Tải bản đầy đủ (.doc) (185 trang)

Tuyen tap van 12 - phan 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.71 KB, 185 trang )

Tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành
Đề bài : Phân tích nhân vật Tnú.
Bài gợi ý:
Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó là
Tây Nguyên. Ông đã có rất nhiều những tác phẩm viết về mảng đề tài này,
đặc biệt là hình ảnh của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rung
Tây Nguyên.Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sáng tác của
Nguyễn Trung Thành là truyện ngắn “Rùng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện
về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ.Trong số những con người
hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú.Câu
chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên
bếp lửa nhà ưng.
Nhìn lại chặng đường đời của Tnú, chúng ta có thể dễ dàng thấy hiện lên hình
ảnh một Tnú trước và sau khi đúng lên cầm vũ khí.Trước khi cầm vũ khí,
ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ một tính
cách táo bạo mạnh mẽ.Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ,
nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm.Cậu thất
sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ nguỵ ít khi phục kích ở chỗ nứơc chảy xiết.Nguời
đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự quan tâm học chữ không chịu
thua kém ai của Tnú.Cậu bé này dám lấy đá đập vào đầu mình khi học cái
chữ không sáng tạo bằng Mai.Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm của Tnú khi bị
giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản ở đây
này”.Mặc cho những vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ Tnú vẫn
không khai báo, vẫn gan dạ kiên cường.Trước những trận đòn roi tra tấn dã
man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái chữ và được giác ngộ
cách mạng từ rất sớm.
Khi thoát ngục Kon tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu
biết được tôi luyện qua nhiều thử thách.Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu
trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng.Theo lời dạy
của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa anh đã đi
3 ngày đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà


là để mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.
Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi, Tnú còn có một cuộc sống hạnh
phúc với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời.Nhưng quãng thời gian
hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa
kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong làng phải trốn vào rừng để rồi một
mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của kẻ thù,
nhưng cả 2 đều ko sống được.Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm
ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn của
anh.Không những không cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy mười
đầu ngón tay “Mỗi ngón chỉ còn hai đốt….không mọc lại được”.Nỗi đau
thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa sâu sắc của
cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn
lao biết bao.Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùnh thời nào trong các
khan, trong các trường ca Tây Nguyên.Khi đốt cháy 2 bàn tay của Tnú kẻ thù
muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng chiến đấu của
người dân Xô Man.Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong
kiếp nô lệ thấp hèn dướ lưỡi gươm và nòng súng tàn bạo của chúng.Nhưng
Tnú và người dân làng Xô Man khoong cam chịu khuất phục, mà ngược lại họ
đã phản kháng quyết liệt.Họ đã biết vượt lên đau thương để vùng lên cầm vũ
khí tự giải phóng mình .Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay Tnú, lửa bùng
cháy trên mười đầu ngón tay tẩm nhựa xà nu.Nhưng Tnú không thấy đau
đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng- ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ
thù.Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô
man, tiếng het ấy như khơi dậy cao đọ lòng căm thù giặc của cả buôn
làng.Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa
cháy suốt trong bếp lửa nhà ưng.Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả
cái đêm nổi dậy ấy thật hào hùng, sôi động : “Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên
đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng Xôman âo ào rung động
và lửa cháy khắp rừng.Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân làng Xôman mà

là sự lớn dậy phi thường của cả 1 cộng đồng, dân tộc.Dường như trong đêm
ấy đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên sử thi
Tây Nguyên”.
Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh
hai bàn tay của anh. Đôi bàn tay bị đót cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa
căm thù giặc sâu sắ của dân làng Xôman, nó còn soi sáng cuộc đời anh.Anh
đã thay mặt người dân làng Xôman lên đường theo kháng chiến đi tìm những
thằng Dục khác.Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể với
dân làng mình sự đối đầu của anh với kẻ thù sau này: “Tôi nói: này tao có
súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày súng, tao không
đâm mày bằng dao nghe chưa Dục.Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này
thôi, tao bóp cổ mày thôi”.Nhà văn đã cố tình tô đậm hình ảnh đôi bàn tay
Tnú- đôi bàn tay có cả một lịch sử, một số phận.
Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù
làm nương phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ
không sáng dạ bằng Mai.Và đôi bàn tay ấy dám chỉ vào bụng mình mà nói
với quân giặc “Cộng sản ở đây này” khẳng định lòng trung thành vớ cách
mạng.Lớn lên đôi bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu
thương và cũng đôi bàn tay ấy xé tấm đồ làm nịu cho đứa con thơ dại.Lửa
đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ
mọc lại được…..cho nên Tnú muốn dung đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ
thù.Bao uất hận căm hờn đã dồn lên đôi bàn tay kia, nó đã trở thành biểu
tượng cho ý chí bất khuất , cho sức sông mãnh liệt của Tnú và người dân
làng Xôman.Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể tiêu
diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến
đấu và khát vọng chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như
những khu rừng xà nu hàng vạn cây không cso cây nào bị thương mà vẫn
xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời.
Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu
biểu của con người mang đạm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây

Nguyên.Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số
phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng
thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước,
với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc một lòng một dạ đi theo cách
mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự
thắng lợi của cách mạng.Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất sắc này của
Nguyễn Trung Thành, người đọc càng them hiểu và thêm trân trọng con
người Tây Nguyên vớ biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý.
Sưu tầm
Phân tích tác Phẩm Rừng Xà Nu ( Nguyễn Trung Thành)
Nhà văn Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) có duyên với Tây Nguyên. Cả
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, Nguyên Ngọc đã sống và
chiến đấu ở mảnh đất hùng vĩ này. Hai tác phẩm hay nhất của Nguyên Ngọc
đều viết về Tây Nguyên là "Đất nước đứng lên" và "Rừng xà nu".
Truyện "Rừng xà nu" viết về những anh hùng ở làng Xô Man trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ. Là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng
của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng
vĩ mà cụ thể là hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên.
Nhà văn đã chọn một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống
mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng
trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man
và các dân tộc Tây Nguyên.
Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu. Suốt trong quá
trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại như một điệp
khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn
xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu. Hình tượng cây xà nu
mang ý nghĩa tượng trưng, nó nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân
làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất sử thi của thiên truyện sẽ
không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây

xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy,
nhất là các hình ảnh "đồi xà nu" (4 lần), "rừng xà nu" (5 lần), với "hàng vạn
cây" "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng".
"Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc... Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào
ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây
nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào
ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa úa ra, tràn trề, thơm ngào
ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại
thành từng cục máu lớn". Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện đã cho thấy
cuộc đấu tranh quyết liệt của dân làng. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả
nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác
của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân
làng Xô Man ngã xuống.
Nhưng hình tượng cây xà nu cũng tượng trưng cho sức sống dẻo dai,mãnh
liệt của dân làng Xô Man, của con người Tây Nguyên. "Trong rừng ít có loại
cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có
bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên
bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế."
"Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê". Rừng xà
nu mang ý nghĩa biểu tượng cho con người. "Đặt trong hệ thống chủ đề,
trong mạch truyện, những cây xà nu này mang tính biểu tượng cho những
Mai, Dít, Tnú, Heng, thế hệ trẻ của làng Xô Man bất khuất, gắn bó với cách
mạng". Chỉ đơn giản một chi tiết này, thấy cây xà nu giống người biết mấy!
"Nhưng cũng có những cây vượt lên đựơc đầu người, cành lá sum sê như
những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng,
những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng".
Hình ảnh đó giống Tnú biết bao, Tnú bị bọn giặc chém nhiều nhát sau lưng,
trên tấm lưng chưa rộng bằng bề ngang cái xà lét mẹ để lại đó ứa một vệt
máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện, tím thẫm như "nhựa xà nu".
Nhưng sau khi ở tù vượt ngục trở về, những vết thương đã lành lặn, Tnú

khoẻ mạnh, cường tráng, rồi trở thành một chiến sĩ kiên cường.
Cái chết của những cây xà nu giống cái chết của mẹ con Mai biết bao. "Có
những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi.
Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng; vết thương không lành
được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết".
Và đây, Dít giống một cây xà nu non lao thẳng lên trời bất khuất. Dít nhỏ
như lanh lẹ, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra từng cho cụ Mết
và thanh niên. Chúng bắt đựơc con bé. Chúng để con bé đứng ở giữa sân, lên
đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một. Không bắn trúng, đạn chỉ sượt
qua tai, sém tóc, váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên, nhưng rồi
đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó nó im bặt. Nó đứng lặng giữa
bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một
cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng.
Hình ảnh những cây xà nu vững chắc, không chịu ngã trước giông bão, bom
đạn của kẻ thù "ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho làng" gợi cho ta nghĩ
đến hình ảnh cụ Mết, con người tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô
Man, người nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng. Chính cụ
Mết cũng đã nói với Tnú: "Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta..." Cụ
còn nói với dân làng: "Nghe rõ chưa các con, rõ chưa Nhớ lấy, ghi lấy. Sau
này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại với con cháu: Chúng nó đã cầm
súng, mình phải cầm giáo!". Và khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ, nguyên nhân
trực tiếp chính là do ngọn lửa xà nu cháy trên mười đầu ngón tay Tnú. Cả
làng Xô Man bị kích động, những ngọn đuốc xà nu bùng cháy khắp rừng
"Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào
ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng..."
Viết về Tây Nguyên, Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) muốn gắn chặt đất
nước với con người. Viết về anh hùng Đinh Núp, tác giả gọi tên tiểu thuyết
của mình là "Đất nước đứng lên". Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô
Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là "Rừng xà nu"... Hình
tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung

Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện "Rừng xà nu"
thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng
thêm bất tử
Phân tích hình tượng cây xà nu trong tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung
Thành
I.Mở bài
Rừng xà nu là truyện ngắn xuất xắc của Nguyễn Trung Thành (tức Nguyễn
Ngọc) cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam
chống Mỹ, cứu nước.
Bên cạnh những anh hùng và tập thể anh hùng, ở Rừng xà nu, Nguyễn Trung
Thành còn sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật mang tính biểu trưng cho
sức mạnh của dân tộc và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến vĩ đại. Đó
chính là hình tượng cây xà nu.
II.Thân bài
2.1. Cây xà nu - biểu tượng về dân làng Xô Man, của người Tây
Nguyên:
- Đọc truyện ngắn Rừng xà nu, người ta thấy cây xà nu, rừng xà nu như
chính dân làng Xô Man, như người dân Tây Nguyên trên núi rừng trùng điệp.
Có lẽ vì thế, nàh văn Nguyễn Trung Thành đã đặt tên cho tác phẩm của mình
là Rừng xà nu, đã mở đầu vầ kết thúc tác phẩm cũng chính bằng hình ảnh
của cây xà nu:
Làng ở trong tầm đại bác của giặc... hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn
đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào
không bị thương...
Và:
Ba người đứng ở đây nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì ngoài
những Rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.
Hình ảnh cây xà nu còn xuất hiện ở mọi lúc mọi nơi. Nó hoá thành ngọn lửa
trong bếp mỗi gia đình, mỗi nhà, trong đống lửa nhà ưng khi dân làng tập
trung lại. Nó làm ánh đèn cho Tnú và Mai học chữ. Nó rần rật cháy trên

đường cụ Mết và dân làng vào rừng tìm vũ khí. Nó cháy bừng căm thù trên
đôi bàn tan Tnú. Nó hừng hực trong đêm dân làng vùng lên giết giặc... Đấy là
một hình tượng nghệ thuật mang tính ẩn dụ. Nhà văn đã nhân cách hoá cây
xà nu trở thành một biểu tượng về con người.
2.2.Cây xà nu - chứng nhân của tội ác quân thù
Mở đầu tác phẩm là hình tượng hàng trăm, hàng ngàn cây xà nu bị những
mảnh đạn của giặc giày xéo:
Cả Rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những
cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết
thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi
dần dần bám lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.
Rừng xà nu bị tàn hại như vậy vì cũng như dân làng Xô Man của Tnú, nó
đang ở trong tầm đại bác của giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai
lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa
đêm và trở lại gà gáy. Nhà văn có thể không sừng lại miêu tả hết những tội
ác của quân giặc đối với dân làng Xô Man, bởi hình ảnh rừng cây kia đã nói
lên tất cả. Rừng xà nu cũng như dân làng đều cùng chung số phận!
2.3.Cây xà nu - biểu trưng về phẩm chất, khát vọng của người dân
làng Xô Man.
Vì mang tính biểu trưng nên trong suốt tác phẩm, mỗi khi miêu tả cây xà nu,
nhà văn Nguyễn Trung Thành luôn đối sánh nó với dân làng Xô Man.
Cây xà nu có sức sống mãnh liệt Trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở
khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây non mọc
lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời... Ngay trong
làn đạn hằng ngày, hằng đêm của quân thù, cây xà nu vẫn vương lên, không
gì quật ngã đựơc: Có những cây vượt lên đựoc đầu người, cành lá sum sê
như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi
chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường
tráng. Cú thế, lớp này ngã xuống đã có năm bảy lớp cây khác lớn lên, trùng
trùng điệp điệp đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà

nu nối tiếp tới chân trời. Rừng xà nu trở thành một dũng sĩ ưỡn tấm ngực lớn
của mình ra, che chở cho làng.
Đọc Rừng xà nu không ai không liên tưởng đến sự gắn bó, sóng đôi giữa cây
xà nu và những tập thể anh hùng ở làng Xô Man và cả Tây Nguyên. Anh
Quyết hy sinh, đã có Tnú cường tráng. Chị Mai ngã xuống lại có cô Dít đầy
nhựa sống. Khi Tnú bị bắt, bị hành hạ, tất cả thanh niên trong làng, mỗi
người một cây gậy sáng loáng đạp lên sàn nhà ưng ào ạt vượt lên trả thù.
Khi Tnú vào quân giải phóng, cậu bé Heng, mới mấy năm, đã khôn lớn nhanh
như thổi, thay thế anh làm người liên lạc... Dân làng Xô Man như rừng cây xà
nu, dưới làn mưa bom bão đạn của quân thù, như lợi cụ Mết, vẫn sống đấy,
không có gì mạnh bằng, cây mẹ ngã, cây con mọc lên, đố nó giết hết rừng xà
nu này!
III.Kết luận
Rừng xà nu trong truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành không thuần tuý là
rừng cây đặc trưng của làng Xô Man trên dải Trường Sơn hùng vĩ. Đó còn là
hình tượng ẩn dụ về chính con người ở nơi khác nghiệt của cuộc chiến tranh
chống quân xâm lược. Bao con người trong những năm tháng gian lao ấy vẫn
còn sống, ngoan cường, bền bỉ và kiêu hãnh. Cho dù cuộc chiến tranh khốc
liệt kia đã đi qua, nhưng hình tượng nghệ thuật đó vẫn rất giàu sức sống, vẫn
như một lời nhắc nhở về những phẩm giá tốt đựp của con người.
Sưu tầm
Hình tượng rừng xà nu
1. Mở bài
Nhà văn Nguyễn Trung Thành có duyên với Tây Nguyên. Cả hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông đã sống và chiến đấu ở mảnh đất hùng vĩ
này. Hai tác phẩm hay nhất của nguyễn Trung Thành đều viết về Tây Nguyên
là “Đất nước đứng lên” và “Rừng xà nu” ( In trong tập truyện “ Trên quê
hương những anh hùng Điện Ngọc” ).
Truyện “Rừng xà nu” viết về những anh hùng ở làng Xô Man trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ. Là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và

cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng
của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng
vĩ mà cụ thể là hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên.
2. Thân bài
a.Giới thiệu chung
Nhà văn đã chọn một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống
mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng
trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man
và các dân tộc Tây Nguyên.
Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu. Suốt trong quá
trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại như một điệp
khúc, gần hai mươi lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu,
ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu. Hình tượng cây xà
nu mang ý nghĩa tượng trưng, nó nói lên sức sống bền vững, quật khởi của
dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất sử thicủa thiên truyện sẽ
không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây
xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy,
nhất là các hình ảnh “đồi xà nu” (bốn lần), “rừng xà nu” (năm lần), với “hàng
vạn cây” “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.
b.Xà nu chịu đau thương
“Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc… Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào
ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây
nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào
ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa úa ra, tràn trề, thơm ngào
ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại
thành từng cục máu lớn”. Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện đã cho thấy
cuộc đấu tranh quyết liệt của dân làng. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả
nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác
của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân
làng Xô Man ngã xuống.

b.Nhưng hình tượng cây xà nu cũng tượng trưng cho sức sống dẻo
dai, mãnh liệt của dân làng Xô Man, của con người Tây Nguyên. “Trong
rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới
ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên
lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế.
Chúng phóng lên rất nhanh để đón lấy ánh sáng…”
“Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê”. Rừng xà
nu mang ý nghĩa biểu tượng cho con người. “Đặt trong hệ thống chủ đề,
trong mạch truyện, những cây xà nu này mang tính biểu tượng cho những
Tnú, Mai, Dít, bé Heng… thế hệ trẻ của làng Xô Man bất khuất, gắn bó với
cách mạng”. Chỉ đơn giản một chi tiết này, thấy cây xà nu giống người biết
mấy! “Nhưng cũng có những cây vượt lên đựơc đầu người, cành lá sum sê
như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi
chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường
tráng”. Hình ảnh đó giống Tnú biết bao, Tnú bị bọn giặc chém nhiều nhát sau
lưng, trên tấm lưng chưa rộng bằng bề ngang cái xà lét mẹ để lại đó ứa một
vệt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện, tím thẫm như “nhựa xà nu”.
Nhưng sau khi ở tù vượt ngục trở về, những vết thương đã lành lặn, Tnú
khoẻ mạnh, cường tráng, rồi trở thành một chiến sĩ kiên cường.
Cái chết của những cây xà nu giống cái chết của mẹ con Mai . “Có những cây
con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những
cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng; vết thương không lành được, cứ
loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”.
Và đây, Dít giống một cây xà nu non lao thẳng lên trời bất khuất. Dít nhỏ
như lanh lẹ, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra từng cho cụ Mết
và thanh niên. Chúng bắt đựơc con bé. Chúng để con bé đứng ở giữa sân, lên
đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một. Không bắn trúng, đạn chỉ sượt
qua tai, sém tóc, váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên, nhưng rồi
đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó nó im bặt. Nó đứng lặng giữa
bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một

cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng.
Hình ảnh những cây xà nu vững chắc, không chịu ngã trước giông bão, bom
đạn của kẻ thù “ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho làng” gợi cho ta nghĩ
đến hình ảnh cụ Mết, con người tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô
Man, người nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng. Chính cụ
Mết cũng đã nói với Tnú: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta…” Cụ
còn nói với dân làng: “Nghe rõ chưa các con, rõ chưa Nhớ lấy, ghi lấy. Sau
này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại với con cháu: Chúng nó đã cầm
súng, mình phải cầm giáo!”. Và khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ, nguyên nhân
trực tiếp chính là do ngọn lửa xà nu cháy trên mười đầu ngón tay Tnú. Cả
làng Xô Man bị kích động, những ngọn đuốc xà nu bùng cháy khắp rừng
“Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào
ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng…”
3.Kết bài
Viết về Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành muốn gắn chặt đất nước với con
người. Viết về anh hùng Đinh Núp, tác giả gọi tên tiểu thuyết của mình là
“Đất nước đứng lên”. Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là “Rừng xà nu”… Hình tượng cây xà nu là
một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp
tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện “Rừng xà nu” thêm sâu sắc. Chính
nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.
( Sưu tầm)
thay đổi nội dung bởi: backysinh, 02-21-2010 lúc 03:13 PM
Tính sử thi của tác phẩm Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)
Tính sử thi của tác phẩm Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)
...Để dẫn ra một tác phẩm tiêu biểu có thể minh hoạ cho sự tồn tại của "nền văn
học sử thi" trong văn học Việt Nam 1945 - 1975, tưởng không có tác phẩm nào
tiêu biểu hơn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Quả đây là một truyện
ngắn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn (thực ra, với các tác phẩm
thuộc loại này, chỉ nói đến tính sử thi là đủ, bởi cảm hứng lãng mạn đã trở

thành một phần tất yếu của nó).
Tính sử thi của Rừng xà nu được biểu lộ trước hết ở những sự kiện có tính chất
toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man hoàn toàn
không có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền
Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tính thế bị o ép
của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống
đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thi hành luật
10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ.
Khi làng Xô Man đứng dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương
mặt của cả nước trong những ngày quyết tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ - một
gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử thách mới.
Biểu hiện thứ hai của tính sử thi trong Rừng xà nu là truyện ngắn đã xây dựng
thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể tới
trong đó đều có tính đại diện cao, mang trong mình hình ảnh của cả một dân
tộc. Tập thể anh hùng trong Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới
tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận
riêng trong cuộc đời chung. Tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ
bản : gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng. Chiến công của
mỗi người tuy đa dạng mà thống nhất. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của
Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra.
Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của
nhiều giọng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những
nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa
cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều
muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Dĩ nhiên, hình tượng
văn học nào cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái phổ quát, nhưng
ở Rừng xà nu, cảm hứng hướng về cái chung đã mang tính chất chi phối.
Biểu hiện thứ ba của tính sử thi ở truyện ngắn Rừng xà nu là nó đã miêu tả các
sự kiện, các nhân vật anh hùng từ một cái nhìn chiêm ngưỡng, khâm phục. Các
chi tiết đời thường ít được nhắc tới. Nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào

có khả năng làm phát lộ được phẩm chất anh hùng của nhân vật. Tả cụ Mết,
nhà văn chú ý tới giọng nói "ồ ồ dội vang trong lồng ngực" của cụ. Tưởng như
trong tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng,
của lịch sử. Và quả thật, cụ là hình ảnh tượng trưng của truyền thống vững bền.
Mỗi lời cụ thốt ra kết tinh trải nghiệm của cả một dân tộc. Nó cô đúc, sâu sắc,
vang vọng như những chân lí. Chả thế mà cả làng Xô Man nghe như uống từng
lời cụ nói và cả rừng xà nu cũng "ào ào rung động" như một sự hoà điệu, một
sự tạo nền. Ngay cuộc đời của Tnú, một cuộc đời trải ra trong chính thời hiện
tại cũng đã được lịch sử hoá và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp lửa
nhà ưng, cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng, cho thế hệ con cháu nghe. Anh
đã trở thành niềm tự hào của làng, là một biểu tượng sống động của người anh
hùng được tất cả ngưỡng vọng, học tập.
Tính s thi c aử ủ R ng xà nuừ còn th hi n ể ệ ở gi ng v n tha thi t, ọ ă ế
trang tr ngọ mà tác gi đã s d ng khi k v s tích c a làng Xô ả ử ụ ể ề ự ủ
Man. Gi ng v n y c ng th m đ m trong vi c miêu t thiên ọ ă ấ ũ ấ ượ ệ ả
nhiên, khi n cho hình nh r ng xà nu b ng th i t i trong lòng ế ả ừ ỗ ổ ớ
ng i đ c m t c m giác say s a. Ta b cu n theo câu chuy n ườ ọ ộ ả ư ị ố ệ
không gì c ng n i, t ng mình đang đ c t m trên m t dòng ưỡ ổ ưở ượ ắ ộ
sông mênh mang, tràn tr sinh l c, ho c t ng mình đang b ề ự ặ ưở ị
thôi miên b i m t b n nh c giao h ng hùng tráng.ở ộ ả ạ ưở
Nguồn: Sưu tầm
Phân tích hình tượng “Rừng xà nu”
Phân tích hình t ng “R ng xà nu”ượ ừ
I / Giới thiệu chung
-Nguyễn Trung Thành là một nhà văn quân đội gắn bó với Tây Nguyên suốt hai
cuộc kháng chiến, có nhiều tác phẩm thành công về mảnh đất và con người nơi
đây.
-Truyện ngắn Rừng xà nu ra đời năm 1965, khi đế quốc Mỹ bắt đầu đổ quân ào
ạt vào miền Nam, là câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô man.
-Một trong những thành công nổi bật của tác phẩm là xây dựng hình tượng

nghệ thuật độc đáo: hình tượng cây xà nu.
II / Phân tích hình tượng cây xà nu
1. Cây xà nu được miêu tả cụ thể, gắn bó với con người Tây Nguyên
- Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm trước hết như một loài cây đặc thù, tiêu
biểu của miền đất Tây Nguyên. Mở đầu và kết thúc tác phẩm cũng bằng hình
ảnh của cây xà nu  Cây xà nu, rừng xà nu như chính dân làng Xôman, như
người dân Tây Nguyên trên núi rừng trùng điệp
- Cây xà nu gắn bó thân thiết với cuộc sống người dân Tây Nguyên trong sinh
hoạt hàng ngày, trong đấu tranh chống giặc, thấm vào nếp nghĩ và cảm xúc. Là
lá chắn để bảo vệ làng Xô man trước đạn pháo giặc.
2. Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận con người Tây Nguyên
trong kháng chiến chống Mỹ.
- Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến
những mất mát đau thương mà đồng bào ta đã phải trải qua trong thời kì cách
mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt. - Trong bom đạn chiến tranh, thương
tích đầy mình cây xà nu vẫn hiên ngang vươn lên mạnh mẽ như người dânTây
Nguyên kiên cường bất khuất, không khuất phục trước kẻ thù.
- Cây xà nu rắn rỏi, ham ánh nắng mặt trời tựa như người Xô man chân thật,
mộc mạc, phóng khoáng yêu cuộc sống tự do.
- Cây xà nu - rừng xà nu tầng tầng lớp lớp, kế tiếp nhau lớn lên trong bom đạn
với một sức sống mãnh liệt không gì ngăn cản nổi gợi nghĩ đến sự tiếp nối của
nhiều thế hệ người Tây Nguyên đứng lên đấu tranh giữ gìn xứ sở và truyền
thống cha ông.
- Rừng xà nu tạo thành một bức tường vững chắc hiên ngang truớc bom đạn
cũng là biểu trưng cho sức mạnh đoàn kết của người dân Tây Nguyên khiến kẻ
thù phải kiếp sợ.
III / Kết luận :
Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành, tiêu
biểu cho vẻ đẹp hào hùng, đầy sức sống của thiên nhiên và con người Tây
Nguyên. Với hình tượng này tác giả đã tạo nên chất sử thi, vẻ đẹp lãng mạn của

tác phẩm.
Nguồn: Sưu tầm
Phân tích hình tượng nhân vật Tnú
Phân tích hình t ng nhân v t Tnúượ ậ
Trước khi cầm vũ khí, ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm
biểu lộ một tính cách táo bạo mạnh mẽ.Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi
giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng
cảm.Cậu thật sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ nguỵ ít khi phục kích ở chỗ nước
chảy xiết. Nguời đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự quan tâm học chữ
không chịu thua kém ai của Tnú.Cậu bé này dám “cầm đá tự đập vào đầu máu
chảy ròng ròng khi học cái chữ không thuộc” bằng Mai.Và đặc biệt sự gan dạ
dũng cảm của Tnú khi bị giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và
nói: “Cộng sản ở đây này”.Mặc cho những vết dao chém dọc ngang trên tấm
lưng bé nhỏ, Tnú vẫn không khai báo, vẫn gan dạ kiên cường.Trước những trận
đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái chữ và
được giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Đây là nét hơn hẳn mà nhân vật A Phủ
trong “ Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài chưa có.
Khi thoát ngục Kon tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết
được tôi luyện qua nhiều thử thách.Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu
trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng.Theo lời dạy của
anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa anh đã đi ba ngày
đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để mài
giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.
Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi theo cách mạng, Tnú còn có một cuộc
sống hạnh phúc với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời.Nhưng quãng
thời gian hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn
chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong làng phải trốn vào rừng để rồi
một mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của kẻ
thù, nhưng cả hai đều không sống được.Cảnh tượng về cái chết đau thương
trong đêm ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn

của anh.Không những không cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy
mười đầu ngón tay “Mỗi ngón chỉ còn hai đốt….không mọc lại được”.Nỗi đau
thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa sâu sắc của cụ
Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao
biết bao.Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùnh thời nào trong các khan,
trong các trường ca Tây Nguyên.Khi đốt cháy hai bàn tay của Tnú, kẻ thù
muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng chiến đấu của người
dân Xô Man.Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô lệ
thấp hèn dưới nòng súng tàn bạo của chúng.Nhưng Tnú và người dân làng Xô
Man không cam chịu khuất phục, mà ngược lại họ đã phản kháng quyết liệt.Họ
đã biết vượt lên đau thương để vùng lên cầm vũ khí tự giải phóng mình .Lửa đã
thiêu cháy mười đầu ngón tay Tnú, lửa bùng cháy trên mười đầu ngón tay tẩm
dầu xà nu.Nhưng Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng-
ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ thù.Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã
vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng hét ấy như khơi dậy cao độ lòng căm
thù giặc của cả buôn làng.Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt
đất. Đêm ấy lửa cháy suốt trong bếp lửa nhà ưng.Nhà văn Nguyễn Trung Thành
đã miêu tả cái đêm nổi dậy ấy thật hào hùng, sôi động : “Tiếng chiêng nổi lên,
đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng Xôman âo ào
rung động và lửa cháy khắp rừng”.Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân làng
Xôman mà là sự lớn dậy phi thường của cả một cộng đồng, dân tộc.Dường như
trong đêm ấy đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên
sử thi Tây Nguyên”.
Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh
hai bàn tay của anh. Đôi bàn tay bị đốt cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm
thù giặc sâu sắ của dân làng Xôman, nó còn soi sáng cuộc đời anh.Anh đã thay
mặt người dân làng Xôman lên đường theo kháng chiến đi tìm những thằng
Dục khác.Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể với dân làng
mình sự đối đầu của anh với kẻ thù sau này: “Tôi nói: này tao có súng đây, tao

có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày súng, tao không đâm mày bằng
dao nghe chưa Dục.Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ
mày thôi”.Nhà văn đã cố tình tô đậm hình ảnh đôi bàn tay Tnú- đôi bàn tay có
cả một lịch sử, một số phận.
Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù
làm nương phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ
không thuộc.Và đôi bàn tay ấy dám chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc
“Cộng sản ở đây này” khẳng định lòng trung thành với cách mạng.Lớn lên đôi
bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng đôi
bàn tay ấy xé tấm dồ làm địu cho đứa con thơ dại, bàn tay bíu chặt gốc cây vả
khi chứng kiến vợ con bị giặc đáng đập bằng roi sắt, hai cánh tay rộng lớn ôm
choàng lấy vợ con che chở, yêu thương…Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để
rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc lại được…..cho nên Tnú muốn
dung đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù.Bao uất hận căm hờn đã dồn lên đôi bàn
tay kia, nó đã trở thành biểu tượng cho ý chí bất khuất , cho sức sống mãnh liệt
của Tnú và người dân làng Xôman.Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay
nhưng không thể tiêu diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người
họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên
cường dũng cảm như những khu rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào bị
thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời.
Xây d ng thành công nhân v t Tnú, nhà v n đã kh c ho đ c ự ậ ă ắ ạ ượ
hình nh tiêu bi u c a con ng i mang đ m dòng máu, tính ả ể ủ ườ ậ
cách c a núi r ng Tây Nguyên.Và qua hình t ng Tnú, Nguy n ủ ừ ượ ễ
Trung Thành còn g i ra đ c s ph n và ph m ch t c a c c ngợ ượ ố ậ ẩ ấ ủ ả ộ
đ ng trong cu c chi n đ u b o v buôn làng thân yêu. ó là ồ ộ ế ấ ả ệ Đ
tình c m g n bó thi t tha sâu n ng v i quê h ng đ t n c, v i ả ắ ế ặ ớ ươ ấ ướ ớ
núi r ng Tây Nguyên, c m thù gi c sâu s c, m t lòng m t d đi ừ ă ặ ắ ộ ộ ạ
theo cách m ng, không ng i khó kh n, gian kh , hi sinh, tin ạ ạ ă ổ
t ng tuy t đ i vào s th ng l i c a cách m ng.Có th nói qua ưở ệ ố ự ắ ợ ủ ạ ể
thiên truy n ng n xu t s c này c a Nguy n Trung Thành, ng i ệ ắ ấ ắ ủ ễ ườ

đ c càng thêm hi u và thêm trân tr ng con ng i Tây Nguyên ọ ể ọ ườ
v i bi t bao ph m ch t th t đ p, th t cao quý. H c ng chính là ớ ế ẩ ấ ậ ẹ ậ ọ ũ
hình nh đ p đ , tiêu bi u cho con ng i Vi t Nam th i ch ng ả ẹ ẽ ể ườ ệ ờ ố
M .ĩ
Ngu n: S u t mồ ư ầ
Bình giảng 20 dòng đầu của bài thơ "Việt Bắc"
Bình giảng 20 dòng đầu của bài thơ "Việt Bắc"
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn nhất, tiêu biểu nhất của nền thi ca
hiện đại. “Ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, nhà thơ của lý tởng cộng sản”.
Tập thơ “Việt Bắc”, là đỉnh cao của thơ Tố Hữu đồng thời cũng là thành tựu
hàng đầu của thơ ca kháng chiến chống Pháp, trong đó bài thơ “Việt Bắc” đợc
coi là kết tinh sở trờng nghệ thuật của ngòi bút Tố Hữu. Đó là khúc hát ân
tình của ngời kháng chiến đối với quê hương, đất nước với nhân dân cách
mạng được thể hiện bằng một nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại mà cốt lõi
là truyền thống ân nghĩa đạo lý thủy chung của dân tộc.
Được coi là người sinh ra để thơ hoá những vấn đề chính trị, thơ Tố Hữu luôn
bám sát các sự kiện cách mạng. Men theo năm tháng những bài thơ của Tố
Hữu, ta có thể tái hiện lại những chặng đường hào hùng của cách mạng Việt
Nam. Thơ ông quả là “cuốn biên niên sử bằng thơ” như có nhà nghiên cứu đã
đánh giá. “Việt Bắc” không phải là ngoại lệ.
Tháng 7/1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoà bình
được lập lại, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, một trang sử mới mở ra
cho đất nước. Tháng 10/1954, cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước
chuyển từ căn cứ địa về thủ đô. Trong thời điểm lịch sử ấy, bài thơ “Việt Bắc”
đã ra đời. “Việt Bắc” không còn là tình cảm riêng của Tố Hữu mà còn tiêu
biểu cho tình cảm của người kháng chiến miền xuôi đối với chiến khu cách
mạng, với đất nước, với nhân dân. Một sự kiện chính trị đã chuyển hoá thành
thơ ca theo cách “Tâm tình hoá, là một đặc trng của lối thơ trữ tình chính trị
Tố Hữu. 20 câu thơ đầu tiên của “Việt Bắc” thể hiện rất rõ đặc trưng nghệ
thuật này.

Đoạn thơ mở đầu bằng những câu thơ ngọt ngào:
Mình về mình có nhớ ta
Mời năm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Câu thơ mở ra cảnh giã biệt, một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ cảm xúc trữ
tình dạt dào. Cảnh giã biệt vẫn quen thuộc trong thơ ca dân gian và cổ điển
truyền thống đã được Tố Hữu khéo vận dụng để diễn tả tâm trạng mang tính
thời đại. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đảng, Chính phủ với Việt Bắc được thu
vào cuộc chia tay của một đôi trai gái: người ở lại rừng núi chiến khu là cô
gái Việt Bắc, người về xuôi là anh cán bộ cách mạng. Chuyện chung đã hoá
thành chuyện riêng, chuyện cách mạng của dân nước trở thành chuyện
tình yêu của lứa đôi, cuộc chia tay đầy bịn rịn lưu luyến giữa những người đã
từng gắn bó sâu nặng dài lâu:
“Mười lăm năm” “thiết tha mặn nồng” được Tố Hữu thể hiện bằng một thể
thơ giàu tính dân tộc. Thể lục bát, cách kết cấu đối đáp, sử dụng đại từ nhân
xưng “Mình”, “Ta” quen thuộc trong thơ ca dân gian, có khả năng “biểu hiện
một cách thuận tiện, phù hợp với điệu hồn chung của cộng đồng người Việt”
“Rung lên cái sợi tơ lòng chung của những tấm lòng Việt”. Tất cả những yếu
tố đó đã diễn tả thật xúc động tình cảm quyến luyến thiết tha trong một cuộc
chia tay đặc biệt: chưa xa đã nhớ, để chia mà không xa, cách mà
không biệt.
Mình về mình có nhớ ta” đã là chuyện chung thuỷ, riêng tư. Nhưng đến:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
thì không còn là chuyện của tình yêu lứa đôi mà đã là chuyện ân nghĩa thủy
chung của đạo lý dân tộc. Câu thơ lục bát điệp hai lần từ “mình” nghe như lối
tâm tình thương mến mà day dứt. Băn khoăn lớn nhất của ta và mình trong
cuộc chia tay là ân tình thủy chung. Cái độc đáo ở chỗ: một câu hỏi về thời
gian, một câu hỏi về không gian. Chỉ một khổ thơ đã gói gọn một thời cách
mạng, một trời cách mạng. Tác giả đã chọn tình yêu một đôi trai gái làm một
góc nhìn để bao quát toàn cảnh Việt Bắc với “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn

nồng”Từ thuở cách mạng còn trứng nước đến khi trưởng thành vững vàng đó
là điểm nhìn nghệ thuật rất Tố Hữu- người thi sĩ luôn khơi nguồn cảm hứng
từ những sự kiện lớn của cách mạng.
Tiếp theo câu hỏi của ngời ở là tiếng lòng của người đi:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Người đi đã nghe câu hỏi, lòng tràn đầy bâng khuâng “bồn chồn” một tình
cảm thương nhớ “thiết tha”. Tâm trạng lúc chia tay được diễn tả thật đắt qua
sự luyến láy của ngôn từ và cả ở nhạc điệu của câu thơ: Hai câu đầu là nhịp
2/2 hối hoàn của lục bát đến đây đã vặn mình chuyển điệu 3/3:
“Áo chàm đưa/ buổi phân ly
Cầm tay nhau/ biết nói gì / hôm nay"
Cái xao xuyến bồi hồi của lòng người đã cồn cào nổi sóng trên câu thơ thể
hiện cách thần tình chút ngập ngừng chứa chan tình thương mến, tạo ra một
khoảng lặng đầy biểu cảm để chuỗi câu hỏi tiếp theo vang lên dồn dập, tha
thiết hơn.
Mười hai câu lục bát còn lại là lời của người ở, cấu tạo bằng sáu câu hỏi như
khơi sâu vào kỷ niệm. Mỗi câu hỏi đều gợi lại những gì tiêu biểu nhất của Việt
Bắc qua những hình ảnh chọn lọc gợi cảm: Mưa nguồn, suối lũ, mây mù,
Những hình ảnh chọn lọc vừa chân thực vừa thơ mộng; “Hắt hiu lau xám
đậm đà lòng son” Những câu thơ có khả năng diễn biến những khái niệm
trừu tợng thành hình ảnh đầy cảm giác sống động cụ thể “mối thù nặng vai”.
Nghệ thuật nhân hoá cũng tạo nên sự sống động cho hình ảnh thơ:
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Tình cảm của ngời ở đối với ngời đi xem ra đợc thể hiện sâu kín hơn cả trong
câu thơ này, chỉ 14 chữ mà chứa đựng biết bao quyến luyến nhớ thương:
Người đi rồi cả một miền rừng trở nên hoang vắng, trám không người nhặt,

măng không ai hái, cả núi rừng cũng mong nhớ đến thẫn thờ. Như một thông
lệ trong cuộc chia tay giữa những người thân thiết, người ta thường đẩy thời
gian về quá khứ để chưa xa đã nhớ, chưa biệt đã thương. Để trên nền xúc
cảm này, dòng hồi tởng những kỉ niệm thân thương ùa về mãnh liệt.
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
Nhìn thoáng qua, tổ chức các câu thơ đều lặp lại ở phép láy đầu 6 câu: Mình
đi, mình về. “Đi”, “Về” vốn ngợc chiều trái hướng, song ở đây lại đồng nhất
một phương .
Phải chăng niềm tin giản dị mà rất thực của cả người đi và người ở đã thổi
vào câu chữ, làm nên chút choáng ngợp bối rối của ngôn từ, thể hiện mạch
ngầm văn bản trong chiều sâu thơ ca: Ra đi để hẹn về. Việt Bắc đã trở thành
quê hương thứ hai của ngời cán bộ kháng chiến.
Những kỷ niệm được gợi nhớ đều là những kỷ niệm của cuộc sống chung,
tình cán bộ với nhân dân chia ngọt sẻ bùi, chung gian lao, chung mối thù Nếu
không khéo rất dễ sa vào cái gọi là “liệt kê kỉ niệm” câu thơ sẽ trôi tuột đi,
không thể lưu đọng lại trong lòng người đọc. Cái làm nên chất thơ của bài
“Việt Bắc” cũng như của đoạn thơ này chính là nhạc điệu. Chính nhạc điệu đã
làm cho các kỷ niệm trở nên ngân nga, trầm bổng réo rắt, thấm sâu vào tâm
tư. Những yếu tố làm nên chất nhạc kỳ diệu ấy không chỉ ở những câu lục
bát rất chuẩn về thanh luật mà còn ở nghệ thuật tiểu đối được sử dụng với
tần số cao trong các câu thơ. Nó không chỉ có khả năng biểu đạt rất xúc động
nỗi lòng sâu kín bồi hồi của người đi kẻ ở, mà còn tạo ra sự tương xứng về
cấu trúc, vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ.
Ma nguồn suối lũ / những mây cùng mù
Miếng cơm / mối thù
Trám / măng
Hắt / son
Nhớ / mình
Tân / đa

Những hình ảnh thơ đã thực sự cất lên chất thơ nhờ nhạc điệu đầy quyến
luyến, trầm bổng, ngân nga qua những câu thơ sóng đôi lối đối xứng tiểu đối,
nó mang vẻ đẹp cổ điển uyên bác. Đặc biệt câu hỏi cuối đoạn thơ có thể tách
riêng ra bởi sự thâm thúy, hàm súc:
“Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa”
Đại từ “mình”, “ta” vốn được sử dụng trong đối đáp thơ ca dân gian nay
được Tố Hữu sử dụng đầy biến ảo: Khi mình là Ta, khi “ta” là “mình”, cái
ngầm ý hai ta là một đã rõ. Nhng ở đây một câu lục mà tới ba lần lặp lại chữ
mình: “Mình đi, mình có” là chỉ ngời về, “nhớ mình” là chỉ người ở. Câu hỏi
đầy ý nhị mà sâu kín: Mình quên “ta” cũng là quên chính “mình” đó. Cũng
như ở phần sau, Tố Hữu lại nhấn theo lối bồi thấn trong câu thơ trả lời khẳng
định sắt son.
“Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “Mình” trong tiếng Việt. “Mình” vừa là bản
thân vừa là ta, “Mình” cũng là ngời thân thiết có thể xem như chính mình
vậy. Đại từ nhân xưng được sử dụng vừa thống nhất vừa biến hoá khiến “Việt
Bắc” cất lên như tiếng lòng đồng vọng bản hoà âm tâm hồn của kẻ ở người
đi.
Sự đổi chỗ trong tổ chức câu thơ: “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”
được viết thành: “Tân trào Hồng Thái mái đình cây đa” chứng tỏ tên riêng và
danh từ chung đều đã đồng nhất hoàn toàn về ý nghĩa -Việt Bắc quê hương
cách mạng. Nỗi nhớ về chiến khu Việt Bắc “Tân Trào, Hồng Thái”, đã chuyển
hoá thành nỗi nhớ quê hương “Mái đình cây đa” những hình ảnh đã đi vào
tâm thức người Việt từ ngàn đời. “Trong thơ Tố Hữu, cái riêng, cái chung như
không còn ranh giới, cái cũ cái mới lồng vào nhau, (Nguyễn Văn Hạnh) mà
đây là một trờng hợp điển hình.
“Việt Bắc” là bài ca tâm tình, ngọt ngào đằm thắm rất tiêu biểu cho hồn thơ,
cho phong cách thơ của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm tình yêu

nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng đối với
nhân dân.
Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp Tố Hữu tâm
sự rằng: “mình phải lòng đất nước và nhân dân của mình. Và đã nói về đất
nước về nhân dân như nói về người mình yêu”. Cho nên tình yêu biến thành
tình nghĩa “Việt Bắc” đã trở thành tiếng hát ân tình chung của những người
kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm lịch sử đáng ghi nhớ.
Có thể khẳng định rằng đoạn thơ trên là những câu thơ hay nhất của bài thơ
“Việt Bắc”.
(Sưu tầm)
Đàn Ghi Ta Của Lor-ca
ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA
I/ Giới thiệu chung:
1/ Tác giả: (Sgk)
2/ Sự nghiệp:
a/ Tác phẩm: (Sgk)
b/ Đặc điểm thơ:
- Là sự lên tiếng của người trí thức nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã
hội và thời đại.
- Thể hiện sự cách tân thơ Việt: đào sâu cái tôi nội cảm; cách biểu đạt mới
với câu thơ tự do, xoá bỏ ràng buộc khuôn sáo bằng nhịp điệu, cách gieo
vần…
3/Bài thơ:
a/ Xuất xứ:
- Rút trong tập “Khối vuông Ru – bích”.
- Thể hiện tư duy thơ Thanh Thảo: giàu suy tư, nhuốm màu sắc tượng trưng,
siêu thực.
b/ Bố cục: Gồm 4 phần:
* Câu 1 – 6: Lor-ca – con người tự do, nghệ sĩ cách tân trong khung cảnh
chính trị, nghệ thuật TBN.

* Câu 7- 18: Lor-ca với cái chết oan khuất và nỗi xót xa về sự dang dở của
khát vọng cách tân nghệ thuật.
* Câu 19- 22: Niềm xót thương Lor-ca.
* Câu 23- 31: Suy tư về cuộc giải thoát và cách giã từ của Lor-ca.
c/ Chủ đề:
- Khắc hoạ cuộc đời nghệ sĩ Lor-ca với lý tưởng cách tân nghệ thuật và cái
chết oan khuất.
- Thể hiện niềm ngưỡng mộ và xót thương của tác giả đối với Lor-ca.
II/ Đọc - hiểu văn bản:
1/ Hình tượng nghệ sĩ Lor-ca:
a/ Lor-ca, một con người tự do, nghệ sĩ cách tân trong khung cảnh
chính trị và nghệ thuật TBN:
- Áo choàng đỏ:
+ Gợi bản sắc văn hoá TBN.
+ H/ả Lor-ca như một đấu sĩ với khát vọng dân chủ trước nền chính trị TBN
độc tài lúc bấy giờ.
- Tiếng đàn:
+ Ghi ta: nhạc cụ của người TBN.
+ Tài năng nghệ thuật của Lor-ca với khát vọng cách tân nghệ thuật
- Đi lang thang; vầng trăng chếnh choáng; yên ngựa mỏi mòn; hát nghêu
ngao; li la…:
+ Phong cách nghệ sĩ dân gian tự do.
+ Sự cô đơn của Lor-ca trước thời cuộc chính trị, trước nghệ thuật TBN già
cỗi.
b/ Lor-ca và cái chết oan khuất:
- Hình ảnh:
+ Áo choàng bê bết đỏ – Gợi cảnh tượng khủng khiếp về cái chết của Lor-ca.
+ Tiếng ghi ta:
. nâu: trầm tĩnh, nghĩ suy.
. xanh: thiết tha, hy vọng.

. tròn bọt nước vỡ tan: bàng hoàng, tức tưởi.
. ròng ròng máu chảy: sự đau đớn, nghẹn ngào.
=> Âm nhạc đã thành thân phận, tiếng đàn thành linh hồn, sinh thể.
- Biện pháp nghệ thuật:
+ Đối lập:
Hát nghêu ngao >< áo choàng bê bết đỏ
khát vọng >< hiện thực phũ phàng (giữa tiếng hát yêu đời vô tư , giữa tình
yêu cái Đẹp và hành động tàn ác, dã man).
+ Nhân hoá: Tiếng ghi ta… máu chảy.
+ Hoán dụ: Áo choàng, tiếng ghi ta àLor-ca.
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: Tiếng ghi ta vỡ ra thành màu sắc, hình khối,
hành động…
* Với việc sử dụng bpnt tài tình, tác giả đã khắc hoạ thật ấn tượng về cái
chết đầy bi phẫn của người nghệ sĩ Lor-ca.
2/ Nỗi xót thương và suy tư về cuộc giã từ của Lor-ca:
- Lời Lor-ca (đề từ): “Khi tôi chết …cây đàn.”
+ Niềm đam mê nghệ thuật.
+ Hãy biết quên nghệ thuật của Lor-ca để tìm hướng đi mới.
- “Không ai chôn cất… cỏ mọc hoang”
+ Nghệ thuật của Lor-ca (cái Đẹp): có sức sống và lưu truyền mãi mãi
như “cỏ mọc hoang”.
+ Phải chăng không ai dám vượt qua cái cũ, thần tượng để làm nên nghệ
thuật mới.
- Giọt nước mắt …trong đáy giếng:
+ Vầng trăng nơi đáy giếngàsự bất tử của cái Đẹp.
- Đường chỉ tay: ẩn dụ về định mệnh nghiệt ngã.
-... dòng sông, ghi ta màu bạc...à gợi cõi chết, siêu thoát.
- Các hành động: ném lá bùa, ném trái tim: có ý nghĩa tượng trưng cho một
sự giã từ, một sự lựa chọn.
* Tiếng lòng tri âm sâu sắc đối với người nghệ sĩ, thiên tài Lor-ca.

3/Yếu tố âm nhạc trong bài thơ:
- Chuỗi âm thanh “Li la- li la- li la” luyến láy ở đầu và cuối như khúc dạo đầu
và kết thúc bản nhạc.
- Sự kính trọng và tri âm Lor-ca- nghệ sĩ thiên tài.
III/ Tổng kết:
1/ Nghệ thuật:
- Thể thơ tự do, không dấu câu, không dấu hiệu mở đầu, kết thúc.
- Sử dụng h/ả, biểu tượng - siêu thực có sức chứa lớn về nội dung.
- Kết hợp hài hoà hai yếu tố thơ và nhạc.
2/ Nội dung:
Tác giả bày tỏ nỗi đau xót sâu sắc trước cái chết oan khuất của thiên tài Lor-
ca- một nghệ sĩ khát khao tự do, dân chủ, luôn mong muốn cách tân nghệ
thuật.
Nguồn sưu tầm
Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo)
Đàn ghi ta của Lorca
(Thanh Thảo)
Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo - một sự cộng hưởng của những khát
vọng sáng tạo, một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới nghệ thuật thơ
Lor-ca, một suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của những
cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn cho cái đẹp.
Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù, nhất là không
gian miền quê An-đa-lu-xi-a yêu dấu của Lor-ca đã được gợi lên. Giữa không
gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng khoáng,
tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không ngừng đi theo
một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng về miền đơn độc :
Những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
...
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan.
Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy ? - Trước hết là nhờ
"đàn ghi ta của Lor-ca". Tất nhiên, ở đây ta không nói tới một cây đàn cụ
thể, dù vẫn biết Lor-ca là nghệ sĩ trình tấu rất xuất sắc ghi ta và dương cầm.
Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lor-ca, là bản mệnh của Lor-ca. Đọc thơ Lor-ca,
ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải miết, vô định dưới vầng
trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi u tối, khi nồng nàn, khi buốt lạnh,...
Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương sắc riêng không thể
nào quên được của miền quê Gra-na-đa thuộc xứ An-đa-lu-xi-a, nơi ngày xưa
từng được xem là "một trong những vương quốc đẹp nhất của châu Phi" do
người ả-rập dựng nên. ở đó có những chàng hiệp sĩ đấu bò tót khoác trên
mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái Di-gan nước da nâu gợi tình tràn trề
sức sống, có những vườn cam, những rặng ô-liu xanh một màu xanh huyền
hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghi ta - âm thanh nức nở, thở
than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim bị tử
thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong
bài Đàn ghi ta)... Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lor-ca để
lẩy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn
của chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự "trích
dẫn". Tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu tượng
trung tâm là cây đàn, mà xét theo "nguồn gốc", vốn cũng là một biểu tượng
đặc biệt trong thơ Lor-ca - người mê dân ca, "chàng hát rong thời trung cổ",
"con sơn ca xứ An-đa-lu-xi-a". Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về một
định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra, nói về một

tình yêu vô bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã nhập
một với hình tượng Lor-ca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng
"song trùng" với hình tượng Lor-ca. Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lor-ca
trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lor-ca, là linh hồn, và cao
hơn cả là số phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ
trước đây của Lor-ca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn làm
sống dậy hình tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ
thuật, ưa chuộng cuộc sống tự do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muốn
hợp nhất vào đây một "văn bản" khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha
mùa thu 1936 - cái "văn bản" đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn
phát xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn
tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu yêu
quý :
Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
...
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
Ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được (hay bị) trích theo lối cắt tỉa, phục
vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó. Trên thực tế, Đàn ghi ta
của Lor-ca có một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với sự xô nhau, đan cài nhau,
tương tác với nhau của các văn bản (đã nói). Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu
đời của Lor-ca được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan
nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ Tây Ban Nha
bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo
được bộc lộ rõ trên các giao điểm này. Những hình ảnh, biểu tượng vốn có

trong thơ Lor-ca được làm mới để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ
Lor-ca và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành hành của bạo lực. Câu
thơ những tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết với các câu thơ
khác là tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan và tiếng ghi ta ròng ròng - máu
chảy, sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận
thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn.
Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời
khắc bị đẩy tới chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh
Thảo, tiếng đàn cũng có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh
(ròng ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ
nay về tiếng đàn xưa. Theo đó, tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa,
nó là sự sống muôn màu hiện hình trong thơ Lor-ca và là sinh quyển văn
hoá, sinh quyển chính trị - xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lor-ca. Rồi
màu đỏ gắt của tấm áo choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh
Thảo. Nó không đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có khả năng ám
gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau : áo choàng bê bết
đỏ ... tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lor-ca, của bao con người vốn chỉ
biết hát nghêu ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ,
trong trắng, khi bị điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu
thơ chàng đi như người mộng du có phần thể hiện sự phi lí không thể nào
nhận thức nổi này).
Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lor-ca
(mà truy nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca
An-đa-lu-xi-a) như hình ảnh người kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng
đã thực sự được tái sinh lần nữa trong một hình hài mới và gây được những
ấn tượng mới. Các từ miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng
đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn, thắc thỏm
không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô
tận của cuộc sống. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo, ta hiểu
rằng cảm giác đó không chỉ có ở Lor-ca. Nó là một hiện tượng có tính phổ

quát, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu
hiện đậm nét và thực sự trở thành "vấn đề" trong thơ của những nhà thơ
luôn thắc mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó
giải thích, dòng thơ li-la li-la li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có
tác dụng làm nhoè đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã
được ném ra chừng như lộn xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng
liên kết chúng lại thành một chỉnh thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ
thuật của tác giả và giải phóng bài thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể
những chuyện đã xảy ra trong thực tế. Quả vậy, dù không có sự kiện nào của
cuộc đời Lor-ca được kể lại một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu
thơ không vì thế mà cho rằng thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc này
nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ
về số phận đầy bất trắc của nghệ thuật và khả năng làm tan hoà những suy
nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động vào người tiếp nhận bằng hình thức
ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi bày, kể lể kiểu lãng mạn. Tất nhiên,
chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li-la chứ không phải là cái gì khác.
Hoa li-la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lòng, từng là đối tượng
thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong văn
học, nghệ thuật phương Tây chăng ? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều
mang tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm
thanh mô phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người
nghệ sĩ ?... Tất cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng !
Ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sống kì diệu của thơ Lor-ca
nói riêng và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vốn được
sáng tạo bằng chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sống của các nghệ sĩ :
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt

dòng sông rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la...
Câu thơ không ai chôn cất tiếng đàn có lẽ đã được bật ra trong tâm thức
sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lor-ca trong bài
Ghi nhớ - lời thỉnh cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ Đàn ghi ta của
Lor-ca. Không, ở đây không có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi
sĩ ưa dùng trong các bài thơ "chân dung" hay "ai điệu", nhằm làm nổi bật
những tứ thơ "mới" mang tính chất "ăn theo". Chỉ có sự đau đớn trước cái
chết thảm khốc của một thi tài mãnh liệt, mà xác bị quăng xuống một giếng
sâu (hay vực ?) gần Gra-na-đa. Dĩ nhiên, ý nguyện của Lor-ca - một ý
nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn
bó vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở - đã không
được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn tới và ta bỗng
vỡ ra một chân lí : không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không
được ! Đây là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn
vật thể.
Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự
nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng
tạo ra nó đã chết. Dù thật sự thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn không
ngăn nổi lòng mình khi viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm
một cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm giác của ta khi thấy cỏ mọc
hoang đang ngao hát bài ca vắng người giữa mang mang thiên địa. Không
phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh
Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt không ai chôn cất chứ không phải là không ai

chôn được ! Đến lượt độc giả, giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao
thức, dù nó long lanh trong im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm
thẳm đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết.
Từ câu đường chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm
không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tuân
theo đúng lô gích tái hiện và suy ngẫm (tạm quy về phạm trù "nội dung") mà
tác giả chọn lựa. Nhưng quan trọng hơn, nó tuân theo lô gích tồn tại của
chính cuộc đời : tiếp liền cái chết là sự sinh thành, sau bộc phát, sôi trào là
tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng hoảng (của xã hội loài người) là
sự khôn ngoan, chín chắn,... Trong muôn nghìn điều mà con người phải nghĩ
lại khi đã "khôn dần lên", sự hiện diện của nghệ thuật trong đời sống là một
trong những điều khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội cho một
đối tượng cụ thể nào đó đã đối xử thô bạo với nghệ thuật không còn là
chuyện thiết yếu nữa. Hãy lắng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một
sự hoá thân. Trên dòng sông của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong
khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể
và dăng chiếu ngang trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lor-ca đang bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi vào cõi bất
tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có ánh bạc biêng biếc, hư
ảo một màu huyền thoại...
Trên thực tế, cái chết của Lor-ca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít Frăng-cô
gây nên. Nhưng nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lor-ca không phải là
trường hợp nghệ sĩ đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế
lực thù địch với cái đẹp. Vậy phải chăng có thể xem những khổ nạn liên tục là
một phần tất yếu trong định mệnh của họ ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi
viết tiếp những câu thơ thật gọn nghẽ, "nhẹ nhõm" và "mênh mang" (ta hãy
chú ý tới điểm rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như đã đứt, vô cùng,
sang ngang). Dù ai tiếc thương mặc lòng, đối với người nghệ sĩ như Lor-ca,
khi đường chỉ tay đã đứt (đường chỉ tay như dấu ấn của số mệnh đóng lên cơ
thể con người), chàng đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuối làm chi lá bùa

hộ mệnh được xem là vật tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái Di-
gan trao cho. Chàng, dứt khoát và mạnh mẽ, ném nó "chìm lỉm" (chữ của
Hàn Mặc Tử) vào xoáy nước hư vô, như ném trái tim mình vào lặng yên bất
chợt - cái lặng yên của sự "đốn ngộ", cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở
đó, lời nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động trước cái
chết của mình. Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả chính
định mệnh và hư vô nữa. Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi
như người mộng du ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành
hình, Lor-ca vẫn sống như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi
theo những ý nghĩ xa vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc
đó. Chàng đã không chấp nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chết, nhưng kẻ
bất lực lại chính là lũ giết người ! ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn
nạn của Chúa Giê-su trên núi Sọ. Lại thêm một "văn bản" nữa ẩn hiện tỏ mờ
dưới văn bản thơ của Thanh Thảo !...
Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự
vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ
nhiều "văn bản" khác nhau vào một tổng thể hài hoà. Tưởng không có gì
chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà,
nhờ được "tắm" trong một "dung môi" cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×