Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Tín ngưỡng thờ mẫu ở lễ hội phủ dầy và ảnh hưởng của nó đối với đời sống người dân huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.17 KB, 85 trang )

Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
1



























TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2


KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
********



PHẠM NGỌC HÀ




TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở LỄ HỘI PHÙ
DẦY VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI
NGƯỜI DÂN HUYỆN VỤ BẢN,
TỈNH NAM ĐỊNH




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học


Người hướng dẫn khoa học :
Th.S HOÀNG THANH SƠN









HÀ NỘI - 2011
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
2

Lời cảm ơn
Trong suốt thời gian làm khoá luận cũng như học tập tại trường, em đã
nhận được sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện của các thầy cô trong khoa
Giáo dục chính trị, nhất là các thầy cô trong tổ CNXHKH cùng sự động viên
khích lệ của gia đình, bạn bè. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu
này.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo - Thạc sĩ
Hoàng Thanh Sơn đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt thời gian qua,
để em có thể hoàn thành khoá luận tốt nghiệp đại học.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do điều kiện hạn hẹp về thời
gian và do sự hạn chế về kiến thức của bản thân nên em không thể tránh khỏi
những thiếu sót khi hoàn thành bài khoá luận, vì vậy em rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và của các bạn để đề tài của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!




Hà Nội, tháng 5 năm 2011.
Sinh viên
Phạm Ngọc Hà








Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
3

Lời cam đoan
Khoá luận tốt nghiệp được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Th.sĩ Hoàng
Thanh Sơn. Tôi xin cam đoan rằng: Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.


Hà Nội, tháng 5 năm 2011

Sinh viên
Phạm Ngọc Hà




















Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
4

Mục lục

Mở đầu
………………

5


Nội dung
Chương 1: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam
1.1 Khái lược về ín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam………………….11
1.2 Quá trình hình thành và phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt
Nam…………………………………………………………………19
1.2.1 Quá trình hình thành của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam… 19
1.2.2 Quá trình phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam………20
1.2.3 Các dạng thức thờ Mẫu đang tồn tại ở Việt Nam…………………22
1.3 Nội dung và nghi thức thờ Mẫu………………………………… 23

1.3.1 Không gian thờ Mẫu…………………………………………….23
1.3.2 Hệ thống lớp lang trong phủ, điện thờ Mẫu……… 24
1.3.3 Hệ thống nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu………………………… 26
Chương 2: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở lễ hội Phủ Dầy
2.1 Vài nét về quê hương Vụ Bản, Nam Định………………………30
2.2 Tín ngưỡng thờ Mẫu ở lễ hội Phủ Dầy - Nam Định…………… 34
2.1.1 Huyền tích Mẫu Liễu Hạnh……………………………………….34
2.1.2 Lễ hội Phủ Dầy - một hình thức sinh hoạt văn hoá của nhân dân…42
2.1.3 Quần thể Phủ Dầy - trung tâm của tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh - trung
tâm của đạo Tứ phủ……………………………………………………51
Chương 3: Những ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở lễ hội Phủ Dầy
đối với đời sống người dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
3.1 Ảnh hưởng tích cực……………………………………….72
3.1.1 Đến đời sống kinh tế……………………………… 72
3.1.2 Đến đời sống chính trị……………………………….74
3.1.3 Đến đời sống văn hoá - xã hội………………………75
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
5
3.2 Ảnh hưởng tiêu cực………………………………………….77
3.2.1 Đến đời sống kinh tế……………………………….77
3.2.2 Đến đời sống chính trị……………………………….77
3.2.3 Đến đời sống văn hoá - xã hội……………………78
3.3 Nguyên nhân và giải pháp…………………………….79
3.3.1 Nguyên nhân…………………………………79
3.3.2 Giải pháp…………………………………….79
Kết luận
………………………………………………….81
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………….83




















Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
6

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Phong tục tập quán lễ hội là một bộ phận quan trọng cấu thành nên văn
hoá xã hội nó gắn bó mật thiết, sâu sắc với mọi tầng lớp người trong xã hội.
Nước ta với nền văn minh lúa nước rất đặc trưng thì phong tục, tập quán, tín
ngưỡng đã trở thành một bộ phận trong đời sống tinh thần. Hàng ngàn năm
xưa từ thời nguyên thuỷ đã hình thành nên các phong tục tập quán đó và phát
triển đến tận ngày nay và chúng ta có thể khẳng định rằng không một gia đình

người Việt nào lại không có bàn thờ cúng Tổ tiên, không có làng xã nào lại
không có một ngôi đình, đền, miếu thờ các vị Hoàng làng, các anh hùng dân
tộc hay thờ Mẫu.
Cứ đời này qua đời khác các tín ngưỡng phong tục trở thành mảng sinh
hoạt tinh hần không thể thiếu trong đời sống người Việt, những giá trị tinh
thần này đã khẳng định một bản sắc và sự trường tồn của văn hoá Việt trong
văn hoá thế giới.
Đặc trưng của tín ngưỡng Việt chính là sự "Nữ hoá" trong các tín
ngưỡng dân gian. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng quan trọng trong
đời sống người Việt, nó có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời cùng với
quá trình thịnh suy của xã hội Việt từ bao đời nay. Nền văn minh lúa nước rất
coi trọng bàn tay khéo léo của người phụ nữ, và từ xa xưa người mẹ đã trở
thành thân thuộc nhất với con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự tôn vinh thờ
phụng gắn với các hiện tượng tự nhiên, vũ trụ như trời, đất, mưa, gió…ngoài
ra còn thờ phụng những vị nữ anh hùng dân tộc (về giai đoạn sau này).
Tín ngưỡng thờ Mẫu luôn gắn liền với hình thức Tam phủ, Tứ phủ.
Tam phủ, Tứ phủ tượng trưng cho các vùng không gian mà các Mẫu cai quản,
Tam phủ là vùng trời, đất, nước (Thiên, Địa, Nhạc); Tứ phủ là vùng trời, đất,
rừng, nước (Thiên, Địa, Nhạc, Thoải). Trong các Mẫu thì Mẫu Thượng Thiên
được ngồi ở vị trí cao nhất rồi mới đến các Mẫu khác. Tương truyền Mẫu
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
7
Thượng Thiên chính là hoá thân của Thánh Mẫu Liễu Hạnh - một trong "Tứ
bất tử" của tâm thức dân gian Việt Nam.
Phủ Dầy Nam Định được coi là một trong những hình thức thờ Mẫu
Tam phủ, Tứ phủ đặc trưng nhất ở Việt Nam, cùng với Phủ Tây Hồ (Hà Nội),
đền Sòng (Thanh Hoá)…đã làm nên nét khác biệt của một tín ngưỡng do
chính người Việt sáng tạo ra, mang đậm bản sắc văn hoá, tâm linh Việt. Phủ
Dầy nằm trên địa bàn hai thôn Tiên Hương và Vân Cát thuộc xã Kim Thái,

huyện Vụ Bản, tỉnh Nam định. Quần thể Phủ Dầy có khoảng gần hai mươi di
tích lớn nhỏ, tuy nhiên khách thập phương đến với Phủ Dầy chủ yếu là để lễ
Mẫu (Thánh Mẫu Liễu Hạnh), tương truyền đây chính là quê hương Mẫu
Liễu, ở đây có lăng Mẫu và đền, phủ thờ các vị thân sinh ra Mẫu. Ngoài ra,
trong quần thể di tích phủ đầy còn có đền, phủ thờ Mẫu Thoải, Mẫu Địa, Mẫu
Thượng Ngàn, đền Đông Cuông…và hệ thống chùa cổ như chùa Linh Sơn,
chùa Cao…đặc biệt hơn cả là đình thờ ông Khổng (Nguyễn Minh Không -
ông tổ nghề đúc đồng ở nước ta) cũng nằm trong hệ thống di tích Phủ Dầy.
Lễ hội Phủ Dầy diễn ra từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 10 tháng 3
hàng năm, đây thật sự là một hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng của nhân
dân không chỉ mang tính chất địa phương mà nó đã có tầm ảnh hưởng hết sức
sâu rộng đến phạm vi cả nước. Tìm hiểu về lễ hội Phủ Dầy chính là tìm hiểu
một nét văn hoá truyền thống của con người Việt Nam. Trong giai đoạn hiện
nay việc bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống là vô cùng quan trọng
và cần thiết vì vậy thiết nghĩ Phủ Dầy cần được quan tâm hơn nữa để xứng
đáng là một trong hai kinh đô của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài.
Các công trình nghiên cứu đầu tiên về Nữ thần, Mẫu thần ở Việt Nam
đều là các công trình của các nhà khoa học người Pháp như Parmenties,
Maspero, Durand, Simond và kế tiếp là các nhà khoa học người Việt như
Nguyễn Văn Huyên, Đào Thái Bình…
Từ thập niên 1990, nhất là sau hội thảo quốc gia về Thánh Mẫu Liễu
Hạnh do Viện nghiên cứu văn hoá Việt Nam tổ chức tại Văn Miếu (Hà Nội),
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
8
không khí học thuật liên quan tới tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng và tín ngưỡng
dân gian nói chung diễn ra sôi động, hàng loạt tác phẩm, công trình nghiên
cứu đã được công bố.
Từ các nghiên cứu tổng hợp, các nhà nghiên cứu đã hệ thống hoá được

việc tôn thờ đạo Mẫu Việt Nam trên cả phương diện đồng đại và lịch đại. Về
phương diện lịch đại, Đạo Mẫu Việt Nam được hình thành và phát triển trên
cái nền thờ Nữ thần và Mẫu thần bản địa, rồi tiếp thu những ảnh hưởng của
Đạo Giáo Trung Hoa để đạt đến đỉnh cao là đạo thờ Mẫu Tam phủ, Tứ Phủ.
Tới thế kỷ XVII - XVIII, khi Mẫu Tam Phủ, Tứ phủ đã được hình thành và
phát triển thì nó lại Tam phủ, Tứ phủ hoá tục thờ Mẫu thần, Nữ thần.
Ngay từ thời Hậu Lê, đã có một số ghi chép các sáng tác về Thánh Mẫu
Liễu Hạnh của Nguyễn Công Trứ, Đoàn Thị Điểm…
Từ cuối thế kỷ XVI, tục thờ Mẫu ở làng Kẻ Dầy đã phát triển với lịch
sử sinh sinh hoá hoá của Thánh Mẫu Liễu Hạnh mà dân thường gọi là Chúa
Liễu. Trong truyền thuyết dân gian nổi tiếng của đất Vụ Bản, thì Liễu Hạnh
công chúa là "Thiên Bản lục kỳ chi đệ nhất", đứng đầu sáu nhân vật kỳ tài của
đất Vụ Bản.
Cao hơn nữa, trong hệ thống thần linh ở nước ta, Thánh Mẫu Liễu
Hạnh còn được tôn là một trong "tứ bất tử" (bốn vị thánh không chết), mà lại
là một vị nữ duy nhất trong bốn vị thánh bất tử đó, (Tứ bất tử là: Phù Đổng
Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thánh, Thánh Mẫu Liễu Hạnh).
Có khá nhiều tài liệu viết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Không kể những
truyền thuyết về Mẫu Liễu khá phong phú đa dạng trong dân gian vùng Kẻ
Dầy, vùng Vụ Bản và nhiều nơi khác. Tài liệu thành văn xưa nhất được biết
đến là tác phẩm "Vân Cát thần nữ truyện" của Đoàn Thị Điểm trong cuốn
"Truyền kì Tân Phả" bằng chữ Hán. Bà Đoàn Thị Điểm sinh năm Ất Dậu
(1705) tại làng Giai Phạm, huyện Văn Giang (nay là huyện Mỹ Văn tỉnh
Hưng Yên). Bà có hiệu là Hồng Hà nữ sĩ mở trường dạy học ở Chương
Dương (Hà Tây). Bà nổi tiếng về văn chương, biên soạn nhiều tác phẩm và
dich thuật nhiều tác phẩm khác, được nhiều danh sĩ đương thời ca ngợi. Bà
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
9
mất vào năm Mậu Thìn đời Cảnh Hưng năm thứ 9 (1748). Viết "Vân Cát thần

nữ truyện", tác giả không cho biết căn cứ vào những tài liệu nào. Đầu thế kỷ
XX, trong "Nam Hải Dị nhân" Phan Kế Bính cũng có viết về nữ thần Liễu
Hạnh.
Gần đây trong khi khảo cứu về Mẫu Liễu Hạnh, tôi đã tìm hiểu được
nhiều bản thần tích của Mẫu. Khi nghiên cứu "Các tiên tam thế thực lục" của
Phủ Nấp (Quảng Nạp, Yên Đồng, Ý Yên), viết và in bản khắc đời Duy Tân
đầu thế kỷ XX, được lưu giữ tại phủ Tiên Hương và phủ Vân Cát, tôi thấy có
chép "Tiên Từ phả ký" trong đó, giống như bản chép tay mà bác sĩ Trần Lê
Văn công bố năm 1992 và cũng y hệt cuốn "Tiên Từ phả ký" chép tay do cụ
Trần Lê Hiệu, Trần Đình Tùng cung cấp. Năm 1997, trong thư viện Hán nôm
Việt Nam tập "Thần tích làng Vân Cát", tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định, kí hiệu AEa 15/18 có dấu của Viễn Đông Bác Cổ. Cuốn này có
hai tập. Tập đầu là cuốn "Tiên Từ phả kí" giống như các tư liệu tìm thấy ở
trên. Tập thứ hai là "Vân Cát thần nữ lục" chia làm ba phần:
Phần đầu (tiền lược): Tóm lược nội dung như "Tiên Từ phả kí", nhưng
lại thêm là Tiên Chúa Liễu Hạnh đã sinh với Đào Lang một con gái.
Phần giữa (trung lược): Chúa về trời, được phong là Liễu Hạnh công
chúa, lại được trở về trần thế tiêu dao, lấy một chàng trai làng Sóc là Mai Sinh
chính là hậu thân của chồng cũ.
Phần cuối (hậu lược): Nói về "Sòng Sơn đại chiến" Tiên Chúa ở Phố
Cát, Sòng Sơn đánh nhau với Tiền quan thánh của Nội đạo tràng bị thua, được
Phật Thế Tông cứu giải, theo Phật tu hành, sau lại học đạo ở Nội đạo tràng,
được phong là Đại thừa.
Năm 1944, giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên viết cuốn "Sự phụng thờ
các vị thánh bất tử ở Việt Nam", trong đó nữ thần Liễu Hạnh được ông đặc
biệt trân trọng. Ông đã viết lịch sử nữ thần giống như "Vân Cát thần nữ
truyện" của Đoàn Thị Điểm, lại bổ sung thêm phần "Sòng Sơn đại chiến".
Giáo sư còn nhấn mạnh :"Nghiên cứu việc thờ phụng các vị bất tử, một ngày
kia người ta có thể lấy vai trò lịch sử của dân tộc Việt Nam ở Đông Nam Ả
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn

SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
10
trong việc xây dựng những khái niệm tôn giáo và luận đề văn chương. Dân
tộc này không chịu sao chép những gì của Trung Quốc mà tự tạo lấy cuộc
sống riêng trong trường kì lịch sử vẫn luôn luôn được thanh xuân hoá" [13,
tr. 22].
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Qua khoá luận tôi muốn tìm hiểu một cách sâu sắc, có hệ thống về tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam mà cụ thể là tín ngưỡng thờ Mẫu ở lễ hội Phủ
Dầy và tầm ảnh hưởng của nó đối với đời sống nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định. Từ đó chúng ta có phương hướng, biện pháp cụ thể, thiết thực
nhằm phát huy tín ngưỡng đặc trưng của dân tộc, cũng là bảo tồn phát triển
một nét văn hoá mang đậm bản sắc Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, cụ thể là
tín ngưỡng thờ Mẫu ở Phủ Dầy Nam Định.
4.2 Phạm vi nghiên cứu: Ở Việt Nam có nhiều địa điểm thờ Mẫu nhưng
trong đó có hai trung tâm lơn nhất là Phủ Tây Hồ (Hà Nội) và Phủ Dầy (Nam
Định). Trong khoá luận này tôi chỉ tìm hiểu, nghiên cứu trung tâm thờ Mẫu
Phủ Dầy (Nam Định).
5. Phương pháp nghiên cứu.
Ở đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp như:
- Phương pháp khảo sát, phân tích.
- Phương pháp điều tra, tổng hợp.
6. Đóng góp của khoá luận.
Khoá luận góp phần tìm hiểu một nét văn hoá đặc trưng của dân tộc
Việt, nó sẽ là nguồn tài liệu tin cậy cho việc nghiên cứu tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Việt Nam nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu ở lễ hội Phủ Dầy nói riêng sau
này. Cũng như từ đó đưa ra những biện pháp bảo tồn truyền thống văn hoá
mang đậm chất Việt Nam.

7. Bố cục của khoá luận.
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
11
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của
khoá luận gồm ba chương.
Chương 1: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam.
Chương 2: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở lễ hội Phủ Dầy.
Chương 3: Những ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở lễ hội Phủ Dầy
đối với đời sống người dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

























Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
12



Chương 1: TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở VIỆT NAM
1.1. Khái lược về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam:
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian, được hình
thành khá sớm và tồn tại khá phổ biến ở Việt Nam, thể hiện sự ngưỡng mộ
chân thành của con người về vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình,
ngoài xã hội, trong công cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Danh xưng Mẫu có nghĩa là mẹ, Mẫu hay mẹ là người phụ nữ nói
chung có công sinh thành, nuôi dưỡng con lên người. Mẫu thường có nguồn
gốc từ các vị thần tự nhiên (nhiên thần) như Mẫu thiên, Mẫu thoải, Mẫu địa,
Mẫu thượng ngàn…và nguồn gốc từ các nhân thần. Nhân thần có hai dạng,
không có thực như: mẹ Âu Cơ, mẹ Phù Đổng, mẫu Liễu Hạnh và có thực như
Nguyên Phi Ỷ Lan, Bà Thái Hậu họ Đỗ tương truyền là mẹ của Vua Lí Thần
Tông…Mẫu được tôn vinh ở ba cung bậc chính là: Thánh Mẫu, Quốc Mẫu và
Vương Mẫu.
Tín ngưỡng thờ Mẫu có quan hệ mật thiết với tín ngưỡng thờ nữ thần
song không phải đồng nhất. Mọi Mẫu đều là nữ thần song không phải nữ thần
nào cũng là Mẫu. Tín ngưỡng thờ Mẫu được tập trung trong tín ngưỡng về
Tam toà thánh Mẫu (Mẫu tứ phủ) - chỉ có trong tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ Phủ
Mẫu mới được tôn thờ làm Thánh Mẫu như: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu thiên, Mẫu
địa, Mẫu thoải, Mẫu thượng ngàn, Mẫu thiên Yana…

Việc thờ Thánh Mẫu cùng với sự thăng hoa của Mẫu Liễu Hạnh đã trở
thành tín ngưỡng thờ Mẫu, đó là niềm tin, sự ngưỡng mộ chân thành vào sự
tồn tại và khả năng cứu giúp của Mẫu đối với con người.
* Cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu
Mẫu gọi theo tiếng Hán, tiếng Việt Nam là Mạ, Mệ, Mẹ, tại sao lại có
tín ngưỡng thờ Mẹ. Đó là từ thời nguyên thuỷ, con người đã có ý thức sâu sắc
về sự sinh sản, sự sinh sôi nảy nở, ý thức ấy thường biện lí từ cái cụ thể. Mà
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
13
cái cụ thể về cái sự sinh sôi nảy nở không gì khác ngoài người mẹ mang nặng
đẻ đau, sinh ra nuôi dưỡng che chở bảo vệ cho con người, chiến thắng thiên
tai và thú dữ ấy đều được gọi là mẹ.
Theo ý nghĩa trên, người mẹ biểu tượng đầu tiên nuôi sống che chở cho
con người ấy là mẹ cây. Cây cho mầm, cho rễ, cho quả để con người ăn sinh
sống ban đầu, cây cho vỏ để người mặc, cây cho cành, cho những rễ phụ để
cho con người kết lại thành võng treo mình trên võng qua đêm và tránh thú dữ
sát hại. F.Engels trong sách "Nguồn gốc gia đình chế độ tư hữu và nhà nước"
đã viết ý là: ít nhất con người còn sống ở trên cây một phần, thì mới có thể
giải thích được rằng họ có thể sinh tồn cùng với thú dữ.
Ở nước ta, cây cho rễ phụ nhiều nhất là cây đa, cây si. Hiện nay ở xã
Tiên Nông (Khởi thuỷ nghề nông), bên bờ sông Lô, thị xã Tuyên Quang có
đền thờ Mẫu Ỷ La. Nay đền đã quang đãng, nhưng trước đây không lâu bao
quanh đền là cả một rừng cây đa cổ thụ, rễ phụ đan nhau chằng chịt. Cũng ở
Thị xã Tuyên Quang, có một đền thờ Ỷ Lan khác trên núi La thờ bà Chúa
thượng ngàn, cũng trồng rất nhiều cây si và cây đa cổ thụ được gọi là cây
thiêng, cây bất tử toả bóng mát cho khách hành hương. Ỷ là dựa, La là lưới,
võng. Lưới của những cây đa, cây si được tết thành lưới, thành võng như
những cái nôi đưa con người nguyên thuỷ chìm vào trong những giấc ngủ qua
đêm tránh thú dữ. Bởi thế, Ỷ La trở thành biểu tượng đầu tiên về Mẹ thiêng

liêng. Theo tác giả Toan Ánh, trong sách "Nếp cũ", có nói ở đền Bắc Lệ -
Lạng Sơn treo bức tranh Mẫu thượng ngàn ngồi trên chiếc võng giăng giữa
hai cây trong rừng xanh xung quanh có nhiều vượn chim và các cô nàng đứng
hầu hạ. Bức tranh này được chụp thành ảnh, in trong sách "Tìm về bản sắc
văn hoá Việt Nam" của Trần Ngọc Thêm, gọi là tranh Hàng Trống (trang
272). Việc thờ Mẫu mang tính chất là thờ Mẹ Cây, Mẹ Rừng này còn thấy rõ
nét ở nhiều nơi. Như ở đền Hai Bà Trưng - Đồng Nhân, Hà Nội, trên bàn thờ
Mẫu treo bức tranh hoành phi đề "Tam mộc sơn đình" hay ở đầu bàn thờ Mẫu
thấy bức tranh hoành phi là Mẫu Sơn Lâm. "Tam mộc sơn đình" là ba cây làm
nên rừng lớn. Dân ta có câu:
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
14

"Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao"
Ấy là hình ảnh nói về sức mạnh đoàn kết cộng đồng bắt nguồn từ thờ Mẫu
"Tam mộc sơn đình". Hoặc như nhiều làng dệt ở vùng Hà Đông cũ mang tên
La Khê, La Cả thờ tổ dệt là Mẫu La.
Mẫu Ỷ La mang tính chất là Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Sơn Lâm được
nhân cách hoá thành những huyền thoại như sau:
Vua Hùng Định Vương có bà hoàng hậu thứ ba, tên là An Nương,
mang thai khá lâu (gọi là chửa trâu), bà đi chơi giữa rừng xanh, trở dạ đẻ, bà
vịn vào gốc cây quế cổ thụ, đau đớn vất vả lắm mới sinh được con gái,nhưng
bà kiệt sức mất ngay sau khi sinh con. Con gái được vua cha đặt tên là Mị
Nương Quế Hoa. Lớn lên Quế Hoa rất xinh đẹp, nhiều hoàng tử xin kết duyên
nhưng nàng không để ý chỉ hiềm một nỗi nhớ nhung tìm mẹ. Nàng cùng 12
thị nữ đi khắp rừng xanh tìm mẹ. Trên đường đi nàng gặp rất nhiều dân tình
đói khổ vào rừng đào củ mài kiếm ăn, nàng rất xót xa thương dân tình đói
khổ. Với lòng nhất mực hiếu thảo tìm mẹ, và lòng bác ái thương dân, nàng đã

được tiên ông hiện xuống cho sách quý có phép màu, làm núi sông thông
thương trở lại, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, cuộc sống dân lành ấm no,
yên vui trở lại… Đám mây ngũ sắc hạ xuống đón bà và 12 thị nữ về trời…
Nhân dân thương nhớ tôn nàng là Thượng Ngàn Thánh Mẫu, lập đền thờ nay
là đền Suối Mơ ở Hữu Lũng, Lạng Sơn.
Câu chuyện trên đây tất hình thành nên sau này như câu chuyện Tấm
Cám có ông tiên có phép lạ, nhưng cốt lõi ở đây là bà mẹ rừng xanh và Thánh
Mẫu Thượng Ngàn.
Thánh Tản Viên sau khi thắng Thuỷ Tinh, được Vua Hùng gả con gái
cho là Ngọc Hoa. Và Ngọc Hoa sinh được người con gái hiền thục tên là La
Bình (ở đây ta lại gặp chữ La có nghĩa là lưới, võng). La Bình luôn đi theo
cha khắp núi rừng săn bắn. Đi đến đâu La Bình cũng gắn bó với núi rừng, cây
cỏ, muông thú. Thấyvậy, thượng đế ban cho nàng là Nữ chúa rừng xanh, từ
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
15
đó nàng càng gắn bó với núi rừng, dạy bảo muôn loài cầm thú, không gây
điều ác. Do công lao ấy, Thượng đế giao cho nàng cai quản 81 cửa rừng xanh
ở chốn Nam Giao. Nàng còn có công giúp triều Lí thắng Tống, Trần thắng
Nguyên, nhất là giúp quân ông Lê Lợi thắng giặc Liêu Thăng ở Lạng Sơn. Vì
vậy, nàng được tôn là Chúa thượng ngàn, nhân dân lập đền thờ, nay là đền
Bắc Lệ ở Hữu Lũng, Lạng Sơn, cách đền Suối Mơ không xa.
Ở đây câu chuyện có hai ý, một người con người còn sống chung với
muông thú trong rừng sâu, và con người đã chiến thắng được thú dữ. Hai là
câu chuyện được kéo về Chúa thượng ngàn giúp nhân dân ta chống giặc Bắc,
mà Lạng Sơn là địa đầu trong các cuộc kháng chiến ấy, nên bà lại được quy
về thờ ở Bắc Lệ.
Câu chuyện về Mẫu thượng ngàn hay Mẫu đệ nhất, là một cô gái người
Dao ở Động Cuông, Yên Bái. Khi cô sinh ra, bố mẹ đã già yếu, từ nhỏ đến
lớn cô chỉ làm việc thiện, không lấy chồng, khi chết bà hiển linh giúp đỡ dân

làng được nhiều điều tốt dẹp, nên bà được thờ ở các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Yên Bái và bà cũng báo mộng cho ông Lê Lợi, ông Nguyễn Trãi biết
được đường tiến quân của giặc Minh để thắng chúng ở Lạng Sơn, nên cũng
được thờ ở đền Bắc Lệ, ở Đồng Đăng - Kì Lừa, Lạng Sơn.
Cũng với những câu chuyện trên đây, ở việc đồng bóng (sẽ trình bày ở
sau) thường xuyên xuất hiện những Mẫu đệ nhất, đệ nhị là những chầu bà ở
người miền núi: Dao, Tày, Nùng nhập đồng đã phản ánh đậm nét thời kì Mẫu
xuất hiện gắn với con người còn cư trú trên miền rừng núi. Mà dấu tích của
nó là các đền thờ Mẫu còn thấy ở trên miền núi. Cùng với các đền Ỷ La, đền
Bắc Lệ, đền Suối Mơ giới thiệu trên đây, ta còn biết đến những ngôi đền khác
như đền Giùm thờ Mẫu thuỷ ngàn ở cửa sông Hồng (Yên Sơn - Tuyên
Quang), đền thờ mẹ Âu Cơ ở xã Hiền Lương bên sông Theo (Yên Bái), đền
thờ Mẫu bên Thác Bờ (Hoà Bình) đền thờ Củi thờ Mẫu thượng ngàn ở thượng
nguồn sông La (Nghệ Tĩnh).
Như vậy, có thể nói tín ngưỡng thờ Mẫu ở người Việt (Kinh) hay ở
Việt Nam, khởi nguồn gắn với những con người còn cư trú trên các miền rừng
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
16
núi. Có nghĩa là tín ngưỡng thờ Mẫu từ miền rừng núi thờ mẹ cây (sau này
gọi là Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Sơn Lâm), rồi theo dòng lịch sử đi xuống
vùng trung du đồng bằng, bổ sung thêm những Mẫu khác.
Khi con người xuống trung du, đồng bằng sống bằng nghề nông nghiệp
lúa nước, cây lúa hạt gạo là yếu tố quan trọng hàng đầu nuôi sống con người,
rồi các cây hoa màu, cây ăn quả. Mẹ Cây vẫn gắn bó chặt chẽ với đời sống
con người. Và con người làm nông nghiệp lúa nước, thì đất và nước là hai yếu
tố tiếp theo được tôn thờ. Đất và nước được tôn vinh thành mẹ đất, mẹ nước
(Mẫu Địa, Mẫu Thuỷ) gia nhập vào hàng ngũ Mẫu được thờ.
Thế nhưng quyết định có nước lại do mưa từ trên trời rơi xuống, con
người chưa thể hiểu quy luật của mưa là nước bốc hơi lên lên thành mây mưa,

cho đó là trời quyết định, mẹ trời được tôn vinh, Mẫu Thiên ra nhập hàng ngũ
Mẫu. Tín ngưỡng là từ thực tế cuộc sống, con người đặt ra những lực lượng
để tôn vinh, tôn trọng phù hợp với cuộc sống của con người là thế. Mẹ cây,
mẹ rừng (sau này gọi là Mẫu Thượng Ngàn hay Mẫu Sơn Lâm). Mẹ đất, mẹ
nước, mẹ trời (thời tiết, khí hậu), hay gọi theo tiếng Hán là Mẫu Thượng
Ngàn, Mẫu Địa, Mẫu Thoải (Thuỷ), Mẫu Thiên là hệ thống Mẫu cơ bản ban
đầu của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Trong bốn Mẫu trên đây, Mẫu Sơn Lâm (Mẫu Thượng Ngàn) đã được
nhân cách hoá như trên, còn Mẫu Thuỷ (Thoải) được nhân cách hoá như sau:
Dị bản từ làng A Lữ kể rằng, thuở trời đất mới mở mang, rừng núi sông
hồ hoang vu, Kinh Dương Vương thường đi chu du khắp nơi, một hôm đến hồ
Động Đình gặp người con gái sắc đẹp tuyệt trần, con Vua Long Vương hồ
Động Đình. Kinh Dương Vương lấy về làm vợ, sinh ra Sùng Sản, chính là
Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, nở trăm
con, tổ tiên Lạc Việt, từ Rồng, từ Nước.
Có truyền thuyết lại cho rằng Mẫu Thoải không phải là một bà mà là
nhiều bà. Các bà đều là con của Lạc Long Quân, trong đó chọn được ba
người, giao cho quản lĩnh sông biển nước Nam đóng dinh ở sông Nguyệt
Đức. Một bà có có hiệu là Thuỷ Trinh Động Đình Ngọc Nữ công chúa. Bà
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
17
thứ hai có hiệu là Hoàng Hà Đan Khiết phu nhân. Bà thứ ba là Tam Giang
công chúa. Tam giang nay là ngã ba Sà Yên Phong, Bắc Ninh.
Một truyền thuyết khác, do người Pháp là Durant sưu tầm, kể rằng ở
vùng Tuyên Quang có một hoàng tử con vua Đất là Kinh Xuyên, lấy vợ là con
gái con gái Long Vương ở hồ Động Đình, bà rất yêu chồng. Nhưng Kinh
Xuyên lại lấy vợ hai tên là Thảo Mai. Thảo Mai ghen ghét với vợ cả, vu cáo
vợ cả không chung thuỷ với chồng. Bực tức, Kinh Xuyên nhốt vợ vào cũi,
đem bỏ vào rừng cho thú dữ ăn thịt. Ở trong rừng, bà vợ cả không những

không bị thú dữ ăn thịt mà chúng còn mang hoa quả nuôi sống bà. Một hôm
có một nho sĩ đi qua, bà nhờ nho sĩ viết cho một bức thư gửi cho cha là Long
Vương, bà được cứu thoát. Long Vương muốn gả bà cho nho sĩ, nhưng ông từ
chối chỉ nhận là người bạn chân thành của bà. Đề cao đạo đức của bà, người
đời tôn thờ bà là Mẫu Thoải (Mẹ Nước) lập đền thờ ở Tuyên Quang, gọi là
đền Giùm (giùm là giúp đỡ), bên hữu ngạn sông Lô như đã giới thiệu. Qua
những câu chuyện nhân cách hoá viết về Mẹ nước (Mẫu Thuỷ) trên đây, ta
thấy nho giáo ban đầu chưa hội nhập vào tín ngưỡng thờ thần. Và Mẫu Thoải
(Mẹ Nước) vẫn không tách khỏi những yếu tố ban đầu của nó, lấy chồng và là
con gái vua Đất, mẹ Nước bị bỏ vào trong rừng (Mẹ Cây). Ba yếu tố Đất,
Nước, Cây vẫn được nhấn mạnh trong ý niệm ban đầu của tín ngưỡng thờ
Mẫu.
Đến mẹ Đất, mẹ Trời thì được nhân cách hoá khi Phật giáo du nhập.
Qua câu chuyện bà Man Nương làm làm thuỷ hộ ở chùa Luy Lâu (chùa Dâu
ngày nay), do nhà sư Khâu Đà La (người Ấn Độ) vô tình bước qua người bà,
khi bà nằm ngủ thiếp đi ở hiên cửa trai phòng, bà động thai, sinh bé gái. Bà
đem trả con cho nhà sư, nhà sư mang bé gái đọc thần chú, gửi vào trong gốc
cây dương thụ. Về sau, do mưa to gió lớn cây dung thụ bị đổ trôi về bên sông
Dâu. Em bé gái trước đây nằm trong gốc cây dương thụ biến thành Thạch
Quang Phật, cây dung thụ được tạc thành bốn pho tượng, tôn làm bà Pháp
Vân, bà Pháp Vũ, bà Pháp Lôi, bà Pháp Điện (bốn yếu tố gắn liền với thời
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
18
tiết, khí hậu: mây, mưa, sấm, chớp, thành hệ thống chùa Tứ pháp thờ ở nhiều
nơi ở đồng bằng Bắc Bộ).
Ở đây ta thấy, mẹ trời (Mẫu Thiên) được triển khai thành Mây, Mưa,
Sấm, Chớp, cho kết hợp với Phật giáo thành các bà, vẫn là yếu tố mẹ. Và đặc
biệt sự nhân cách hoá này, mẹ trời (Mẫu Thiên) vẫn hoà quyện với ba yếu tố
ban đầu là đất (Thạch Quang Phật, Thạch là đá - đất cứng), cây (cây dung thụ)

và nước (cây dung thụ theo dòng nước chảy về bến sông Dâu).
Việc thờ mẹ Cây, mẹ Đất, mẹ Nước xưa kia phổ biến ở các làng quê
trung du đồng bằng Bắc Bộ. Với bộ ba luôn đi liền với nhau và giếng làng
(nước), cây đa, cây si hoặc cây đại (cây) với bệ bên gốc đa, đặt các bình vôi
đã nứt vỡ, từ trong các gia đình đưa ra (vôi, đá, đất cứng). Đến đây, một vấn
đề đặt ra là tại sao người Việt (Kinh) lại sâu sắc tôn thờ những đối tượng Cây,
Đất, Nước và Trời (thời tiết, khí hậu) thành các Mẹ, đó là do nằm trong bản
chất văn hoá Việt Nam, mang tính triết học biểu hiện ra như sau:
Một là - Sâu nặng ý thức nhớ về cội nguồn. Qua tín ngưỡng thờ cúng
Tổ tiên tín ngưỡng thờ thần là những vị có công dựng làng, giữ nước, thể hiện
rất rõ điều đó. Còn đối với người Mẹ (người) mang nặng đẻ đau nuôi dưỡng
nên những đứa con, thì nghĩa Mẹ thật là sâu nặng khôn cùng. "Nghĩa mẹ như
nước trong nguồn chảy ra", nước trong nguồn chảy ra không bao giờ hết,
không bao giờ cạn, thì nghĩa cả ơn Mẹ chẳng bao giờ nguôi. Từ ý thức ấy, mở
rộng ra tầm nhìn văn hoá, thì những cái gì là yếu tố mang ý nghĩa quyết định
sinh sôi ra của cải hạt gạo bát cơm, tố chất cơ bản bao đời nuôi sống con
người cư dân nông nghiệp lúa nước, thì cũng có thể ví như công ơn nghĩa Mẹ.
Vì thế Cây, Đất, Nước (thời tiết khí hậu) được tôn vinh như những bà Mẹ văn
hoá.
Hai là - Văn hoá Việt Nam mang nặng triết lí âm sinh dương thành
(chứ không phải triết lí âm thịnh dương suy). Biểu hiện ở văn hoá nông
nghiệp lúa nước, nên rất đề cao yếu tố yên tĩnh hoà bình (âm) rất coi trọng
tình nghĩa (âm) xóm làng, để đoàn kết, tạo sức mạnh chống thiên tai địch hoạ,
làm thuỷ lợi. Và trong ứng xử bang giao thì hiếu hoà (âm) hơn hiếu thắng
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
19
(dương) và biết "cúi đầu để giữ nước" cũng là âm tính. Nhưng âm phải vận
hành trong sinh sôi phát triển, vì thế "dĩ bất biến (âm) ứng vạn biến (dương)",
"giặc đến nhà đàn bà (âm) cũng đánh (dương)". Bởi thế văn hoá Việt Nam,

mọi trách nhiệm và vinh quang đều quy về người Mẹ (cái), "con dại cái
mang", "con hư tại mẹ, cháu hư tại bà", sông cái, đường cái, trống cái, thúng
cái, rồi thì Mẹ quê hương, Mẹ Tổ quốc, Mẹ Việt Nam anh hùng…
Từ những điều mang tính triết lí văn hoá trên đây, mà ở Việt Nam
người Mẹ luôn được tôn vinh, người Mẹ có riêng một tín ngưỡng, tín ngưỡng
thờ Mẹ, gọi theo tiếng Hán là Mẫu. Cũng như chỉ có Việt Nam mới có bảo
tàng về phụ nữ Việt Nam.
Từ những dẫn giải trên đây có thể kết luận: Cốt lõi của tín ngưỡng thờ
Mẫu ở Việt Nam là tôn thờ bốn đối tượng Cây, Đất, Nước, Trời (thời tiết khí
hậu), những yếu tố cơ bản (qua sức lực của con người) sản sinh ra của cải vật
chất, hạt gạo, bát cơm, tố chất cơ bản bao đời nuôi sống con người cư dân
nông nghiệp lúa nước, thành các bà Mẹ văn hoá, gọi chung là tín ngưỡng thờ
Mẫu.
Các Mẫu trong xã hội phong kiến được tôn lên như những bà chúa. Mà
chúa thì ở phủ (phủ chúa Trịnh, phủ chúa Nguyễn), vì thế tín ngưỡng thờ Mẫu
với bốn đối tượng trên đây được gọi là Tín ngưỡng Tứ phủ đó là Mẫu Sơn
Lâm gọi Nhạc phủ, Mẫu Địa là Địa phủ, Mẫu Thuỷ (Thoải) là Thuỷ phủ, Mẫu
Thiên là Thiên phủ.
Cũng có sách đã kết luận: Tôi thấy người Việt Nam dùng danh từ thờ
Mẫu là cực hay, họ đã khái niệm hoá thành công một tín ngưỡng hết sức đa
dạng, đồng thời lại tích hợp được nhiều tín ngưỡng khác theo bốn yêu cầu của
tâm thức dân tộc, trong tình thương của người Mẹ…là sự nhân cách hoá bốn
lực lượng tự nhiên quyết định đời sống của một cư dân nông nghiệp là Trời,
Đất, Cây, Nước người ta gọi là thờ Tứ phủ.


Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
20
1.2. Qúa trình hình thành và phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu

ở Việt Nam
.
1.2.1. Quá trình hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam.
Cũng như các loại hình tín ngưỡng khác, tín ngưỡng thờ Mẫu là sự
phản ánh đời sống xã hội của con người. Đời sống xã hội là yếu tố mang tính
khách quan, có vai trò quyết định ảnh hưởng tới quá trình hình thành và tồn
tại của tín ngưỡng thờ Mẫu.
* Điều kiện địa lí tự nhiên ảnh hưởng tới quá tình hình thành tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam:
Điều kiện tự nhiên chính là môi trường sinh thái trong đó con người
sống và tồn tại. Môi trường sinh thái là nơi cung cấp tư liệu lao động cần thiết
cho con người. Con người tồn tại trong môi trường sinh thái, do đó quan hệ
giữa con người và tự nhiên cũng là một mặt của đời sống xã hội, là yếu tố
quan trọng của tồn tại xã hội. Môi trường tự nhiên khó khăn hay thuận lợi có
ảnh hưởng to lớn tới cách thức sản xuất và do đó ảnh hưởng tới đời sống,
cách ứng xử, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo.
Việt Nam là một quốc gia ở vùng Đông Nam Á, có địa hình đồng bằng,
rừng núi, ven biển và hải đảo. Khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, lắm nắng
nhiều mưa với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trong đó có hai mùa rõ rệt là mùa
khô và mùa mưa. Điều đó góp phần tạo nên sắc thái riêng biệt của nơi cư trú,
các thiết chế xã hội, thói quen, tâm lí và các hình thái tín ngưỡng, tôn giáo.
* Điều kiện kinh tế xã hội ảnh hưởng tới sự hình thành tín ngưỡng thờ
Mẫu ở Việt Nam:
Cơ sở kinh tế xã hội của xã hội Việt Nam trước đây đựa trên nền sản
xuất nông nghiệp là chính. Trong sản xuất nông nghiệp con người bị lệ thuộc
khá nhiều vào thiên nhiên. Để sản xuất nông nghiệp con người phải:
"Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mây, trông nắng, trông ngày, trông đêm"
Nhiều khi không hiểu được những thuận lợi và khó khăn do tự nhiên
mang lại, con người thường thần thánh hoá các hiện tượng tự nhiên và gắn

Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
21
cho chúng một sức mạnh siêu nhiên, điều đó làm xuất hiện tín ngưỡng thờ các
thần, trong đó có việc thờ các nữ thần: tín ngưỡng thờ các thần mặt trời, mặt
trăng, tín ngưỡng thờ Tứ pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi.
Trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, vai trò của
người phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ tham gia hầu hết các công việc
đồng áng, từ cấy lúa, chăm sóc, bón phân đến gặt, đập lúa, xay lúa…trong gia
đình lại là người tay hòm chìa khoá. Ông cha ta đã dạy rằng "Chồng là cái
giỏ, vợ là cái hom". Trong dân gian cũng có những câu truyền tụng từ bao đời
nay như "Nhất vợ nhì giời", "Lệnh ông không bằng cồng bà" hay "Ruộng sâu
trâu nái không bằng con gái đầu lòng"…ý muốn tôn vinh vai trò của người
phụ nữ.
Người phụ nữ còn có vai trò quan trọng trong việc nuôi dạy con cái cho
nên mới có câu "phúc đức tại mẫu", "Con dại cái mang"…Như vậy, trong gia
đình người phụ nữ luôn là người "giữ lửa", họ không chỉ đảm đang tháo vát
trong công việc nhà mà còn giỏi giang trong công việc đồng áng và khéo léo
trong việc nuôi dạy con cái. Không chỉ có thế, trong lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc có nhiều người phụ nữ có tài, có đức, anh hùng
bất khuất, khi sống thì thông minh tuyệt đỉnh, khi thác xuống thì linh thiêng
ngàn đời được nhân dân khắp nơi tôn thờ như: Hai Bà Trưng, Thái Hậu
Dương Vân Nga, Nguyên Phi Ỷ Lan, Bà chúa Kho, bà hàng nước ở bến Rừng
(Quảng Ninh), bà bán dầu ở Lam Sơn (Thanh Hoá)…
1.2.2.Quá trình phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt nam:
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam không phát triển theo các giai đoạn
lịch sử nhất định, mà từ khi hình thành đến hiện nay hầu như nội dung và hình
thức thờ Mẫu không có quá nhiều biến đổi.
Ngay từ lúc mới hình thành, tín ngưỡng thờ Mẫu đã chịu ảnh hưởng
khá lớn mạnh của Đạo giáo. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu ta thấy có nhiều yếu

tố của Đạo giáo, con người có xu hướng vô vi hoà đồng với tự nhiên, các vị
thần của Đạo giáo được thờ cúng trong phủ như: Ngọc Hoàng, Thái thượng
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
22
lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu, cùng với vô số những câu chuyện thần tiên
huyền ảo, các pháp thuật phù thuỷ, lên đồng.
Tín ngưỡng thờ Mẫu được hoàn thiện dưới ảnh hưởng trực tiếp của
hoàn cảnh kinh tế xã hội và văn hoá Việt Nam thế kỉ XVI- XVII. Vào thời kì
này, xã hội phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng sâu sắc về mọi mặt.
Các cuộc chiến tranh xung đột tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong
kiến Trịnh - Mạc, Trịnh - Nguyễn và thiên tai mất mùa liên tiếp xảy ra đã làm
cho nền kinh tế suy thoái, đời sống các tầng lớp nhân dân vô cùng cơ cực.
Đạo đức phong kiến không còn được như trước. Nhân nghĩa của Nho giáo bị
coi thường. Ý thức hệ Nho giáo tỏ ra bất lực trước thời cuộc. Các nhà Nho có
tâm, có tài như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Hằng cũng tỏ ra
mệt mỏi, buông xuôi, chủ trương xa lánh thời cuộc. Nhân dân lao động có xu
hướng tìm hướng giải thoát trong tín ngưỡng dân gian và các tôn giáo. Song
Phật cũng không thể giúp được họ lên cõi niết bàn, thần tiên không thể giúp
họ thoát khỏi nỗi khổ trần gian. Trong số các tầng lớp người trong xã hội
phong kiến thời kì này thì người phụ nữ bị chà đạp, vùi dập nhiều nhất. Tâm
lí chán chường bi quan và bế tắc của họ được phản ánh qua các nhân vật trong
văn học như Xuý Vân, Thuý Kiều, Thị Kính, Cúc Hoa, Ngọc Hoa…
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ ra đời, một mặt là biểu hiện sự phản
kháng của các tầng lớp nhân dân nói chung và người phụ nữ nói riêng đối với
chế độ phong kiến thối nát, bất công, mặt khác cũng là sự phát triển kế thừa
truyền thống trọng nữ của người Việt Nam. Sự ra đời của tín ngưỡng thờ Mẫu
là tấm gương phản chiếu sự suy tàn của chế độ phong kiến và ý thức hệ tư
tưởng phong kiến. Nó nói lên ý thức đấu tranh chống lại trật tự phong kiến -
nguyên nhân làm cho con người nói chung và phụ nữ nói riêng phải sống

cuộc đời đau khổ, bất hạnh, phản ánh khát vọng về tự do hướng thiện, về cuộc
sống bình đẳng hạnh phúc của con người. Hình ảnh người phụ nữ Việt nam
trước đó được thể hiện tập chung trong Mẫu Liễu Hạnh. Trong hình tượng
Mẫu Liễu Hạnh có hội đủ các đức tính tốt đẹp của người phụ nữ: yêu chồng,
thương con, đảm việc nhà, việc nước, kính trọng cha mẹ…
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
23
1.2.3. Các dạng thức thờ Mẫu đang tồn tại ở Việt Nam:
Về phương diện đồng đạo, đạo Mẫu theo chân người Việt di cư vào
phương Nam trong qúa trình Nam tiến. Đạo Mẫu của người Việt đã giao thoa
tiếp biến với các tục thờ Mẫu của người Chăm, người Khơ Me từ đó tạo nên
các dạng thức địa phương của đạo Mẫu ở Việt Nam ở ba miền Bắc, Trung,
Nam…
* Thờ Mẫu ở Bắc bộ:
Bắt nguồn từ tục thờ nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời tiền sử, tới
thời pong kiến một số nữ thần đã được cung đình hoá và lịch sử hoá để trở
thành các Mẫu thần tương ứng, thời kì thế kỉ XV trở về trước với việc phong
thần của nhà nước phong kiến, hình thức thờ Mẫu thần với các danh xưng
Quốc mẫu, Vương mẫu, Thánh mẫu như hiện tượng thờ Nguyên Phi Ỷ Lan,
bà chúa Kho, mẹ Thánh Gióng, Tứ vị Thánh Nương.
Từ khoảng thế kỉ XV trở đi hình thức thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ được
định hình và phát triển mạnh, đây cũng là thời kì xuất hiện Thánh Mẫu Liễu
Hạnh với các nghi thức ảnh hưởng từ Đạo giáo.
* Thờ Mẫu ở Trung bộ:
Dạng thức thờ Mẫu này chủ yếu ở khu vực Nam Trung Bộ, đặc trưng
cơ bản của dạng thức thờ Mẫu ở đây là tín ngưỡng thờ Mẫu không có sự hiện
diện của tín ngưỡng thờ Tam phủ, Tứ phủ mà chỉ có hình thức thờ nữ thần
như thờ Tứ vị thánh Nương, Bà Ngũ Hành và hình thức thờ Mẫu thần như Bà
thiên Y A Na, Po I Nư Nưgar.

* Thờ Mẫu ở Nam bộ:
So với Bắc bộ, tục thờ nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định
với biểu hiện rõ rệt là thông qua tên gọi và xuất thân của các vị thần thì ở
Nam bộ sự phân biệt giữa các hình thức thờ nữ thần và Mẫu thần ít rõ rệt hơn,
hiện tượng này được giải thích với nguyên nhân Nam bộ là vùng đất mới của
người Việt, khi di cư vào đây, họ vừa mang những các truyền thống tín
ngưỡng cũ lại vừa tiếp nhận những giao lưu ảnh hưởng của những cư dân sinh
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
24
sống từ trước tạo nên bức tranh không chỉ đa dạng trong văn hoá mà cả trong
tín ngưỡng.
Những nữ thần được thờ phụng ở Nam bộ như: Bà Ngũ Hành, Bà Thuỷ
Long, Bà chúa Động, Bà Tổ Cô, Tứ vị Thánh Nương… và những Mẫu thần
như Bà chúa Xứ, bà Đen, bà chúa Ngọc, bà Thiên Hậu…
1.3. Nội dung và nghi thức thờ Mẫu:
Trong điện thần thờ Mẫu, ngoài Thánh Mẫu Liễu Hạnh, còn có các
Mẫu khác như: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Địa, Mẫu
Thoải.
Ngoài ra trong điện thờ Mẫu còn thờ Ngọc Hoàng, Ngũ vị vương quan
(từ đệ nhất đến đệ ngũ), Tứ vị chầu bà, Ngũ vị hoàng tử, Thập nhị Vương cô,
Thập nhị Vương cậu, Quan Ngũ Hổ, Ông Lốt (rắn).
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu thì tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ là phổ biến
nhất. Có lẽ quan niệm về Tam phủ, Tứ phủ được bắt nguồn từ các vùng không
gian. Tam phủ là vùng trời, vùng đất, vùng nước (thiên - địa - thoải); Tứ phủ
là vùng trời, vùng đất, vùng núi, nước (thiên - địa - nhạc - thoải). Tứ phủ cũng
là bốn phương, bốn miền vũ trụ. Trong điện thờ Mẫu, Mẫu Liễu Hạnh được
hoá thân vào Mẫu Thượng Thiên ngồi chính giữa, tầng cao nhất với trang
phục màu đỏ. Mẫu Thoải có trang phục màu trắng, Mẫu Địa màu vàng, Mẫu
Nhạc màu xanh.

1.3.1. Không gian thờ Mẫu:
Không gian thờ Mẫu thường được gọi là phủ. Hiện nay ở nước ta, Phủ
Dầy ở huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định và Phủ Tây Hồ ở Hà Nội là hai trung
tâm thờ Mẫu lớn. Trong điện thần Tứ phủ, quan niệm của con người về vũ trụ
được thể hiện rõ đó là bốn vùng không gian gắn với sự sinh tồn của con
người. Vũ trụ được thu nhỏ với bốn yếu tố chia làm hai cặp âm - dương: thiên
- địa; sơn - thuỷ, trong đó có cặp thiên - địa (dương - âm, đực - cái) là cặp trụ
cột của hệ thống Tứ phủ. Trong tứ phủ còn biểu hiện quan niệm về ngũ hành
(bà Mộc, bà Thuỷ, bà Hoả, bà Kim, bà Thổ). Mẫu Liễu Hạnh được hoá thân
vào Mẫu Thiên là đấng sáng tạo ra vũ trụ. Ở khía cạnh gia đình và xã hội, Tứ
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Thanh Sơn
SVTH: Phạm Ngọc Hà Lớp K33A - GDCD
25
phủ được mô tả kiểu gia tộc đã được cung đình hoá bởi trong phủ cao nhất là
cha mẹ (Vua cha, Thánh mẫu), dưới là các quan, các chúa, các ông hoàng, các
cô, các cậu. Cách bài trí trong phủ - điện thờ Mẫu chính là chính là sự phản
ánh cách bài trí kiểu "Tam toà", "Lục viện" của triều đình phong kiến, phản
ánh quyền lực vô hạn của phủ chúa thời Lê - Trịnh. Điều này cho thấy rằng,
cũng giống như các tôn giáo khác tín ngưỡng thờ Mẫu là sản phẩm của con
người và xã hội.
1.3.2. Hệ thống lớp lang trong phủ, điện thờ Mẫu:
Nếu như ở chùa, ngoài chính điện thờ Phật, bao giờ cũng có ban thờ
Mẫu và thờ các Thánh trong đạo Mẫu. Trong các đền phủ thường thờ các
thánh trong đạo Mẫu ở chính điện. Đạo Mẫu về cơ bản có lớp lang như sau:
Ngọc Hoàng Thượng Đế là ngôi thánh cao nhất, tuy nhiên trong tâm
thức dân gian Ngọc Hoàng có phần mờ nhạt, không được đề cao. Tam toà
Thánh Mẫu tượng trưng cho trời, đất và nước. Tứ phủ Công đồng thờ Mẫu
Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và Mẫu Địa.
Mẫu Thượng Thiên cai quản Thiên phủ. Mẫu Thượng Thiên trong quan
niệm của dân gian về Tứ pháp gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp

Điện, đó là bốn vị nữ thần tạo ra mây, mua, sấm, chớp, liên quan đến văn hoá
nông nghiệp lúa nước.
Những huyền tích và huyền thoại của Mẫu Thượng Thiên đều có liên
quan đến Mẫu Liễu Hạnh. Mẫu Liễu Hạnh là vị thánh xuất hiện muộn, theo
các nhà nghiên cứu về văn hoá dân gian Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện
sớm nhất cũng chỉ vào khoảng thế kỉ XVI, thời Hậu Lê.
Cũng theo quan niệm dân gian, Mẫu Liễu Hạnh còn có thể hoá thân vào
Mẫu Thượng Ngàn trông coi miền rừng núi hay thành Địa Tiên Thánh Mẫu -
Mẹ Đất cai quản mọi đất đai và đời sống sinh vật. Bà trở thành vị thần chủ
của đạo Mẫu được thờ cúng nhiều nhất trong đạo Mẫu Việt Nam. Đền thờ bà
có ở nhiều nơi, nổi tiếng nhất có đền Sòng (Thanh Hoá) và Phủ Dầy (Nam
Định).

×