BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------
VŨ THỊ CẨM VÂN
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO
CỦA HỌC SINH LỚP 3
TRONG DẠY HỌC TẬP LÀM VĂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Hà Nội, 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------
VŨ THỊ CẨM VÂN
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO
CỦA HỌC SINH LỚP 3
TRONG DẠY HỌC TẬP LÀM VĂN
Chuyên ngành: LL&PP dạy học bộ môn Văn và Tiếng Việt
Mã số: 8 140 111
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Thị Lan
Hà Nội, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình của riêng tôi. Các số liệu
và tài liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu
không trùng với bất kì công trình nào được công bố trước đó.
Tôi xin chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình !
Hà Nội, tháng 7 năm 2020
Tác giả luận văn
Vũ Thị Cẩm Vân
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS. TS Trịnh Thị Lan,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn trường Đại học sư phạm Hà Nội, khoa Ngữ
văn, đặc biệt là các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn Phương pháp dạy học đã
định hướng và giúp đỡ tôi trong quá trình triển khai luận văn.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong hội
đồng bảo vệ đã có những nhận xét, đánh giá cho luận văn.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
đã luôn tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ động viên tôi trong quá trình
học tập và hoàn thành luận văn. Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 7 năm 2020
Tác giả luận văn
Vũ Thị Cẩm Vân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ đầu thế kỉ XXI đến nay, dạy học theo hướng phát triển năng lực
người học trong đó có năng lực sáng tạo đã trở thành xu hướng giáo dục của
toàn cầu và khu vực. Chương trình giáo dục phổ thông của nhiều nước trên
thế giới đã chuyển hướng từ dạy học cung cấp nội dung sang dạy học theo
định hướng phát triển năng lực người học. Song song với quá trình phát triển
kinh tế xã hội của thời đại 4.0, nền kinh tế dựa vào số hóa và tri thức thay cho
lao động thủ công là quá trình đòi hỏi sự thay đổi của người lao động về kiến
thức, kĩ năng phù hợp với thời đại mới. Điều này đã và đang đặt ra những yêu
cầu và thách thức mới với nền giáo dục toàn cầu.
Giáo dục Việt Nam không nằm ngoài xu hướng phát triển của toàn cầu
và các nước tiên tiến trong khu vực. Nghị quyết số 29 (năm 2013) của Đảng
và nghị quyết số 88 (năm 2014) của Quốc hội đã đưa ra các yêu cầu đổi mới
căn bản và toàn diện trong giáo dục theo hướng phát triển năng lực người học.
Điều này trở thành hành lang pháp lí và cơ hội cho sự phát triển năng lực sáng
tạo trong nhà trường. Nó trở thành một chủ đề cấp thiết mang tính quốc gia
nhận được rất nhiều sự quan tâm của những người làm giáo dục.
Các nhà trường đều dạy học theo định hướng phát triển năng lực, đầu
tư nhiều tiền bạc và công sức cho việc nâng cao nhận thức giáo viên về vấn đề
này. Chương trình giáo dục phổ thông mới đã đề cập kĩ lưỡng về vấn đề phát
triển năng lực cho học sinh ở từng bộ môn, từng cấp học, từng khối lớp một
cách tỉ mỉ và kĩ lưỡng để dần khắc phục những bất cập đang tồn tại trong
chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, tạo cơ hội cho người dạy và
người học phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình.
Môn Tiếng Việt - Ngữ văn là một trong những môn học giúp phát huy
được nhiều năng lực, đặc biệt là năng lực sáng tạo của người học. Chương
1
trình giáo dục phổ thông môn ngữ văn năm 2018 nêu rõ: “Mục tiêu của
chương trình: Góp phần giúp học sinh phát triển năng lực chung: năng lực tự
chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết các vấn đề
sáng tạo. Đặc biệt, môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ
và năng lực văn học: rèn các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe; có hệ thống kiến
thức phổ thông nền tảng về Tiếng Việt và văn học, phát triển tư duy hình
tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản thông dụng; biết
tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và
các giá trị thẩm mỹ nói chung trong cuộc sống ”. Nhưng để hiểu thấu đáo và
vận dụng các phương pháp dạy học hiệu quả nhằm phát triển năng lực cho
học sinh không phải điều mà giáo viên nào cũng làm được. Vậy làm sao để
mỗi giáo viên đều nắm vững và vận dụng thành công các phương pháp dạy
học theo hướng phát triển năng lực trong lớp học của mình, tôn trọng sự khác
biệt về năng lực, trình độ, sở thích, nhu cầu và nền tảng xuất thân của mỗi học
sinh?
Thực trạng dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học hướng tới phát triển năng lực
sáng tạo còn có những bất cập. Dạy học phát triển năng lực giúp người giáo
viên tìm ra được những cách tiếp cận phù hợp với mỗi học sinh. Không giống
như phương pháp “một chiếc áo cùng cỡ vừa cho tất cả”, dạy học theo định
hướng phát triển năng lực cho phép học sinh được học tập theo khả năng, sở
thích của bản thân, được áp dụng những gì đã học vào cuộc sống thông qua sự
gắn kết giữa bài học và đời sống. Điều này giúp học sinh thích ứng với những
thay đổi của cuộc sống trong tương lai. Đối với một số học sinh, dạy học phát
triển năng lực cho phép đẩy nhanh tốc độ hoàn thành chương trình học, tiết
kiệm thời gian và công sức của việc học tập.
Như vậy, phát triển năng lực của học sinh nói chung và phát triển năng
lực sáng tạo cho học sinh ngay từ những lớp học đầu tiên của chương trình
giáo dục phổ thông là việc vô cùng quan trọng. Bởi nhờ có năng lực sáng tạo
2
con người có thể đối mặt với những thử thách trong cuộc sống. Năng lực sáng
tạo cũng là điều kiện để con người vượt lên những gì mình đã có chinh phục
những thành tựu lớn lao hơn, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Để học sinh có
được năng lực sáng tạo, đòi hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết thấu
đáo về vấn đề này, có phương pháp cụ thể phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi và
điều kiện cuộc sống thực tiễn để mỗi bài học thực sự mang lại hiệu quả cho
cuộc sống của học sinh.
Chương trình giáo dục phổ thông ngữ văn 2018 xác định: “Chương
trình lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết) làm trục
chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo
định hướng năng lực và đảm bảo tính chỉnh thể, sự nhất quán trong tất cả các
cấp học, lớp học. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về Tiếng Việt và
văn học được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản;
phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói.” Như
vậy, việc phát triển năng lực viết là một trong những việc vô cùng quan trọng
đối với việc phát triển năng lực ngữ văn và các năng lực chung của người học.
Tuy nhiên, thực tế dạy học viết hiện nay đang phải chịu rất nhiều áp lực từ các
kì kiểm tra đánh giá nên nảy sinh nhiều hiện tượng như dạy viết theo mẫu
cứng nhắc, học sinh tạo ra một sản phẩm gần giống nhau, học thuộc và trả bài
khi thi. Đối với học sinh Tiểu học, tuy áp lực của việc thi cử ít hơn cấp THCS,
cấp THPT nhưng năng lực viết vẫn yếu do quá trình dạy và học học sinh bị
dập khuôn theo mẫu.
Trong dạy học tập làm văn ở Tiểu học, chúng tôi luôn trăn trở: Làm sao
để giáo viên và học sinh thoát khỏi những lối mòn trong dạy học và kiểm tra
đánh giá? Làm sao để năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân được bộc lộ ngay
trong quá trình học tập và các sản phẩm học tập? Làm sao để học sinh không
bị lệ thuộc vào các bài văn mẫu, phải học thuộc văn của người khác mỗi khi
đi thi? Từ những vấn đề xã hội đang đòi hỏi và thực tiễn dạy học tập làm văn
3
hiện nay, từ mong muốn góp phần thay đổi tích cực quá trình dạy học tập làm
văn trong trường Tiểu học để phát triển tối đa năng lực của học sinh, chúng
tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: Phát triển năng lực sáng tạo của học sinh
lớp 3 trong dạy học tập làm văn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm gần đây khi dạy học theo định hướng phát triển năng
lực được quan tâm đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về phát triển
năng lực nói chung, năng lực sáng tạo nói riêng, cũng như các vấn đề về phát
triển năng lực trong môn ngữ văn ở các cấp học. Bàn về vấn đề năng lực và
phát triển năng lực, chúng ta đã có rất nhiều sách, luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ, các bài báo, các công trình nghiên cứu sâu về vấn đề này. Các nhà
nghiên cứu đã đề cập tới tất cả các dạng năng lực, nhiều biện pháp phát triển
năng lực cho học sinh ở các cấp học, các môn học trong nhà trường.
2.1. Những nghiên cứu về phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh
Nghiên cứu về lĩnh vực phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh, ở
Việt Nam một số tác giả đóng góp nổi bật như: Hoàng Chúng, Nguyễn Cảnh
Toàn, Vũ Dương Thụy, Tôn Hân, Trần Thị Bích Liễu, Đỗ Ngọc Miên, Nguyễn
Huy Tú… Các công trình chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực là tâm lí sáng tạo
và phương pháp luận.
Cuốn sách: Dạy học phát triển năng lực cho học sinh phổ thông: Lý
thuyết và thực hành của tác giả Trần Thị Bích Liễu là một trong những cuốn
sách có đề cập đến việc phát triển năng lực của học sinh trong môn ngữ văn,
hướng dẫn giáo viên thiết kế các tiết học ngữ văn theo hướng phát triển năng
lực sáng tạo nhưng không đề cập đến đối tượng học sinh Tiểu học. Tác giả
Hoàng Chúng trong cuốn Rèn luyện khả năng sáng tạo toán học ở nhà trường
phổ thông, đã tập trung nghiên cứu vấn đề rèn luyện cho học sinh phát triển
các phương pháp suy nghĩ cơ bản trong sáng tạo toán học như đặc biệt hóa,
tổng quát hóa, tương tự hóa và cho rằng phương pháp này có thể vận dụng
trong giải đề mở rộng, đào sâu và hệ thống hóa kiến thức. Bên cạnh đó, một
4
số luận văn thạc sĩ cũng đề cập đến vấn đề này như luận văn: Đề xuất xây
dựng đề mở nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh chuyên văn cấp
THPT của tác giả Nguyễn Thị Minh Duyên đã nhấn mạnh một phương pháp
cụ thể để phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh chuyên văn cấp 3 là ra đề
mở và đưa ra một số mẫu đề mở cho học sinh lớp 12. Tác giả Đỗ Ngọc Thống
chủ biên của bộ sách Dạy học phát triển năng lực Tiếng Việt Tiểu học;Dạy
học phát triển năng lực Ngữ Văn THCS và THPT có nội dung đề cập tới các
phương pháp dạy học cụ thể của từng phân môn, từng dạng văn bản với các
thiết kế mẫu theo định hướng dạy học phát triển năng lực theo chương trình
sách giáo khoa hiện hành, các vấn đề lí luận chung về năng lực, các mẫu giáo
án cho các dạng văn bản, các phân môn cụ thể. Điểm qua một số công trình
nghiên cứu một số năm gần đây, ta có thể nhận thấy vấn đề phát triển năng
lực sáng tạo đã và đang được quan tâm rất nhiều.
Nổi bật nhất trong số các nghiên cứu về việc phát triển năng lực sáng
tạo cho học sinh Tiểu học là đề tài luận án tiến sĩ khoa học giáo dục chuyên
ngành Lý luận và lịch sử giáo dục mang tên Phát triển một số yếu tố của tư
duy sáng tạo cho học sinh Tiểu học, tác giả Đỗ Ngọc Miên đã đề cập tới các
đặc trưng của tư duy sáng tạo của học sinh Tiểu học, thực trạng phát triển tư
duy sáng tạo cho học sinh Tiểu học hiện nay và một số giải pháp phát triển tư
duy sáng tạo cho học sinh lớp 4, 5 ở tất cả các bộ môn của chương trình Tiểu
học. Đề tài chưa đề cập đến một vấn đề cụ thể là phát triển năng lực sáng tạo
cho học sinh lớp 3 trong phân môn tập làm văn, chưa đưa ra các biện pháp cụ
thể giúp ích cho việc dạy và học phân môn này mà dừng ở các vấn đề lý
thuyết chung cho học sinh Tiểu học và một số giáo án mẫu ở các phân môn.
2.2. Những nghiên cứu về dạy học tập làm văn và phát triển năng lực sáng
tạo trong dạy học tập làm văn
Nhắc đến dạy học tập làm văn, chúng ta đã có rất nhiều các công trình
nghiên cứu có giá trị. Trong cuốn Văn miêu tả và phương pháp dạy văn miêu
5
tả (Bậc Tiểu học), tác giả Nguyễn Trí đã đưa tới cho độc giả những hiểu biết
về văn miêu tả trong nhà trường, các kiểu bài miêu tả ở bậc Tiểu học và cách
hướng dẫn học sinh quan sát, dựng đoạn,… và một số bài văn miêu tả đặc sắc
để tham khảo. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Trí cũng viết cuốn Dạy học tập
làm văn ở Tiểu học đưa ra vị trí, vài trò của phân môn tập làm văn trong
chương tác giả Nguyễn Trí trình và mối quan hệ của phân môn này với các
phân môn khác trong chương trình dạy và học Tiếng Việt hiện hành, cách tiếp
cận từng kiểu bài tả và kể trong chương trình. Nhưng cuốn sách chưa nhắc tới
việc dạy học tập làm văn theo định hướng phát triển năng lực mà hướng dẫn
dạy theo chương trình cải cách trước đây. Cuốn Hướng dẫn dạy tập làm văn
lớp 5 gồm 2 tập của tác giả Trần Mạnh Hưởng đã đưa các bài hướng dẫn dạy
được chia thành nhiều cấp độ khác nhau, phù hợp với năng lực của từng loại
đối tượng học sinh, giúp giáo viên và phụ huynh hướng dẫn học sinh học hiệu
quả nhất phân môn tập làm văn. Một số luận văn, luận án, báo cáo khoa học
nghiên cứu về lĩnh vực dạy – học tập làm văn đã gặt hái được không ít thành
tựu. Ví dụ luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Bích Phương nhắc tới phương pháp
dạy học tập làm văn miêu tả lớp 4 qua các hoạt động trải nghiệm. Trong đề
tài, tác giả nhắc tới cách xây dựng quy trình dạy học trải nghiệm với phân
môn tập làm văn nhằm mang lại hiệu quả cao hơn trong sản phẩm đầu ra của
học sinh. Báo cáo tổng kết đề tài khoa học cấp bộ mang tên Các giải pháp
nâng cao chất lượng dạy học tập làm văn ở Tiểu học của tác giả Phan Thị
Dung ở Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2012 đã đề cập tới các biện pháp nâng
cao chất lượng dạy học tập làm văn ở Tiểu học, hệ thống hóa những điểm bất
cập của chương trình tập làm văn từ lớp 2 đến lớp 5 và đưa ra các biện pháp
liên quan đến điều chỉnh nội dung chương trình để nâng cao chất lượng dạy
học tập làm văn ở trường Tiểu học. Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới
6
một số lượng không nhỏ sách in các bài văn mẫu từ lớp 2 đến lớp 5 mang tính
chất tham khảo cho học sinh và phụ huynh.
Phỏng theo các nghiên cứu của các tác giả Đỗ Ngọc Miên, Trần Thị
Bích Liễu, cô giáo Nguyễn Võ Khánh Huyền ở Phú Yên đã cụ thể hóa thành
đề tài: Phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh trong dạy học ở
trường Tiểu học Nguyễn Viết Xuân, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. (Đại
học Sư phạm Hà Nội năm 2018). Trong luận văn, cô giáo Khánh Huyền đã đề
cập tới 3 biện pháp như sau: Tạo dựng môi trường lớp học tư duy, tổ chức câu
lạc bộ “Nhà văn của tương lai”, nâng cao nhận thức và kĩ năng cho giáo viên
trong nhà trường về dạy học theo hướng phát triển năng lực.
Tóm lại: Từ việc khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan đến đề
tài, chúng tôi nhận thấy rằng: Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về phát triển
năng lực. Các đề tài đi sâu cung cấp hiểu biết về dạy học theo định hướng
phát triển năng lực, cách thức triển khai các giáo án dạy học theo định hướng
này trong tất cả các môn học ở trường Tiểu học nói chung và môn Tiếng Việt
nói riêng. Ở khía cạnh phát triển năng lực sáng tạo trong dạy học, các tác giả
thường chú ý đến đối tượng học sinh cuối cấp của tiểu học mà chưa dành sự
quan tâm thích đáng đến một giai đoạn nền tảng tạo vô cùng quan trọng đó là
những lớp đầu cấp Tiểu học. Đề tài Phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh
lớp 3 trong dạy học tập làm văn là một mảnh ghép còn thiếu trong bức tranh
rực rỡ sắc màu ấy.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1: Mục đích nghiên cứu
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi nghiên cứu những
vấn đề về phát triển năng lực sáng tạo, chỉ ra các bất cập trong quá trình dạy
học tập làm văn cho học sinh Tiểu học hiện nay, nghiên cứu để tìm ra các giải
pháp nâng cao chất lượng dạy học tập làm văn cho học sinh lớp 3, trong đó
7
chú trọng vấn đề phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh nhằm mục đích
phát triển năng lực viết cho các em theo hướng phát triển năng lực sáng tạo.
3.2: Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng đến làm rõ những vấn đề sau:
- Tìm hiểu và khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về việc phát triển
năng lực sáng tạo cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng.
- Xác định tầm quan trọng, nguyên tắc xây dựng, các giải pháp dạy học
phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 3 trong dạy học tập làm văn.
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính phù hợp, hiệu quả của
những biện pháp dạy học tập làm văn nhằm phát triển năng lực sáng tạo học
sinh lớp 3 nói riêng và học sinh Tiểu học nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1: Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề dạy học tập làm văn theo hướng phát triển năng lực sáng tạo
cho học sinh lớp 3.
4.2: Phạm vi nghiên cứu
Vì năng lực sáng tạo của học sinh được bộc lộ rõ nhất thông qua các
hoạt động trong quá trình học tập nên đề tài này chúng tôi chủ trương nghiên
cứu việc đưa ra hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn
tập làm văn để phát triển năng lực cho học sinh lớp 3.
Tập làm văn là một phân môn nằm trong môn Tiếng Việt, gắn với các
chủ điểm dạy học (theo sách giáo khoa hiện hành). Phát triển năng lực sáng
tạo có thể thực hiện trong các phân môn khác, tuy nhiên trong đề tài chúng tôi
chỉ chú trọng vào phân môn tập làm văn, tách ra khỏi các nhiệm vụ khác của
8
Tiếng Việt ở Tiểu học. Nội dung dạy học tập làm văn gồm: Dạy viết văn bản
hành chính, văn bản thông tin, rèn kĩ năng nghe nói, dạy viết văn bản nghệ
thuật. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi chọn nghiên cứu
phát triển năng lực viết của học sinh gắn với nội dung viết các văn bản kể và
tả theo các chủ điểm có sẵn ở sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3.
Thực trạng dạy và học tập làm văn hiện nay cho thấy hầu như học sinh
chưa tích cực chủ động trong việc thực hiện các yêu cầu viết đoạn, viết bài.
Học sinh còn dựa vào văn mẫu và hướng dẫn của giáo viên nên các sản phẩm
của học sinh chưa đa dạng, chưa mang màu sắc cá nhân và chưa sáng tạo. Vì
vậy để học sinh chủ động và sáng tạo trong quá trình học tập phân môn tập
làm văn rất cần các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tối đa khả
năng của học sinh. Đề tài của chúng tôi tập trung nghiên cứu các phương pháp
nhằm khắc phục thực trạng dạy và học tập làm văn hiện nay ở lớp 3 – giai
đoạn nền tảng cho các lớp học cuối cấp Tiểu học.
Để dễ dàng thực hiện nghiên cứu và kiểm chứng về hiệu quả của các
giải pháp đưa ra trong đề tài, chúng tôi lựa chọn phạm vi nghiên cứu thực tế là
hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh lớp 3 trường TH, THCS &
THPT Thực Nghiệm KHGD, số 50 phố Liễu Giai, phường Cống Vị, quận Ba
Đình, thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1: Phương pháp nghiên cứu phân tích và tổng hợp tài liệu
Tác giả đề tài đã thu thập, lựa chọn, phân tích, tổng hợp các tài liệu từ
nhiều nguồn khác nhau một cách tổng thể, toàn diện, khoa học để đưa ra cái
nhìn khách quan, chính xác về vấn đề nghiên cứu.
5.2 Phương pháp quan sát
9
Quan sát trực tiếp các hoạt động dạy của giáo viên để thấy được hiệu
quả của việc dạy học đến từng học sinh. Quan sát hành vi, thái độ học tập của
mỗi học sinh trong quá trình tiếp nhận và xử lí thông tin.
5.3 Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả thường xuyên tham khảo ý
kiến của chuyên gia giáo dục, trao đổi với giáo viên Ngữ văn có nhiều kinh
nghiệm giảng dạy để đưa ra kết luận chính xác.
5.4: Phương pháp điều tra, khảo sát
Điều tra bằng phiếu hỏi, phỏng vấn giáo viên và học sinh ở trường TH,
THCS & THPT Thực Nghiệm KHGD để có kết luận về thực trạng dạy học
tập làm văn nói chung và tập làm văn lớp 3 nói riêng theo hướng phát triển
năng lực người học.
5.5: Phương pháp thực nghiệm
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành thực nghiệm trên hai
nhóm học sinh lớp 3 có đầu vào tương đương nhau về năng lực và kết quả học
tập nhưng làm việc với hai hướng khác nhau.
Nhóm TN học theo hướng phát triển năng lực, làm đề kiểm tra theo
hướng tiếp cận trí tuệ và phong cách học tập của cá nhân.
Nhóm ĐC học theo cách truyền thống, làm chung một đề kiểm tra duy
nhất.
6. Đóng góp mới của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của dạy học phát triển năng lực sáng tạo cho
học sinh lớp 3.
10
- Đề xuất nguyên tắc, quy trình, cách thức tổ chức dạy học tập làm văn
theo hướng phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 3.
- Điều tra, đánh giá được thực trạng việc tổ chức dạy học viết văn của
học sinh lớp 3.
- Thiết kế giáo án dạy học cho học sinh lớp 3 theo các cách tiếp cận
khác nhau.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
trọng tâm của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tổ chức dạy học phát
triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 3.
Chương 2: Một số biện pháp để phát triển năng lực sáng tạo cho học
sinh lớp 3 trong dạy học tập làm văn.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC TỔ CHỨC DẠY HỌC
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CHO HỌC SINH LỚP 3
1.1. Năng lực và năng lực sáng tạo
1.1.1 Năng lực và cấu trúc của năng lực
a. Khái niệm
Bàn về khái niệm, trong Tiếng Việt cũng như tiếng Anh, từ năng lực
được sử dụng với nhiều nghĩa cụ thể, gắn với các lĩnh vực khác nhau, trong
những tình huống và ngữ cảnh riêng biệt. Từ năng lực rất gần nghĩa với các từ
như: khả năng, kĩ năng, tiềm năng,… Trong từ điển Tiếng Việt (do Hoàng Phê
chủ biên, Viện Ngôn ngữ học – NXB Đà Nẵng 2000, tr 660 – 661) có nghĩa
gốc chung là: Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó; Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo ra cho con người
khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao.
Rất nhiều chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục đã cố gắng định nghĩa
khái niệm năng lực. Ví dụ như F. E. Weinert cho rằng: “Năng lực được thể
hiện như một hệ thống khả năng, sự thành thạo hoặc những kĩ năng thiết yếu
có thể giúp con người đủ điều kiện vươn tới một mục đích cụ thể”; Theo J
Coolahan năng lực được xem là “những khả năng cơ bản dựa trên cơ sở tri
thức, kinh nghiệm, các giá trị và thiên hướng của một con người được phát
triển thông qua thực hành giáo dục”…
Dù hiểu theo nhiều cách khác nhau nhưng khái niệm năng lực đều đề cập
tới khả năng thực hiện. Nghĩa là người học phải biết làm chứ không phải là hiểu
và biết. Hành động làm hay thực hiện phải gắn với ý thức và thái độ; phải có
kiến thức và kĩ năng, chứ không phải làm một cách máy móc, mù quáng.
12
Các nước trong khối EU đã từng bàn luận rất nhiều về khái niệm năng
lực và tuyên bố: “Để chuẩn bị cho thế hệ trẻ thành công khi đối mặt với
những thách thức của xã hội thông tin và nhận được tối đa lợi ích từ những
cơ hội và xã hội đó tạo ra đã trở thành mục tiêu quan trọng của hệ thống
giáo dục châu Âu. Nó định hướng cho sự thay đổi chính sách giáo dục, xem
xét lại nội dung chương trình và phương pháp dạy – học. Điều đó chắc chắn
càng làm gia tăng sự chú ý tới các năng lưc cơ bản, cụ thể là năng lực hướng
vào cuộc sống với mục đích suốt đời tham gia xã hội một cách tích cực”.
Theo chương trình giáo dục phổ thông của Việt Nam (2017) xác định:
“Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành và phát triển nhờ tố chất
sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động các kiến
thức, kĩ năng và thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí…thực
hiện thành công một loại hoạt động nhất, đạt kết quả mong muốn trong
những điều kiện cụ thể”.
b. Cấu trúc
Về cấu trúc nội tại của năng lực, chúng ta bắt gặp một số quan điểm
của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Theo quan điểm của các nhà sư
phạm nghề Đức và tác giả Bernd Meire - Nguyễn Văn Cường cho rằng: “Có
rất nhiều loại năng lực khác nhau. Việc mô tả cấu trúc và các thành phần của
năng lực cũng khác nhau. Cấu trúc chung của năng lực (năng lực hành động
được mô tả là sự kết hợp của bốn năng lực thành phần: Năng lực chuyên môn,
năng lực phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể. Năng lực chuyên
môn là tri thức của một môn học cụ thể. Năng lực phương pháp là những hành
động về lĩnh vực đó. Năng lực cá thể và năng lực xã hội là những yếu tố về
tâm lí và bối cảnh.
13
NL chuyên môn
NL cá thể
Năng lực hành động
NL phương pháp
NL xã hội
Bên cạnh đó, ta cũng bắt gặp quan điểm của nhà nghiên cứu Lương
Việt Thái cho rằng cấu trúc của năng lực bao gồm 3 yếu tố gồm: Một là tri
thức về lĩnh vực đó, hai là kĩ năng tiến hành hoạt động, ứng xử trong mối
quan hệ nào đó, ba là những điều kiện tâm lí đi kèm.
Cấu trúc năng lực
Hai nhóm nghiên cứu trên đều đưa ra câu trúc của năng lực bao gồm
các thành phần, yếu tố nhỏ cấu tạo thành. Còn nhóm nghiên cứu của tác giá
Hoàng Hòa Bình đã đưa ra mô hình cấu trúc năng lực bao gồm cấu trúc bề
mặt và cấu trúc bề sâu:
14
Cấu trúc bề mặt
Kĩ năng
Kiến thức
Thái độ
NL làm
NL ứng xử
NL hiểu
Cấu trúc bề sâu
Cấu trúc bề mặt gồm: kiến thức, kĩ năng, thái độ. Cấu trúc bề sâu gồm:
năng lực làm, năng lực hiểu, năng lực ứng xử. Kết hợp tất cả các yếu tố đầu
vào và đầu ra ta sẽ có cấu trúc tổng thể của năng lực.
c. Phân loại
Bên cạnh cấu trúc của năng lực, các nhà nghiên cứu còn chỉ rõ các loại
năng lực. Theo chương trình giáo dục phổ thông 2018, năng lực được phân
loại như sau:
• Năng lực chung tổng thể: Năng lực chung tổng thể là năng lực được
tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển.
Năng lực chung tổng thể bao gồm:
+ Năng lực tự chủ và tự học: Học sinh tự lực làm được những việc của
mình ở nhà và ở trường theo sự phân công, hướng dẫn. Học sinh biết chủ
động, tích cực thực hiện những công việc của bản thân trong học tập và trong
cuộc sống; không đồng tình với những hành vi sống dựa dẫm, ỷ lại, biết giúp
đỡ người khác, sống vươn lên để có lối sống tự lực…
+ Năng lực giao tiếp và hợp tác: Học sinh nhận biết được ý nghĩa của
giao tiếp trong việc đáp ứng các nhu cầu của bản thân. Học sinh biết cách kết
15
hợp ngôn ngữ với các cử chỉ, hình ảnh, âm thanh… để trình bày một vấn đề
nào đó; biết cách thiết lập các quan hệ xã hội và giải quyết các mâu thuẫn
bằng đối thoại.
+ Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Học sinh biết xác định và làm
rõ thông tin, ý tưởng mới đối với bản thân từ các nguồn tài liệu cho sẵn theo
hướng dẫn; biết phát hiện và làm rõ các vấn đề đang gặp phải; biết hình thành,
triển khai các ý tưởng mới, thực hiện ý tưởng bằng các biện pháp cụ thể trong
thực tế công việc và cuộc sống.
• Năng lực chuyên môn
+ Năng lực ngôn ngữ: Ở cấp tiểu học, yêu cầu về đọc gồm yêu cầu về
kĩ thuật đọc và kĩ năng đọc hiểu. Đối với học sinh các lớp đầu cấp (lớp 1, lớp
2), chú trọng cả yêu cầu đọc đúng với tốc độ phù hợp và đọc hiểu nội dung
đơn giản của văn bản. Đối với học sinh lớp 3, lớp 4 và lớp 5, chú trọng nhiều
hơn đến yêu cầu đọc hiểu nội dung cụ thể, hiểu chủ đề, hiểu bài học rút ra
được từ văn bản. Từ lớp 1 đến lớp 3, viết đúng chính tả, từ vựng, ngữ pháp;
viết được một số câu, đoạn văn ngắn; ở lớp 4 và lớp 5 bước đầu viết được bài
văn ngắn hoàn chỉnh, chủ yếu là bài văn kể, tả và bài giới thiệu đơn giản.
+ Năng lực văn học: Phân biệt văn bản truyện và thơ (đoạn, bài văn
xuôi và đoạn, bài văn vần); nhận biết được nội dung văn bản và thái độ, tình
cảm của người viết; bước đầu hiểu được tác dụng của một số yếu tố hình thức
của văn bản văn học (ngôn từ, nhân vật, cốt truyện, vần thơ, so sánh, nhân
hoá). Biết liên tưởng, tưởng tượng và diễn đạt có tính văn học trong viết và nói.
Đối với học sinh lớp 1 và lớp 2: Nhận biết được văn bản nói về ai, về
cái gì; nhận biết được nhân vật trong các câu chuyện, vần trong thơ; nhận biết
được truyện và thơ. Đối với học sinh lớp 3, lớp 4 và lớp 5: biết cách đọc diễn
cảm văn bản văn học; kể lại, tóm tắt được nội dung chính của câu chuyện, bài
16
thơ; nhận xét được các nhân vật, sự việc và thái độ, tình cảm của người viết
trong văn bản; nhận biết được thời gian và địa điểm, một số kiểu vần thơ,
nhịp thơ, từ ngữ, hình ảnh đẹp, độc đáo và tác dụng của các biện pháp tu từ
nhân hoá, so sánh. Hiểu được ý nghĩa hoặc bài học rút ra từ văn bản. Viết
được đoạn, bài văn kể chuyện, miêu tả thể hiện cảm xúc và khả năng liên
tưởng, tưởng tượng.
1.1.2. Sáng tạo
Sáng tạo là một yếu tố đặc trưng của con người trong hoạt động nhận
thức. Đó là một trong các phẩm chất của trí tuệ. Theo nhà nghiên cứu Trần
Thị Bích Liễu viết trong cuốn Giáo dục phát triển năng lực sáng tạo, bà cho
rằng: Sáng tạo đó là năng lực tạo ra những giải pháp mới hoặc duy nhất cho
một vấn đề thực tiễn và hữu ích. Còn theo F. Raynay và A. Rieunier cũng
khẳng định: Tính sáng tạo là năng lực tưởng tượng nhanh, nhiều lời giải độc
đáo khi đối đầu với một vấn đề. Cuốn Từ điển về sáng tạo (2007) nêu: Sáng
tạo được hiểu là khả năng của một con người, của một tổ chức đưa ra những
ý tưởng mới, có chất lượng cao và có giá trị cao; là sự tư duy theo cách mới,
là sự nhìn thấy vấn đề mới trong các vấn đề cũ. Sáng tạo là sản phẩm của các
phẩm chất và năng lực trí tuệ. Đồng quan điểm này, nhà nghiên cứu Đình
Diệu diễn đạt về sáng tạo như sau: Cái chung nhất của sáng tạo là tìm kiếm
những cái mới, một tri thức mới hay cách vận dụng mới của những tri thức
đã có một phương pháp hay một giải pháp mới cho vấn đề tưởng rằng đã cũ.
Các tài liệu tâm lí học giáo dục cơ bản thống nhất trong việc xác định cấu trúc
của sáng tạo bao gồm:
- Sự mềm dẻo linh hoạt là khả năng chủ thể biến đổi thông tin, kiến
thức đã tiếp thu được một cách dễ dàng, nhanh chóng từ góc độ, quan niệm
này sang góc độ, quan niệm khác, chuyển đổi sơ đồ tư duy có sẵn trong đầu
17
sang một hệ tư duy khác, chuyển đổi từ hành động đã trở thành thói quen sang
một hành động mới, gạt bỏ sự cứng nhắc mà con người đã có thể thay đổi
nhận thức dưới một góc độ mới, thay đổi cả những thái độ đã cố hữu trong
hoạt động tinh thần, trí tuệ.
- Sự lưu loát, trôi chảy là tổ hợp, tạo ý tưởng mới, kết hợp các yếu tố
riêng lẻ của tình huống, hoàn cảnh, sự vật, nhanh chóng.
- Sự độc đáo là tư duy độc lập trong quá trình giải quyết vấn đề, nó cho
phép con người nhìn nhận các sự vật, hiện tượng, vấn đề theo cách khác, mới
lạ so với những cách trước.
- Sự chế tạo mới là từ các thông tin đã biết, từ những ý tưởng đã có chủ
thể xây dựng được một cấu trúc mới, một kế hoạch mới với các bước tổ chức,
hành động liên tiếp và phối hợp các ý tưởng, các câu nói, các cử động…
- Sự nhạy cảm là năng lực nhanh chóng phát hiện sai lầm, mâu thuẫn,
thiếu hụt hoặc thiếu logic, thiếu ngắn gọn, năng lực nắm bắt các vấn đề từ các
thông tin còn thiếu hụt của bản thân.
1.1.3. Năng lực sáng tạo
Tác giả Huỳnh Văn Sơn và Trần Thị Bích Liễu cùng nhìn nhận năng
lực sáng tạo ở khả năng làm ra cái mới: Đó là khả năng của một người khi sản
sinh ra các ý tưởng mới nhìn nhận vấn đề theo cách mới, phát hiện được cái
mới trong cái cũ tạo ra các sản phẩm mới. Như vậy, các tác giả đã nhấn mạnh
khả năng tạo ra các sản phẩm mới của năng lực sáng tạo.
Trong một số luận án tiến sĩ gần đây như luận án của Hoàng Thị Thúy
Hương đã khẳng định bản chất của năng lực sáng tạo là ở khả năng làm ra cái
mới song mở rộng phạm trù của năng lực sáng tạo ở việc tìm thấy cái mới,
giải quyết vấn đề một cách hiệu quả. Tác giả Thúy Hương cho rằng: “Năng
18