc vận động “tự trị, tự dưỡng, tự truyền”, nghĩa là giáo dân tự cai quản lẫn nhau,
không cần cha cố ngoại quốc; các cha cố Trung Quốc tự làm ǎn không nhờ vả ai; giáo dân tự
tuyên truyền đạo Chúa. Xuất phát từ lòng yêu nước và sự giác ngộ lên cao, giáo dân Trung
Quốc đã gỡ mặt nạ những bọn mượn tên Chúa để lừa bịp nhân dân và làm tay sai cho đế
quốc. Như vậy, tính chất của phong trào Tam tự này là xây dựng một Giáo Hội mang bản sắc
dân tộc độc lập tự chủ, thoát ly hội thừa sai phương Tây. Để loại trừ ảnh hưởng của chủ
nghĩa Đế quốc như mô hình giáo hội của Trung Quốc. Tiếc rằng, những ý tưởng của Người
không thể thực hiện được ở Việt Nam lúc bấy giờ.
Bên cạnh đó, Người cũng chỉ ra rằng, khuyết điểm mà nhiều cán bộ làm công tác tôn
giáo hay mắc là thái độ định kiến, hẹp hòi với đồng bào có đạo. Người coi đó là kẻ thù bên
3


trong rất đáng sợ “vì nó phá hoại từ trong phá ra”. Người viết: “Tư tưởng hẹp hòi thì hành
động cũng hẹp hòi. Tư tưởng hẹp hòi thì nhiều thù mà ít bạn (như vấn đề tôn giáo)”. Hoặc
những quan niệm thành kiến sai lầm cho rằng: “đồng bào Công giáo là lạc hậu là khó vận
động”. Người nhắc nhở cán bộ khi vào nhà đồng bào có đạo không được nằm trước bàn thờ,
khi nói chuyện, tuyên truyền chính sách cũng phải thận trọng, ý tứ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
phê phán: “Đồng thời vì cán bộ ta kém, có nơi có những hành động lố lăng, phạm đến tín
ngưỡng và quyền lợi của đồng bào tôn giáo”. Nhiều cán bộ làm công tác tôn giáo chỉ lo mỗi
việc vận động đồng bào có đạo tham gia kháng chiến kiến quốc, công việc của đạo thì để
phía tôn giáo lo. Nói theo ngôn ngữ thời nay là chỉ lo phần “đẹp đời” còn “tốt đạo” là việc
của riêng tôn giáo. Đây là một quan niệm thiếu biện chứng triết học. Bởi vì “tốt đạo” và “đẹp

đời” luôn gắn bó khăng khít với nhau. Có một ngôi nhà thờ mới, rõ ràng là “tốt đạo” vì bà
con có nơi thờ tự khang trang, nhưng nhà thờ cũng là một công trình văn hóa của địa phương
nên nó làm đẹp cho cả xã hội và nó cũng chứng tỏ chính sách tôn giáo đúng đắn của Nhà
nước, nó lại cổ vũ động viên đồng bào có đạo phấn khởi thi đua xây dựng xã hội thì cũng
là “đẹp đời” nữa. Còn khi đời sống nhân dân được cải thiện thì “có thực mới vực được đạo”,
đồng bào lại có điều kiện để xây, sửa nhà thờ khang trang, rước lễ sầm uất. Đẹp đời lại đưa
đến tốt đạo là thế. Chính vì vậy, đi đến đâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sâu sát, tìm ra những
điển hình mà biểu dương. Còn khi tập huấn cán bộ làm công tác Mặt trận, Người lại nhắc
nhở cán bộ cần chú ý đến việc nâng cao đời sống của đồng bào các tôn giáo vì nguyện vọng
của các tín đồ chỉ đơn giản là “phần xác ấm no, phần hồn thong dong”. “Ở Việt Nam, có vấn
đề tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa giáo: nơi nào cán bộ tốt, tổ chức hợp tác xã đưa lại quyền
lợi cho giáo dân thì giáo dân rất đồng tình…Ta quan tâm đời sống quần chúng thì quần
chúng sẽ theo ta. Ta được lòng dân thì không sợ gì cả”.
Có thể nói, ở Hồ Chí Minh tư tưởng và hành động của Người là sự dung hợp những giá
trị tư tưởng nhân vǎn cao cả trên nền tảng của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa cộng sản vì
mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Là sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin về
tôn giáo để giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng của người về chính sách tôn giáo nói chung và chống lợi dụng tôn giáo nói
riêng là kim chỉ nam để Đảng, Nhà nước ta vận dụng trong ứng xử với các tôn giáo và lọi
dụng tô giáo chống phá đất nước ta hiện nay. Thực hiện tư tưởng của Người về chính sách
tôn giáo, Tín đồ tôn giáo ở Việt Nam đã và đang sống theo phương châm: "Sống phúc âm
trong lòng dân tộc", "tốt đời đẹp đạo", "đạo pháp dân tộc và chủ nghĩa xã hội".

4


Câu 2. Phân tích các chức năng của Tôn giáo? Chức năng nào là cơ bản nhất? Vì sao?
Chức năng của tôn giáo do bản chất của nó quy định. Về bản chất, tôn giáo là hình thức
ý thức xã hội phản ánh hư ảo hiện thực khách quan; đồng thời tôn giáo củng phản ánh sự

phản kháng của quần chúng lao động đối với áp bức, bóc lột, bất công và khát vọng về cuộc
sống tốt đẹp và hạnh phúc. Nhưng tôn giáo lại hướng con người đến thế giới hạnh phúc hư ảo
bằng con đường tu dưỡng đạo đức, vâng phục và chấp nhận hiện thực.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, một hình thái ý thức xã hội, như các hình thái ý thức
xã hội khác, ý thức tôn giáo cũng có 5 chức năng sau:
Thứ nhất, chức năng phán ánh/chức năng thế giới quan.
Tôn giáo cũng là một hình thái ý thức xã hội, giống như các hình thái ý thức xã hội khác
nó cũng mang chức năng phản ánh tồn tại xã hội. Mỗi tôn giáo, để trở thành tôn giáo đích
thực đều xây dựng hệ thống giáo lý cho mình, nó đều phải trả lời các vấn đề: thế giới này do
đâu mà có? Vận hành theo quy luật nào? Đằng sau cái thế giới hữu hình này là cái gì? Có thể
nhận thức được không? Con người sẽ đi về đâu sau khi chết, vv... trả lời những câu hỏi đó,
tôn giáo đã xây dựng hệ thống thế giới quan, nhân sinh quan.
Dù phản ánh hư ảo thế giới khách quan, nhưng tôn giáo cũng có kỳ vọng xây dựng một
hệ thống thế giới quan, nhân sinh quan đáp ứng nhu cầu nhận thức thế giới tự nhiên, xã hội
và chính con người.
Có những tôn giáo, như Kito giáo, Phật giáo, Hồi giáo đã xây dựng cho mình một thế
giới quan tương đối hoàn chỉnh theo quan điểm của nó.
Thứ hai, chức năng đền bù hư ảo.
Con người trong thế giới đời thường luôn bị sức ép của những sức mạnh tự nhiên cũng
như xã hội (sự bóc lột giai cấp) không tìm được lời giải chính xác về nguyên nhân của những
bất bình đẳng xã hội và biện pháp khắc phục nó, cũng như bất lực trong cuộc đấu tranh giai
cấp, phải sống trong nỗi lo sợ khốn cùng, bất hạnh, trong khi chưa được soi sáng bởi một
chân lý – chân lý cách mạng – có thể tìm thấy trong tôn giáo những giải đáp làm nguôi ngoai
đi những khổ đau và ấp ủ một hi vọng hư ảo. Đó là sự cứu rỗi của Chúa nhân từ, của Đức
phật từ bi, sự thưởng phạt công minh đối với hành vi của mỗi người ngay trong trần thế, và
khả năng đến được cõi hạnh phúc, vĩnh hằng (Thiên đường, Niết bàn,...), thông qua một số
quy tắc sống an phận, chịu đựng, hướng thiện, tu tâm dưỡng tính, những phương thức để đạt
được mục đích cuối cùng như tôn giáo đã chỉ ra. Sự đền bù hư ảo của tôn giáo, nhưng lại có
tác dụng hiện thực, bởi nhờ có nó mà con người trong những lúc khổ đau tuyệt vọng nhất vẫn
được an ủi và vẫn nuôi một hi vọng vượt qua, hạn chế những hành vi vô nghĩa hoặc tai hại

cho đồng loại.
5


Thứ ba, chức năng liên kết.
Tôn giáo có khả năng liên kết những người cùng tín ngưỡng. Họ có chung một niềm tin,
cùng bị ràng buộc bởi giáo lý, giáo luật, cùng thực hiện một số nghi thức tôn giáo và những
điểm tương đồng khác. Sự liên kết giữa các cộng đồng cùng tôn giáo chặt chẽ và lâu bền.
Tuy nhiên, đôi khi tôn giáo cũng bị lợi dụng để phục vụ cho âm mưu chia rẽ, phá hoại khối
đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, bên cạnh chức năng liên kết, tôn giáo cũng có khả năng bị
phân ly vì sự khác biệt tín ngưỡng,...
Thứ tư, chức năng điều chỉnh hành vi đạo đức.
Tôn giáo có một hệ thống những chuẩn mực, quy tắc, giới luật nhằm điều chỉnh hành vi
con người. Chính giáo luật của của giáo hội rất khắt khe và uy quyền của giáo hội rất lớn nên
nó có tác dụng điều chỉnh hành vi con người trong đời sống thường nhật khi ứng xử con
người trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Việc giáo dục tín đồ tuân thủ theo giáo luật là
thường xuyên, liên tục, lâu dài nên nó cũng có tác dụng điều chỉnh hành vi con người. Tôn
giáo nào cũng hướng con người đến những điều thánh thiện bằng hệ thống giáo lý, giáo luật
và những lời răn đe, do đó con người ta vì sợ hãi trước thánh thần, vì đức tin họ thực hiện
theo những lời giáo huấn của tôn giáo, nên hành vi của họ hướng đến những điều thánh thiện.
Thứ năm, chức năng phản kháng chống lại hiện thực
Với chức năng này của tôn giáo, một thời chúng ta không được nhắc đến. Bởi nó đụng
chạm đến nhiều vấn đề nhạy cảm. Ở chức năng này, Mác đã nhận xét: “Sự nghèo nàn của tôn
giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại hiện thực
ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức,...”. Trong lịch sử, Kitô giáo đã thể
hiện như một hệ tư tưởng của phe chống cải cách và rất rõ rệt trong Cách mạng Pháp. Nhưng
sau đó, nó trở lại trạng thái cân bằng vẫn bất ổn định của nó. Tuy nhiên, ngay cả trong trường
hợp đó, nó cũng đền bù cho những bất hạnh, những đau khổ của "cuộc đời này", vì nó cũng
là "tiếng thở dài của tạo vật bị áp bức" và với tư cách như thế, nó mở rộng cửa để sự phản
ánh nỗi khốn cùng thực tại, cũng trở thành sự phản kháng ban đầu.

Nói rõ hơn Ăng ghen viết: “chính lý thuyết bình đẳng về tội tổ tông trong giáo lý của Ki
tô giáo nguyên thủy, nó là động lực tinh thần thúc đẩy những người nô lệ đấu tranh đòi quyền
bình đẳng về của cải và dân quyền trong thế giới thực tại này”.
Tuy nhiên, sự phản kháng này diễn ra một cách yếu ớt, không hiệu quả, nó giống như
“thuốc phiện” – một liều móc phin tiêm vào cơ thể, chỉ đạt được trong trạng thái ban đầu.
Như thế nó không thể nào thành một chủ thuyết để làm nên một cuộc cách mạng như cách
mà Mác – Ăng ghen đã nói.

6


Trên đây là hệ thống chức năng của tôn giáo, trong đó mỗi chức năng lại hàm chứa các
chức năng khác.
Trong số những chức năng trên, chức năng đền bù hư ảo là chức năng đặc thù của tôn
giáo. Bởi vì: Chỉ có tôn giáo mới có chức năng này.
Với luận điểm nổi tiếng của C. Mác: “...Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã làm nổi
bật chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo. Giống như thuốc phiện, tôn giáo đã tạo ra cái vẻ bề
ngoài của “sự giảm nhẹ” tạm thời những nỗi đau khổ của con người, an ủi cho những sự mất
mát, thiếu hụt của con người trong cuộc sống. Chức năng đền bù hư ảo không chỉ là chức năng
chủ yếu, đặc thù mà còn là chức năng phổ biến của tôn giáo. Ph.Ănghen, đưa ra một định
nghĩa có tính chất kinh điển về tôn giáo như sau: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản
ánh hư ảo vào đầu óc con người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng
ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đó mang hình thức những
lực lượng siêu nhiên”. Do vậy, ở đâu có tôn giáo ở đó có chức năng đền bù hư ảo.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội, nó có nguồn gốc từ
những sự hạn chế của các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và đối với nhau. Sự bất
lực trước những sức mạnh tự nhiên cũng như xã hội đã nảy sinh nhu cầu đền bù cho những
hạn chế đó. Thật vậy, con người luôn tiềm ẩn những nỗi bất lực, yếu đuối nhất định. Bởi
trong mối quan hệ xã hội phức tạp và với thế giới tự nhiên có những điều con người không
thể vượt qua . Thực tế đó, khiến con người cảm thấy bất lực trước mối quan hệ này. Cho nên,

trong bất kỳ một xã hội nào ở trong những điều kiện lịch sử khác nhau tôn giáo đã và luôn
đóng vai trò là yếu tố đền bù hư ảo cho sự bất lực yếu ớt của con người, an ủi, khuyến khích,
động viên họ hướng vào những lực lượng siêu nhiên, do mình tưởng tượng ra để giải quyết
sự yếu kém, bất lực của mình trước những hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Đền bù hư ảo còn xuất hiện trong đời sống tâm linh của con người. Đời sống tâm linh là
một hình thức đặc biệt của ý thức con người và ý thức xã hội. Đã có những khuynh hướng sai
lầm về vấn đề này khi đồng nhất đời sống tâm linh với chủ nghĩa duy tâm, với mê tín dị
đoan. Hướng đến thế giới tâm linh dường như là một nhu cầu trong đời sống tinh thần của
con người, đồng thời là một trong những cách để con người sống lương thiện hơn, tốt đẹp
hơn. Khi lọc bỏ những yếu tố có màu sắc thần bí và mê tín dị đoan, phần tinh tuý, trong sáng
của đời sống tâm linh sẽ hiện ra, đó là những giá trị văn hoá đầy bản sắc và chứa đựng ý
nghĩa nhân văn.
Mặc dù, chức năng đền bù hư ảo tạo ra những tác dụng tiêu cực là làm cho con người
xa rời cuộc đấu tranh của thế giới trần tục, tách quần chúng khỏi cuộc đấu tranh năng động,

7


phức tạp, lâu dài, gian khổ của thế giới trần thế; Nhưng đền bù hư ảo của tôn giáo hay văn
hóa tâm linh có một ý nghĩa to lớn trong đời sống của con người.
Đền bù hư ảo trở thành nguồn động viên, an ủi con người một cách rất hiệu quả. Nó có
thể giúp con người lãng quên thế giới đầy những khó khăn, sự lo âu, nỗi sợ sệt trên trần thế
để tìm đến một sự giải thoát trong thế giới hư hư - thực thực của tôn giáo.
Đền bù hư ảo trong đời sống tâm linh, văn hoá tâm linh,… là những vấn đề hết sức tế
nhị. Cho đến nay, rất nhiều câu hỏi nảy sinh xung quanh những vấn đề đó vẫn chưa có lời giải
đáp thực sự khoa học. Tuy nhiên, nếu soi xét vấn đề dưới lăng kính của thế giới quan duy vật
biện chứng, chúng ta có thể thấy những sự thực khá đơn giản. Bất kỳ ai cũng dễ nhận thấy
rằng, việc hướng về thế giới tâm linh dường như là một nhu cầu tất yếu trong đời sống tinh
thần của con người. Nhu cầu này giúp con người xoa dịu những nỗi đau trần thế, vượt qua
được những khó khăn, những thử thách nghiệt ngã của cuộc đời dù chỉ là về mặt tinh thần. Khi

gặp những nỗi đau, những điều bất hạnh, bất kỳ ai cũng có nhu cầu được sẻ chia, được an ủi.
Và, những lúc rơi vào tình huống như vậy, có lẽ rất nhiều người sẽ hướng về thế giới tâm linh
để cầu mong một sự che chở, vỗ về, dù họ biết chẳng bao giờ có một phép màu nào cả.
Những nỗi đau quá sức chịu đựng của con người nhỏ bé, yếu đuối ẫn thường xẩy ra
trong cuộc đời ngắn ngủi. Một người vợ mất chồng, một người bị thương nặng khi mắc tai
nạn giao thông… chắc sẽ vô cùng đau khổ. Họ sẽ làm gì nếu không hướng về thế giới tâm
linh để được tiếp thêm nguồn sức mạnh tinh thần, để được an ủi, vỗ về.
Trong xã hội, chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo và đời sống tâm linh, còn mang một
ý nghĩa giáo dục. Sự đền bù chỉ thật sự được đền khi con người gieo “Nhân” tốt thì mới được
đền bởi “quả “ phúc dầy. Nguyên lý này tạo ra ý thức và cách hành xử chân thiện. Ngoài ra
thế lực siêu nhiên đứng ngoài thế giới như một lực lượng “Thưởng thiện phạt ác” mà làm cho
con người kính phục. Nhiều quốc gia khi tuyển lao động nước ngoài khi xem lý lịch mà
khai : Không tôn giáo, là bị loại. Theo quan điểm cực đoan của họ người không sợ thần thánh
thì chẳng sợ ai nữa nên không thể quản lý nổi. Sự thật thì rất hiếm người không theo tôn giáo
hoặc không có niềm tin tâm linh. Ví như ở Việt nam có ngày giỗ tổ và hình thức thờ cúng tổ
tiên ai cũng theo cả. Việc thành kính với tiên tổ trong tâm người Việt chính là kính để yêu
quý và cầu xin những đền bù hư ảo của tiên tổ. Trong quá trình ấy, cộng đồng được gắn kết
và ý thức dân tộc xóm làng, tổ tiên của con người dược gắn kết.
Tôn giáo nói chung và chức năng đền bủ hư ảo nói riêng như một bài toán kích thích
khoa học kỹ thuật nghiên cứu phát triển. Bởi mỗi khi nào con người giải quyết được một điều
con người khao khát thì có một nội dung con người không cần đến vai trò của Tôn giáo.
Thực tế cho thấy, dù khoa học, công nghệ có tiến bộ đến đâu đi chăng nữa, thì những bất
8


hạnh của con người vẫn cứ xảy ra. Có lẽ, chừng nào trên trái đất này còn có những khổ đau
và bất hạnh thì chừng đó, con người còn có nhu cầu hướng về thế giới tâm linh và do vậy,
đời sống tâm linh vẫn tiếp tục tồn tại.
Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, bất kỳ một quốc gia, một dân tộc nào trên
thế giới đều có một đời sống tâm linh phong phú. Đối với người Việt Nam, trải qua bao thế

kỷ thăng trầm, đời sống tâm linh của người Việt vẫn tồn tại và vẫn tiếp tục tồn tại và phát
triển, vẫn tiếp tục được đặt ra với không biết bao nhiêu bí ẩn, khêu gợi trí tò mò và cả những
thách đố lớn lao đối với khoa học chân chính. Tuy nhiên rất cần tới sự nhận thức đúng đắn về
bản chất của nó và sử dụng niềm tin vào nó khi nào và ở đâu. Vấn đề đền bù hư ảo có những
hạn chế, nhưng có những mặt tích cực của nó, rất cần sự nhận thức đúng đắn tránh sai lầm tả
khuynh trong nhìn nhận đánh giá và ra những quyết định sai lầm.

9


Câu 3. Phân tích quan điểm của CT Hồ Chí Minh về đoàn kết Tôn giáo và dân tộc?
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm vấn đề đoàn kết tôn giáo và đoàn kết
dân tộc, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, đoàn
kết tôn giáo gồm đoàn kết giữa đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo với đồng bào không có tín
ngưỡng tôn giáo; đoàn kết giữa đồng bào theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; và đoàn
kết giữa đồng bào trong cùng tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc, dưới sự lãnh đạo của
Đảng nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng.
Về mục tiêu của đoàn kết tôn giáo và dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vấn đề tôn giáo và dân tộc có mối quan hệ khăng khít. Đồng bào tôn giáo cũng là công dân
của đất nước, dân tộc. Vì thế đoàn kết tôn giáo cũng thống nhất và nằm trong khối đại đoàn kết
dân tộc. Mục tiêu của đoàn kết tôn giáo là xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân ta, các thế lực
thực dân, đế quốc thường lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng. Chúng không
chỉ có những âm mưu, thủ đoạn để chia rẽ nhân dân các vùng, miền, giữa thành thị và nông
thôn, đồng bào kinh với đồng bào dân tộc, mà còn triệt để thực hiện chính sách chia rẽ đồng
bào có tôn giáo với đồng bào không tôn giáo, giữa đồng bào các tôn giáo khác nhau, thậm
chí gây chia rẽ đồng bào ngay trong nội bộ một tôn giáo. Vì thế, theo Hồ Chí Minh, đoàn kết
tôn giáo là tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, giải phóng con người thoát khỏi nô dịch, áp
bức, bất công, đưa cả nước đi lên CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.

Chính vì vậy, ngay sau khi nước nhà độc lập, trong Phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Thực dân và phong kiến thi hành
chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ
ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và Lương Giáo đoàn kết”.
Người kêu gọi toàn dân, lương và giáo xóa bỏ mặc cảm, thực hiện tư tưởng: đoàn kết
lương giáo, chủ trương “Lương giáo đoàn kết để kháng chiến kiến quốc thắng lợi”. Trong
“Thư gửi Hội Phật tử Việt Nam”(8-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Nay đồng bào ta
đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản
động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế
là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi
ra khỏi cái khổ ải nô lệ”.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết là một chiến lược lâu dài chứ không phải là một thủ đoạn
chính trị nhất thời, vì thế ta phải đoàn kết rộng rãi, chân thành, nhưng trong mỗi giai đoạn
cách mạng, mục tiêu cụ thể của chiến lược đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết tôn giáo có sự
10


phát triển cho phù hợp. Năm 1955, nói chuyện tại Hội nghị Mặt trận Liên - Việt toàn quốc,
Người khẳng định: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết
là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”.
Theo Hồ Chí Minh, chúng ta phải tạo ra được lực lượng tiến bộ trong các tôn giáo, đồng
thời chống lại hoạt động phản động lợi dụng tôn giáo, cô lập bọn phản động, làm thất bại mọi
hoạt động của bọn tay sai đế quốc. Chúng ta phải làm cho giáo hội Việt Nam ngày càng tiến
bộ hơn, có tinh thần dân tộc, yêu nước, yêu hòa bình và đoàn kết dân tộc hơn.
Với việc xác đinh mục tiêu rõ ràng, mà Hồ Chí Minh đã quy tụ, tập hợp được toàn dân
tham gia kháng chiến và kiến quốc thắng lợi.
Ý nghĩa của đoàn kết tôn giáo và dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không bàn nhiều về mặt tiêu cực và sự khác biệt của các tôn giáo, mà
Người thường xuyên nhấn mạnh sự thống nhất giữa các tôn giáo với chủ nghĩa Mác, với
CNXH, với cuộc sống kháng chiến của nhân dân ta về mục tiêu, khát vọng đấu tranh cho

quyền lợi của những tầng lớp nhân dân và các dân tộc bị áp bức. Người nhìn nhận tôn giáo
trên bình diện văn hóa, đạo đức, với quan niệm tôn giáo là vấn đề con người, vì con người, vì
thế nó mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Người chỉ ra cái chung, cái thống nhất của các tôn giáo với mục tiêu, lý tưởng của
CNXH. Hồ Chí Minh đã nhận thấy trong bản chất tôn giáo và trong cả tư tưởng của những
người sáng lập ra nó chẳng có ai là không mong muốn cho cuộc sống của con người ngày
càng tốt đẹp hơn, đạo đức hơn. Xét cho cùng thì tất cả các tôn giáo đều hướng tới những giá
trị chung của con người là: Chân - Thiện - Mỹ.
Thế giới quan và nhân sinh quan giữa tôn giáo và CNXH có nhiều điểm khác biệt. Thế
nhưng rất ít khi Hồ Chí Minh nói về sự khác nhau giữa tôn giáo với CNXH, vì nói nhiều đến
sự khác nhau đó không có lợi cho sự đoàn kết dân tộc, dễ dẫn đến hiểu lầm, xa lánh giữa
những người có tôn giáo với những người không theo tôn giáo. Người tìm những điểm tương
đồnggiữa tôn giáo và CNXH, tìm tiếng nói chung giữa đồng bào không có tôn giáo vàđồng
bào có tôn giáođể đoàn kết, tập hợp họ trong thực hiện mục tiêu chung là xây dựng CNXH.
Tầm nhìn của Hồ Chí Minh đối với các tôn giáo chính là tầm nhìn của đỉnh cao văn hóa
nhân loại, tầm nhìn “của tương lai”, vượt qua những giới hạn của lịch sử, của những thiên
kiến tôn giáo, giai cấp và dân tộc để thấy được giá trị đạo đức tích cực của các tôn giáo, khai
thác nó phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Tầm nhìn đó dựa trên chủ nghĩa yêu nước chân
chính kết hợp với hệ tư tưởng tiến bộ của thời đại là chủ nghĩa Mác -Lênin.
Hồ Chí Minh đã khai thác các giá trị văn hóa, đạo đức của các tôn giáo trên một tầm nhìn
mới và phương pháp mới nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây
11


dựng chế độ xã hội mới. Người đã đưa vào các giá trị văn hóa, đạo đức của các tôn giáo những
nội dung mới có ý nghĩa tiến bộ phục vụ cho sự phát triển của thời đại mới, gắn liền với cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong các bài nói, bài viết về đoàn kết tôn giáo, Hồ Chí Minh thường trích dẫn những câu
trong kinh Phật, kinh Thánh hay lời của Khổng, Mạnh... Người chuyển ý cho phùhợp với thời
đại, hợp với dân chúng, mà tinh thần cơ bản không thay đổi: “Kinh Thánh có câu ý dân là ý

Chúa, con đường yêu nước mà đồng bào đang đi là hoàn toàn đúng. Tôi mong các cụ phụ lão,
các vị giám mục hăng hái khuyến khích tín đồ trong mọi công việc ích nước lợi dân. Lương
giáo đoàn kết, cả nước một lòng...”; “Trong Công giáo có câu “Tam vị nhất thể”, nhà Phật có
câu “Vạn chúng nhất tâm” nên chúng ta phải hy sinh cho nhân loại và chúng sinh”.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo là một vấn đề quan trọng của chính sách đại đoàn kết
dân tộc. Để thực hiện tốt việc đoàn kết tôn giáo, ngoài các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về chính trị, kinh tế, xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, cần phải thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng đối với các tôn giáo.
Do hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên giữa C.Mác,Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí
Minh đã có cách giải quyết khác nhau về vấn đề tôn giáo. Hồ Chí Minh nhiều lần nói đến
điểm giống nhau, hay điểm tương đồng về mục đích của tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản,
trong khi C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin lại nhấn mạnh đến sự khác nhau, sự đối nghịch giữa
tôn giáo với chủ nghĩa cộng sản. Nhấn mạnh điểm tương đồng giữa tôn giáo và CNXH là
điểm đặc sắc và sáng tạo của Hồ Chí Minh qua thực tiễn cách mạng Việt Nam. Ở đây, không
hề có sự mâu thuẫn quan điểm giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với Hồ Chí Minh, mà ngược lại,
thể hiện sự sáng tạo, vận dụng chủ nghĩa Mác -Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới, quan điểm đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh vẫn
còn có ý nghĩa lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn:
Về mặt lý luận, Hồ Chí Minh chính là người mở ra khả năng kết hợp giữa CNXH, chủ
nghĩa cộng sản và tôn giáo, có thể cùng chung sống một cách hòa bình vì có những điểm
chung nhất định. Những người XHCN có thể kế thừa được những giá trị tiến bộ của tôn giáo,
nhất là ở khía cạnh nhân bản.
Triệt để tôn trọng tự do tín ngưỡng gắn liền với việc tăng cường tình đoàn kết và hòa hợp
dân tộc là phương pháp rất hữu hiệu để giải quyết vấn đề tôn giáo, hướng mọi người vào mục
tiêu chung của xã hội, đó là: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Về mặt thực tiễn,quan điểm về đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kim chỉ
nam để Đảng và Nhà nước ta hoạch định những chủ trương, chính sách giải quyết vấn đề tôn
giáo một cách đúng đắn trong suốt quá trình cách mạng. Từ những quan điểm chỉ đạo đúng
12



đắn của Hồ Chí Minh, chúng ta đã tiếp thu và hướng đồng bào có đạo đi theo cách mạng,
không để kẻ thù lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng phục vụ tâm địa xấu xa của chúng. Qua đó làm
cho đồng bào các tôn giáo tin tưởng vào chế độ xã hội mới, gắn kết được đạo với đời, lấy lý
tưởng “tốt đời, đẹp đạo” làm mục tiêu hành động.
Vận dụng quan điểm của HCM vào việc hoạch định chính sách tôn giáo hiện nay
Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo và dân tộc, trong
suốt quá trình phát triển của cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Trong công tác tôn giáo thời kỳ đổi mới, Đảng ta
xác định nhiệm vụ: Tăng cường đoàn kết lương giáo, đoàn kết toàn dân; Ra sức chăm lo đời
sống vật chất, văn hóa, nâng cao trình độ mọi mặt của đồng bào có đạo; Thực hiện tự do tín
ngưỡng và tự do không tín ngưỡng trên cơ sở pháp luật. Đảng ta nêu rõ: Đồng bào có đạo đa
số là nhân dân lao động có lòng yêu nước, đã góp phần cùng toàn dân phấn đấu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Nhiều chức sắc tiến bộ trong các tôn giáo đã làm tốt việc đạo, việc đời,
hướng dẫn tín đồ chấp hành đúng các chính sách của Nhà nước.
Tại Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Đảng ta tiếp
tục chỉ rõ: “Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”. Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh yếu tố đoàn kết: “Đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo”.Phát biểu tại Hội
nghị Trung ương 7 khóa IX, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh: “Vấn đề đại đoàn kết
dân tộc, công tác dân tộc và tôn giáo là những vấn đề chính trị lớn, có ý nghĩa chiến lược đối
với sự nghiệp cách mạng của nước ta”. “Đoàn kết các dân tộc và các tôn giáo là bộ phận rất
quan trọng”.
Đại hội VIII (1996) của Đảng chỉ rõ: “Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có
nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống tốt đời, đẹp đạo”(8). Đến Đại
hội IX được nhắc lại: Đồng bào theo đạo và chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách
nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo”. Đại hội X nhấn mạnh trách nhiệm
của Đảng và chính quyền là “Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo
sống tốt đời, đẹp đạo”. Tín đồ và chức sắc các tôn giáo đều là công dân, họ có quyền lợi và
nghĩa vụ như mọi công dân khác và trong họ đều mong muốn được sống “tốt đời, đẹp đạo”,

“kính Chúa” gắn liền với “yêu nước” để cho “nước vinh, đạo sáng”. Đại hội XI nhấn mạnh
vấn đề này: “Động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia
đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(9). Như vậy, trong thời kỳ
đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ chủ thể của công tác tôn giáo, còn khách thể của công tác tôn
giáo chủ yếu vẫn chỉ trong phạm vi là tín đồ và chức sắc tôn giáo. Còn đến Đại hội XI, Đảng
13


ta bổ sung thêm đối tượng nữa cần động viên là “các tổ chức tôn giáo” đã được Nhà nước
công nhận. Như vậy, các chủ trương, chính sách của Đảng về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới
đều là hướng tới mục tiêu cao cả và thống nhất, đó là đoàn kết đồng bào tôn giáo vào trong
khối đại đoàn kết dân tộc, vì sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết tôn giáo đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh là đúng đắn, phù
hợp với hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Nó không chỉ có ý nghĩa đương thời mà còn có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.

14


Câu 4. Nêu ý nghĩa của vấn đề đoàn kết tôn giáo và dân tộc trong giai đoạn hiện nay?
Việt Nam là một quốc gia thống nhất, đa dân tộc, đa tín ngưỡng, tôn giáo. Trải qua hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng bào các dân tộc, tôn giáo luôn luôn đoàn kết, chung
tay đấu tranh với “thiên tai, địch họa”, xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định vấn đề dân tộc, vấn đề
tôn giáo và công tác dân tộc, công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc
biệt; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, phát huy truyền thống và sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc là một đảm bảo quan trọng cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Vì vậy công tác vận động đồng bào tôn giáo, dân tộc trong giai đoạn hiện nay có ý
nghĩa hết sức quan trọng.

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xây dựng nguyên tắc của chính sách dân tộc ở Việt
Nam là: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Những nguyên
tắc này được quán triệt và thực hiện nhất quán, có hiệu quả trong mọi thời kỳ cách mạng.
Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền (1930 – 1945), đường lối, quan điểm giải
quyết vấn đề dân tộc của Đảng là đảm bảo quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng giữa các
dân tộc. Lúc này, vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân và nhiệm vụ chính sách dân
tộc là “ruộng đất cho dân cày”. Đường lối, chính sách dân tộc đúng đắn đó của Đảng đã thu
phục được trái tim, khối óc của đông đảo đồng bào các dân tộc, góp phần làm nên thắng lợi
vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, Đảng ta tiếp tục thực
hiện chính sách đoàn kết các dân tộc, trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ để kháng chiến và
kiến quốc, giúp nhau tiến bộ về mọi mặt. Đảng và Nhà nước ban hành nhiều quy định nhằm
thực hiện tốt chính sách dân tộc, động viên được sức mạnh của đồng bào các dân tộc tham
gia xây dựng chiến khu cách mạng, kháng chiến và kiến quốc. Việc quán triệt và tổ chức thực
hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng trong thời kỳ này đã tạo được bước biến chuyển lớn
trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, góp phần tăng cường sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân, đánh thắng các thế lực xâm lược.
Từ khi đất nước thống nhất, quá độ đi lên CNXH, nhất là quá trình tiến hành công cuộc
đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, Đảng ta tiếp
tục thực hiện nhất quán quan điểm, nguyên tắc về chính sách dân tộc; đồng thời bổ sung,
phát triển những nội dung mới phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong thời kỳ mới. Các nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) của Đảng
và Nhà nước qua các kỳ Đại hội Đảng, đều quan tâm sâu sắc đến việc phát triển kinh tế, văn
15


hóa, xã hội ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tại Hội nghị Trung ương 7 (Khóa
IX), Đảng đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về công tác dân tộc, trong đó nêu rõ những
quan điểm cơ bản, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của công tác dân tộc trong thời kỳ mới. Đến
Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí

chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ…”1. Quan điểm của
Đảng là sự tổng kết thực tiễn nhiều năm thực hiện đường lối, chính sách dân tộc và công tác
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta; vừa có giá trị chỉ đạo lâu dài, vừa có ý nghĩa thực tiễn, gắn
chặt với thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Trong những nội dung quan trọng đó, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh tính chiến lược, nguyên
tắc và yêu cầu nhiệm vụ phát triển toàn diện địa bàn vùng dân tộc và miền núi; sự ưu tiên đầu
tư phát triển KT - XH và công tác dân tộc là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị.
Trên cơ sở đó, công tác vận động dân tộc đã góp phần cùng Đảng và Nhà nước tuyên
truyền, tổ chức thực hiện nhiều chương trình, đề án quan trọng, có tác dụng to lớn đối với đồng
bào dân tộc, như: Quyết định135/1998 về Chương trình phát triển KT - XH các xã đặc biệt khó
khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; Quyết định 134/2004 về chính sách hỗ trợ đất sản xuất,
đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số… các Nghị quyết về phát triển
KT - XH, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ...
Nhờ vậy, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số đã ngày càng ổn định và có bước phát triển vững chắc:
Đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; vấn đề chăm sóc sức khỏe, giáo dục - đào
tạo đã có những chuyển biến tích cực; kết cấu hạ tầng cơ sở được đầu tư phát triển hơn; tỷ lệ
hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm nhanh (bình quân khoảng 3-5%/năm), tốc độ
phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, các nhóm dân tộc được kiềm chế; nhiều tỉnh đã cơ bản
giải quyết được những bức xúc về nước sinh hoạt, nhà ở, đất ở, đất sản xuất, việc làm…,
Đồng bào các dân tộc ngày càng tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý,
điều hành của Nhà nước, tiếp tục nêu cao truyền thống đoàn kết, tích cực lao động sản xuất,
xây dựng đời sống văn hóa, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Cùng với việc thực hiện tốt chính sách dân tộc, công tác dân tộc, Đảng và Nhà nước ta
cũng thường xuyên thực hiện có hiệu quả chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo. Tư tưởng
nhất quán của Đảng ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hết sức chăm lo đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Ngay
trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh
(tháng 11-1930), Đảng ta đã nhấn mạnh: "... phải lãnh đạo từng tập thể sinh hoạt hay tập quán

16


của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần dần cách mạng hóa quần chúng, mà
lại đảm bảo tự do tín ngưỡng của quần chúng..."2. Sau khi đất nước giành được độc lập, trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3 - 9 - 1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Tín
ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”3. Theo đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và tổ
chức thực hiện có hiệu quả nhiều nghị quyết, chỉ thị, sắc lệnh, nghị định về vấn đề tôn giáo,
công tác tôn giáo; qua đó, góp phần củng cố, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và sự đóng góp của đồng bào các tôn giáo vào thắng lợi của cách mạng.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nhận thức về tôn giáo và công
tác tôn giáo của Đảng có nhiều đổi mới và phát triển. Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (khoá
VII) về công tác tôn giáo khẳng định: tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân; Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương - giáo và giữa các tôn
giáo; kiên quyết khắc phục thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo,
chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống
phá CNXH, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) chỉ rõ: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước
ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc” 4. Ngày 18-62004, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo; Chính
phủ đã ban hành các chỉ thị, nghị định… về tôn giáo và công tác tôn giáo, từng bước hoàn
thiện thể chế chính sách, pháp luật về tôn giáo, đảm bảo hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá
nhân chức sắc, tín đồ các tôn giáo theo pháp luật.
Là một bộ phận quan trọng trong cộng đồng dân tộc, đồng bào các tôn giáo luôn gắn bó,
đoàn kết, đồng hành với đồng bào cả nước, phấn đấu vì lợi ích chung của dân tộc, của cách
mạng. Mong muốn của đại bộ phận tín đồ tôn giáo là xóa bỏ áp bức, bất công, xây dựng một
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Điều mong muốn của đồng bào có đạo cũng là mục tiêu,
lý tưởng của sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Bởi vậy, dù theo bất cứ tôn giáo nào,
đồng bào ta luôn quan tâm đến sự nghiệp chung của dân tộc; tín đồ, chức sắc, chức việc các

tôn giáo phấn khởi, tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước. Hoạt động tôn giáo tự do, bình đẳng, đúng pháp luật; các tôn giáo đều có sự
phát triển mạnh về tín đồ, chức sắc, chức việc. Hệ thống các trường, lớp đào tạo chức sắc của
các tôn giáo được mở rộng. Tính đến 30 - 10 - 2008, Nhà nước đã công nhận tư cách pháp
nhân, đăng ký hoạt động tôn giáo đối với 30 tổ chức tôn giáo, trên 70 nghìn chức sắc, nhà tu
hành và hàng vạn người hoạt động bán chuyên nghiệp; có hàng trăm người theo đạo đang
17


theo học các chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước trên thế giới; hơn 22.000 cơ sở
thờ tự đã được xây dựng, tu bổ và được pháp luật bảo hộ… Với phương châm: “Đạo pháp,
dân tộc và CNXH”, “Nước vinh, đạo sáng”, “Sống phúc âm, phụng sự Thiên chúa, phục vụ
Tổ quốc”, gắn bó với dân tộc, xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, đồng bào có đạo tham
gia tích cực, có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ
thiện. Các tổ chức tôn giáo đã vận động, quyên góp được hàng trăm tỷ đồng ủng hộ đồng bào
bị thiên tai, bão lũ; tổ chức hàng trăm lớp học tình thương cho trẻ em nghèo, các trung tâm
nuôi dạy trẻ mồ côi, người tàn tật, người bị bệnh hiểm nghèo; khám chữa bệnh và cấp thuốc
miễn phí cho nhân dân... Qua đó, góp phần cùng nhân dân cả nước khắc phục khó khăn, phát
triển KT - XH, củng cố quốc phòng - an ninh, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những chuyển biến tích cực trong hoạt động
của các tôn giáo khẳng định: chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta đã đi vào đời sống xã hội, đáp ứng được nguyện vọng của
đồng bào các tôn giáo trong cả nước...
Tóm lại, công tác vận động tôn giáo, dân tộc luôn có tầm quan trọng cả về trước mắt và
lâu dài. Rõ ràng, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc, tôn giáo là
đúng đắn hoàn toàn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, phù hợp với nguyện
vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Thế nhưng, hiện nay các thế lực thù địch vẫn cố tình xuyên
tạc tình hình dân tộc, tôn giáo ở nước ta, nhằm phục vụ cho âm mưu thâm độc của chúng.
Thực chất, đây là thủ đoạn nham hiểm, lợi dụng vấn đề “dân tộc, tôn giáo” để kích động,
chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định

chính trị, xã hội… Nhưng những luận điệu đó không đánh lừa được ai, bởi công tác vận động
tôn giáo, dân tộc đã làm tốt vai trò của mình và thực tế đã hoàn toàn bác bỏ điều đó.
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác vận động tôn giáo, dân tộc trong giai đoạn
hiện nay chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
hệ thống chính trị, nhất là đối với cấp uỷ, đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp về vị trí, nhiệm
vụ công tác dân tộc, công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Hai là: làm tốt công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ theo từng vùng, từng dân tộc cụ
thể; có chính sách thỏa đáng đối với cán bộ công tác ở vùng dân tộc miền núi đặc biệt khó
khăn; xây dựng chính sách ưu đãi với những người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ thôn (bản, phum, sóc) có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức
và năng lực tổ chức, hướng dẫn nhân dân thực hiện tốt các chính sách, pháp luật Nhà nước
trên địa bàn.
18


Ba là: các ngành, các cấp cần rà soát, kịp thời bổ sung những chính sách đầu tư sát hợp
đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo; tổ chức thực hiện đồng bộ,
chặt chẽ từ trung ương đến cơ sở, đảm bảo các loại vốn đầu tư thực sự có hiệu quả, tạo điều
kiện để đồng bào phấn đấu vươn lên thoát nghèo một cách bền vững, hòa nhập với tiến trình
đi lên của đất nước.
Bốn là: thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân,
thế trận an ninh nhân dân vững chắc; chủ động phát hiện, ngăn chặn có hiệu quả mọi âm
mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH của
nhân dân ta.
Năm là: làm tốt công tác vận động quần chúng, tranh thủ đội ngũ già làng, chức sắc,
chức việc, đội ngũ cốt cán vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đông đồng bào theo đạo.
Kiên quyết đấu tranh với các hành vi lợi dụng vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo để chống phá
cách mạng, vi phạm chính sách, pháp luật Nhà nước.
Sáu là: đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại về dân tộc, tôn giáo, giúp cho cộng

đồng thế giới hiểu rõ chính sách dân tộc, chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
Đảng và Nhà nước ta và thực tế tình hình cuộc sống lao động, sản xuất, sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam.

19



×