Tải bản đầy đủ (.docx) (300 trang)

Giáo dục kĩ năng hoạt động nhóm cho trẻ 5 6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.55 MB, 300 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ KIM YẾN

GIÁO DỤC KĨ NĂNG HOẠT ĐỘNG NHÓM
CHO TRẺ 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI
THEO CHỦ ĐỀ Ở TRƯỜNG MẦM NON

Chuyên ngành: Giáo dục mầm non
Mã số: 9.14.01.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Hòa

Hà Nội - 2020

1


2

LỜI CẢM ƠN
Với tất cả tấm lòng kính trọng, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Nguyễn Thị Hòa đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp em trong suốt thời
gian học tập và nghiên cứu. Cô đã trực tiếp, tận tình, động viên và tạo mọi điều kiện
tốt nhất để em hoàn thành luận án này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy, Cô giáo Khoa Giáo dục Mầm non,


Phòng Sau đại học – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Tổng Biên tập, các cán bộ
biên tập viên của các tạp chí Giáo dục & xã hội; Tạp chí Giáo dục - Bộ GD-ĐT đã
tạo điều kiện cho em trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận án.
Em cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất tới: Gia đình, người
thân, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên và giúp đỡ để em hoàn
thành luận án này.
Hà Nội, ngày 7 tháng 8 năm 2020

NCS Trần Thị Kim Yến

2


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình nghiên cứu nào khác
Tác giả luận án

NCS Trần Thị Kim Yến

3


4

MỤC LỤC


4


5

DANH MỤC BẢNG

5


6

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

6


7

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8


Viết tắt
ĐTB
ĐVTCĐ
ĐLC
GV
GVMN
KNHĐN
SL
%

Viết đầy đủ
Điểm trung bình
Đóng vai theo chủ đề
Độ lệch chuẩn
Giáo viên
Giáo viên mầm non
Kĩ năng hoạt động nhóm
Số lượng
Tỉ lệ

7


8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật thì hoạt động
nhóm là một xu thế tất yếu, bởi không phải công việc nào, tình huống nào… chúng
ta cũng có thể tự mình giải quyết hiệu quả... Vì vậy, mỗi cá nhân cần phải có kĩ
năng làm việc theo nhóm để làm việc cùng nhau.

Việc hình thành kĩ năng hoạt động nhóm (KNHĐN) cần được bắt đầu càng
sớm càng tốt, vừa tạo thành công cụ sống cho trẻ, vừa góp phần giúp trẻ phát triển
hoàn thiện nhân cách. Hơn nữa, 5 - 6 tuổi là giai đoạn nhân cách phát triển mạnh và
được định hình về cơ bản. Điều 22, Luật Giáo dục nước ta quy định [46] “Mục tiêu
của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ,
hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp Một”
nhằm thực hiện mục tiêu trên, nhà giáo dục không chỉ chú ý đến việc truyền thụ
kiến thức đơn lẻ mà quan tâm đến cách dạy, cách làm việc cùng nhau giữa cô và trẻ,
giữa trẻ với nhau.
Trẻ 5-6 tuổi đang chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa nhà trường phổ thông, với
hoạt động chủ đạo là học tập; ở đó đòi hỏi các em phải có sự phối hợp, cùng nhau
thực hiện có hiệu quả các hoạt động hay nhiệm vụ học tập; đồng thời, thông qua đó
phát triển được “năng lực hợp tác" – năng lực cốt lõi cần hình thành ở học sinh phổ
thông. Tuy nhiên, thực tế đang cho thấy, khả năng hoạt động nhóm của trẻ mầm non
nói chung còn nhiều hạn chế, khi đứng trước những tình huống hay vấn đề cần có
sự phối hợp với nhau, nhiều em tỏ ra khá lúng túng. Trong khi đó, trường mầm non
lại là môi trường có điều kiện hết sức thuận lợi để rèn KNHĐN cho các em, thông
qua việc tổ chức các hoạt động giáo dục, hoạt động vui chơi cho trẻ.
Rèn luyện để phát triển KNHĐN cho trẻ 5- 6 tuổi sẽ góp phần hình thành và
phát triển các phẩm chất và giá trị sống tích cực như: tôn trọng, tự tin, hòa bình,
trách nhiệm, khoan dung, kỷ luật... chính là sự chuẩn bị tâm thế sẵn sàng cho trẻ đi
học lớp 1, tránh những “thất bại học đường" từ những năm đầu đời của các em.
Có nhiều cách để giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi trong đó có trò chơi, đặc
biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề (ĐVTCĐ). Trò chơi ĐVTCĐ là môi trường


9
thuận lợi để giáo dục KNHĐN cho trẻ. Đây là hoạt động chủ đạo của trẻ lứa tuổi
mẫu giáo, trong quá trình chơi trẻ được tự do thể hiện ý tưởng của mình, cùng
nhau tìm kiếm phương tiện để thực hiện nhiệm vụ của trò chơi, tự điều khiển hành

vi của mình cho phù hợp. Đồng thời khi chơi phải có nhiều người cùng tham gia,
cùng liên kết, hợp tác với nhau thì trò chơi mới vui. Chính vì vậy trò chơi ĐVTCĐ
là phương tiện, là điều kiện thuận lợi để rèn luyện và phát triển KNHĐN cho trẻ.
Thông qua quá trình hoạt động nhóm sẽ giúp trẻ được hòa nhập trong nhóm bạn
bè, được bạn bè chấp nhận, trẻ được thỏa mãn nhu cầu giao lưu, học hỏi, trẻ được
hoạt động cùng nhau, phối hợp với nhau để đạt được mục đích đã đề ra, trẻ được
thể hiện bản thân, hình thành vai nhân cách thông qua các vai chơi, được phối hợp
với nhau để hoàn thành trò chơi... Qua đó sẽ tạo tiền đề cho việc học tập của trẻ ở
bậc học sau có hiệu quả.
Trong thực tiễn giáo dục mầm non hiện nay, giáo dục KNHĐN trong trò chơi
ĐVTCĐ đang được thực hiện trong nhà trường mầm non; tuy nhiên, chưa đạt được
hiệu quả như mong muốn nên trẻ 5-6 tuổi còn hạn chế ở một số thành tố của
KNHĐN như: kĩ năng thoả hiệp và giải quyết mâu thuẫn, xung đột, kĩ năng lắng
nghe, tôn trọng và nhường nhịn bạn bè;...
Xuất phát từ những lí do nói trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Giáo
dục kĩ năng hoạt động nhóm cho trẻ 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề
ở trường mầm non”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực trạng giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi
trong trò chơi ĐVTCĐ đề xuất một số biện pháp giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi
trong ĐVTCĐ nhằm giúp trẻ có KNHĐN tốt hơn.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục KNHĐN trong trò chơi ĐVTCĐ cho trẻ 5-6 tuổi ở trường
mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi trong trò chơi ĐVTCĐ ở trường
mầm non.



10
4. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình chơi đóng vai theo chủ đề ở trường mầm non, trẻ 5-6 tuổi đã
có một số KNHĐN cơ bản, tuy nhiên các kĩ năng thoả hiệp và giải quyết mâu thuẫn,
xung đột, kĩ năng lắng nghe, tôn trọng và nhường nhịn bạn bè còn nhiều hạn chế.
Giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi đã có những hiệu quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn
nhiều thiếu sót. Nếu đề xuất và sử dụng hợp lí một số biện pháp giáo dục KNHĐN như
hướng dẫn trẻ thảo luận, trao đổi ý kiến để thực hiện nhiệm vụ chung của nhóm chơi;
tạo tình huống chơi để giúp trẻ thiết lập mối quan hệ giữa các vai chơi, nhóm chơi,
hướng dẫn trẻ cách giải quyết xung đột, mâu thuẫn để thực hiện nhiệm vụ chơi đến
cùng... thì KNHĐN trong khi chơi ĐVCCĐ của trẻ sẽ tốt hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi trong trò chơi
ĐVTCĐ ở trường mầm non.
5.2. Khảo sát thực trạng giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi trong trò chơi
ĐVTCĐ ở các trường mầm non tại tỉnh Đắk Lắk.
5.3. Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6
tuổi trong trò chơi ĐVTCĐ ở các trường mầm non tại tỉnh Đắk Lắk.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Quá trình giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi trong trò chơi ĐVTCĐ ở trường
mầm non.
6.2. Giới hạn về địa bàn và khách thể khảo sát thực trạng, thực nghiệm
6.2.1. Giới hạn về địa bàn khảo sát thực trạng, thực nghiệm
Các trường mầm non trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột và các huyện của
tỉnh Đắk Lắk (bao gồm 6 trường mầm non ở Thành phố Buôn Ma Thuột (Mầm non
Khánh Xuân, Mầm non Tân An, Mầm non Thành Công, Mầm non Tân Lập, Mầm
non Thắng Lợi, Mầm non 10/3) và 5 trường Mầm non ở các huyện (Mầm non Hoa
Pơ Lang - huyện Buôn Đôn; Mầm non Vàng Anh - huyện Ea H'Leo; Mầm non
Vành Khuyên - huyện Lắk; Mầm non Hoa Sim - huyện M'Đrắk; Mầm non Sơn Ca huyện Ea Súp).



11
6.2.2. Giới hạn về khách thể khảo sát thực trạng, thực nghiệm
- Khảo sát 110 giáo viên mầm non (GVMN) đang dạy lớp mẫu giáo lớn (5-6
tuổi) tại 11 trường mầm non ở tỉnh Đắk Lắk.
- Khảo sát 60 trẻ 5-6 tuổi ở trường Mầm non Thắng Lợi (Thành phố Buôn Ma
Thuột) và trường Mầm non Hoa Pơ Lang (huyện Buôn Đôn).
- Thực nghiệm trên 150 trẻ ở 3 trường mầm non trên địa bàn Thành phố Buôn
Ma Thuột (Mầm non 10/3, Mầm non Thắng Lợi, Mầm non Tân Lập).
6.3. Thời gian khảo sát
- Khảo sát thực trạng từ tháng 03 năm 2018 đến tháng 6 năm 2018
- Thực nghiệm sư phạm được tiến hành từ tháng 8/2018 đến tháng 12/2018
7. Các cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Các cách tiếp cận nghiên cứu
7.1.1. Tiếp cận hoạt động
Hình thành và phát triển nhân cách nói chung và KNHĐN nói riêng cần được
tiến hành trong các hoạt động và thông qua hoạt động của trẻ. Nghiên cứu KNHĐN
cho trẻ mẫu giáo phải xem xét trong các hoạt động, trên nhiều phương diện và các
mối liên hệ, quan hệ qua lại và trong trạng thái vận động để tìm ra bản chất của các
việc giáo dục KNHĐN cho trẻ mẫu giáo. Cho nên giáo dục KNHĐN cho trẻ muốn
đạt hiệu quả cao cần thông qua trò chơi mà trung tâm là trò chơi ĐVTCĐ.
7.1.2. Tiếp cận hệ thống
Giáo dục KNHĐN cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi cần phải xem xét một cách có hệ
thống từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao để thấy được quá trình
giáo dục KNHĐN từ mục tiêu, nội dung đến các cách thức tiến hành giáo dục trẻ.
Đồng thời, cần xem xét việc giáo dục KNHĐN trong trò chơi ĐVTCĐ trong toàn bộ
chương trình GDMN hiện hành.
7.1.3. Tiếp cận phát triển
Mỗi giai đoạn phát triển đều có tiền đề phát triển từ giai đoạn trước vì vậy, cần

tổ chức các hoạt động giáo dục hướng tới "vùng phát triển gần nhất" của trẻ để giúp
trẻ đạt được những năng lực cao hơn. Trong khi nghiên cứu xây dựng các biện pháp
giáo dục KNHĐN trong trò chơi ĐVTCĐ cho trẻ 5-6 tuổi luận án phải dựa trên sự
phát triển chung của trẻ và sự phát triển KNHĐN của trẻ 5-6 tuổi.


12
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
7.2.1.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích, tổng hợp các tài liệu trong và
ngoài nước về trẻ mẫu giáo, về KNHĐN của trẻ mẫu giáo, giáo dục KNHĐN cho
trẻ mẫu giáo trong trò chơi ĐVTCĐ.
7.1.1.2. Phương pháp hệ thống hóa, khái quát hóa lí luận: Hệ thống hóa các quan
điểm và lí thuyết giáo dục KNHĐN có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xác định
hệ thống khái niệm và quan điểm, xây dựng khung lí thuyết, đường lối phương pháp
luận và thiết kế điều tra, thiết kế thực nghiệm khoa học.
7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.2.1. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi ở trường
mầm non làm cơ sở đề xuất một số biện pháp giáo dục KNHĐN cho trẻ 5 – 6 tuổi
trong trò chơi ĐVTCĐ.
7.2.2.2. Phương pháp chuyên gia
Thu thập ý kiến của các chuyên gia về các tiêu chí đánh giá, các bài tập khảo
sát; tính khả thi và tính hiệu quả của các biện pháp giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6
tuổi trong trò chơi ĐVTCĐ ở trường mầm non.
7.2.2.3. Phương pháp điều tra viết
Sử dụng phiếu điều tra bằng bảng hỏi (Anket) đối với GVMN nhằm tìm hiểu
nội dung, phương pháp, hình thức, biện pháp, các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục
KNHĐN cho trẻ từ 5-6 tuổi trong trò chơi ĐVTCĐ tại một số trường mầm non,
đánh giá kết quả giáo dục KNHĐN cho trẻ từ 5-6 tuổi trong trò chơi ĐVTCĐ tại

một số trường mầm non.
7.2.2.4. Phương pháp quan sát
- Quan sát trẻ và hoạt động của trẻ: Quan sát để đánh giá mức độ biểu hiện
KNHĐN của trẻ 5-6 tuổi trong trò chơi ĐVTCĐ ở một số trường mầm non.
- Quan sát hoạt động của giáo viên (GV) trong quá trình tổ chức trò chơi
ĐVTCĐ cho trẻ từ 5 - 6 tuổi nhằm tìm hiểu những biện pháp giáo dục KNHĐN mà
GV đã sử dụng.


13
7.2.2.5. Phương pháp phòng vấn sâu
Phỏng vấn sâu GV, CBQL nhằm tìm hiểu việc giáo dục KNHĐN cho trẻ từ 5-6
tuổi trong trò chơi ĐVTCĐ được tổ chức, hướng dẫn như thế nào ở trường mầm non.
7.2.2.6. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
- Nghiên cứu sản phẩm của GV để tìm hiểu thực trạng sử dụng các biện pháp
giáo dục KNHĐN của GVMN hiện nay, phân tích sản phẩm của trẻ để đánh giá
mức độ KNHĐN của trẻ thông qua các tiêu chí đánh giá.
- Nội dung nghiên cứu: kế hoạch, giáo án, những ghi chép của GV, sản phẩm
hoạt động chơi của trẻ
- Thu thập các mẫu sản phẩm của GV (kế hoạch tổ chức trò chơi) sản phẩm
của trẻ; phân tích chương trình và tài liệu nghiệp vụ hướng dẫn tổ chức trò chơi
ĐVTCĐ cho trẻ 5 - 6 tuổi.
7.2.2.7. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng tính khả thi của các biện pháp đề
xuất. Tiến hành thực nghiệm một số biện pháp giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi
trong trò chơi ĐVTCĐ đã đề xuất đối với nhóm trẻ thực nghiệm. Còn nhóm đối
chứng giữ nguyên không tác động, sau đó so sánh kết quả của nhóm thực nghiệm
với nhóm đối chứng và rút ra kết luận.
7.2.3. Phương pháp xử lí số liệu
Xử lí kết quả bằng phương pháp thống kê toán học với sự trợ giúp của phần

mềm SPSS.
8. Những luận điểm bảo vệ
8.1. Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi đã có KNHĐN trong trò chơi ĐVTCĐ.
8.2. Trò chơi ĐVTCĐ là môi trường giáo dục có nhiều thuận lợi cho việc giáo
dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
8.3. GV giữ vai trò là người tổ chức, hướng dẫn trẻ trong trò chơi ĐVTCĐ tạo cơ
hội, điều kiện để giáo dục và phát triển KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.


14
9. Đóng góp mới của luận án
9.1. Đóng góp về mặt lí luận
Bổ sung và làm phong phú thêm lí luận về giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi
trong trò chơi ĐVTCĐ ở trường mầm non, trong đó trọng tâm là các khái niệm về
giáo dục KNHĐN cho trẻ, vai trò của trò chơi ĐVTCĐ đối với việc giáo dục
KNHĐN cho trẻ, đặc điểm KNHĐN của trẻ, biện pháp giáo dục KNHĐN cho trẻ
trong trò chơi ĐVTCĐ.
9.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
- Cung cấp tư liệu về thực trạng giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi trong trò
chơi ĐVTCĐ ở trường mầm non tại tỉnh Đắk Lắk, từ đó giúp các trường mầm non
có cơ sở để điều chỉnh quá trình giáo dục kịp thời.
- Các biện pháp giáo dục KNHĐN rẻ 5-6 tuổi trong trò chơi ĐVTCĐ ở trường
mầm non được đề xuất là một tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác nghiên cứu,
đào tạo, bồi dưỡng GVMN ở khu vực Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.
Ngoài ra có thể vận dụng sáng tạo các biện pháp này ở các trường mầm non có điều
kiện giáo dục tương đương để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục trẻ.
10. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị và danh mục tài liệu tham khảo nội
dung luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan và cơ sở lí luận về giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi

trong trò chơi ĐVTCĐ ở trường mầm non
Chương 2: Thực trạng giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi trong trò chơi
ĐVTCĐ ở trường mầm non
Chương 3: Biện pháp giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi trong trò chơi
ĐVTCĐ ở trường mầm non.


15
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC KĨ NĂNG HOẠT
ĐỘNG NHÓM CHO TRẺ 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI
ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ Ở TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Các nghiên cứu về KNHĐN nói chung và KNHĐN cho trẻ mẫu giáo nói riêng
ở trong và ngoài nước được nghiên cứu theo các hướng nghiên cứu sau:
1.1.1. Những nghiên cứu về kĩ năng hoạt động nhóm
1.1.1.1. Nghiên cứu vai trò của hoạt động nhóm đối với trẻ em nói chung và trẻ mẫu giáo
nói riêng
Các nghiên cứu chỉ ra vai trò của hoạt động nhóm giúp trẻ em tự tin, năng
động và làm việc hiệu quả.
Theo John Dewey - người đã đề xướng ra các hình thức hoạt động hợp tác
học tập trong lớp học: Khi trẻ giao tiếp và hoạt động cùng với nhóm bạn, trẻ sẽ
hứng thú và học được nhiều điều thú vị, tích lũy được vốn kinh nghiệm cho bản
thân, vì vậy, con người cần sống và làm việc cùng nhau [78, tr.123].
J.Piaget cho rằng tương tác “bạn bè” có vai trò quan trọng trong việc phát triển
nhận thức của trẻ. Khi trẻ cộng tác với nhau để thực hiện nhiệm vụ chung sẽ nảy
sinh những mâu thuẫn, lúc này trẻ cần cùng nhau giải quyết, nhờ đó kĩ năng giao
tiếp, trí tuệ của trẻ ngày một phát triển phong phú hơn.[105].
JaQues D. khẳng định rằng: Trẻ muốn có cơ hội học hỏi và phát triển các năng
lực xã hội toàn diện thì trẻ phải chơi với bạn cùng lớp, chơi với nhóm nhiều độ tuổi,

nhiều thế hệ...[86].
Ngoài ra, các tác giả Hansen và Kaufmann (2000) cho rằng sự hợp tác của trẻ
5 tuổi ở trường mẫu giáo giúp trẻ: cảm thấy tốt, phát triển tính sáng tạo và cảm giác
năng suất hiệu quả, phát triển chiến lược đối phó với các vấn đề của cuộc sống, phát
triển cảm giác hạnh phúc và cảm nhận mình thuộc về nơi nào đó. Trẻ học được những
kĩ năng mới, vui chơi, cười, thư giãn, làm quen với nhau và tương tác với nhau trong
quá trình hoạt động trong nhóm [83, tr.89].
Tác giả Hoàng Thị Mai đã định nghĩa “hoạt động nhóm là sự phối hợp và hoạt
động cùng nhau của một nhóm trẻ trong một hoạt động nào đó”. Đồng thời, tác giả


16
chỉ rõ vai trò của GV khi hướng dẫn trẻ học tập, xác định các kĩ năng cần thiết của
trẻ khi tham gia vào nhóm hoạt độn nhằm phát triển các kĩ năng như kĩ năng giao
tiếp, chia sẻ thông tin [33, tr.61].
Nhìn chung, các tác giả trên đều cho rằng KNHĐN có vai trò quan trọng trong
quá trình giáo dục trẻ, giúp trẻ thích ứng trong các mối quan hệ, cùng bạn chia sẻ,
giúp đỡ và tương tác với nhau.
1.1.1.2. Nghiên cứu về khái niệm kĩ năng hoạt động nhóm
Lisa Trumbauer [99], Janet R. Moyles [85], Kristina R. Olson [97], Cao Thị
Cúc [7]... chỉ rõ KNHĐN là kĩ năng hành động phối hợp cùng người khác bao gồm:
biết bàn bạc, phân chia trách nhiệm cho nhau và cùng cố gắng hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Trong nhóm chơi, mỗi trẻ cần nhận thức rõ vị trí và vai trò của mình,
biết làm chủ hành vi của bản thân, hiểu và phục tùng quy định của nhóm để nhằm
đạt được mục tiêu chung. Đây là cơ sở để nhìn nhận KNHĐN là các kĩ năng phối
hợp của con người nhằm đạt được mục đích và kết quả chung có giá trị. Sự phối
hợp, thỏa thuận của các thành viên của tác động qua lại tồn tại từ thời điểm tiếp
nhận mục đích hoạt động cùng nhau và kết thúc ở giai đoạn đạt được kết quả.
Newman, Richard S. [104] chỉ rõ KNHĐN là kĩ năng biết bàn bạc, phân chia
trách nhiệm cho nhau và cùng cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao; mỗi trẻ

nhận thức rõ vị trí và vai trò của mình trong nhóm, biết làm chủ hành vi của bản
thân, hiểu và phục tùng quy định của nhóm…
Tác giả Nguyễn Hữu Châu đã đề cập đến hình thức học tập theo nhóm nhỏ,
trong đó ông chỉ ra học tập hợp tác theo nhóm nhỏ là sử dụng nhóm nhỏ để học sinh
được cùng nhau làm việc, qua đó phát huy tối đa kết quả học tập của bản thân. Ông
cũng cho rằng, nhờ học tập theo nhóm nhỏ mà vấn đề học tập trở nên bớt phức tạp
hơn so với học tập cá nhân, bởi mỗi thành viên trong nhóm phải biết đưa ra quyết
định, xây dựng lòng tin, giải quyết mâu thuẫn để tìm ra tri thức cho bản thân [4].
Tựu chung lại, các nghiên cứu đều cho rằng KNHĐN là cùng chung suy nghĩ,
hành động phối hợp của các thành viên trong nhóm chơi, dựa trên sự hiểu biết lẫn
nhau và cảm xúc chung đối với kết quả hoạt động cùng nhau hướng đến việc giải
quyết các nhiệm vụ khác nhau trong nhóm chơi.
1.1.2. Những nghiên cứu về giáo dục kĩ năng hoạt động nhóm cho trẻ mẫu giáo


17
- Nghiên cứu các điều kiện, phương tiện để giáo dục KHĐN cho trẻ mẫu giáo
Trong nghiên cứu của tác giả Mcguckin và các cộng sự [110, tr. 131] đã chỉ ra
các nhóm trẻ được được hoạt động trong các góc hoạt động. Đó là những khu vực
riêng biệt dành riêng trong lớp được thiết kế đặc biệt cho việc học tập tương tác
nhóm nhỏ, ở đấy trẻ được tương tác với nhau. Mỗi góc hoạt động được GV trang bị
phát triển tài liệu học tập và các hoạt động được thiết kế để giảng dạy hoặc củng cố
một kĩ năng cụ thể hoặc khái niệm. GV thiết kế các tài liệu và hoạt động có thể có
nhiều góc khác nhau. Số lượng các góc hoạt động được thiết lập trong lớp học có
thể ba hoặc bốn khu vực. Điều này sẽ cho phép trẻ chuyển động trong lớp học được
thuận lợi. Trẻ được xếp vào các nhóm nhỏ, đánh số đến bốn hoặc năm, xoay từ khu
vực này sang khu vực khác, vì mỗi hoạt động cần phải được hoàn thành. GV sẽ là
người lập kế hoạch và người hướng dẫn các khu vực hoạt động. Sau khi hướng dẫn
cho mỗi hoạt động của trẻ, GV nên cố gắng hỗ trợ cho phép trẻ hoàn thành các hoạt
động tại mỗi khu vực.

R. E. Slavin [115] chỉ ra rằng, để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát triển
KNHĐN một cách hiệu quả cần đảm bảo các điều kiện cụ thể như: Xác định rõ: Số
thành viên của mỗi nhóm? Vai trò, nhiệm vụ của từng thành viên trong nhóm?
Những điều kiện để duy trì mối quan hệ tích cực trong nhóm? Các thành viên trong
nhóm cần được làm quen với nhau để có thể giao tiếp thoải mái cùng nhau; Đảm
bảo các phương tiện, điều kiện cần thiết để duy trì sự hợp tác trong nhóm; Những
vấn đề đưa ra thảo luận trong nhóm phải thực sự rõ ràng và cấp thiết, thu hút được
sự quan tâm của mọi người; Có sự giám sát thường xuyên quá trình hoạt động của
nhóm: chỉ dẫn và giúp đỡ khi cần thiết sao cho mỗi thành viên tuân thủ nghiêm túc
những nội quy chung trong quá trình làm việc; Đánh giá chính xác hiệu quả hoạt
động nhóm nhằm khẳng định những ưu điểm và chỉ ra thiếu sót, hạn chế, từ đó xây
dựng kế hoạch để trẻ cùng nhau tự điều chỉnh và hoàn thiện ở lần làm việc tiếp
theo.
- Nghiên cứu về yêu cầu đối với GV trong việc tổ chức giáo dục KNHĐN cho
trẻ mẫu giáo.
Qua thực tế tổ chức hoạt động nhóm của bản thân và đồng nghiệp, Edgar H.
Schein [81] cho rằng, để rèn luyện ở người học kĩ năng làm việc nhóm, GV cần giúp
trẻ xác định được vị trí, vai trò và trách nhiệm của họ trong nhóm. Trong một nhóm


18
hoạt động, tùy vào khả năng và nhu cầu riêng mà mỗi thành viên có thể giữ một
trong các vai trò như: người quản trị hành chính (chịu trách nhiệm về phương tiện
làm việc của nhóm); người lãnh đạo nhóm (biết tập hợp các thành viên để cùng
hướng tới mục tiêu chung, đảm bảo cho nhiệm vụ được hoàn thành đúng tiến độ…);
người “khích lệ tinh thần” của nhóm; thư ký nhóm; kiểm soát viên; báo cáo viên.
Quá trình hình thành KNHĐN là quá trình chuyển vào trong nhờ có quan hệ
với người xung quanh và hợp tác với bạn bè. Theo thuyết “sự hợp tác tập thể” của
L.X. Vưgôtxky (1934): “Trong sự phát triển của trẻ, mọi chức năng tâm lí cao cấp
đều xuất hiện hai lần: lần thứ nhất như là một hoạt động tập thể, một hoạt động xã

hội; lần thứ hai như là một hoạt động cá nhân, như là một chức năng tâm lí bên
trong” [60, tr.178]. Dạy học chỉ có hiệu quả đối với việc thúc đẩy sự phát triển khi
tác động của nó nằm ở "vùng phát triển gần" của học sinh. Phải làm sao kích thích và
thức tỉnh quá trình chuyển vào trong và hoạt động bên trong của đứa trẻ. Những quá
trình như vậy chỉ xảy đến khi có quan hệ với những người xung quanh và sự hợp tác
với bạn bè. Các quá trình hướng vào trong này sẽ tạo nên những kết quả bên trong
của bản thân trẻ.
Theo Lê Thu Hương và Phạm Mai Chi [25] để tạo ra sự phối hợp giữa cá nhân
trẻ và nhóm, GV cần: Nắm được nhu cầu, hứng thú, khả năng nhận thức, năng lực
hành động của trẻ, trên cơ sở đó kịp thời điều chỉnh các tác động phù hợp với nhóm
và từng trẻ; Tạo điều kiện cho trẻ trao đổi, thảo luận những ý kiến, suy nghĩ với nhau;
hướng dẫn trẻ hợp tác cùng nhau, giúp nhau hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Nguyễn Thị Thu Hà [10] khi bàn về tổ chức giáo dục theo tiếp cận hợp tác ở
trường mầm non đã khẳng định: cần chú ý tới quy mô nhóm, các yêu cầu của hoạt
động nhóm và đánh giá kết quả hoạt động nhóm. Hình thành kĩ năng hoạt động theo
nhóm ở trẻ cần đảm bảo các yêu cầu cụ thể sau: Số lượng thành viên trong nhóm
không nên quá nhiều, chỉ từ 3-4 trẻ là phù hợp nhất. Nếu khối lượng công việc
nhiều thì có thể tăng lên 5 trẻ; GV xác định những mục tiêu mà hoạt động nhóm cần
đạt được (nhiệm vụ của nhóm và thành viên, cách thực hiện nhiệm vụ); Khi tổ chức
cho trẻ hoạt động, GV phải đảm bảo các thành viên trong nhóm nắm được mục tiêu
của nhóm, tạo cơ hội để trẻ được nói lên những thắc mắc hoặc mong muốn về việc
mình sẽ thực hiện; Giám sát nhóm, kiểm tra sự tiến bộ của cá nhân trong nhóm và của cả
nhóm; Đánh giá cá nhân và đánh giá nhóm.


19
Như vậy phần lớn các nghiên cứu đã chỉ ra rằng: khi tổ chức hoạt động nhóm cho
trẻ cần quan tâm đến qui mô nhóm, xác định mục tiêu, nhiệm vụ của nhóm, phân công
nhiệm vụ rõ ràng cho từng thành viên, từng thành viên nắm được nhiệm vụ của mình và
phối hợp thực hiện nhiệm vụ chung của nhóm, giải quyết bất đồng xảy ra trong nhóm.

- Nghiên cứu về phương pháp, hình thức giáo dục KNHĐN cho trẻ mẫu giáo
Rachel Harrar đã chú ý đến việc hình thành KNHĐN cho trẻ bằng các
phương pháp, biện pháp dạy học thích hợp. Theo ông GV cần tạo điều kiện cho trẻ
tự chọn bạn học nhóm và giải tán nhóm. Điều này giúp trẻ có những nhận định khi
nhận xét về các bạn và được nghe các bạn nhận xét về chính hoạt động của mình,
từ đó người học [106]. v
Kurt Lewin [98, tr.126] đề ra “thuyết phụ thuộc lẫn nhau trong lịch sử xã hội”
hay còn gọi là thuyết tương tác xã hội” dựa trên cơ sở của Kurt Koffka, người đã đề
ra khái niệm “Nhóm là phải có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên”. Ông
nhấn mạnh muốn hình thành các nhóm thì cần phải tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau của
các thành viên. Đặc biệt ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cách thức ứng xử
trong nhóm khi nghiên cứu hành vi của các nhà lãnh đạo và thành viên trong các
nhóm dân chủ. Ông đã đi đến kết luận rằng đề hoàn thành mục tiêu chung của một
nhóm thì phải thúc đẩy sự hoạt động nhóm, phải có sự cạnh tranh.
Nguyễn Hữu Châu [5] cho rằng: "dạy học hợp tác là việc sử dụng các nhóm
nhỏ để học sinh làm việc cùng nhau nhằm tối đa hóa kết quả học tập của bản thân
cũng như của người khác". Học tập hợp tác dựa vào ba loại nhóm, đó là: chính thức,
không chính thức và nhóm học tập nền tảng. "Nhóm hợp tác chính thức gồm những
học sinh cùng nhau làm việc để đạt được các mục tiêu chung bằng cách đảm bảo
rằng mỗi thành viên của nhóm đều hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Nhóm học
hợp tác không chính thức là những nhóm đặc biệt, không theo thể thức cố định nào,
có thể tồn tại trong vài phút đến một tiết học. Các nhóm học tập nền tảng thường
kéo dài (ít nhất đến một năm), gồm nhiều thành phần hỗn hợp, số thành viên ổn
định và mục đích căn bản là để các thành viên ủng hộ, khuyến khích lẫn nhau nhằm
đạt được thành công trong học tập. Các nhóm hợp tác nền tảng tạo cho học sinh mối
quan hệ mật thiết trong thời gian dài, cho phép các thành viên có điều kiện giúp đỡ,
khuyến khích và hỗ trợ lẫn nhau trong thực hiện các nhiệm vụ học tập để đạt được
kết quả tối ưu".



20
Một số tác giả khác nghiên cứu về tổ chức các hoạt động để hình thành
KNHĐN đạt hiệu quả cho trẻ mẫu giáo như Nguyễn Thị Xuân Yến, Cao Thị Cúc,
Phạm Mai Chi, Lê Thu Hương, Trần Thị Thanh…
Nguyễn Thị Xuân Yến [66] đã đưa ra một số biện pháp giúp trẻ làm việc theo
nhóm hiệu quả như cần tăng cường sự giám sát của GV, tăng cường tính chủ động của
trẻ và các mối quan hệ của trẻ với các bạn xung quanh.
Cao Thị Cúc (2009) cho rằng trẻ 5-6 tuổi đã có các kĩ năng hợp tác cơ bản khi
tham gia vào các hoạt động chung của lớp mẫu giáo như cùng bạn thỏa thuận về
chủ đề chơi, nội dung chơi, phân vai chơi cho nhau ... , tuy nhiên tác giả cho rằng
các kĩ năng này chưa được hình thành đầy đủ và bền vững. Các kĩ năng này cần
được rèn luyện trong nhóm bạn bè thông qua trò chơi ĐVTCĐ ở trường mầm non,
cụ thể là thông qua các trò chơi như: trò chơi đóng vai có chủ đề, trò chơi xây dựng lắp
ghép, trò chơi vận động ... [7, tr. 22].
Như vậy, dù cách diễn đạt có phần khác nhau, song các tác giả đều cho rằng,
hình thức, phương pháp để giáo dục KNHĐN cho trẻ là sử dụng hoạt động nhóm,
cho trẻ tương tác với nhau theo nhóm, qua đó trẻ hỗ trợ, giúp đỡ nhau để hoàn thành
mục đích chơi.
- Nghiên cứu về quy trình tổ chức hoạt động nhóm cho trẻ mẫu giáo
Tác giả Slavin R. E. [114, tr.164] đã đưa ra 2 giai đoạn giáo dục KNHĐN cho
trẻ trong các hoạt động ở trường mầm non. Giai đoạn 1: cần tập trung chú ý tới việc
mở rộng khái niệm của trẻ mẫu giáo lớn về bạn cùng lứa như một đối tác thực hiện
hoạt động chung, trong môi trường củng cố những tiếp xúc tích cực về mặt cảm xúc
giữa trẻ, tăng cường mong muốn và sự hứng thú hợp tác của trẻ, cũng như phát triển
cho trẻ những kĩ năng cá nhân, cần thiết để thực hiện sự hợp tác trong quá trình hoạt
động chung trên lớp. Giai đoạn 2 bao gồm 3 cấp độ, trong mỗi cấp độ diễn ra sự
nắm bắt của trẻ với từng mô hình nhất định: phối hợp - cá nhân, phối hợp - nối tiếp,
phối hợp - tương tác (theo nguyên tắc tăng dần độ phức tạp). Sự phát triển tiếp theo
của trẻ với bạn cùng lứa cần đảm bảo khả năng cao để trẻ tự lựa chọn mô hình hoạt
động nhóm, theo cách riêng biệt hoặc phối hợp sử dụng các mô hình trong quá trình

cũng giải quyết những nhiệm vụ khác nhau được giao trên lớp. Trong quá trình đó
chúng ta cần xem xét đặc điểm làm việc với trẻ mẫu giáo lớn trong từng giai đoạn
thì mới đưa ra các tác động phù hợp và đạt hiệu quả.


21
Foyle và Lyman (1988) [82, tr.93] xác định các bước cơ bản liên quan đến
việc thực hiện thành công các hoạt động nhóm trong hoạt động học tập như: GV xác
định nội dung được giảng dạy, và các tiêu chí xác định trẻ có thể làm chủ được
những nội dung đó; GV xác định được phương pháp học tập hợp tác hiệu quả nhất,
và kích thước/ quy mô của nhóm; trẻ được chia thành các nhóm; Lớp học được sắp
xếp để tạo thuận lợi cho sự tương tác giữa các nhóm; Các quy trình thực hiện sẽ được
dạy hoặc được đánh giá khi cần thiết để đảm bảo rằng các nhóm hoạt động được
thực hiện trôi chảy.
Như vậy, quy trình tổ chức hoạt động nhóm cho trẻ mẫu giáo được thực hiện
thông qua các giai đoạn, các bước cụ thể. Ở mỗi giai đoạn, mỗi bước lại có những
yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể.
1.1.3. Nghiên cứu giáo dục kĩ năng hoạt động nhóm cho trẻ mẫu giáo trong trò
chơi đóng vai theo chủ đề
- Nghiên cứu vai trò của trò chơi ĐVTCĐ trong giáo dục KNHĐN cho trẻ mẫu giáo
LX. Vưgotxky (1978), nhà tâm lí học người Nga, đã khởi xướng lí thuyết về
văn hóa xã hội, cho rằng: "yếu tố xã hội và văn hóa tác động đến sự phát triển nhận
thức của trẻ em". Đồng thời, ông nhấn mạnh hoạt động chơi, giúp trẻ phát triển các
kĩ năng xã hội. Thông qua trò chơi trẻ sẽ biết cách giao tiếp, chia sẻ... Theo
Vưgotsky, GV cần động viên trẻ hỗ trợ lẫn nhau trong khi chơi và nâng cao nhận
thức cho trẻ thông qua các hoạt động khám phá. Nhờ đó trẻ sẽ có cơ hội để hoạt
động trong “vùng phát triển gần nhất”. Những kĩ năng chưa phát triển ở trẻ sẽ được
thúc đẩy khi chúng cùng nhau làm việc [60].
Bên cạnh đó, các tác giả A.N.Leonchiev, L.X.Vưgotxky, D.B.Enconhin, cũng
nhấn mạnh đến tính hợp tác trong khi chơi là hình thức hợp tác đầu tiên của hoạt

động hợp tác sau này ở trẻ. Trò chơi có một ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc sống
của trẻ...[30]. Chính các kĩ năng trẻ được giáo dục qua trò chơi sẽ ảnh hưởng đến sự
hình thành những kĩ năng làm việc của trẻ trong tương lai. Nói cách khác, là có sự
chuyển dịch dần từ kĩ năng tham gia vào các trò chơi của trẻ mầm non sang kĩ năng
thực hiện các hoạt động trong học tập của học sinh và hoạt động làm việc trong cuộc
sống thực tiễn sau này. Vì vậy có thể nói “chơi là trường học của cuộc sống” [55] và
các nhà giáo dục sử dụng chính các hoạt động giáo dục của trẻ ở trường mầm non là


22
con đường, cách thức hiệu quả để giáo dục các kĩ năng xã hội cho trẻ nói chung và
KNHĐN cho trẻ mầm non (A.N.Leonchiev, L.X.Vưgotxky, D.B.Enconhin, …).
Các tác giả đều cho rằng qua chơi, trẻ sẽ tích lũy được kinh nghiệm về các mối
quan hệ với bạn và mọi ngươi xung quanh từ đó bước vào cuộc sống thực và hình
thành kĩ năng giao tiếp, hợp tác, đoàn kết… một cách bền vững. Trong trò chơi "trẻ
dễ dàng phối hợp hành động, thiết lập được các mối quan hệ bạn bè". Theo các tác
giả "chơi là hình thức hoạt động chủ yếu hình thành hành vi xã hội của trẻ, hình thành
thái độ của trẻ đối với cuộc sống và mọi người xung quanh". Đó là phương tiện hình
thành và phát triển những kĩ năng xã hội, sự hợp tác của trẻ mẫu giáo. Các nhà giáo
dục K.D.Usinxki, A.P.Uxova [59], cũng đã khẳng định trò chơi ĐVTCĐ chính là cơ
hội thuận lợi cho trẻ em thể hiện kĩ năng hoạt động hợp tác. Chính trong quá trình
chơi, trẻ dễ dàng lĩnh hội được một số kinh nghiệm văn hóa xã hội, là hình thức tổ
chức cuộc sống, là phương tiện để hình thành xã hội trẻ em và làm nảy sinh các mối
quan hệ bạn bè. Khi chơi trẻ biết kết hợp quyền lợi của cá nhân với quyền lợi của
nhóm và đôi khi trẻ biết hy sinh ý muốn của mình về lợi ích chung của nhóm.
P.G. Xamarukova [61] đã chỉ ra mối quan hệ thực và quan hệ chơi của trẻ
trong trò chơi đã tạo điều kiện để trẻ nắm bắt được những phương diện khác nhau
của các mối quan hệ. Trong đó quan hệ thực (quan hệ được hình thành do duyên cớ
của trò chơi) tạo điều kiện để hình thành ở trẻ những động cơ. Còn quan hệ chơi
(quan hệ giữa các vai) là giai đoạn vật chất đặc biệt để mô hình hóa môi trường của

các mối quan hệ qua lại giữa con người, tạo điều kiện cho trẻ được rèn luyện, điều
chỉnh hành vi của mình theo những chuẩn mực xã hội. Công trình nghiên cứu về trò
chơi của tập thể cán bộ nghiên cứu giáo dục mẫu giáo trường Đại học dưới sự lãnh
đạo của A.P.Uxôva đã chỉ rõ sự hiện diện của hai loại quan hệ trong quá trình chơi.
Một loại quan hệ được xác định bởi nội dung trò chơi (quan hệ giữa các vai chơi).
Loại quan hệ khác đó là những mối quan hệ thực mà các cháu quan hệ với nhau,
bạn bè, thoả thuận với nhau về trò chơi, về phân vai chơi… A.P.Uxôva [59] cho
rằng những mối quan hệ đi kèm trò chơi là cơ sở để hình thành xã hội trẻ em. Chính
xã hội trẻ em đã tác động mạnh mẽ đến việc hình thành KNHĐN ở trẻ.
D.B.Encônhin đã xác định được thành phần cấu trúc của trò chơi và sự phát triển
của nó ở lứa tuổi Mầm non. Ông nhấn mạnh đến tính xã hội trong trò chơi. Những


23
nghiên cứu này là cơ sở để sử dụng trò chơi trong việc giáo dục các loại kĩ năng cho
trẻ mẫu giáo. Các tác giả đều cho rằng trò chơi thúc đẩy các mối quan hệ của trẻ ở
trường lớp và với mọi người xung quanh. Vì vậy, một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến trò chơi của trẻ em là môi trường xã hội ở xung quanh trẻ.
A.I. Xôrôkina [63], A.N.Leonchiev [30], A.P.Uxôva [59] đều khẳng định trò
chơi là hình thức hoạt động, là con đường chủ yếu để hình thành hành vi xã hội của
bản thân trẻ và hình thành thái độ của các em đối với cuộc sống và đối với nhau.
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết [54] đã phân tích vai trò chủ đạo của trò chơi
ĐVTCĐ đối với việc hình thành và phát triển nhân cách như tính chủ định, phẩm
chất ý chí, ngôn ngữ, tưởng tượng, phát triển những phẩm chất đạo đức hành vi phù
hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội. Chính thông qua trò chơi trẻ đã học được
cách làm người. Đồng thời tác giả cũng khẳng định vai trò của người lớn trong việc
hướng dẫn trẻ lựa chọn nội dung cho trẻ chơi, hướng dẫn cho trẻ chơi.
Tác giả Ngô Công Hoàn [16] đã khẳng định vui chơi là hoạt động của trẻ Mẫu
giáo và việc thay đổi vai chơi linh hoạt, mềm dẻo trong các trò chơi là cơ sở, nền tảng
phát triển đặc điểm ứng xử hợp lí theo tình huống, hoàn cảnh sau này của trẻ, tạo cơ

hội giúp trẻ phối hợp với nhau tốt hơn.
Tác giả Trần Thị Trọng [56] đã coi trò chơi là con đường, là hình thức quan
trọng để giáo dục hình thành ở trẻ những phẩm chất đạo đức, những hành vi xã hội.
Sự phối kết hợp giữa các thành viên trong nhóm chơi là nền tảng giúp trẻ hoàn
thành tốt vai chơi trong trò chơi.
Đặc biệt theo tác giả Lê Minh Thuận [51] trong cuốn “Trò chơi ĐVTCĐ và
việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ Mẫu giáo”, trò chơi ĐVTCĐ là
phương tiện hữu hiệu để giáo dục lòng nhân ái - một phẩm chất cơ bản của nhân
cách con người Việt Nam nếu người lớn biết tổ chức hướng dẫn trẻ chơi một cách
hợp lí và khoa học.
Theo Hoàng Mai [32]“Hoạt động chơi cùng nhóm sẽ giúp trẻ hình thành kĩ
năng hợp tác, kĩ năng giao tiếp, giúp trẻ biết đồng cảm, chia sẻ với nhau trong hoạt
động. Cũng qua đó các quan hệ xã hội của trẻ được thiết lập bao gồm cả quan hệ
thực và quan hệ chơi".


24
Tóm lại, các nghiên cứu trên đã cho thấy trò chơi ĐVTCĐ mang tính xã hội,
có vai trò nghĩa quan trọng để hình thành ở trẻ những phẩm chất và năng lực cho
trẻ. Thông qua các mối quan hệ trong trò chơi, trò chơi chính là hình thức, con
đường, phương tiện hiệu quả để phát triển nhân cách của trẻ đặc biệt là hình thành
và phát triển ở trẻ KNHĐN.
Nghiên cứu về vai trò của GV trong việc giáo dục KNHĐN cho trẻ 5-6 tuổi
J.Piaget, M.Parten [105, tr. 219] và một số tác giả khác cho rằng GV cần phải
dựa vào đặc điểm của các loại trò chơi từ đó tổ chức các nhóm chơi có hiệu quả.
Các tác giả quan tâm nghiên cứu theo hai hướng: phân loại trò chơi của trẻ trong
đời sống cá thể và phân loại trò chơi của trẻ dựa trên mối quan hệ xã hội:
- Theo hướng thứ nhất. J.Piaget (1960/1965) cho rằng các loại trò chơi lần lượt
xuất hiện trong đời sống cá thể là: trò chơi – hành động chức năng, trò chơi tượng
trưng, trò chơi với các quy tắc. Ở nhóm trò chơi này, GV có thể hướng dẫn trẻ hợp

tác, chia sẻ, phối hợp với bạn để thực hiện các vai chơi hiệu quả [105].
- Theo hướng thứ hai, Brookfirld S. D xem xét sự phát triển và phân loại trò
chơi trẻ em trên bình diện các mối quan hệ xã hội. Theo bà, trò chơi của trẻ phải trải
qua 5 giai đoạn cũng là 5 kiểu quan hệ xã hội, đó là chơi một mình, chơi và quan sát
người khác chơi, chơi song song với người khác, chơi có có liên kết với người khác
và chơi hợp tác với người khác. Nghiên cứu của Parten không chỉ bổ sung thêm một
cách phân loại trò chơi trẻ em mà còn làm nổi bật quan hệ xã hội, tương tác, phối
hợp của trẻ trong khi chơi [71]. Ở nhóm trò chơi này, GV cần xác định được cụ thể
các trò chơi của trẻ đã phát triển đến kiểu chơi nào để từ đó giúp trẻ có mối liên kết
chặt chẽ và hợp tác hiệu quả với người khác.
Mặt khác để giúp trẻ phát triển KNHĐN, GV cần phát triển các mối quan hệ
khi chơi. Theo JaQues D. (1991), Goldstein (1996), trong quá trình chơi, trẻ phát
triển nhiều mối quan hệ hợp tác, bao gồm bạn cùng lớp và cả người lớn [86].
Như vậy có thể thấy, các nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng để giáo dục KNHĐN
đạt hiệu quả thì vai trò của GV rất quan trọng là người định hướng, giúp trẻ tạo ra
các mối quan hệ chơi, vai chơi, liên kết giữa các nhóm chơi.


25
- Nghiên cứu về cách thức tổ chức trò chơi ĐVTCĐ
Nguyễn Ánh Tuyết [55] chỉ ra rằng, bằng sự phối hợp hành động với nhau
trong những trò chơi, mà đặc biệt là trò chơi ĐVTCĐ, một xã hội trẻ em được hình
thành rất tự nhiên. Trò chơi có khả năng “dính kết” trẻ lại với nhau, tạo cơ hội thực
hành các hành vi hoạt động nhóm. Theo Nguyễn Ánh Tuyết [55];[56], trong hoạt
động cùng nhau, điều quan trọng là trẻ phải biết phối hợp hành động với nhau.
Bước vào tuổi mẫu giáo, trẻ muốn nhập vào những mối quan hệ xã hội, từ đó mà
nảy sinh nhu cầu hoạt động cùng nhau trong nhóm. Tuy vậy, việc phối hợp trong
một trò chơi hay một công việc nào đó đối với trẻ là rất khó khăn, cần phải có sự
hướng dẫn của người lớn. Do vậy để giáo dục KNHĐN cho trẻ đạt hiệu quả, GV
cần hướng trẻ biết phối hợp hành động cùng với nhau để thực hiện một nhiệm vụ

chung. Trên cơ sở nhận định đó, Nguyễn Ánh Tuyết [55];[56] đã đưa ra một số biện
pháp tổ chức nhóm chơi cho trẻ và thiết lập mối quan hệ bạn bè với nhau khi chơi,
như: tạo ra những tình huống buộc trẻ thấy cần phải có sự phối hợp hành động; giúp
trẻ lập kế hoạch chơi; phát huy tính tự quản và tinh thần trách nhiệm của trẻ khi
chơi; dạy trẻ nghĩ tốt về bạn bè và cách giải quyết khi xảy ra xung đột trong quá
trình trẻ chơi.
Dưới góc độ tâm lí học, Lê Xuân Hồng (1996) nghiên cứu về đặc điểm giao tiếp
và trò chơi trong nhóm chơi không cùng độ tuổi, việc hình thành nhóm với các độ tuổi
khác nhau. Các trò chơi được tác giả chọn nghiên cứu đặc điểm giao tiếp của trẻ gồm:
trò chơi ĐVCCĐ, trò chơi xây dựng - lắp ghép, trò chơi học tập và trò chơi vận động.
Qua đó, tác giả phát hiện sự tích cực chủ động hợp tác giữa trẻ với nhau trong vui chơi,
đặc biệt là giữa các trẻ không cùng độ tuổi với nhau. Tác giả khẳng định, trong nhóm
trẻ không cùng độ tuổi, các quan hệ giữa trẻ với nhau được mở rộng, tạo ra nhiều tình
huống muôn màu, muôn vẻ kích thích trẻ giao tiếp, hợp tác với nhau, thúc đẩy nhanh
sự hình thành, phát triển nhân cách [20]. Vì vậy trong quá trình trẻ chơi, GV cần tạo ra
các nhóm chơi phong phú và đa dạng đặc biệt là các nhóm chơi không cùng độ tuổi để
giúp trẻ hình thành và phát triển KNHĐN.
Các tác giả Lê Xuân Hồng [20], Hoàng Mai (2000) [32] đề cập đến việc cần
phát triển các kĩ năng cần thiết cho trẻ mầm non. Trong các kĩ năng cần phát triển
cho trẻ, KNHĐN là một nhiệm vụ trong tâm của ngành mầm non với mục tiêu
chung là thúc đẩy sự phát triển KNHĐN của trẻ bằng cách giúp trẻ học cách hòa


×