Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Báo cáo thực tập tại Ủy Ban Nhân Dân Xã Tân An huyện Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.18 KB, 39 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu...........................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................2
5. Kết cấu của đề tài..............................................................................................3
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH ĐỀ TÀI BÁO CÁO THỰC TẬP.............................4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI.....................................................................................4
1.1. Khái quát về tranh chấp đất đai...................................................................4
1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp đất đai..................................................8
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................15
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ THẨM
QUYỀN CỦA UBND CẤP XÃ..........................................................................16
2.1. Pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai.....................................................16
2.2. Thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp xã trong giải quyết tranh chấp
đất đai..............................................................................................................20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................27
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN................................................................................................................. 28
3.1. Thực tiễn áp dụng.....................................................................................28
3.2. Kiến nghị hoàn thiện.................................................................................32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3........................................................................................35
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................37


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và quan trọng bậc nhất với mỗi quốc
gia; là cơ sở không gian của mọi quá trình sản xuất, là tư liệu sản xuất đặc biệt
trong nông nghiệp, là thành phần quan trọng nhất của môi trường sống, là địa bàn
phân bố các khu dân cư, công trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Đất đai là nguồn tài nguyên có giới hạn về số lượng, là tư liệu sản xuất không gì có
thể thay thế được, đặc biệt là trong nông nghiệp.
Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và
nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp Luật đất đai. Tranh chấp
đất đai hiện đang là vấn đề nóng bỏng thu hút sự quan tâm của dư luận, đây là một
hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội; đặc biệt khi nước ta chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường và thực hiện cơ chế quản lý mới. Tranh chấp đất đai nếu không
được giải quyết nhanh chóng, dứt điểm và kịp thời sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn
định chính trị 1.
Thực tế thời gian qua cho thấy, tranh chấp đất đai là một trong những tranh chấp
xảy ra phổ biến, rất phức tạp và hầu hết phải đưa ra giải quyết bằng con đường Tòa
án. Rất khó để hạn chế tranh chấp, khi tranh chấp xảy ra rồi thì làm thế nào để hòa
giải tranh chấp đó là vấn đề được nhiều cấp chính quyền quan tâm. Hòa giải là một
trong những biện pháp hữu hiệu để giải quyết tranh chấp đất đai, tuy nhiên, điều
đáng nói là pháp luật về hòa giải đối với tranh chấp đất đai hiện nay chưa có sự
thống nhất, chưa có quy định cụ thể, từ đó gây khó khăn cho việc giải quyết tranh
chấp đất đai trên thực tế. Nhưng trước hết tranh chấp đất đai phải qua thủ tục hòa
giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Đây là một khâu hết sức quan trọng, là một bước
đệm cho quá trình giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền và Tòa án. Hoạt động hòa giải tại Ủy ban nhân xã là một trong những nội
dung quan trọng trong quản lý nhà nước về đất đai ở địa phương, đóng vai trò củng

1 Th.S Trần Quang Huy, Giáo trình Luật Đất đai, Nxb. Công an nhân dân Hà Nội, năm 2014, tr.22

1



cố mối quan hệ trong cộng đồng dân cư, góp phần xây dựng tình làng, nghĩa xóm,
tăng cường tình đoàn kết trong nhân dân.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động hòa giải còn nhiều bất cập, chưa giải quyết triệt để
những mâu thuẫn phát sinh. Do đó, cần nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện
hành và thực trạng về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã trong
những năm gần đây, trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung chính
sách, pháp luật về đất đai nhằm nâng cao hiệu quả công tác hòa giải tranh chấp đất
đai tại Ủy ban nhân dân xã, góp phần giữ gìn hài hòa, các mối quan hệ trong xã hội,
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân. Với lý do đó, em đã lựa chọn đề
tài: “Thực hiện hòa giải tranh chấp đất đai tại Uỷ ban nhân dân xã Tân An,
huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai” để làm báo cáo thực tập của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Em nghiên cứu đề tài này với mục tiêu là nghiên cứu các quy định của pháp luật đất
đai về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã, cũng như thực tiễn hòa
giải tranh chấp đất đai tại Uỷ ban nhân dân xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng
Nai. Từ đó, chỉ ra những thiếu sót, tồn tại của pháp luật đất đai năm 2013 và trên cơ
sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật đất đai, nâng cao hiệu quả
công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã.
3. Phạm vi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu này, em tập trung nghiên cứu trong phạm vi những quy định
của pháp luật đất đai liên quan đến công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân xã, thực trạng công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã
và thực tiễn tại Uỷ ban nhân dân xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai trong
những năm gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề đặt ra, em sử dụng một số phương pháp: phân tích; đánh
giá các quy định của Luật đất đai năm 2013, so với tình hình thực tiễn áp dụng vào
công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã; Tổng hợp các tài liệu
liên quan đến hòa giải tranh chấp đất đai; Phương pháp tổng hợp nhằm hoàn thiện


2


pháp luật đất đai hiện hành, nâng cao chất lượng công tác hòa giải tranh chấp đất
đai tại Ủy ban nhân dân xã.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, báo cáo thực tập
tốt nghiệp gồm có 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai.
Chương 2: Pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai và thẩm quyền của Uỷ ban
nhân dân cấp xã.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện.

3


PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH ĐỀ TÀI BÁO CÁO THỰC TẬP
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
1.1. Khái quát về tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai trước hết là tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án,
được quy định tại Khoản 9 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
“Tranh chấp đất đai là thuật ngữ, khái niệm đã trở lên rất phổ biến trong đời sống
xã hội. Thuật ngữ này xuất hiện thường ngày trên các phương tiện thông tin đại
chúng gắn liền với đời sống nhân dân. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển đất nước
với những chính sách đất đai khác nhau, quyền sử dụng đất có được coi là tài sản
đặc biệt hay không, nhưng hiện tượng tranh chấp đất đai đều được pháp luật chính
thức ghi nhận và giải quyết” 2.

Hiện nay, trên thực tế cho thấy còn có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
tranh chấp đất đai cụ thể như:
Tranh chấp đất đai là những tranh chấp về quyền sử dụng đất.
Tranh chấp đất đai là mọi tranh chấp phát sinh trong quan hệ đất đai bao gồm tranh
chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, tranh chấp liên
quan đến địa giới hành chính, mục đích sử dụng đất.
Tuy nhiên, tranh chấp đất đai theo quy định tại Luật đất đai năm 2013 thì: “Tranh
chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc
nhiều bên trong quan hệ đất đai”3. Như vậy, có thể hiểu đối tượng của tranh chấp
đất đai là các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Tức là trong quá trình quản
lý và sử dụng đất, người sử dụng đất sử dụng các quyền và nghĩa vụ của mình làm
2 Th.S Nguyễn Thị Thanh Xuân, Giáo trình Luật Đất đai, Khoa luật, Trường Đại học Cần thơ, năm
2015, tr.36
3 Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013

4


phát sinh tranh chấp với người khác. Còn chủ thể của tranh chấp đất đai là người sử
dụng đất.
Có thể thấy khái niệm tranh chấp đất đai được nêu trong Luật đất đai là một khái
niệm bao hàm cả tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền với
đất, tranh chấp về địa giới hành chính.
Căn cứ theo các quy định này, có thể thấy một số đặc điểm của tranh chấp đất
đai như sau:
Về chủ thể: chủ thể trong quan hệ tranh chấp đất đai phải là người sử dụng
đất (được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận
chuyển quyền sử dụng đất) hoặc người khác có quyền, nghĩa vụ liên quan đến thửa
đất. Trường hợp tranh chấp không phát sinh giữa những chủ thể này với nhau liên
quan đến thửa đất thì đó là quan hệ tranh chấp khác. Ví dụ: tranh chấp phát sinh

giữa người sử dụng đất với Cơ quan có thẩm quyền trong việc giao đất, cho thuê
đất, công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất thì đó là tranh chấp về khiếu kiện
hành chính.
Về khách thể: khách thể trong quan hệ tranh chấp đất đai là quyền sử dụng,
tài sản gắn liền với đất hoặc cả hai. Đối với quyền sử dụng đất thì đây là loại tài sản
đặc biệt vì pháp luật đã quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước sẽ trao lại quyền sử dụng đất cho
người sử dụng đất thông qua các hình thức do pháp luật quy định. Đồng thời quyền
sử dụng đất cũng là tài sản (quyền tài sản) theo quy định của Bộ luật dân sự, vì vậy
quyền sử dụng đất có thể là đối tượng tham gia các giao dịch dân sự.
Về nội dung: quan hệ tranh chấp đất đai có nội dung là sự xung đột, tranh
chấp về các quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với một hoặc nhiều thửa đất
cụ thể.
1.1.2. Điều kiện xuất hiện tranh chấp đất đai

-

 Thứ nhất: Điều kiện chủ quan
Về đường lối chính sách, pháp luật về đất đai:

5


Chính sách đất đai và các chính sách khác có liên quan đến đất đai chưa đồng bộ, có
mặt không rõ ràng và đang còn biến động. Thực tế áp dụng các chính sách đất đai
còn tùy tiện dẫn đến tình trạng: Người có khả năng sản xuất nông nghiệp thì thiếu
ruộng đất, ngược lại, người có ruộng lại không có khả năng hoặc nhu cầu sản xuất,
để đất đai hoang hóa hoặc sử dụng đất kém hiệu quả. Tình trạng người nông dân
phải ra các đô thị bán sức lao động, gây mất ổn định cơ cấu lao động sản xuất cũng
có nguyên nhân từ việc thiếu đất để sản xuất.

Ví dụ: Nếu những năm 2011 trở về trước, việc bỏ hoang ruộng đất mới xảy ra ở một
số tỉnh như Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Bắc Ninh… chủ yếu trên diện tích
chung quanh các doanh nghiệp, khu, cụm công nghiệp, thì hiện nay ở Ninh Bình,
Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hà Nội… ngày càng có nhiều hộ nông dân bỏ
ruộng và làm đơn trả ruộng, kéo nhau ra phố làm ăn. Có những người mặc dù không
“ly hương” nhưng cũng “ly nông”, bỏ ruộng. Trong khi nhiều huyện, thị xã đã hoàn
thành cấy lúa xuân, thì tại các huyện Từ Liêm và Hoài Đức (Hà Nội), nhiều thửa
ruộng vẫn chưa được làm đất, có nơi ruộng bỏ hoang, cỏ dại mọc um tùm. Tại cánh
đồng xã Xuân Phương (huyện Từ Liêm), mặc dù có vị trí khá thuận lợi, nằm ngay
trục giao thông chính, sát các khu đô thị, nhưng nhiều thửa ruộng vẫn chưa được
cấy lúa, trồng rau màu. Dù chưa thống kê chính xác, nhưng số diện tích ruộng trong
các khu đô thị, công nghiệp khó sản xuất, do vậy người dân bỏ hoang cũng lên tới
hàng chục héc ta. Theo số liệu thống kê của Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn), tại các tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An đã có đến
2.011,90 ha đất ruộng bị người dân bỏ hoang và trả lại chính quyền; số hộ nông dân
bỏ ruộng là 6.040 hộ, số hộ nông dân trả ruộng là 2.009 hộ4.
Với những số liệu trên, đối với một nước nông nghiệp như Việt Nam tại sao lại có
tình trạng bỏ ruộng thì nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do chính sách của
Nhà nước chưa thật sự là hợp lý, thu hút người dân tiếp tục phát triển nông nghiệp.
-

Do công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật:

Công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật đất đai chưa sâu rộng, làm
cho nhiều văn bản pháp luật đất đai của Nhà nước chưa được phổ biến sâu rộng
trong nhân dân.
4 , truy cập ngày
19/7/2019

6



Tuy nhiên, việc tranh chấp đất đai ở mỗi địa phương khác nhau còn có những
nguyên nhân đặc thù và việc tìm ra những nguyên nhân đó phải căn cứ vào
thực tế sử dụng đất, và phong tục tập quán của từng địa phương để xây dựng
được những giải pháp tốt nhất nhằm giải quyết có hiệu quả từng vụ tranh chấp.
 Thứ hai: Điều kiện khách quan
Tranh chấp đất đai ở nước ta phát sinh có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại. Từ khi
nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự thay đổi cơ chế quản lý làm cho
đất đai ngày càng trở nên có giá trị đã tác động đến tâm lý của nhiều người dẫn đến
tình trạng tranh chấp, đòi lại nhà, đất mà trước đó đã bán, cho thuê, cho mượn, đã bị
tịch thu hoặc giao cho người khác sử dụng hoặc khi thực hiện một số chính sách về
đất đai ở các giai đoạn trước đây mà không có các văn bản xác định việc sử dụng
đất ổn định của họ.
Tuy nhiên, việc tranh chấp đất đai ở mỗi địa phương khác nhau còn có những điều
kiện đặc thù và việc tìm ra những điều kiện đó phải căn cứ vào thực tế sử dụng đất,
và phong tục tập quán của từng địa phương để xây dựng được những giải pháp tốt
nhất nhằm giải quyết có hiệu quả từng vụ tranh chấp.
1.1.3. Hậu quả của việc tranh chấp đất đai
Trên thực tế tranh chấp đất đai để lại những hậu quả rất nặng nề và được biểu hiện
trên các khía cạnh cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tranh chấp đất đai phá vỡ sự vận hành của trật tự quản lý và sử dụng đất
đai đó được xác lập. Tranh chấp đất đai xảy ra làm gián đoạn hoạt động sử dụng đất;
do người sử dụng đất phải dành thời gian, công sức vào việc giải quyết những bất
đồng mâu thuẫn về đất đai nên việc sử dụng đất bị ngừng trệ.
Thứ hai, tranh chấp đất đai gây tổn hại đến tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phá
vỡ sự gắn kết chặt chẽ giữa các thành viên trong gia đình, họ hàng hoặc giữa các
thành viên trong cộng đồng dân cư. Do bất đồng, mâu thuẫn trong sử dụng đất mà
các bên đương sự trở thành các bên đối địch nhau. Tâm lý sĩ diện, ăn - thua, tính cố
chấp, vị kỷ đó làm cho các bên tranh chấp có thái độ ganh ghét, nảy sinh tư thù và

bất hợp tác với nhau trong cuộc sống.

7


Thứ ba, tranh chấp đất đai gây ra sự tốn kém về thời gian, tiền bạc và công sức của
các bên trong việc giải quyết, theo đuổi vụ việc kiện cáo những bất đồng, mâu thuẫn
trong quản lý và sử dụng đất. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng mất nhiều
thời gian, công sức vào việc tìm hiểu và giải quyết tranh chấp đất đai. Điều này ảnh
hưởng đến hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đất đai.
Thứ tư, tranh chấp đất đai kéo dài, lôi kéo đông người tham gia gây mất an ninh, trật
tự và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị. Hơn nữa, nó là nguyên nhân để các thế
lực thù địch lợi dụng tuyên truyền, kích động và gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân và thực hiện các mưu đồ chính trị đen tối.
1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp đất đai
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng thường xảy ra trong đời sống xã hội và ở mọi
thời kỳ lịch sử. Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn của hai hay nhiều bên
trong quan hệ đất đai trên cơ sở pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên tranh chấp. Qua việc giải quyết tranh chấp đất đai mà các quan hệ đất đai
được điều chỉnh phù hợp với lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội và của người sử
dụng đất, mang lại sự ổn định trong nội bộ nhân dân, làm cho những quy định của
pháp luật đất đai được thực hiện trong cuộc sống.
Thuật ngữ “giải quyết tranh chấp đất đai” được sử dụng trong các văn bản pháp
luật đất đai. Thuật ngữ này được đề cập trong nội dung của Luật đất đai năm 1987,
Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003 và Luật đất đai năm 2013. Mặc dù
được đề cập trong quy định của các đạo luật đất đai, song nội hàm của thuật ngữ
“giải quyết tranh chấp đất đai” lại không được giải mã rõ ràng trong điều luật về
giải thích từ ngữ của Luật đất đai năm 2013. Các từ điển Luật học ở nước ta cũng

không đưa ra định nghĩa cụ thể về giải quyết tranh chấp đất đai. Chỉ trong cuốn từ
điển Giải thích thuật ngữ Luật học (Phần Luật đất đai, Luật lao động, Tư pháp quốc
tế) của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 1999, thuật ngữ “giải quyết
tranh chấp đất đai” mới được giải thích cụ thể như sau: “Giải quyết tranh chấp đất
đai: Giải quyết bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tổ chức và trên cơ sở

8


đó phục hồi các quyền lợi hợp pháp bị xâm hại; đồng thời truy cứu trách nhiệm
pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về đất đai”.
Như vậy, giải quyết tranh chấp đất đai được hiểu là một phương thức của con người
nhằm tìm ra một giải pháp thích hợp giải quyết bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ
nhân dân liên quan đến việc quản lý và sử dụng đất.
Giải quyết tranh chấp đất đai có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
- Giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung quản lý nhà nước về đất đai
được quy định tại Điều 22 Luật đất đai năm 2013. Hoạt động này do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thực hiện căn cứ vào các quy định của pháp luật, quan điểm,
đường lối của Đảng và thực tiễn sử dụng đất để tìm ra phương thức phù hợp nhằm
giải quyết bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp.
- Do đất đai là vấn đề nhạy cảm, phức tạp và có tầm quan trọng trên nhiều
phương diện. Hơn nữa, việc quản lý và sử dụng đất có nhiều biến động qua các thời
kỳ lịch sử nên tranh chấp đất đai xảy ra rất phức tạp, có đông người tham gia. Hoạt
động giải quyết tranh chấp đất đai huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị, khuyến khích các tổ chức quần chúng ở cơ sở và người dân tham gia giải
quyết tranh chấp đất đai. Trong giải quyết tranh chấp đất đai, Nhà nước coi trọng và
đề cao các phương thức thương lượng, hoà giải nhằm giải quyết ổn thoả tranh chấp,
duy trì sự ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân.
- Do tính đặc thù của chế độ sở hữu đất đai ở nước ta, nên hoạt động giải quyết
tranh chấp đất đai phải dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Điều này có

nghĩa là Nhà nước không thừa nhận và không xem xét giải quyết các tranh chấp về
đòi lại đất đã chia cấp cho người khác khi thực hiện chính sách đất đai qua các thời
kỳ của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Việc giải quyết tranh chấp đất đai không chỉ dựa vào quan điểm, đường lối
của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn căn cứ vào tâm lý, thị hiếu,
phong tục, tập quán,…trong sử dụng đất đai của người dân ở các vùng, miền trong
cả nước.
Tóm lại, giải quyết tranh chấp đất đai là dùng những cách thức phù hợp trên cơ sở
pháp luật nhằm giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, phục
hồi các quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị xâm hại, đồng thời buộc bên vi phạm

9


phải gánh chịu hậu quả pháp lý do hành vi của họ gây ra, góp phần tăng cường pháp
chế trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Hay nói cách khác là giải quyết tranh
chấp đất đai là việc vận dụng đúng đắn các quy định của pháp luật vào giải quyết
các mâu thuẫn, bất đồng của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai nhằm
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc giải quyết các tranh chấp đất đai là một trong
những biện pháp quan trọng để pháp luật đất đai phát huy được vai trò trong đời
sống xã hội. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai, góp
phần thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phù hợp với thực tiễn và các
quy định của pháp luật, đảm bảo đúng với tinh thần của nghị quyết Hội nghị lần thứ
6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, trên cơ sở kế thừa và phát triển các
quy định của Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013
đã sửa đổi, bổ sung những quy định mới về giải quyết tranh chấp đất đai. Theo đó,
tranh chấp đất đai có thể được giải quyết bằng phương thức hành chính tại Ủy ban
nhân dân (UBND) hoặc giải quyết tại Tòa án nhân dân.

1.2.2. Thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai
 Thứ nhất: Giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật tố tụng hành chính.
Giải quyết tranh chấp đất đai theo luật tố tụng hành chính là nội dung nằm
trong Luật đất đai 2013 được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XII ban hành. Luật có nhiều sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện những quy định,
thủ tục đảm bảo quyền có đất, sử dụng đất của nhân dân.
Tranh chấp đất đai luôn là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, buộc pháp luật phải
đứng ra giải quyết để đảm bảo sự công bằng cho toàn dân. Luật đất đai mới đã có
nhiều thay đổi trong giải quyết tranh chấp đất đai, đặc biệt là thủ tục giải quyết
tranh chấp.
Luật được ban hành trong hoàn cảnh ngày càng nhiều các vụ việc tranh chấp đất đai
giữa nhiều mối quan hệ phức tạp khiến cho người dân không biết phải giải quyết
như thế nào, thủ tục ra sao, cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết,… Tất cả những
thắc mắc đó sẽ được giải quyết nhanh, gọn, lẹ với luật 2013 so với trước đây.

10


Giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật tố tụng hành chính có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Trình tự này sẽ được áp dụng đối với những tranh chấp mà các đương sự
không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định.
Thứ hai: Lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Uỷ ban nhân dân.
Thứ ba: Tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội
trong việc lựa chọn phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đảm
bảo tính khách quan trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai.
Theo đó, tại Điều 202, 203 Luật đất đai 2013 quy định về việc giải quyết tranh chấp
đất đai theo luật tố tụng hành chính phải trải qua những thủ tục sau:
-

Hòa giải


Các bên tranh chấp tự hòa giải với nhau, nếu hòa giải không thành thì yêu cầu Ủy
ban nhân cấp xã hòa giải.
Nếu hòa giải thành: Uỷ ban nhân dân cấp xã lập biên bản chứng nhận kết quả hòa
giải. Nếu hòa giải mà làm thay đổi hiện trạng sử dụng đất ban đầu thì Uỷ ban nhân
dân cấp xã phải gửi biên bản cho Phòng tài nguyên môi trường hoặc Sở tài nguyên
môi trường để được thông qua và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đấy đai mới.
Nếu hòa giải không thành: Đối với tranh chấp có giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thì các bên yêu cầu tòa án nhân dân giải quyết. Còn nếu không có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đai thì yêu cầu Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền giải quyết
hoặc khởi kiện ra tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
-

Giải quyết tranh chấp

Tùy vào từng vụ việc mà sẽ do Uỷ ban nhân dân cấp huyện hay Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh giải quyết:
Uỷ ban nhân dân cấp huyện: Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu
không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban

11


nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật
về tố tụng hành chính.
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh: Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ
chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không
đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài

nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp
luật về tố tụng hành chính.
Tòa án nhân dân: Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà việc giải quyết tranh chấp đất
đai được tiến hành theo thủ tục tố tụng dân sự hay thủ tục tố tụng hành chính.
 Thứ hai: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tố tụng dân sự
Điều 203 Luật đất đai năm 2013 quy định các tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền
của Tòa án nhân dân là các tranh chấp đất đai mà đương sự có giấy tờ về đất hoặc
không có giấy tờ về đất nhưng lựa chọn giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án
nhân dân.
Giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tố tụng dân sự có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Khi Tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án, sẽ tiến hành hòa giải để các đương
sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Thứ hai: Do chính Tòa án chủ trì và tiến hành.
Thứ ba: Ngay trong quá trình xét xử, các đương sự vẫn có thể thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án. Nếu không đồng ý các bên vẫn có quyền kháng cáo theo
trình tự phúc thẩm.
Việc giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án được thực hiện theo quy định chung tại
Bộ luật tố tụng dân sự. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc
thông qua người đại diện hợp pháp để khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền.

12


Bước 1: Người khởi kiện vụ án gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đến
Tòa án có thẩm quyền, thực hiện việc tạm ứng án phí và hoàn chỉnh hồ sơ, đơn khởi
kiện theo yêu cầu của Tòa án.
Bước 2: Tòa án đã thụ lý vụ án, tiến hành hòa giải. Đây là giai đoạn bắt buộc
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự do Tòa án chủ trì và tiến hành. Nếu hòa giải
thành thì Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải thành, hết 07 ngày mà các bên đương sự
không thay đổi ý kiến thì tranh chấp chính thức kết thúc.

Bước 3: Đưa vụ án ra xét xử. Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử theo thủ
tục xét xử sơ thẩm ra bản án hoặc quyết định.
1.2.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
-

Thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân:

Điều 203 Luật đất đai quy định: Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự
không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy
định tại Điều 100 Luật đất đai và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất đai thì do tòa
án nhân dân giải quyết.
Đối với trường hợp tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy
chứng nhận hoặc không có giấy tờ kèm theo quy định thì đương sự có thể nộp đơn
yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc khởi
kiện tại tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự 5.
-

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Uỷ ban nhân dân:

Các bên tranh chấp không có giấy chứng nhận hoặc không có một trong các giấy tờ
được quy định tại điều 100 Luật đất đai 2013 và đương sự lựa chọn hình thức giải
quyết tranh chấp là nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Uỷ ban nhân dân cấp
có thẩm quyền ( quy định tại khoản 3, điều 203 Luật đất đai 2013).
Tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì

5 Giáo trình Luật đất đai, NXB Công an nhân dân, năm 2018, Trường ĐH Luật Hà Nội.

13



có quyền khiếu nại đến chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại tòa án
theo quy định pháp luật về tố tụng hành chính.
Trường hợp tranh chấp có một bên là tổ chức, cơ sở tôn giáo, tổ chức nước ngoài,
người Việt Nam định cư tại nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ
do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định
giải quyết có thể khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường hoặc khởi
kiện tại tòa án theo quy định về tố tụng hành chính6.
Tranh chấp trong lĩnh vực pháp luật đất đai thường khá phức tạp, bởi xuất phát từ
tính chất đặc biệt của loại tài sản là quyền sử dụng đất, cùng với việc quản lý đất đai
ở Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn thay đổi. Quá trình giải quyết tranh chấp về đất
đai trước đây thường kéo dài, nhiều bất cập. Tuy nhiên, Luật đất đai 2013 ra đời
được đánh giá là có nhiều tiến bộ so với trước, đặc biệt là trong quy trình giải quyết
tranh chấp đất đai. Luật 2013 định ra quy trình thực hiện rõ ràng, chỉ ra cơ quan nào
là cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc, loại đối tượng nào bị tranh chấp. Đặc
biệt, trong những quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp, có sự thay đổi
đáng kể.

6 Giáo trình Luật đất đai, NXB Công an nhân dân, năm 2018, Trường ĐH Luật Hà Nội.

14


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống các khái niệm về tranh chấp đất đai và giải quyết
tranh chấp đất đai, báo cáo tốt nghiệp đã xây dựng một cách đầy đủ và hoàn chỉnh
khái niệm về giải quyết tranh chấp đất đai và các đặc điểm cơ bản của giải quyết
tranh chấp đất đai.
Kết quả nghiên cứu lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai là
tiền đề cần thiết để phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về

hòa giải tranh chấp đất đai, đồng thời là cơ sở quan trọng để đưa ra những giải pháp
hoàn thiện pháp luật sau khi đã tổng kết về thực tiễn về hòa giải tranh chấp đất đai.

15


CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ
THẨM QUYỀN CỦA UBND CẤP XÃ
2.1. Pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai
2.1.1. Điều kiện để giải quyết tranh chấp đất đai
Không phải bất cứ trường hợp tranh chấp đất đai nào đều được cơ quan nhà nước
thụ lý giải quyết, mà phải bắt buộc có đủ các điều kiện sau đây:
- Cá nhân, tổ chức tranh chấp đất đai phải có căn cứ chứng minh: Đã tiến hành
thủ tục hòa giải nhưng không thành; Phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của
mình hoặc có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi gửi
đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đến Ủy ban nhân dân các cấp; Có căn cứ cho rằng
quyền và lợi ích hợp pháp bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định giải quyết tranh
chấp đất đai.
- Người gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai phải là người có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật.
- Việc yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện bằng đơn khiếu nại
yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai hoặc yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai trực
tiếp đến đúng cơ quan nhà nước có thẩm quyền và trong thời hạn quy định, trừ
trường hợp ốm đau, thiên tai, dịch bệnh, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những
trở ngại khách quan khác thì thời gian trở ngại đó không tính vào thời hạn khiếu
nại; người có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp phải chứng minh với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về trở ngại khách quan đó.
- Việc khiếu nại yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai chưa được Tòa án thụ lý
để giải quyết. Trong trường hợp vụ việc đã được Tòa án thụ lý giải quyết, các bên
không thể nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp theo thủ tục hành chính.

- Đơn tranh chấp đất đai phải ghi rõ ngày, tháng, năm viết đơn, họ và tên,
ngày, tháng, năm sinh, giới tính của người đứng tên trong đơn; số chứng minh nhân
dân, nơi cấp, ngày, tháng, năm, cơ quan cấp, địa chỉ nơi cư trú của người đứng tên
trong đơn; nội dung, lý do tranh chấp và yêu cầu của người viết đơn. Đơn phải do
người tranh chấp ký tên hoặc điểm chỉ.
- Người có yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai nộp 01 bộ hồ sơ (bản sao có
chứng thực hoặc bản sao kèm bản chính để đối chiếu) đến cơ quan nhà nước có
thẩm quyền giải quyết gồm: Đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai hoặc bản ghi
16


lời yêu cầu về giải quyết tranh chấp; Biên bản hòa giải của Ủy ban nhân dân cấp xã;
Quyết định giải quyết tranh chấp lần đầu (đối với trường hợp nộp đơn khiếu nại
quyết định giải quyết tranh chấp lần đầu); Bản vẽ hiện trạng nhà đất, công trình xây
dựng, hồ sơ địa chính có liên quan đến phần đất tranh chấp (nếu có); Chứng từ thực
hiện nghĩa vụ tài chính (nếu có); Các tài liệu khác có liên quan đến việc tranh chấp
(nếu có).
2.1.2. Thủ tục thực hiện giải quyết tranh chấp đất đai
Căn cứ quy định tại Điều 202, Luật đất đai năm 2013, thì “Nhà nước khuyến khích
các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông
qua hòa giải ở cơ sở”7. Trường hợp tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không
hòa giải được thì gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa
giải. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Uỷ ban nhân dân cấp xã được thực hiện
trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết
tranh chấp đất đai.
Trình tự thủ tục tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã được
thực hiện theo quy định của Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 88 Nghị định
số 43/2014/NĐ-CP, ngày 01 tháng 07 năm 2014 như sau: “Khi nhận được đơn yêu
cầu giải quyết tranh chấp đất đai, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thực
hiện các công việc sau: Thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh

chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất,
quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất; Thành lập Hội đồng hòa giải
tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Thành phần Hội đồng gồm: Chủ tịch hoặc
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn,
ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã,
phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; cán
bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường hợp cụ thể, có
thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh; Tổ chức cuộc họp hòa giải có sự tham gia của các bên
tranh chấp, thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có
7 Khoản 1 Điều 202 Luật đất đai 2013

17


mặt. Trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai thì được
coi là việc hòa giải không thành; Kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập
thành biên bản, gồm có các nội dung: Thời gian và địa điểm tiến hành hòa giải;
thành phần tham dự hòa giải; tóm tắt nội dung tranh chấp thể hiện rõ về nguồn
gốc, thời điểm sử dụng đất đang tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp
(theo kết quả xác minh, tìm hiểu); ý kiến của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai;
những nội dung đã được các bên tranh chấp thỏa thuận, không thỏa thuận. Biên
bản hòa giải phải có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng, các bên tranh chấp có mặt tại
buổi hòa giải, các thành viên tham gia hòa giải và phải đóng dấu của Ủy ban nhân
dân cấp xã; đồng thời phải được gửi ngay cho các bên tranh chấp và lưu tại Ủy
ban nhân dân cấp xã; Sau thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành
mà các bên tranh chấp có ý kiến bằng văn bản về nội dung khác với nội dung đã
thống nhất trong biên bản hòa giải thành thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ

chức lại cuộc họp Hội đồng hòa giải để xem xét giải quyết đối với ý kiến bổ sung và
phải lập biên bản hòa giải thành hoặc không thành; Trường hợp hòa giải thành mà
có thay đổi hiện trạng về ranh giới sử dụng đất, chủ sử dụng đất thì Ủy ban nhân
dân cấp xã gửi biên bản hòa giải thành đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết
theo quy định tại Khoản 5 Điều 202 của Luật Đất đai. Trường hợp hòa giải không
thành hoặc sau khi hòa giải thành mà có ít nhất một trong các bên thay đổi ý kiến
về kết quả hòa giải thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập biên bản hòa giải không thành
và hướng dẫn các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp tiếp theo”8.
Theo quy định này thì giấy tờ, tài liệu có liên quan về nguồn gốc đất, quá trình sử
dụng đất và hiện trạng sử dụng đất thì không bắt buộc các bên phải cung cấp, các
bên có thể tự nguyện cung cấp để cuộc hòa giải được diễn ra thuận lợi, nhanh
chóng. Ủy ban nhân dân xã sẽ có trách nhiệm thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên
nhân phát sinh tranh chấp.
Luật đất đai năm 2013 đã có thêm hai quy định tiến bộ tại khoản 3 và khoản 4 Điều
88 Nghị định 43/2014/NĐ-CP để nhằm khắc phục hạn chế của Luật Đất đai năm
2003. Các quy định này đã nêu ra hướng giải quyết tiếp theo đối với trường hợp hòa
giải thành mà các bên có ý kiến khác về nội dung khác với nội dung đã thống nhất
trong biên bản hòa giải thành hay trong trường hợp hòa giải thành mà các bên có ý
8 Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ-CP

18


kiến khác về kết quả hòa giải trong biên bản hòa giải. Theo đó tại khoản 3 Điều 88
Nghị định 43/2014/NĐ-CP, nếu các bên có ý kiến về nội dung khác với nội dung đã
thống nhất trong biên bản hòa giải thành thì sau 10 ngày kể từ ngày lập biên bản
hòa giải thành các bên phải gửi ý kiến đó đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã để Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã tổ chức lại cuộc họp Hội đồng hòa giải để xem xét giải
quyết đối với ý kiến bổ sung và lập biên bản hòa giải thành hoặc không thành. Luật

không giải thích nội dung khác với nội dung đã thống nhất trong biên bản là như thế
nào. Theo em, quy định này ta có thể hiểu nội dung khác với nội dung thống nhất
trong biên bản hòa giải thành là một nội dung mới khác với nội dung đã thống nhất
trong biên bản hòa giải thành và về bản chất là cùng một vụ tranh chấp đất đai
nhưng các biên bản hòa giải này là khác nhau về vấn đề tranh chấp. Chủ tịch Ủy
ban nhân dân xã tổ chức lại cuộc họp hòa giải để xem xét với ý kiến bổ sung và dựa
trên kết quả thỏa thuận ra biên bản hòa giải thành hoặc không thành và theo quy
định này thì ý kiến bổ sung đó bắt buộc phải được lập dưới hình thức văn bản. Đây
là một quy định tiến bộ của Luật Đất đai 2013, từ quy định này quyền và lợi ích của
các bên tranh chấp được bảo vệ tốt nhất bởi vì một số vụ tranh chấp đất đai phức
tạp, có thể khi hòa giải lần đầu, các bên tranh chấp chưa phát hiện một số mâu
thuẫn, tranh chấp khác. Sau khi hòa giải thành công họ mới phát hiện ra những mâu
thuẫn, bất đồng khác thì họ có thể tiếp tục nhờ vào sự giúp đỡ của Ủy ban nhân dân
cấp xã để giải quyết các vấn đề tranh chấp còn lại. Tuy nhiên, luật lại không quy
định số lần hạn chế đối với những lần thay đổi ý kiến về nội dung khác với nội dung
thống nhất trong biên bản hòa giải. Đồng thời, luật quy định sau thời hạn 10 ngày
kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành lại không quy định giới hạn thời gian là bao
lâu và nếu như vậy thì chỉ cần sau thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải
bất kể là bao lâu thì các bên tranh chấp vẫn có thể thay đổi ý kiến về nội dung khác
với nội dung thống nhất trong biên bản hòa giải và Ủy ban nhân dân sẽ tiến hành lại
cuộc họp Hội đồng hòa giải. Đồng thời, Luật Đất đai năm 2013 đã bổ sung thêm
quy định về trường hợp hòa giải thành mà có ít nhất một trong các bên tranh chấp
thay đổi ý kiến về kết quả hòa giải thì Ủy ban nhân dân xã lập biên bản hòa giải
không thành. Đây là một quy định mới và quy định này đã khắc phục hạn chế của
luật đất đai trước đây, trước đây do Luật Đất đai năm 2003 không quy định nên
trong trường hợp vụ tranh chấp đất đai sau khi đã được Ủy ban nhân dân xã hòa
giải thành, nhưng sau đó một trong các bên tranh chấp lại không đồng ý với kết quả
thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành, gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp và
Ủy ban nhân dân xã phải tiếp tục hòa giải, giải quyết lại vụ việc nên ảnh hưởng đến
19



quản lý đất đai nói riêng và quản lý Nhà nước nói chung 9. Hiện nay, theo quy định
tại khoản 4 Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì trường hợp này Ủy ban nhân dân
xã sẽ lập biên bản hòa giải không thành và hướng dẫn các bên gửi đơn đến cơ quan
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tiếp theo. Bên cạnh đó, thì luật có một thiếu sót
khi không quy định ý kiến về kết quả hòa giải đó phải được thể hiện dưới hình thức
nào, có cần phải lập bằng văn bản giống như quy định tại khoản 3 điều này hay
không.
2.1.3. Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai phải hòa giải theo đúng thẩm quyền, thẩm quyền hoà giải
tranh chấp đất đai được quy định tại khoản 2 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 quy
định: “Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hoà giải được thì gửi đơn
đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp” 10. Theo quy định
này các tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn
đến Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để được hòa giải. Ủy ban nhân
dân cấp xã chỉ tiến hành hòa giải những tranh chấp đất đai nếu phần đất tranh chấp
đó thuộc địa bàn của cấp xã mình. Điều đó đồng nghĩa với việc khi xác định vụ
tranh chấp đất đai có thuộc thẩm quyền hòa giải của cấp xã mình hay không thì Ủy
ban nhân dân cấp xã sẽ không dựa vào các bên tranh chấp có phải là người dân
thuộc địa phương của mình quản lý hay không. Do đó, sẽ có trường hợp người dân
ở địa phương này vẫn có thể yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai ở địa phương khác
nếu như phần đất tranh chấp thuộc địa phương khác đó.
2.2. Thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp xã trong giải quyết tranh chấp đất
đai
2.2.1. Quy phạm pháp luật về thẩm quyền
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
“Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp
dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả


9 1-105152.aspx [Truy
cập ngày 25/5/2019]
10 Khoản 2 Điều 202 Luật đất đai 2013

20


nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện” 11. Như
vậy theo định nghĩa trên thì quy phạm pháp luật về thẩm quyền đặc biệt trong
trường hợp này là thẩm quyền giải quyết tranh chấp về đất đai của Uỷ ban nhân dân
xã là những quy định pháp luật về thẩm quyền hay cụ thể là hành vi mà Uỷ ban
nhân dân xã được phép làm và không được làm khi có tranh chấp đất đai tại địa
phương.
Cụ thể tại Luật đất đai 2013 quy định: “Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp
đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương
mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác.
Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong
thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh
chấp đất đai. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và
có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp
xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi có đất tranh chấp. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi
hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên
bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp
đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài

nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.
Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân
dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất”12.

11 Khoản 1 Điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
12 Khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 202 Luật đất đai 2013

21


Đây là quy định pháp luật có hiệu lực bắt buộc chung và đối với cơ quan là Uỷ ban
nhân dân xã khi có đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai tại địa bàn của cá nhân,
tổ chức có yêu cầu, và những quy định này do cơ quan quyền lực cao nhất nước là
Quốc hội ban hành, mọi cơ quan, cá nhân, tổ chức phải tuân theo và thực hiện một
cách nghiêm túc.
Ví dụ, khi cá nhân, tổ chức tại địa bàn có tranh chấp về đất đai, nếu họ hòa giải
không thành và có đơn yêu cầu hòa giải tại Uỷ ban nhân dân xã thì Uỷ ban nhân dân
xã không được từ chối ( trừ những trường hợp pháp luật quy định khác) hoặc các cá
nhân, tổ chức không thông qua hòa giải tại Uỷ ban nhân dân xã mà nộp đơn khởi
kiện tại Tòa án hay nộp đơn yêu cầu lên Uỷ ban nhân dân cấp huyện, tỉnh.
2.2.2. Thủ tục thực hiện giải quyết tranh chấp
Thực tiễn hiện nay tại Ủy ban nhân dân xã thì trình tự giải quyết tranh chấp đất đai
được thực hiện theo các bước sau:
 Bước 1: Sau khi tiếp nhận đơn đề nghị hoà giải tranh chấp đất đai của công
dân, công chức được phân công tiếp nhận đơn trình đơn xin ý kiến của Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân xã để xem xét, xử lý. Thời hạn tiến hành hoà giải là 45 ngày làm việc,
kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp xã nhận được đơn.
 Bước 2: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã xem xét và giao đơn cho cán bộ địa

chính xã nghiên cứu, đề xuất phương thức hoà giải tranh chấp; đồng thời, phân công
Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã phụ trách công tác quản lý đất đai chịu trách
nhiệm tổ chức hoà giải tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật. Đối với các
vụ việc tranh chấp đất đai phức tạp, gây tác động xấu đến tình hình chính trị, xã hội
của địa phương thì có thể đích thân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã đứng ra chủ trì
cuộc hoà giải.
Các cán bộ chuyên môn địa chính và tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân xã chuẩn bị
việc hoà giải tranh chấp đất đai bao gồm:
- Nghiên cứu nội dung vụ việc tranh chấp;
- Nghiên cứu chứng cứ của các bên đương sự đối chiếu với các quy định của
pháp Luật Đất đai và những tài liệu, hồ sơ, sổ sách địa chính, bản đồ địa chính về
thửa đất tranh chấp do Uỷ ban nhân dân xã quản lý để xây dựng phương án hoà
giải;
22


- Lập kế hoạch xác minh, thời gian, địa điểm, thành phần và các phương tiện
vật chất cần thiết phục vụ việc hoà giải tranh chấp đất đai;
- Gửi giấy mời cho các thành viên tham gia buổi hoà giải;
- Thông báo hoặc gửi giấy triệu tập đến các bên tranh chấp.
Trong quá trình chuẩn bị hòa giải, cán bộ hòa giải phải tiếp xúc với các bên để tìm
hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập các giấy tờ, tài liệu chứng cứ có
liên quan.
 Bước 3: Tiến hành hòa giải
Việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có mặt và phải được lập
thành biên bản, gồm các nội dung sau:
- Thời gian và địa điểm tiến hành hòa giải;
- Tóm tắt nội dung tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp;
- Ý kiến các bên tranh chấp, ý kiến của Hội đồng tư vấn giải quyết tranh chấp
đất đai.

 Bước 4: Căn cứ kết quả thỏa thuận giữa các bên tranh chấp, người chủ trì
hòa giải phải có xác nhận ghi trong biên bản hòa giải thành hoặc không thành.
Biên bản hòa giải phải có chữ ký của tất cả các thành viên tham gia hòa giải và phải
gửi cho các bên tranh chấp, Uỷ ban nhân dân, Phòng Tài nguyên & Môi trường cấp
huyện.
- Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã hòa giải không thành; căn cứ
khoản 1, Điều 203 Luật đất đai năm 2013 và các quy định hướng dẫn các bên tranh
chấp gửi đơn đến Toà án nhân dân để giải quyết.
- Trong trường hợp các bên tranh chấp không có Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật
đất đai năm 2013 thì hướng dẫn đương sự gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân cấp có
thẩm quyền hoặc tòa án theo khoản 2 Điều 203.
Điều 203 Luật đất đai năm 2013 quy định đối với việc tranh chấp đất đai đã được
hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã mà không thành, thì được giải quyết như sau:

23


- Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các
loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với
đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết.
- Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có
một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được
lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau
đây:
Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo
quy định tại khoản 3 Điều 203 hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Đây là một quy định mới khi Luật
Đất đai năm 2013 đã có hiệu lực. Quy định này đã mở rộng thẩm quyền của Tòa án
nhân dân, đồng thời cũng nâng cao quyền tự do lựa chọn hình thức giải quyết tranh

chấp đất đai của các bên tranh chấp. Theo đó các bên tranh chấp có thể lựa chọn
giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân hoặc tòa án đối với trường hợp
không có các giấy tờ theo quy định trong khi trước đây Luật Đất đai 2003 quy định
các bên tranh chấp chỉ được yêu cầu Ủy ban nhân dân giải quyết 13.
Trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới sử dụng đất, chủ
sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân xã gửi biên bản hòa giải thành đến cơ quan có
thẩm quyền để giải quyết theo quy định tại Khoản 5 Điều 202 của Luật Đất đai. Kết
quả hoà giải phải được báo cáo cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã.
2.2.3. Hiệu lực văn bản giải quyết tranh chấp đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp xã
Qua những nguồn tài liệu tham khảo đáng tin cậy, kết hợp những quy định pháp luật
và những ý kiến khách quan khác, tác giả xin đưa ra những phân tích đã tiếp thu
được về vấn đề giá trị pháp lý của biên bản hòa giải trong tranh chấp đất đai tại cở
sở mà trường hợp tác giả muốn đề cập đến là biên bản hòa giải tại Uỷ ban nhân dân
xã, nếu hòa giải thành thì biên bản hòa giải đó có hiệu lực pháp luật liền hay không,
trường hợp hòa giải không thành thì biên bản hòa giải không thành đó có hiệu lực
khi nào, khi nào sẽ hết hiệu lực pháp luật,....

13 cập ngày 25/5/2019]

24

1-105152.aspx


×