Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

ảnh hưởng của lễ hội phật giáo nam tông đối với đời sống người dân huyện hòn đất, tỉnh kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (989.42 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

VŨ THỊ THU TRANG

ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT,
TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

Hà Nội - Năm 2020
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

VŨ THỊ THU TRANG

ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT,
TỈNH KIÊN GIANG
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60 22 03 09

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

Người hướng dẫn khoa học:


TS. NGUYỄN THỊ TỐ UYÊN

Hà Nội - Năm 2020
2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
của riêng cá nhân tôi.
Luận văn này được thực hiện sau quá trình học tập ở Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và qua quá trình
nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn trên địa bàn huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên
Giang, đặc biệt đi sâu tìm hiểu các lễ hội truyền thống tiêu biểu của Phật giáo
Nam tông (khmer) và sự ảnh hưởng của nó đối với người dân trên địa bàn
huyện Hòn Đất. Luận văn này được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học
của Cô: Tiến sĩ Nguyễn Thị Tố Uyên.
Các số liệu nghiên cứu, kết quả điền dã trong luận văn là trung thực,
luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào.
Kiên Giang, ngày 10 tháng 2 năm 2020
Tác giả

Vũ Thị Thu Trang

3


LỜI CẢM ƠN

Em xin cảm ơn chân thành đến Cô Nguyễn Thị Tố Uyên, là người trực

tiếp giảng dạy và hướng dẫn em thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Trong suốt
thời gian thực hiện, từ lúc định hướng đề tài, chọn đề tài và tiến hành viết nội
dung luận văn, tuy công tác giảng dạy và nghiên cứu có nhiều bận rộn nhưng
Cô đã dành nhiều thời gian và tâm huyết để hướng dẫn em chọn đề tài, định
hướng cho em cách viết, cách lập luận, phân tích và trình bày phù hợp với yêu
cầu đề tài đặt ra. Nhờ sự góp ý tận tụy và hướng dẫn tận tình của Cô đã giúp
em hoàn thành những kiến thức về đề tài của mình.
Em xin cảm ơn đến quý thầy cô trong Bộ môn Tôn giáo học và Nhà trường
đã giảng dạy cho em những kiến thức nền tảng, những hiểu biết về chuyên ngành
tôn giáo học. Đây là cơ sở và nguồn động lực quan trọng giúp em hoàn thành luận
văn, nắm vững kiến thức chuyên ngành và tự tin hơn trong những dự định sắp tới.

Em xin tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong cơ quan,
những người đã quan tâm giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm và động viên tinh thần
cho em trong khoảng thời gian thực hiện luận văn cũng như trong khoảng thời
gian học tập. Nhờ vậy, mà em tự tin vững bước qua từng ngày trong quá trình
thực hiện luận văn này.
Do trình độ lý luận, kiến thức chuyên ngành cũng như kinh nghiệm
thực tiễn của bản thân còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Em mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp, sự chỉ bảo của quý thầy cô để em
hoàn thiện kiến thức cũng như nâng cao chất lượng luận văn của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Kiên Giang, ngày 10 tháng 2 năm 2020
Tác giả
Vũ Thị Thu Trang
4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI VÀ KHÁI LƯỢC
PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở HUYỆN HÕN ĐẤT........................................................ 8
1.1. Một số vấn đề lí luận về lễ hội................................................................................... 8
1.2. Sự hình thành, du nhập và phát triển của Phật giáo Nam tông
Khmer ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang............................................................. 17
1.2.1. Quá trình du nhập của Phật giáo nam tông khmer ở huyện Hòn Đất. 17

1.2.2. Quá trình phát triển của Phật giáo Nam tông khmer ở Hòn Đất, tỉnh
Kiên Giang................................................................................................................................ 20
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG
ĐẾN ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN KHMER HUYỆN HÕN ĐẤT VÀ MỘT
SỐ GIẢI PHÁP................................................................................................................................ 34
2.1. Một số lễ hội Phật giáo Nam tông khmer ở huyện Hòn Đất...............34
2.1.1. Lễ Chôl Chnăm Thmây......................................................................................... 35
2.1.2. Lễ Sene Đôn Ta.......................................................................................................... 43
2.1.3. Lễ Okombok................................................................................................................ 49
2.2. Ảnh hưởng của Lễ hội Phật giáo Nam tông đến một số lĩnh vực đời
sống xã hội của người dân khmer ở Hòn Đất hiện nay................................... 61
2.2.1. Ảnh hưởng đến đời sống chính trị................................................................... 62
2.2.2. Ảnh hưởng đến đời sống kinh tế....................................................................... 65
2.2.3. Ảnh hưởng đến đời sống văn hóa..................................................................... 66
2.2.4. Ảnh hưởng đến đời sống xã hội........................................................................ 66
2.3. Khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò và giá trị của
lễ hội phật giáo nam tông khmer đối với đời sống người dân khmer
huyện Hòn Đất thời gian tới............................................................................................. 69

5


2.3.1. Giải pháp về hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tôn

giáo và văn hóa người dân khmer.................................................................................. 69
2.3.2. Giải pháp về quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội.....................71
2.3.3. Giải pháp về tuyên truyền, vận động các chức sắc, tín đồ Phật giáo
Nam tông Khmer.................................................................................................................... 72
2.3.4. Giải pháp về bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội Phật giáo nam
tông khmer................................................................................................................................. 74
KẾT LUẬN........................................................................................................................................ 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................... 79
PHỤ LỤC

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo là một tôn giáo bao gồm một loạt các truyền thống, tín
ngưỡng và phương pháp tu tập dựa trên lời dạy của một nhân vật lịch sử là
Tất-đạt-đa Cồ-đàm. Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới
hiện nay, có sức lan tỏa rộng rãi, đặc biệt ở Châu Á. “Phật giáo là một tôn
giáo cao siêu và trí tuệ, không ít những nhà kho học phương tây đã thấy giá trị
và hết lời ca ngợi phật giáo. A.Anhxtanh cho rằng, nếu có một tôn giáo nào
đáp ứng được nhu cầu của khoa học hiện đại thì tôn giáo đó chính là Phật
giáo. Phật giáo không chỉ đóng góp cho khoa học, mà còn là di sản văn hóa
thế giới” {26, tr. 186}. Đạo Phật với tư tưởng vô thường, vô ngã, nhân quả,
nghiệp báo và triết lý nhân sinh từ, bi, hỷ, xả, cứu khổ, cứu nạn, đứng về phía
người nghèo khổ trong học thuyết Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát
chính đạo gần gũi và phù hợp với triết lý đạo đức nhân sinh, cũng như phong
tục, tập quán, tín ngưỡng của Người Việt. Quan niệm phúc đức, nhân ái, vị
tha, hòa hiếu của Phật giáo đã được đông đảo người Việt tiếp nhận. Trong các
tôn giáo du nhập vào nước ta thì Phật giáo là tôn giáo bám rễ sâu nhất, bền

chắc nhất và góp phần xây dựng nên truyền thống yêu nước, đoàn kết gắn bó
của dân tộc ta, có vai trò quan trọng trong việc hình thành tâm lý, đời sống tín
ngưỡng, đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Tôn giáo nói chung và
Phật giáo nói riêng, ngoài mặt tiêu cực còn có những “hạt nhân hợp lý” hiện
vẫn còn phù hợp với xã hội. Đó là mặt văn hóa, đạo đức và đáp ứng được yêu
cầu đời sống tâm linh của con người. Đảng ta khẳng định “Phát huy những giá
trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo” [16, tr. 165]. Phật giáo là một
trong 16 tổ chức tôn giáo được Nhà nước ta công nhận. Phật giao Nam tông
khmer với nhiều lễ hội đặc sắc góp phần nâng cao đời sống tinh thần của
người dân Việt Nam nói chung và của người khmer nói riêng.
1


Tỉnh Kiên Giang có 14 huyện, thị, có bờ biển chạy từ rạch Tiểu Dừa
giáp ranh với tỉnh Cà Mau đến tận Hà Tiên, giáp biên giới Campuchia. Hàng
năm, bờ biển được phù sa bồi đắp khá nhanh, mỗi năm tiến ra biển được 3m
[xem 21]. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo tỉnh Kiên Giang, Phật giáo nam
tông khmer Kiên Giang có 57 chùa, 7887 sư sãi và 1.071.895 tín đồ [6, tr.48].
Hòn Đất là một trong 14 huyện, thị thuộc tỉnh Kiên Giang, là 1 trong 5 huyện
thuộc vùng biên giới hải đảo, là vùng đất mang đậm tín ngưỡng dân gian và
các tôn giáo. Đạo Phật tồn tại trong 3 cộng đồng người Việt, người Khmer và
người Hoa. Theo niên giám thống kê huyện Hòn Đất năm 2017 [27, tr. 17],
tổng dân số huyện Hòn Đất 159.419 người, trong đó người Khmer ở Hòn Đất
có dân số khá đông là 20.978 người, xếp thứ 2 (Chỉ sau người Kinh) trong cơ
cấu dân số chung của huyện và có tới khoảng 17.563 người Khmer theo đạo
Phật. Với tư cách là một chính giáo của người Khmer, Phật giáo Nam tông có
vai trò và vị trí quan trọng, có tầm ảnh hưởng và chi phối lớn đến mọi lĩnh
vực đời sống từ vật chất đến tinh thần của người Khmer ở tỉnh Kiên Giang nói
chung và ở Hòn Đất nói riêng. Hiện nay, phần lớn người Khmer ở Hòn Đất tin
theo Phật giáo, lấy đó làm một trong những lẽ sống của mình, là chỗ dựa tinh

thần vững chắc để điều chỉnh hành vi, xử lý các mối quan hệ giữa cá nhân với
cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Phật giáo Nam tông khmer với nhiều phong
tục, nhiều lễ hội…, đã tạo cho người Khmer ở Hòn Đất một đời sống tín
ngưỡng phong phú, độc đáo, mang bản sắc riêng góp phần vào sự đa dạng
trong nền văn hóa đất nước. Tuy nhiên, niềm tin tôn giáo nhiệt thành ấy cũng
từng bị các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, gây nhiều khó khăn cho công
tác giáo dục, tuyên truyền, quản lý của chính quyền, đôi lúc còn ảnh hưởng
đến sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Với một bề dày lịch sử không
quá dài nhưng cũng không quá ngắn, Phật giáo Nam tông đã gia nhập vào
trong đời sống người dân Khmer như một yếu tố của truyền thống đạo
2


đức. Mặc dù còn những hạn chế nhất định, song ảnh hưởng tích cực mà Phật
giáo Nam tông mang lại thực sự có ý nghĩa to lớn, góp phần xây dựng xã hội và
đời sống tinh thần, xây dựng nền văn hóa người dân Khmer trong giai đoạn toàn
cầu hóa và hội nhập hiện nay. Vì những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Ảnh

hưởng của lễ hội phật giáo Nam tông đối với đời sống người dân huyện
Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Phật giáo nói chung và Phật giáo Nam Tông nói riêng là mảng đề tài
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả ở các góc độ khác nhau. Có
thể tạm sắp xếp các nghiên cứu đó vào hai nhóm công trình sau đây:
Một là: Các công trình nghiên cứu liên quan đến Phật giáo nói chung.
Trong nhóm công trình này, trước hết phải kể đến một số tác giả và tác
phẩm tiêu biểu như PGS.TS Vương Xuân Tình chủ biên trong đó có bài viết
của PGS.TS Nguyễn Văn Minh trong các cuốn như: nhân học tôn giáo và tôn
giáo, tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, cuốn Xung Đột Và Giải
Xung Đột Tộc Người Vùng Tây Nam Bộ, cuốn Các dân tộc ở Việt Nam đăng

trong sách: Vương Xuân Tình (Chủ biên), dân tộc Khmer Tập 3 Nxb chính trị
quốc gia Hà Nội (2007); Võ Văn Dũng/Tạp chí Nghiên cứu Phật học số
6/2016; Trần Đăng Sinh, Đào Đức Doãn có cuốn“Giáo trình Tôn giáo học”
(2005), Nxb ĐHSP Hà nội; Lương Khải Siêu với cuốn “Lược khảo Phật giáo
Ấn Độ” (1957), Nxb Phật học; Tác giả Thích Mật Thể với công trình “Thế
giới quan Phật giáo” (1967), Nxb Vạn Hạnh; Nguyễn Tài Thư (Chủ
biên,1991) với “Lịch sử Phật giáo Việt Nam”, Nxb Viện Triết học Hà Nội.
Trong những công trình này, các tác giả đã trình bày, phân tích những tư
tưởng cơ bản của Phật giáo trong quá trình hình thành, du nhập và phát triển
của nó. Từ đó đánh giá vị trí, vai trò của Phật giáo trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam. Ngoài ra, còn có các công trình của Tịnh Vân “Phật giáo và nhân sinh”
3


(2011), Nxb Hồng Đức; Thích Chúc Phú (2013), “Vài vấn đề về Phật giáo và
nhân sinh”;Nxb Hồng Đức; Hoàng Ngọc Vĩnh (2011),“Nhân sinh quan Phật
giáo qua góc nhìn của lịch sử triết học’; Nguyễn Hùng Hậu, “Một số suy nghĩ
về ảnh hưởng của Phật giáo đối với tư duy người Việt”, Tạp chí Triết học số
5/1996. Nhìn chung, các công trình này đều nghiên cứu về Phật giáo dưới góc
độ nhân sinh quan và những ảnh hưởng của nó đến đời sống tín ngưỡng của
con người hiện nay.
Hai là: các công trình nghiên cứu liên quan đến Phật giáo Nam tông và
những ảnh hưởng của nó đến đời sống của người Khmer Nam bộ chủ đề về
Phật giáo Nam tông và những ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của
người Khmer Nam bộ cũng được nhiều tác giả dụng tâm nghiên cứu. Trong
mảng đề tài này, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: nghiên cứu về
Phật giáo Nam tông tác giả Nguyễn Mạnh Cường có cuốn Phật giáo Khmer
Nam Bộ - Những vấn đề nhìn lại, (2008), Nxb Tôn giáo. Công trình này đã
cho thấy tư tưởng tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo Nam tông Khmer
(Theravada) đóng vai trò quan trọng trong đời sống tín ngưỡng tôn giáo của

đồng bào dân tộc Khmer và cũng đã phản ánh được những nét văn hóa độc
đáo trong văn hóa của cộng đồng người Khmer Nam Bộ. Đồng thời, công
trình Nhựt hành của người tại gia tu Phật của Tỳ khưu Hộ Tông cùng được ấn
hành bởi Nxb Tôn giáo (2006) cũng rất đáng chú ý. Ngoài ra, còn có Kỷ yếu
Hội thảo khoa học Phật giáo Nam tông Khmer đồng hành cùng dân tộc
(6/2014), Viện nghiên cứu Tôn giáo - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam và Học viện Phật giáo Nam tông Khmer thuộc Giáo hội Phật giáo Việt
Nam. Kỷ yếu với nhiều bài viết, tổng số hơn 200 trang đã đi vào nghiên cứu
lịch sử du nhập, phát triển của Phật giáo Nam tông Khmer vào khu vực đồng
bằng sông Cửu Long. Sự biến đổi và những diễn biến hiện nay của Phật giáo
Nam tông Khmer trước những ảnh hưởng của điều kiện lịch sử mới. Riêng về
4


người Khmer và đời sống tín ngưỡng của người Khmer có các công trình
nghiên cứu của: Trần Ngọc Thêm, Những vấn đề văn hóa học lí luận và ứng
dụng, Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2014,
trang 56. Đỗ Minh Hợp, Tôn giáo lí luận xưa và nay, Nhà xuất bản Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, trang 285. Đỗ Minh Hợp, Tôn giáo học nhập
môn, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2009, trang 23. Đỗ Minh Hợp, Tôn giáo học
nhập môn, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2009, trang 26. Bùi Thị Hải Yến (Chủ
biên), Du lịch Cộng đồng, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2012, trang 31.
Bùi Thị Hải Yến (Chủ biên), Du lịch Cộng đồng, Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam, 2012, trang 31. Nguyễn Đức Lộ, Cấu hình làng xã Cộng đồng Công
Giáo bắc di cư tại Nam Bộ, Nhà xuất bản Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
2015, trang 30. Phan An (2010), Phật giáo tiểu thừa khmer, Tài liệu hội thảo
tôn giáo ở nam bộ; những vấn đề nổi bật, những đáp ứng của chính sách và
nghiên cứu, trang 41.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích thực trạng ảnh hưởng của lễ hội Phật giáo Nam
tông khmer đối với đời sống người dân huyện Hòn Đất hiện nay, luận văn đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò giá trị của lễ hội Phật giáo Nam
tông trên địa bàn huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.
3.2. Nhiệm vụ
+ Trình bày khái lược về quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo
Nam tông khmer ở Hòn Đất.
+ Đi sâu phân tích một số lễ hội và sự ảnh hưởng của lễ hội Phật giáo
Nam tông khmer đối với đời sống người dân huyện Hòn Đất hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực, phát huy
ảnh hưởng tích cực của nó để góp phần xây dựng xã hội, phát huy giá trị của
5


lễ hội phật giáo Nam tông đối với người dân huyện Hòn Đất trong giai đoạn
toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về một số các lễ hội cơ bản của Phật giáo Nam Tông
đối với người dân huyện Hòn Đất. Phạm vi nghiên cứu về những ảnh hưởng
của lễ hội Phật giáo Nam tông chủ yếu là các lễ hội như: Lễ Chol Chnam
Thmay, lễ Sen Đôn Ta, lễ Okombok đến đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế
của người dân Hòn Đất. Các số liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu chủ yếu
lấy từ năm 2010 đến năm nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước
Việt Nam về tôn giáo. căn cứ Hiến pháp năm 2013 của Quốc hội.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp biện chứng
duy vật của triết học Mác –Lênin, các phương pháp nghiên cứu của Tôn giáo
học và kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phân

tích và tổng hợp, lôgíc -lịch sử, khái quát hóa, trừu tượng hóa...
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần vào công tác nghiên cứu tôn giáo nói chung, Phật
giáo Việt Nam nói riêng. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu về tôn giáo.
- Về mặt khoa học: Luận văn góp phần lí giải thấu đáo hơn về lễ hội và
sự ảnh hưởng của lễ hội lễ Phật giáo Nam tông ở Hòn Đất. Làm cơ sở cho
việc đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm thúc đẩy đời sống của người dân
Hòn Đất phù hợp tiến trình xây dựng đất nước Việt Nam ngày nay.
- Về mặt thực tiễn: Những phân tích và đánh giá về nội dung của Phật
giáo Nam tông, sự ảnh hưởng của lễ hội trong đời sống tinh thần của người
6


dân ở Hòn Đất và những giải pháp nhằm hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt
tích cực của nó, qua đó cung cấp cho các cấp Đảng, chính quyền, ban ngành,
đoàn thể của địa phương những căn cứ khoa học để nâng cao vi trò giá trị của
lễ hội văn hóa người khmer và đề ra những chủ trương, chính sách trong công
tác tôn giáo hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.

7


Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI VÀ KHÁI LƯỢC
PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở HUYỆN HÒN ĐẤT
1.1. Một số vấn đề lí luận về lễ hội

Về khái niệm lễ hội có thể thấy rất nhiều quan điểm, trong phạm vi đề
tài nghiên cứu tác giả xin nêu một số cách hiểu về lễ hội như sau:
+ Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa dân gian nguyên hợp mang tính
cộng đồng cao của các tầng lớp nhân dân, diễn ra trong chu kỳ về không gian
và thời gian nhất định để tiến hành những nghi thức mang tính biểu trưng về
sự kiện nhân vật được thờ cúng. Còn lễ hội tín ngưỡng là hình thức sinh hoạt
văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cư trong thời gian và không
gian xác định: nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại có
tính thiêng; đồng thời là dịp biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người với
thiên nhiên - thần thánh và con người trong xã hội [22, tr. 34-35].
Lễ hội là tổ hợp các yếu tố và hoạt động văn hóa đặc trưng của cộng
đồng xoay quanh một trục ý nghĩa nào đó nhằm tôn vinh và quảng bá cho
những giá trị nhất định. Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức một
trò diễn được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới của tâm linh, của
tư tưởng và của biểu tượng, vượt trên thế giới hiện thực.
+ Trong từ điển bách khoa Việt Nam: Lễ là hệ thống những hành vi,
động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh
những ước mơ của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả
năng thực hiện.
Còn: Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng xuất
phát từ nhu cầu cuộc sống. Chức năng xã hội của hội là củng cố những mối
quan hệ giữa các nhóm, khẳng định tinh thần cộng đồng. Về phương diện văn
8


hóa, hội có chức năng khẳng định trình độ văn hóa của một cộng đồng và giao
lưu văn hóa trên quy mô xã hội.
Trong lễ hội, các lễ nghi tín ngưỡng, các phong tục tập quán, các thể lệ
và hình thức sinh hoạt của một cộng đồng được tái hiện một cách rất sinh
động.

Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. Lễ
hội là hoạt động tập thể và thường có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Con
người xưa kia rất tin vào trời đất, thần linh. Các lễ hội cổ truyền phản ánh
hiện tượng đó. Tôn giáo rất có ảnh hưởng tới lễ hội. Tôn giáo thông qua lễ hội
để phô trương thanh thế, lễ hội nhờ có tôn giáo để thần linh hóa những thứ
trần tục. Nhưng trải qua thời gian, trong nhiều lễ hội, tính tôn giáo dần giảm
bớt và chỉ còn mang nặng tính văn hóa. Lễ hội ở Việt Nam bao giờ cũng
hướng tới đối tượng thiêng liêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần. Đó
chính là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Giúp
con người nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựng một cuộc sống tốt
lành, yên vui.
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể hiểu: khái niệm lễ hội phật
giáo là hình thức sinh hoạt tôn giáo mang tính cộng đồng của người theo Phật
giáo, là một phương thức biểu hiện đức tin của người Phật tử diễn ra vào một
khoảng thời gian nhất định nào đó và mang tính chất kỷ niệm nào đó đối với
Phật giáo.
Như vậy lế hội Nam tông Khmer dược hiểu là: hình thức sinh hoạt tôn
giáo mang tính cộng đồng của người theo Phật giáo Nam tông Khmer, là một
phương thức biểu hiện đức tin của người Phật tử diễn ra vào một khoảng thời
gian nhất định nào đó và mang tính chất kỷ niệm nào đó đối với Phật giáo
Nam tông Khmer

9


* Bản chất của lễ hội
Lễ hội là một hoạt động văn hóa của từng cộng đồng người, phản ánh
trình độ tổ chức xã hội. Lễ hội bao giờ cũng thể hiện sự ước vọng, niềm tin về
cuộc sống tốt đẹp của cộng đồng người vào hiện tại và tương lai, hoài niệm
quá khứ, gợi về cội nguồn dân tộc.

Trong xã hội phong kiến, nhà nước và các tôn giáo luôn tạo dựng củng cố
những lễ hội để khẳng định trật tự xã hội, uy quyền và sự linh thiêng tôn giáo.
Tính giai cấp của lễ hội thể hiện ở sự phân cấp quyền lợi của người tham gia.
Thường thì người dân chỉ tham gia các trò diễn, còn nghi lễ chính thức vẫn do
quan viên phụ trách. Tuy nhiên, về mặt quyền lợi như hưởng các phần thưởng, lễ
vật cúng thần thì thường không phân biệt mà có tính cộng đồng, ai tham gia sẽ
được chia phần và được thưởng nếu chiến thắng trong các hội thi.

Lễ hội luôn duy trì liên tục qua các thời đại, nó vừa nối tiếp truyền
thống vừa mang yếu tố thời đại. Dù muốn hay không, lễ hội đều phải chịu ảnh
hưởng của chế độ xã hội. Mỗi xã hội đều có ảnh hưởng và tác động nhiều hay
ít đến sinh hoạt, tập tục, lối sống. Xã hội hiện đại với nếp sống hiện đại ít
nhiều đã tạo nên một số thói quen sinh hoạt mới, khác với lối sống và thói
quen cũ. Nhưng nó có duy trì và tồn tại đến thế hệ sau hay không là tùy thuộc
vào sự ưu việt của nó, tùy vào sự chấp nhận và thích nghi của thế hệ mới. Sự
phát triển kinh tế xã hội thúc đẩy sự thay đổi và hình thành những nếp sống và
lễ hội hiện đại. Có những lễ hội mới phát sinh trong xu thế hội nhập và phát
triển của xã hội, do tác động của sự phát triển các ngành nghề và sự mở rộng
quy mô kinh doanh như lễ hội hoa, lễ hội trà, lễ hội cà phê, lễ hội trái cây,...
Lễ hội của người Khmer gồm 2 loại là lễ hội dân tộc và lễ hội tôn giáo.
Lễ hội dân tộc là những ngày lễ bắt nguồn từ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày
cũng như cuộc sống lao động của dân chúng, tuy nhiên, trong quá trình phát
triển thì những lễ hội này thường bị pha trộn với những yếu tố tôn giáo [Xem
10


8]. Những lễ hội dân tộc lớn trong năm của người Khmer gồm: lễ Vào năm
mới (Chôl chnam thmây) - thường tổ chức vào giữa tháng 4 Dương lịch tức
đầu tháng Chét của người Khmer, lễ cúng ông bà (Đôn - ta) - tổ chức vào 3
ngày từ 29-8 đến 1-9 Âm lịch, lễ cúng trăng hay lễ cúng cốm dẹp (Ók om

bok) - tổ chức ngày 15-10 Âm lịch. Lễ hội tôn giáo của người Khmer ngày
nay đều gắn với Phật giáo Nam tông. Những lễ hội tôn giáo định kỳ hàng năm
đó là: Lễ phật đản (Lễ phật đản của người Khmer tổ chức vào rằm tháng 5
Âm lịch khác với ngày lễ phật đản của Phật giáo đại thừa: 8-4 âm lịch); lễ đặt
cơm vắt (từ ngày 15 đến 30-8 Âm lịch); lễ ra hạ (14 và 15-9 âm lịch); lễ dâng
y (từ 14-9 đến 15-10 Âm lịch). Ngoài ra còn có những ngày lễ không định kỳ
như lễ an vị tượng Phật và lễ kết giới [xem 19].
* Khái niệm văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng lớn với rất nhiều cách hiểu
khác nhau và còn nhiều vấn đề còn tranh luận. Dù nghiên cứu văn hoá dưới
góc độ nào thì văn hoá vẫn có những nội dung cơ bản của nó.
Mặc dù ra đời sớm trong ngôn ngữ Phương Tây cũng như Phương
Đông nhưng phải đến thế kỷ XVIII, từ “văn hóa” mới được đưa vào khoa học,
sử dụng như một thuật ngữ khoa học. Từ đó đến nay khái niệm văn hóa được
nhiều người đề cập.
Các nhà đạo đức học coi văn hoá là đạo đức, các nhà tôn giáo học coi
văn hoá là phong tục, tập quán, tín ngưỡng, các nhà dân tộc học coi văn hoá là
hình thức biểu hiện đời sống của các tộc người,… Tính đa nghĩa của khái
niệm văn hoá không chỉ có trong nhận thức lý luận mà còn là thực tiễn. Văn
hoá là khái niệm đang vận động, mang tính lịch sử, biến đổi cùng các thời đại
trong lịch sử. Hiện nay trên thế giới có hàng trăm định nghĩa về văn hoá, mỗi
định nghĩa đi vào một khía cạnh khác nhau của văn hoá.

11


Khái niệm văn hóa của Trần Ngọc Thêm: [30, tr. 56] “Văn hóa là một
hệ thống giá trị mang tính biểu tượng do con người sáng tạo ra và tích lũy
qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội của mình”.

Năm 2002, tổ chức UNESCO đã đưa ra khái niệm về văn hóa như sau:
“Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp những đặc trưng về tâm
hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay của một nhóm
ngườitrong xã hội và nó chứa đựng ngoài văn học và nghệ thuật cả cách sống,
phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm tới văn hóa, Người đưa ra
khái niệm về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống
loài người mới sáng tạo và phát minh ta ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó được gọi là văn hóa” [26, tập 4].
Các tác giả trong sách Tôn giáo lý luận xưa và nay cho rằng: “Tôn giáo
biểu hiện là một trong những lĩnh vực của văn hóa tinh thần. Với quan niệm
như vậy, thì tôn giáo và văn hóa không tách biệt và xa lạ nhau, tôn giáo
không vượt ra ngoài khuôn khổ của văn hóa, không bị mất đi những đặc điểm
vốn có của nó với tư cách là một hiện tượng văn hóa. Mặt khác, chỉnh thể văn
hóa không thể thiếu tôn giáo, không đánh mất nó, giữ lại nó trong mình,
không thu hẹp nội dung và không gian của nó” [23, tr. 285]
Tóm lại Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần được con
người sáng tạo và lưu giữ trong quá trình lịch sử.
* Khái niệm cộng đồng
Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng được sử dụng một cách
tương đối khá rộng rãi, nhằm chỉ nhiều đối tượng có những đặc điểm tương
12


đối khác nhau về quy mô, đặc tính xã hội. Danh từ cộng đồng được sử dụng
cho các đơn vị xã hội cơ bản là gia đình, làng-xã, hay một nhóm xã hội nào đó
có những đặc tính xã hội chung về tâm thức và lý tưởng xã hội, hay về lứa
tuổi, giới, hay về nghề nghiệp, về thân phận xã hội.

Từ đó có thể khẳng định rằng, khái niệm cộng đồng được hiểu dưới
nhiều chiều kích khác nhau như: cộng đồng, tập thể, nhóm… và ở Việt Nam
khái niệm được sử dụng khá phổ biến là làng-xã, thôn, ấp… cũng được xem
như loại hình cộng đồng.
Theo J.Hfichter: “Cộng đồng là một tập thể người nhất định trên một
lãnh thổ kinh tế và văn hóa bao gồm các yếu tố:
+ Tương quan cá nhân mật thiết với nhau, tương quan này đôi khi được
gọi là tương quan mặt đối mặt, tương quan thân mật.
+ Có sự tình nguyện hi sinh đối với những giá trị được tập thể coi là
cao cả và có ý nghĩa.
+ Có ý thức với mọi thành viên trong tập thể”
Theo Nguyễn Hữu Nhân, sách Du lịch cộng đồng, Nhà xuất bản giáo
duc Việt Nam do Bùi Thị Hải Yến chủ biên, thì [31, tr.31] “Cộng đồng là
những cộng đồng được gọi tên như đơn vị làng, bản, xã, huyện...những người
chung về lí tưởng xã hội, lứa tuổi, giới tính, thân phận xã hội. Khái niệm cộng
đồng có hai nghĩa:
- Là một nhóm dân cư cùng sinh sống trong một địa phương nhất định,
có cùng giá trị và tổ chức xã hội cơ bản.
- Là một nhóm dân cư có cùng mối quan tâm. [31, tr. 31]
- Theo Nguyễn Đức Lộ, nghiên cứu về cộng đồng là “nghiên cứu các
đặc trưng văn hóa biểu thị qua các mặt: tôn giáo – tín ngưỡng, phong tục tập
quán, cách giao tiếp ứng xử, khả năng chinh phục thiên nhiên, khả năng sáng
tạo nghệ thuật, tính cách tâm lý của cư dân trong cộng đồng” [25, tr.30].
13


Đặc biệt, theo quan niệm của Marxist thì: “Mối liên hệ qua lại giữa các
cá nhân, được quyết định bởi các lợi ích chung của các thành viên có sự giống
nhau về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những con người hợp thành
cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác

của họ, sự gần gũi giữa họ về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị và chuẩn mực,
nền sản xuất, sự tương đồng về điều kiện sống cũng như các quan niệm chủ
quan của họ về các mục tiêu và phương tiện hoạt động”.
Tóm lại, các hình thức tổ chức của con người đều là kiểu cộng đồng, nó
chỉ khác nhau ở thời gian và không gian, cũng như nội dung lợi ích của việc
liên kết. Cụ thể đó là hình thức tổ chức, cộng đồng dân cư được xếp theo thứ
bậc, theo tộc người, quốc gia và cuối cùng là loài người.
* Đặc trưng của cộng đồng
Theo Ferdinand Tonnies, cộng đồng có các đặc trưng sau: “Thứ nhất,
những quan hệ xã hội nào mang tính chất tinh thần, thân thiện, mang độ cố kết
có ý nghĩa tự nhiên thì đấy là tính cộng đồng. Thứ hai là tính bền vững. Tính
cộng đồng được khẳng định theo dòng chảy của lịch sử. Thời gian có một vai
trò là yếu tố kết dính các thành viên trong cộng đồng. Thứ ba là tính cộng
đồng khi được xét từ quan điểm đánh giá và vị thế xã hội của các thành viên
xã hội thì đó là vị thế xã hội được gán sẵn nhiều hơn là vị thế phấn đấu mà có
được. Cuối cùng, tính cộng đồng lấy quan hệ dòng họ là quan niệm cơ bản và
mang cả hai đặc trưng: dòng họ là huyết thống và dòng họ trở thành khuôn
mẫu văn hóa của sinh hoạt cộng đồng”.
Cộng đồng làng xã được xem là nơi cư trú truyền thống lâu đời của
người Việt, và nó cũng chính là chủ đề nghiên cứu của các nhà sử học, dân tộc
học, nhân học...
Ở Việt Nam, nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi là người đầu tiên cố gắng
hệ thống hóa một cách đầy đủ về cơ cấu tổ chức xã hội làng Việt. Theo ông,
14


tổng thể cơ cấu xã hội ở làng-xã cổ truyền được tạo thành bởi năm hình thức
tập hợp người như sau:
Tập hợp người theo địa vực: chính loại hình tập hợp này đã hình thành
lên tổ chức ngõ, xóm. Tuy những phân thể này chỉ là mặt cư trú của làng xã,

nhưng cũng có đời sống lối sinh hoạt và đời sống riêng.
Tập hợp người theo huyết thống – họ tộc: Dòng họ là tập hợp những
người đang sống và cả người đã chết, nó được liên kết với nhau bằng dòng
máu và có chung vị thủy tổ.
Tập hợp theo lớp tuổi: Giáp là loại hình tổ chức nằm giữa hai cực địa
vực và huyết thống. Giáp là tổ chức dành riêng cho nam giới. Quan hệ và vị
trí của các thành viên trong giáp được xác định dựa trên tuổi tác của người đó.
Trong mối tương quan với cơ cấu tổ chức xã hội của làng Việt cổ truyền, giáp
được coi là tổ chức năng động nhất, đảm nhiệm nhiều vai trò và chức năng
nhất trong đời sống làng - xã.
Tập hợp người trong bộ máy chính quyền ở cấp xã: đó chính là loại
hình tập hợp theo địa vị xã hội. Nhưng đến thời nhà Nguyễn thì bộ máy chính
quyền cấp cơ sở đã được hình thành với ba tổ chức Dân hàng xã: gồm toàn bộ
cư dân nam giới từ 18 tuổi trở lên.
Tập hợp người trong những tổ chức dựa trên lòng tự nguyện tham gia
của từng cá nhân - phe, hội, phường: mục đích của tập hợp này là tương trợ
nhau, đáp ứng những nhu cầu về tinh thần.
Trong khi đó, Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang trong công trình Phát
triển cộng đồng lý thuyết và thực tiễn, cho rằng cần phải phân tích trên một
chiều kích khác về cộng đồng, đó là chỉ ra các thành phần tạo lập nên một
cộng đồng. Theo hai tác giả này, những cuộc nghiên cứu tại khắp nơi trên thế
giới cho thấy có một số yếu tố chính của cộng đồng là địa vực, yếu tố kinh tế
hay nghề nghiệp, và cuối cùng là các yếu tố có tính văn hoá. Những yếu tố
15


này tạo ra sự cố kết cộng đồng từ những đặc điểm chung, mà các thành viên
có thể chia sẻ với nhau.
Đối với thực tế, nhân loại thường tổ chức đời sống dựa theo ba nguyên
tắc cơ bản sau: dòng dõi, cùng cư trú, cùng lợi ích, từ đó chúng ta thấy rằng

làng xã Việt thích hợp với ba nguyên lí cơ bản trên, vừa có huyết thống, láng
giềng và vừa có cùng lợi ích. Tuy khác nhau về quy mô, nhưng làng Việt ở ba
miền đều là nơi cư trú của những cộng đồng có chung huyết thống, hoặc cùng
quê, và đặc biệt có cùng một không gian xác định. Tuy nhiên, do quá trình
lịch sử, hay do sự mở rộng lãnh thổ, nên từ đó việc hình thành, cũng như quá
trình diễn ra cũng khác nhau ở các vùng.
Những làng ở Bắc bộ có nguồn gốc từ thời nguyên thủy – cái nôi nền
văn minh lúa nước. Bởi vì việc phát triển của làng xã Việt, nó không phá vỡ
hoàn cơ cấu tổ chức của lãng xã cũ, do đó nó vẫn mang những tàn dư của
công xã nông thôn, do chưa có tư hữu. Tình hình này còn biểu hiện rất rõ ở
các tộc người thiểu số ở Trường Sơn (Tây Nguyên) trong những thập niên gần
đây. Người Việt trong quá trình Nam tiến đã mở rộng biên cương, xác lập chủ
quyền, cũng là lúc hình thành những điểm tụ cư và trở thành làng.
Đối với làng xã Nam bộ cũng mang nét chung của làng xã Bắc bộ, đó là
nơi của ngụ của của cộng đồng người Việt có mối quan hệ về huyết thống
hoặc cùng quê. Các làng Việt Nam bộ được hình thành muộn hơn nhiều so với
làng Việt Bắc bộ nên không có làng-xã cổ truyền như các làng Việt Bắc bộ.
Chính vì vậy, làng Việt Nam bộ được hình thành trên cơ sở tái sản xuất
cấu trúc cộng đồng trên nền tảng ký ức của những lưu dân.
Ngoài kết cấu cộng đồng dựa trên huyết thống, hàng xóm, láng giềng,
cùng thân phận lưu vọng, thì trong quan hệ tôn giáo, sự kết cấu cộng đồng còn
dựa trên niềm tin tôn giáo, chính niềm tin này là yếu tố quyết định tính
16


chất bền vững cho sự trường tồn của cộng đồng. Cùng chung một niềm tin tín
ngưỡng-tôn giáo là sự chia sẻ những ước nguyện về mặt tinh thần, tạo nên sự
thống nhất tinh thần, củng cố nền tảng đạo lý chung tại cộng đồng. Các tôn
giáo lớn cùng với hệ thống giáo lý, giáo hội và giáo đoàn đã góp phần củng cố
sự đoàn kết cộng đồng bằng sự chặt chẽ về tổ chức, những “áp chế” của hệ

thống giáo lý, của tầng lớp giáo sĩ và tinh thần tự nguyện của tín đồ cũng đã
tạo nên sự đoàn kết trong cộng đồng. Trong thực tiễn, các tín ngưỡng dân gian
và tôn giáo lại có sự lồng ghép với nhau trên một số nguyên lý, từ đó, thống
nhất về mặt lịch sử các niềm tin của người dân, tránh những xung đột, tạo ra
những sức mạnh cố kết cộng đồng mới, có tính hiệu quả mạnh mẽ.
Như vậy, cộng đồng làng xã cổ truyền của người Việt không chỉ vừa
bảo lưu các yếu tố của công xã nông thôn có từ thời nguyên thủy, mà còn còn
tồn tại trong xã hội có giai cấp và đẳng cấp dưới sự quản lý của nhà nước, vì
thế bên cạnh những thiết chế xã hội mang tính cộng đồng phi quan phương thì
các thiết chế nhà nước và quan hệ giai cấp đẳng cấp chi phối rất mạnh mẽ gắn
liền với lợi ích và quyền lực của các nhóm xã hội khác nhau.
Một trong các nghiên cứu về làng xã Việt của các nhà khoa học xã hội,
thì không ít đã vận dụng lý thuyết theo cấu trúc – chức năng luận của
Radcliffe Brown, chẳng hạn như nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi khi nghiên
cứu “Cơ cấu làng của làng Việt cổ truyền Bắc bộ”.
1.2 Sự hình thành, du nhập và phát triển của Phật giáo Nam tông
Khmer ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.
1.2.1. Quá trình du nhập của Phật giáo nam tông khmer ở huyện
Hòn Đất.
Người khmer ở Nam bộ với Người khmer ở Campuchia là đồng tộc, có
nhiều nét tương tự về lịch sử văn hóa và tộc người. Trước khi di cư đến vùng
đất Nam bộ của Việt Nam, người khmer đã tiếp nhận phật giáo tiểu thừa được
truyền từ Ấn độ qua nhiều nẻo đường khác nhau [1, tr. 41].
17


Ở Tây Nam bộ, người Chăm, người khmer, người Hoa đã có lịch sử lâu
đời với tổ quốc Việt Nam, là thành viên trong 54 dân tộc anh em đã cố kết với
nhau trong truyền thống dựng nước và giữ nước. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa
riêng. Cái bản sắc đó cần được duy trì và phát triển. Đánh mất cái bản sắc


đó thì cũng có nghĩa là đánh mất cả dân tộc [5, tr. 15].
Theo một số tài liệu nghiên cứu, người Khmer là một tộc người sinh
sống từ rất lâu đời ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, còn gọi là đồng
bằng Nam bộ. Vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá (Kiên Giang). Vào năm 1679,
Mạc Cửu người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, một di thần nhà
Minh, không thần phục nhà Thanh, nên đã dong thuyền sang Chân Lạp, rồi
đến Phương Thành (Trúc Phiên Thành) hay gọi là Man Khảm đã được vua Lê,
Chúa Nguyễn cho định cư tại vùng đất mới. Ngài đã chiêu mộ cư dân lưu dân
các dân tộc, Việt, Khmer, Hoa khai khẩn đất hoang, lập ra các thôn xã: Rạch
Giá, Cà Mau, Cần Bột, Cần Vọt, Phú Quốc, Vũng Thơm. Tương truyền,
thường có nàng Tiên đi lại trên ung nên gọi là Hà Tiên, người Khmer gọi là Tà
Ten.
Dưới thời vua Lê Hiển Tông (1705), Chúa Nguyễn Phúc Chu, Mạc Cửu
đã dâng phần đất Hà Tiên cho Triều đình và Chúa Nguyễn, được vua Lê, Chúa
Nguyễn chấp nhận và phong làm Tổng trấn Hà Tiên, Tước Cửu Ngọc Hầu. Kể
từ đó, Hà Tiên là phần đất cuối cùng của phương Nam thuộc về Đại Việt. Mạc
Cửu là một phật tử thân tín của Hòa thượng Hoàng Long (Hoằng Long) từ
Quy Nhơn vào Hà Tiên hành đạo khoảng năm 1705-1715, trụ trì chùa Núi
Bạch Tháp, viên tịch năm 1737, nhập tháp tại chùa núi Bạch Tháp (núi Vân
Sơn). Năm 1730, Mạc Cửu đã xây dựng chùa Tam Bảo để phụng thờ Tam bảo
Phật – Pháp – Tăng và để làm nơi tu dưỡng cho mẹ già là bà Thái Thị.

18


Năm 1736, sau khi Mạc Cửu mất (1735), con là Mạc Thiên Tích (Tứ)
kế nghiệp, được vua Lê Túc Tông phong chức Đô Đốc Trấn thủ Hà Tiên. Năm
1750, Ngài cho xây dựng chùa Phù Cừ (Phù Dung) cho bà Thứ Cơ Phù Cừ
sau khi xuất gia, có nơi tu hành tụng Kinh niệm Phật. Có thể nói, ba ngôi chùa

Bạch Tháp, Tam Bảo, Phù Dung là cơ sở tự viện được xây dựng đầu tiên và
Hòa thượng Hoàng Long là vị Thiền sư mang đạo Phật đến Hà Tiên- Kiên
Giang trong những ngày đầu bình minh của Phật giáo xứ Phương Nam.
Tỉnh Kiên Giang theo thống kê năm 1989 có 145.496 người Khmer,
chiếm tỷ lệ 12% dân số, phân bố rải rác khắp các huyện trong tỉnh. Trong đó
người Khmer phân bố đông nhất ở các huyện: Châu Thành có 32.000 người,
Gò Quao có 21.610 người, Giồng Riêng có 16.190 người, Hà Tiên có 16.409
người, An Biên có 8.210 người và thị xã Rạch Giá có 8.032 người. Đây là hai
tỉnh giáp biên giới với Campuchia, người Khmer ở đây xây ung phum sóc trên
đồi hay trên các giồng ven kinh trong những vùng đất thấp hoặc ven chân núi
quanh dãy Bảy Núi.
Cuốn lịch sử Đảng bộ Hòn Đất ghi rõ, Hòn Đất (trước là Châu Thành
A) là một huyện lỵ của tỉnh Rạch Giá. Hòn Đất là huyện nằm giữa Hà Tiên và
Rạch giá, là khu vực gần biên giới Campuchia, dân tộc Khmer di dân đến Hòn
Đất sinh sống khá đông. Là 1 một huyện có nhiều chùa Nam Tông và có đông
người khmer sinh sống, ít nhiều bà con kể cả người kinh, người Khmer theo
đạo Phật.
Tóm lại, sự du nhập phật giáo Nam tông vào Hòn Đất, Kiên Giang
được hình thành gắn liền với các cuộc chiến tranh chống giặc xâm lược, các
cơ sở thờ tự trong tỉnh cùng tăng, ni, phật tử đã có nhiều đóng góp cho địa
phương xây dựng nông thôn mới. Qua những minh chứng trên, có thế thấy
rằng Phật giáo Nam tông của người Khmer được truyền bá vào Hòn Đất –
Kiên Giang từ rất sớm đồng thời có thể khẳng định rằng quá trình du nhập của
19


×