Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Nghiên cứu và đánh giá tác động của chính sách giáo dục và đào tạo trong thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển NNL Việt Nam và đưa ra những khuyến nghị để hoàn thiện chính sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.98 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
-------------------o0o-------------------

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC XÃ HỘI
ĐỀ TÀI:
NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO TRONG THỰC HIỆN MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM VÀ ĐƯA RA NHỮNG KHUYẾN NGHỊ ĐỂ
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH.

Giáo viên hướng dẫn:
Nhóm thực hiên

: 02

Lớp HP

:

Hà Nội - 2020

1


LỜI MỞ ĐẦU
Giáo dục và đào tạo là nền tảng của sự phát triển khoa học công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu trong việc
nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của các thế hệ hiện nay và mai
sau. Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo luôn đóng vai trò quan trọng trong việc


hoạch định chính sách công ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới và Việt Nam không phải
là ngoại lệ. Chính vì vậy nhóm chúng em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu và
đánh giá tác động của chính sách giáo dục và đào tạo trong thực hiện mục tiêu chiến
lược phát triển NNL Việt Nam và đưa ra những khuyến nghị để hoàn thiện chính
sách.”

2


PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1.
-

Các khái niệm chung
Khái niệm chính sách: Chính sách là một hệ thống nguyên tắc có chủ ý hướng
dẫn các quyết định và đạt được các kết quả hợp lý. Một chính sách là một tuyên bố
về ý định, và được thực hiện như một thủ tục hoặc giao thức. Các chính sách
thường được cơ quan quản trị thông qua trong một tổ chức. Chính sách có thể hỗ
trợ cả việc đưa ra quyết định chủ quan và khách quan. Các chính sách hỗ trợ trong
việc ra quyết định chủ quan thường hỗ trợ quản lý cấp cao với các quyết định phải
dựa trên thành tích tương đối của một số yếu tố và do đó thường khó kiểm tra
khách quan, ví dụ: chính sách cân bằng giữa công việc và cuộc sống. Các chính
sách tương phản để hỗ trợ việc ra quyết định khách quan thường hoạt động trong
tự nhiên và có thể được kiểm tra khách quan, ví dụ: chính sách mật khẩu.

-

Khái niệm chính sách giáo dục - đào tạo: là những chủ trương, biện pháp của
Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng, phát triển các phẩm chất, năng lực cho mỗi
người dân (cả về tư tưởng, đạo đức, khoa học, sức khỏe và nghề nghiệp).


-

Khái niệm nguồn nhân lực xã hội: là dân số trong độ tuổi lao động và có khả
năng lao động.

1.2.

Vai trò của chính sách giáo dục và đào tạo
Trong đời sống xã hội, giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trò quan trọng đối với

mọi quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Trong xu thế phát triển tri thức ngày nay, giáo dục đào tạo được xem là chính sách, biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển ở nhiều
quốc gia trên thế giới và trong đó có Việt Nam.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, muốn phát triển
xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh thần, nhất là về học vấn, nhận
thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp phần xây dựng và cải tạo xã hội. Bác Hồ đã
từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” bởi không có tri thức, hiểu biết về xã hội,
tự nhiên và chính bản thân mình, con người sẽ luôn lệ thuộc, bất lực trước những thế lực
và sức mạnh cản trở sự phát triển của dân tộc, đất nước mình.
3


Giáo dục góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc. Ngày nay, giáo dục và
đào tạo còn góp phần tạo ra hệ thống giá trị xã hội mới. Trong nền kinh tế tri thức hiện
nay, tri thức là sản phẩm của giáo dục và đào tạo, đồng thời là tài sản quý giá nhất của
con người và xã hội. Sở hữu tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất được các nước thừa
nhận và bảo hộ. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc từ tài
nguyên, sức lao động cơ bắp là chính chuyển sang nguồn lực con người có tri thức là cơ
bản nhất.
Giáo dục và đào tạo góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc bởi

giáo dục - đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao làm giàu của cải
vật chất cho xã hội đồng thời có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ sức đề kháng chống lại
các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong chính quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu.
Chính sách giáo dục - đào tạo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang tiến hành phổ cập giáo dục trung học cơ
sở, trình độ lao động phổ thông còn thấp, ít được đào tạo nghề, vẫn còn khoảng gần 60%
lao động nông nghiệp, nên hiện mới bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Giáo dục - đào
tạo nhằm phát huy năng lực nội sinh “đi tắt, đón đầu” rút ngắn thời gian công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Việt Nam khẳng định giáo dục - đào tạo cùng với khoa học - công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là điều kiện phấn đấu để năm 2020 Việt Nam cơ bản trở
thành nước công nghiệp.
Giáo dục - đào tạo bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ
chuyên môn, tay nghề cao. Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần quan trọng phát
triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định của kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức được
hiểu là kinh tế trong đó có sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định
tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tất cả các
quốc gia phát triển đều có chiến lược phát triển giáo dục. Trong “Báo cáo giám sát toàn
cầu giáo dục cho mọi người”, tổ chức UNESCO cũng đã khuyến khích các nước phải chi
tiêu ít nhất 6% GDP cho giáo dục.
 Nhận thức rõ vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển, Đảng và Nhà
nước ta khẳng đinh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Và phát triển nguồn nhân
4


lực là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt để tham gia một cách
hiệu quả vào quá trình phát triển của quốc gia.
1.3.

Phân loại nhóm chính sách giáo dục – đào tạo:


Chính sách giáo dục và đào tạo gồm:
 Chính sách coi giáo dục là quốc sách hàng đầu.
 Chính sách nâng cao trình độ văn hóa, dân trí: phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù
chữ và tái mù chữ cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao, vùng xa.
 Chính sách đào tạo nhân lực trình độ cao (cao đẳng, đại học, trên đại học).
 Chính sách đào tạo nghề
 Chính sách phát triển hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trường nghề.
 Chính sách ưu đãi đối với lực lượng trong ngành giáo dục đào tạo.
 Chính sách học phí học bổng
 Chính sách tuyển dụng, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, …

5


PHẦN II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VN
2.1 Thực trạng chính sách giáo dục và đào tạo và tác động của chính sách giáo dục
đào tạo đến thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển nguồn nhân lực
2.1.1. Thực trạng chính sách giáo dục và đào tạo
2.1.1.1.

Luật Giáo dục, số 43/2019/QH14

Điều 12. Chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học
1. Phát triển giáo dục đại học để đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.
2. Phân bổ ngân sách và nguồn lực cho giáo dục đại học theo nguyên tắc cạnh tranh,
bình đẳng, hiệu quả thông qua chi đầu tư, chi nghiên cứu phát triển, đặt hàng
nghiên cứu và đào tạo, học bổng, tín dụng sinh viên và hình thức khác.
Ưu tiên, ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng và chính sách khác để phát triển giáo dục

đại học.
3. Ưu tiên đầu tư phát triển một số cơ sở giáo dục đại học, ngành đào tạo mang tầm
khu vực, quốc tế và cơ sở đào tạo giáo viên chất lượng cao; phát triển một số
ngành đặc thù, cơ sở giáo dục đại học có đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ chiến
lược quốc gia, nhiệm vụ phát triển vùng của đất nước.
Khuyến khích quá trình sắp xếp, sáp nhập các trường đại học thành đại học lớn;
ứng dụng công nghệ trong giáo dục đại học.
4. Thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học, khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục đại
học tư thục; ưu tiên cơ sở giáo dục đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận;
có chính sách ưu đãi đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào hoạt động
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tại cơ sở giáo dục đại học; có chính
sách miễn, giảm thuế đối với tài sản hiến tặng, hỗ trợ cho giáo dục đại học, cấp
học bổng và tham gia chương trình tín dụng sinh viên.
5. Có chính sách đồng bộ để bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học gắn
liền với trách nhiệm giải trình.
6. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động của thị trường, nghiên cứu triển khai
ứng dụng khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học
6


với doanh nghiệp, tổ chức khoa học và công nghệ; có chính sách ưu đãi về thuế
cho các sản phẩm khoa học và công nghệ của cơ sở giáo dục đại học; khuyến
khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tiếp nhận, tạo điều kiện để người học và
giảng viên thực hành, thực tập, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ,
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
7. Thu hút, sử dụng và đãi ngộ thích hợp để nâng cao chất lượng giảng viên; chú
trọng phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, giáo sư đầu ngành trong cơ
sở giáo dục đại học.
8. Ưu tiên đối với người được hưởng chính sách xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số,
người ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người học ngành đặc

thù đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện bình đẳng
giới trong giáo dục đại học.
9. Khuyến khích, đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế nhằm phát triển giáo dục đại
học Việt Nam ngang tầm khu vực và thế giới.”
2.1.1.2.

Luật GD nghề nghiệp (Luật số 74/2014/QH13)

Điều 6. Chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục nghề nghiệp
1. Phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp mở, linh hoạt, đa dạng theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, liên thông giữa các
trình độ giáo dục nghề nghiệp và liên thông với các trình độ đào tạo khác.
2. Đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp được ưu tiên trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phát triển nhân lực. Ngân sách cho giáo dục nghề nghiệp được ưu tiên
trong tổng chi ngân sách nhà nước dành cho giáo dục, đào tạo; được phân bổ theo
nguyên tắc công khai, minh bạch, kịp thời.
3. Đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục nghề
nghiệp theo quy hoạch; tập trung đầu tư hình thành một số cơ sở giáo dục nghề
nghiệp trọng điểm chất lượng cao đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao
động, nhu cầu học tập của người lao động và từng bước phổ cập nghề cho thanh
niên.

7


4. Nhà nước có chính sách phân luồng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học
phổ thông vào giáo dục nghề nghiệp phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế
- xã hội.
5. Ưu tiên đầu tư đồng bộ cho đào tạo nhân lực thuộc các ngành, nghề trọng điểm
quốc gia, các ngành, nghề tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực, quốc tế; chú
trọng phát triển giáo dục nghề nghiệp ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc

biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng ven biển; đầu tư đào
tạo các nghề thị trường lao động có nhu cầu nhưng khó thực hiện xã hội hóa.
6. Nhà nước thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng đào tạo đối với những ngành, nghề
đặc thù; những ngành, nghề thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn; những ngành, nghề
thị trường lao động có nhu cầu nhưng khó thực hiện xã hội hóa. Các cơ sở hoạt
động giáo dục nghề nghiệp không phân biệt loại hình đều được tham gia cơ chế
đấu thầu, đặt hàng quy định tại khoản này.
7. Hỗ trợ các đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi người có công với cách mạng,
quân nhân xuất ngũ, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo,
người khuyết tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, ngư dân đánh bắt xa bờ, lao
động nông thôn là người trực tiếp lao động trong các hộ sản xuất nông nghiệp bị
thu hồi đất canh tác và các đối tượng chính sách xã hội khác nhằm tạo cơ hội cho
họ được học tập để tìm việc làm, tự tạo việc làm, lập thân, lập nghiệp; thực hiện
bình đẳng giới trong giáo dục nghề nghiệp.
8. Nhà nước tạo điều kiện cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức nghiên cứu, ứng
dụng khoa học, công nghệ; kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
2.1.2. Tác động của chính sách giáo dục đào tạo đến thực hiện mục tiêu chiến lược
phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
Ngày nay, trong tiến trình phát triển của xã hội, nguồn nhân lực chất lượng cao luôn
đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nguồn nhân lực này là một bộ phận cấu thành nên
nguồn nhân lực xã hội. Vì thế, chính sách giáo dục đào tạo luôn luôn là quốc sách hàng
8


đầu. Ở Việt Nam, Nhà nước đã ban hành các chính sách giáo dục - đào tạo để thực hiện
mục tiêu phát triển nguồn nhân lực Việt nam:
-

Về chính sách đào tạo nhân lực trình độ cao (cao đẳng, đại học, trên đại học) được

thể hiện qua điều 12 trong Luật Giáo dục, số 43/2019/QH14.

 Mục tiêu: đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước nhằm góp phần
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
 Đào tạo nhân lực trình độ cao để xây dựng đội ngũ nhân lực có kiến thức nền tảng
cơ bản, có khả năng tiếp thu và vận dụng tri thức thành kỹ năng nghề nghiệp để
tạo ra những sản phẩm đột phá, nâng cao tính cạnh tranh cho doanh nghiệp là ưu
tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển của các doanh nghiệp hiện nay.
 Ngoài ra, nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng xung kích trong việc lựa
chọn, tiếp thu và ứng dựng những tiến bộ công nghệ mới của thể giới vào phát
triển các ngành kinh tế quốc dân của Việt Nam, nhất là những ngành tạo cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế, các ngành mũi nhọn như công nghệ thông
tin, sinh học, vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, …
-

Về chính sách đào tạo nghề cụ thể là Điều 6 được quy định trong Luật GD nghề
nghiệp (Luật số 74/2014/QH13).

 Mục tiêu: đổi mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng tuyển sinh, chất
lượng đào tạo và hiệu quả của giao dục nghề nghiệp; phát triển hệ thống giáo dục
nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo nghề nghiệp.
 Phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, đa dạng, linh hoạt với
nhiều phương thức và trình độ đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và nâng cấp
kỹ năng nghề nghiệp suốt đời của người lao động để đáp ứng yêu cầu của vị trí
làm việc, giảm tình trạng thất nghiệp và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, nâng
cao năng suất lao động, cải thiện thu nhập và đời sống cho người lao động.

9



 Nâng chất lượng giáo dục nghề nghiệp từng bước đạt chuẩn khu vực và quốc tế để
đáp ứng nhu cầu nhân lực trong nước và hội nhập với thị trường lao động khu vực
và thế giới.
2.2. Thực hiện chương trình giáo dục – đào tạo ở Việt Nam
Trong những năm qua, việc thực hiện mục tiêu chiến lược nguồn nhân lực thông
qua giáo dục và đào tạo luôn được nhà nước chú trọng thực hiện trên mọi lĩnh vực và ở
các hình thức khác nhau nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước cả về số lượng lẫn chất lượng. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX
đã định hướng cho nguồn nhân lực Việt Nam: “Người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề
thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi dưỡng và phát triển bởi một nền giáo
dục tiên tiến gắn với một nền khoa học công nghệ hiện đại”.
a) Chính sách đào tạo nhân lực trình độ cao đã đạt được những thành tựu. Cụ
thể: Nếu như ở thời điểm quý II năm 2014, nước ta mới có gần 5,4 triệu lao động
trình độ cao, trong đó người có trình độ đào tạo cao đẳng trở lên có khoảng 4,01
triệu người (chiếm khoảng 74,3% lao động trình độ cao) thì 4 năm sau đó, vào quý
II năm 2018, số lao động có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên đã tăng lên
đến 7,2 triệu người, tăng 80% so với cùng kì năm 2014. Trong đó, lực lượng lao
động có trình độ đại học trở lên là 5,28 triệu người và cao đẳng là 1,92 triệu người.

STT

Trình độ

Năm

Năm

Năm


chuyên môn kĩ

2014

2015

2016

10

Đơn vị tính: triệu người
Năm
Năm
2017

2018


thuật
Tổng số lực
1
2

-

lượng lao động
Đại học trở lên
Cao đẳng (và
cao đẳng nghề)
Tổng cộng


(Quý II)

(Quý II)

54.6

54.6

54.6

55.16

55.12

1.39

4.84

5.08

5.37

5.28

4.01

1.65

1.76


1.90

1.92

5.4

6.49

6.84

7.27

7.2

Về việc thực hiện chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ,
giáo sư đã được Nhà nước thực hiện tương đối tốt. Năm 2006-2007, số lượng
giáo sư và phó giáo sư là 2397 người và tiến sĩ là 3485 người. Sau 10 năm, giai
đoạn 2016-2017, số lượng giảng viên trong các trường đại học là 72.792 người,
tăng 4,6% so với năm học 2015-2016 (số lượng giảng viên là 69591 người). Trong
đó, giảng viên có trình độ tiến sĩ: 16.514 người. Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ
năm học 2016-2017 tăng 19,74% so với năm học 2015-2016. Năm 2016 có thêm
65GS và 638PGS được công nhận nâng mức tổng số lượng giáo sư, phó giáo sư
lên 12.322 người (từ năm 1980 đến năm 2015, sau 24 đợt xét, tổng số lượt giáo sư,
phó giáo sư đã được công nhận ở nước ta là 11.619, trong đó có 1.680 giáo sư và
9.939 phó giáo sư).

 Có thể thấy rằng việc số lượng tăng, giúp cho các trường cao đẳng, đại học có
thêm đội ngũ giảng viên cấp bấc tiến sĩ, giáo sư, điều này giúp nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam và đáp ứng chính sách của Nhà nước về

phát triển giáo dục đại học.

11


Số lượ ng gi ảng viên các c ơ sở giáo d ụ c đ ại h ọc
phân theo trình đ ộ và ch ức danh
18000

16514

16000
14000

12322

12000
10000
8000
6000
4000

3485

2397

2000
0

Giáo s ư, phó giáo s ư


Tiế n sĩ

Năm 2006-2007

-

Năm 2016-2017

Lĩnh vực giáo dục đào tạo được ưu tiên đầu tư nguồn lực lớn từ ngân sách
nhà nước. Tỉ lệ chi ngân sách cho giáo dục – đào tạo hàng năm của Việt Nam duy
trì ở mức 20% tổng chi ngân sách được Quốc hội và chính phủ duy trì, trong đó
chi thường xuyên cho giáo dục – đào tạo ở Trung ương bình quân khoảng 11%, địa
phương khoảng 89% của tổng ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đào tạo. Từ
năm 2013 đến năm 2017, quy mô chi ngân sách cho giáo dục luôn tăng về số tuyệt
đối. Cụ thể, chi Ngân sách trung ương tăng 92.514 tỷ đồng năm 2017 so với năm
2013, chi Ngân sách địa phương tăng 69.553 tỷ đồng năm 2017 so với năm 2013.
Sau đây là hình ảnh về chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục – đào tạo
giai đoạn 2013-2017:

12


-

Đây là hình ảnh biểu đồ tròn về trung bình nguồn nhân sách nhà nước và xã hội
hóa đầu tư cho giáo dục – đào tạo giai đoạn 2013-2017:

13



Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục - đào tạo trung bình của giai đoạn
2013 - 2017 cho các cơ sở GDĐT công lập ở các bậc học khoảng 235.000 tỷ đồng
(chiếm khoảng 20% tổng ngân sách nhà nước); xã hội hóa GDĐT đã đóng góp
thêm khoảng 4.700 tỷ đồng (tương đương 2% ngân sách chi cho giáo dục).
Công tác xã hội hóa đầu tư cho giáo dục đều được các địa phương quan
tâm, nhất là các tỉnh, thành phố lớn. Một số địa phương đã ban hành các chính
sách ưu đãi, huy động các nguồn lực xã hội để phát triển giáo dục, như chính sách
về thuê đất, thuế, cho vay vốn kích cầu, hỗ trợ lãi suất để xây dựng trường học. Cụ
thể: Chỉ tính trong năm học 2017-2018, tổng kinh phí mà TP Hồ Chí Minh huy
động tài trợ, đóng góp tự nguyện của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân bằng các
hình thức để tăng cường cơ sở vật chất trường lớp, hỗ trợ hoạt động dạy học, hoạt
động giáo dục là khoảng 1.455 tỷ đồng; Hà Nội đã có 78 dự án xã hội hóa với tổng
mức đầu tư đăng ký trên 5.600 tỷ đồng, sử dụng 1.009.673 m2 đất, có 58 dự án đã
triển khai đầu tư xây dựng, trong đó 17 dự án đã hoàn thành đưa vào hoạt động.
b) Chính sách đào tạo nghề cũng được thực hiện nghiêm túc:
-

Về phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp: Tính đến cuối năm 2016, hệ thống
giáo dục nghề nghiệp ở nước ta có 2.020 cơ sở, trong đó có 1.498 cơ sở thuộc hề
thống dạy nghề (gồm có 189 trường cao đẳng nghề; 276 trường trung cấp nghề;
1.033 trung tâm dạy nghề) và 522 cơ sở thuộc hệ thống giáo dục, đào tạo (gồm có
219 trường cao đẳng; 303 trường trung cấp chuyên nghiệp). Sau khi Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp
hành Trung ương Khóa XII (Nghị quyết số 19-NQ/TW) đến tháng 6/2019, cả nước
có 1.917 cơ sở giáo dục nghề nghiệp (400 trường cao đẳng, 492 trường trung cấp,
1.025 trung tâm giáo dục nghề nghiệp). Hiện nay, Bộ đang xây dựng Đề án sắp
xếp, tổ chức lại hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030 theo hướng
phân tầng: Tầng cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao thì được Nhà nước
đầu tư trọng điểm; tầng cơ sở giáo dục nghề nghiệp tự chủ thì gắn với đặt hàng của

Nhà nước và doanh nghiệp; tầng cơ sở giáo dục nghề nghiệp đặc thù được Nhà
nước đầu tư.
14


-

Về đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp:

 Xây dựng chuẩn đầu ra, đổi mới chương trình, giáo trình đào tạo. Cụ thể trên cơ sở
của 03 thông tư quy định xây dựng chuẩn đầu ra thì đã tổ chức xây dựng, thẩm
định ban hành 320 chuẩn đầu ra của 160 ngành, nghề đòa tạo ở trình độ trung cấp,
cao đẳng theo quy định. Ngoài ra, đã ban hành 03 thông tư quy định về đào tạo
thường xuyên; quy định về đào tạo theo hình thức vừa làm vừa học; đào tạo từ xa,
tự học có hướng dẫn, tạo điều kiện cho người học ở các lứa tuổi có cơ hội được
học liên tục, học suốt đời, góp phần xây dựng xã hội học tập.
 Chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý. Tính đến hết tháng 12/2018, cả
nước có tổng số 86.350 nhà giáo trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp (trong đó
có: 37.826 nhà giáo, giáo viên tại các trường cao đẳng, 18.198 nhà giáo tại các
trường trung cấp và 15.481 nhà giáo tại các trung tâm giáo dục nghề nghiệp) và có
gần 14.845 nhà giáo thuộc các cơ sở khác có tham gia hoạt động giáo dục nghề
nghiệp. Ngoài ra, còn hàng ngàn người làm công tác đào tạo nghề ở các lớp đào
tạo nghề thuộc doanh nghiệp, làng nghề, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ trong các chương trình, đề án về đào tạo nghề nghiệp. Trong năm 2017 và
năm 2018, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành 07 thông tư trong
đó có việc chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo trong giáo dục nghề nghiệp. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa nhà giáo giáo dục nghề nghiệp ở trong nước, nước
ngoài giai đoạn 2017 - 2018 đã mang lại hiệu quả cao cho hoạt động đổi mới và
nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Đội ngũ cán bộ quản lý của các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp tăng nhanh và từng bước đạt chuẩn. Năm 2019, tổng số cán

bộ quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp là 1559 người, trong đó cán bộ quản
lý cơ sở giáo dục nghề nghiệp là 19.189 người; gần 45% số cán bộ quản lý các cơ
sở GDNN đã qua đào tạo, bồi dưỡng về quản lý về giáo dục nghề nghiệp cả trong
nước và nước ngoài.
 Chuẩn hóa cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo. Thực hiện mục tiêu chuẩn hóa cơ sở,
vật chất, thiết bị đào tạo, trong năm 2017 - 2018, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội đã ban hành nhiều các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn
15


về các tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy định trong đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo.
Tổ chức xây dựng, thẩm định định mức kinh tế - kỹ thuật trong đào tạo trình độ
cao đẳng, trung cấp cho 67 ngành, nghề; tổ chức xây dựng và thẩm định danh mục
thiết bị đào tạo tối thiểu trình độ cao đẳng, trung cấp cho 58 ngành, nghề; xây
dựng chương trình và tổ chức đào tạo bồi dưỡng 05 lớp cán bộ quản lý thiết bị đào
tạo giáo dục nghề nghiệp. Việc xây dựng, ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật,
danh mục thiết bị đào tạo, tiêu chuẩn cơ sở vật chất trong thực hành, thực nghiệm
và thí nghiệm đã tạo hành lang pháp lý trong việc quản lý, mua sắm và sử dụng
hiệu quả trang thiết bị, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
-

Về chính sách phân luồng và ưu tiên đồng bộ, ngày 23/5/2014 Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Đề án phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020
(Quyết định số 761/QĐ-TTg). Theo đó, từ năm 2014 cả nước đã có 45 trường
được lựa chọn để tập trung ưu tiên đầu tư đồng bộ thành trường chất lượng cao
vào năm 2020. Năm 2019, trước bối cảnh thống nhất hệ thống giáo dục nghề
nghiệp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số nội dung tại Quyết định số 761/QĐ-TTg, dự kiến lựa chọn 86
trường để tập trung ưu tiên đầu tư đồng bộ trở thành trường chất lượng cao. Ngoài
ra, Bộ đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức lựa chọn, phê duyệt

ngành, nghề trọng điểm và trường được lựa chọn ngành, nghề trọng điểm giai
đoạn 2016 - 2020 và định hướng đến năm 2025.

-

Công tác nghiên cứu khoa học đã được chú ý triển khai hiệu quả. Từ 2016 đến
nay đã có 05 Đề tài thuộc Chương trình Khoa học công nghệ trọng điểm cấp Bộ
2016; 06 Đề tài trọng điểm cấp Bộ năm 2017 - 2018 được triển khai; nghiên cứu,
xuất bản Báo cáo quốc gia thường niên về giáo dục nghề nghiệp năm 2016, 2017;
xuất bản định kỳ 12 số Tạp chí Giáo dục nghề nghiệp mỗi năm, góp phần tuyên
truyền về hoạt động giáo dục nghề nghiệp, khoa học giáo dục nghề nghiệp, góp
phần ứng dụng khoa học công nghệ vào thực tiễn.

16


2.3.

Đánh giá chung tác động của chính sách đến phát triển nguồn nhân lực VN

2.3.1. Về chính sách đào tạo nhân lực trình độ cao
a) Ưu điểm
-

Phát triển về mặt số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo chất lượng
đầu ra với tỉ lệ người có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên có việc làm ngày
càng tăng.

-


Gia tăng số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao làm kiềm chế và giảm phát số
lượng người thất nghiệp có trình độ chuyên môn kĩ thuật từ cao đẳng trở lên.

-

Việc thực hiện phát triển đội ngủ giáo viên đã làm gia tăng số lượng những giảng
viên có trình độ tiến sĩ trở lên ở các trường Cao đẳng, Đại học và trên Đại học.

-

Về sự đầu tư của Nhà nước, có thể thấy Việt Nam chi 5%-6%GDP cho giáo dục –
đào tạo, nếu tính cả đóng góp của công tác xã hội hóa thì con số đạt 7%-8%GDP;
con số này cho thấy sự quan tâm đến giáo dục – đào tạo trong mỗi gia đình Việt.

b) Nhược điểm và nguyên nhân
-

Trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, ngành Giáo dục vẫn đang
phải đối mặt với những thách thức lớn như: Tỉ lệ nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn kĩ thuật đạt trình độ cao đẳng trở lên so với tổng số lực lượng lao
động chưa cao, chỉ chiếm khoảng 13% tổng số lực lượng lao động. Nguyên nhân:

 Hàng năm số lượng sinh viên ra trường lớn những số sinh viên có việc làm lại rất
ít. Theo thống kê có đến hơn 60% sinh viên ra trường không có việc làm, số có
việc làm thì cũng có người làm việc không đúng ngành được học. Hơn nữa, một
bộ phận nguồn nhân lực có trình độ từ cao đẳng trở lên chưa bắt kịp với nhu cầu,
đòi hỏi của xã hội ngoài ra một bộ phận khác thì lại làm những công việc bậc thấp
– một dạng của “thất nghiệp trá hình”.
 Trong khi những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng mềm và
phẩm chất lao động công nghiệp hiện đại tại doanh nghiệp là rất cụ thể với từng

nghề và vị trí làm việc thì sinh viên ra trường thường chỉ được trang bị những lý
thuyết chung, năng lực thực hiện yếu, thiếu những kỹ năng sống quan trọng. Đặc
17


biệt, lao động trình độ cao yếu tin học và ngoại ngữ, thiếu những công cụ sắc bén
để làm việc đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng làm việc độc lập và nâng cao năng
suất. Ví dụ: Năm 2012, Ngân hàng Thế giới công bố kết quả khảo sát về mức độ
đáp ứng các kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp đại học so với yêu cầu của nhà tuyển
dụng tại 7 quốc gia Đông Á, trong đó có Việt Nam: “thái độ làm việc được đánh
giá ở mức thiếu hụt nghiêm trọng; các kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng công nghệ
thông tin, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng giải quyết vấn đề thiếu hụt lớn”.
 Do thiếu đội ngũ giảng viên trình độ cao; nội dung chương trình đào tạo chưa
thường xuyên cập nhật đáp ứng sự thay đổi của khoa học - công nghệ; quản lý
kinh tế trong môi trường quốc tế hóa; phương pháp giảng dạy và học tập lạc hậu,
cũng như ý chí và quyết tâm vươn lên trau dồi kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp của
một bộ phận không nhỏ lớp trẻ hiện nay còn hạn chế.
 Cơ sở vật chất, trang thiết bị thí nghiệm thực hành, phòng thí nghiệm, thư viện,
giáo trình nghèo nàn. Cho dù các trang thiết bị có tốt thì cũng chỉ tập trung ở
những trưỡng đại học lớn ở những thành phố như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, … Điều này là do đầu tư ngân sách nhà nước vẫn chưa hợp lý.
 Việc dịch chuyển lao động toàn cầu cũng gây nguy cơ tương tự, mà biểu hiện đầu
tiên là nhiều du học sinh không quay về nước phục vụ sau quá trình học tập ở
nước ngoài. Điều này là do ở nước ngoài, họ được giữ lại với một công việc tốt, có
lương cao, … còn khi về Việt Nam chưa chắc họ đã có những như trên.
-

Mặc dù số lượng tiến sĩ, phó giáo sư và giáo sư ở nước ta tăng lên một cách đáng
kể, tuy nhiên theo một kết quả điều tra thì số tiến sĩ là hơn 16 nghìn người, nhưng
có tới 70% giữ chức vụ quản lý, chỉ còn 30% làm công tác chuyên môn. Thậm chí,

số lượng tăng những chưa chắc chất lượng cũng tăng. Nguyên nhân:

 Trình độ ngoại ngữ, tin học của đội ngũ giáo viên đại học còn thấp. Các trường mở
ngành đào tạo theo chương trình tiên tiến, đội ngũ giáo viên dạy bằng tiếng Anh
chưa nhiều, mới chỉ tập trung ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Chất lượng

18


đội ngũ giảng viên còn là dấu hỏi lớn khi nhiều cán bộ giảng viên không tham gia
NCKH, chưa có bài báo đăng trên tạp chí khoa học trong nước và nước ngoài, …
 Chưa thực sự có cơ chế chính sách đặc thù cho cán bộ giảng viên giảng dạy có
trình độ chuyên môn cao dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám diễn ra thường
xuyên. Thực tiễn, nhiều trường cho cán bộ giảng viên đi học tập nâng cao chuyên
môn nhưng sau đó họ sẵn sàng trả lại kinh phí hỗ trợ đào tạo để chuyển sang môi
trường làm việc có thu nhập hoặc có môi trường học thuật tốt hơn. Bên cạnh đó,
chưa có cơ chế, chính sách đãi ngộ nhằm thu hút đội ngũ cán bộ giảng viên có
trình độ (học hàm, học vị) cao về công tác. Tư duy lạc hậu, thiếu khoa học trong
sử dụng nguồn nhân lực trong các đơn vị đào tạo vẫn còn tồn tại nên chưa phát
huy được trình độ năng lực của người tài trong đơn vị.
-

Bên cạnh những thành công đã đạt được, chính sách đầu tư cho giáo dục, đào tạo
của Việt Nam còn có những hạn chế, bất cập như cơ cấu đầu tư cho giáo dục đào
tạo chưa hợp lý. Điều này được thể hiện ở cơ cấu chi cho các nhiệm vụ, giữa các
bậc học, nội dung chi trong từng bậc học và ngành nghề trong từng bậc học.

Ta thấy tỷ lệ chi thường xuyên chiếm trên dưới 82% tổng chi ngân sách nhà nước
cho giáo dục, đào tạo. Trong chi thường xuyên, chi cho con người chiếm 80% tổng
chi, còn lại chi cho hoạt động dạy học, nâng cao chất lượng giáo trình. Chi đầu tư

xây dựng cơ bản còn thấp so với nhu cầu nâng cao cơ sở trường học, mua sắm
thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm... Chất lượng đội ngũ giáo viên chưa được quan
19


tâm đúng mức. Cơ cấu chi chưa hợp lý dẫn đến chất lượng giáo dục thấp. Học sinh
tốt nghiệp còn hạn chế về tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, năng lực vận dụng
những kiến thực được học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, thiếu kiến thức và
kỹ năng cần thiết cho hội nhập, khả năng thích ứng với công việc, ý thức tổ chức
kỷ luật còn hạn chế.
2.3.2. Đối với chính sách đào tạo nghề
a) Ưu điểm
- Hệ thống giáo dục nghề nghiệp đã và đang thực hiện đổi mới khá mạnh mẽ, đồng
bộ, nhất là trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Chỉ trong thời gian
ngắn (3 năm), gần một trăm văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, kịp
thời hướng dẫn triển khai thi hành Luật Giáo dục nghề nghiệp, tạo điều kiện tốt
nhất về pháp lý để thực hiện đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp.
-

Các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục nghề nghiệp (chương trình đào tạo, nhà
giáo, cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo) được cải thiện, từng bước chuẩn hóa, hiện đại
hóa, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đổi mới giáo dục nghề nghiệp; nhiều cơ sở
giáo dục nghề nghiệp đã có những nghề đạt tiêu chí kiểm định của Úc, Đức và Tổ
chức ABET (Mỹ).

-

Công tác tuyên truyền về giáo dục nghề nghiệp được chú trọng, nhận thức của
người học, người dân và xã hội về giáo dục nghề nghiệp đã có những chuyển biến
nhất định. Điều này giúp học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp có việc làm đúng

ngành, nghề đào tạo đạt tỷ lệ cao và có thu nhập ổn định đã tác động tốt đến tâm lý
của người học và xã hội, góp phần làm thay đổi quan điểm và cách nhìn nhận của
xã hội về học nghề, lập nghiệp.

b)

Nhược điểm và nguyên nhân
-

Nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan chức năng về giáo dục
nghề nghiệp ở một số địa phương chưa đầy đủ, thậm chí còn coi nhẹ; một bộ phận
xã hội vẫn chưa nhận thức đúng về vai trò quan trọng của giáo dục nghề nghiệp
trong đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội; tâm lý coi trọng bằng

20


cấp vẫn còn nặng nề; việc định hướng nghề nghiệp, phân luồng học sinh sau tốt
nghiệp THCS, THPT không đạt mục tiêu đề ra.
-

Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn bất cập về phân bố giữa các vùng miền,
ngành nghề, trình độ đào tạo; quy mô đào tạo của nhiều cơ sở giáo dục nghề
nghiệp còn nhỏ; việc sáp nhập cơ sở giáo dục nghề nghiệp ở một số địa phương
còn mang tính hành chính, cơ học, chưa có nguyên tắc sáp nhập cụ thể, chưa có cơ
chế bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp sau sắp xếp

-

Việc gắn kết với doanh nghiệp còn nhiều hạn chế; chưa có quy định cụ thể về

trách nhiệm của doanh nghiệp chỉ được sử dụng, tuyển dụng lao động phải qua
đào tạo nghề nghiệp ở tất cả các lĩnh vực lao động theo quy định của Luật Giáo
dục nghề nghiệp; nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đúng về trách nhiệm xã hội
trong việc tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp.

-

Việc huy động các nguồn lực đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển; ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp những năm
gần đây tuy có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tương xứng với
mục tiêu nhiệm vụ đề ra; nhiều địa phương chưa ưu tiên nguồn lực đầu tư cho phát
triển giáo dục nghề nghiệp.

-

Công tác đào tạo nguồn nhân lực hiện nay về cơ bản đáp ứng được những yêu cầu
về hình thức đào tạo, chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên,
bên cạnh ưu điểm vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Việc xác định nhu cầu đào tạo
gặp rất nhiều khó khăn do người dân vẫn chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của
học nghề mặc dù đã có những công tác tuyên truyền. Điều này là do vấn đề học
nghề và hướng nghiệp vẫn chưa vượt qua định kiến về khoa cử bằng cấp, danh vị
xã hội trong một số gia đình.

21


PHẦN III: NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM
- Định hướng nghề nghiệp và phân luồng học sinh ngay khi còn học phổ thông. Nâng cao
chất lượng tuyển sinh đầu vào của các cơ sở giáo dục đại học và kiểm tra, giám sát chặt

chẽ chất lượng đầu ra sinh viên của các cơ sở giáo dục đại học, nhất là đào tạo đại học và
sau đại học.
- “Ở đâu có thầy tốt chắc chắn sẽ có nhiều sinh viên giỏi”, và chất lượng giảng viên sẽ
quyết định sự sống còn của các cơ sở giáo dục đại học. Vậy nên giảng viên cần đổi mới
phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học,
coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học
vẹt, học chay. Đổi mới và tổ chức thực hiện nghiêm minh chế độ thi cử. Đề cao tính tự
chủ của trường đại học. Chú trọng trang bị và nâng cao kiến thức tin học, ngoại ngữ cho
học sinh, sinh viên.
- Xây dựng và thực hiện chính sách sử dụng, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ nhân lực nhất là
các chuyên gia giỏi, các nhà khoa học đầu ngành, những nhân lực trẻ tài năng. Tạo môi
trường thuận lợi, điều kiện vật chất để họ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng
đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Mạnh dạn sử dụng, giao trọng trách, nhiệm
vụ lớn và tạo điều kiện để họ thử thách trong môi trường sáng tạo.
- Có kế hoạch bồi dưỡng tạo nguồn giảng viên để gửi đi đào tạo trình độ tiến sĩ ở nước
ngoài, nâng dần chuẩn giảng viên có trình độ tiến sĩ trong toàn hệ thống theo các đề án có
sử dụng ngân sách nhà nước, các chương trình học bổng hiệp định và một số học bổng
song phương.
- Chú trọng việc vận dụng kiến thức, kinh nghiệm khoa học của đội ngũ trí thức trong
việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua cơ chế liên kết giữa các trường đại
học, cao đẳng, các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp, để họ có điều kiện tham gia
giảng dạy, nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
- Điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho giáo dục, đào tạo theo hướng tăng chi đầu tư phát triển,
giảm chi thường xuyên. Trước hết, đầu tư mua giáo trình các môn học khoa học tự nhiên,
22


công nghệ của các cấp học từ các nước có nền giáo dục hiện đại. Đầu tư có trọng tâm, ưu
tiên, đặc biệt cho những ngành đào tạo khoa học cơ bản, có nhu cầu xã hội hạn chế, khả
năng xã hội hóa không cao. Cần thực hiện quyết liệt các giải pháp về cơ cấu lại chi ngân

sách nhà nước đối với khối giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng: Không
bao cấp dàn trải đối với tất cả các cơ sở đào tạo; Thực hiện nguyên tắc từng bước tăng thu
từ người học để bù đắp chi phí đào tạo theo lộ trình điều chỉnh giá, phí quy định tại Nghị
định 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ. Ngoài ra, để giảm bớt áp lực chi tiêu từ ngân scahs
nhà nước, huy động được các nguồn lực phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo, Nhà nước cần đẩy mạnh xã hội hoá lĩnh vực giáo dục, đào tạo, đặc biệt trong đào tạo
đại học thuộc các ngành kỹ thuật – công nghệ và dạy nghề.
- Nhà nước hỗ trợ trực tiếp học phí đối với một số đối tượng thuộc diện chính sách; cho
vay tín dụng ưu đãi đối với sinh viên thuộc gia đình nghèo, cận nghèo. Phương thức phân
bổ ngân sách nhà nước cho các trường đại học chuyển sang cơ chế đặt hàng. Trường nào
tốt thì Nhà nước sẽ đặt hàng, trường nào làm không tốt ngân sách nhà nước sẽ không cấp
kinh phí.
- Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Cụ thể: quy hoạch mạng lưới cơ
sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, bảo đảm quy mô, cơ cấu, hợp lý về ngành,
nghề, trình độ đào tạo (đa ngành, chuyên ngành), vùng miền, chuẩn hóa, hiện đại hóa, có
phân tầng chất lượng. Sáp nhập hoặc giải thể các cơ sở giáo dục nghề nghiệp yếu kém,
hoạt động không hiệu quả, không đủ năng lực triển khai tự chủ; từng bước sáp nhập
trường trung cấp công lập vào trường cao đẳng; sáp nhập trung tâm giáo dục thường
xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp, trung tâm giáo dục nghề nghiệp thành
một cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn cấp huyện và hợp tác chặt chẽ với các
trường trung cấp, cao đẳng để tổ chức đào tạo. Tập trung nguồn lực đầu tư một số cơ sở
giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, ngành, nghề trọng điểm đã được quy hoạch theo
các cấp độ (quốc tế, khu vực ASEAN và quốc gia) và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
chuyên ngành, các nhóm đối tượng đặc thù. Khuyến khích thành lập mới cơ sở giáo dục
nghề nghiệp tư thục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp của doanh nghiệp và có vốn đầu tư nước
ngoài.
23


- Nâng cao chất lượng hoạt động dự báo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn về nhu cầu nguồn

nhân lực, nhu cầu việc làm và nhu cầu đào tạo theo lĩnh vực, ngành nghề, cấp trình độ
đào tạo; hình thành cơ sở dữ liệu về cung cầu thị trường lao động.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, khuyến khích doanh nghiệp tham gia hoạt động
giáo dục nghề nghiệp. Phát huy vai trò của các đơn vị sử dụng lao động, người sử dụng
lao động, hiệp hội nghề nghiệp trong đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp.
Hình thành mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các trung tâm dịch
vụ việc làm, sàn giao dịch việc làm, hội chợ việc làm nhằm hỗ trợ người học tìm việc làm
sau tốt nghiệp. Chú trọng phát triển tinh thần khởi nghiệp trong giáo dục nghề nghiệp.

24


KẾT LUẬN
Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá phải gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Với Việt Nam, để không tụt hậu
xa so với trình độ chung của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, chúng ta
phải thật sự có các chính sách đổi mới công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao.
Trong kinh tế tri thức, tri thức là yếu tố chủ yếu của sản xuất, là lợi thế của cạnh
tranh, là chất lượng của nguồn nhân lực, là sức mạnh của nội lực và là sức hút chủ yếu
của ngoại lực. Chất lượng nguồn nhân lực, tri thức con người phải thông qua giáo dục và
đào tạo mới có được. Do vậy, nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực
con người Việt Nam trên cơ sở phát triển giáo dục và đào tạo là động lực của sự phát
triển kinh tế tri thức, là vấn đề có ý nghĩa sống còn trước xu thế toàn cầu hoá.

25


×