Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên thái bình dương (CPTPP) cơ hội và thách thức cho ngành xuất khẩu của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.91 KB, 18 trang )

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN
BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP) VÀ NGÀNH XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM
1 Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
1.1 CPTPP là gì?
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là
hiệp định thay thế hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) sau khi Mỹ
tuyên bố rút khỏi hiệp định này vào ngày 21/01/2017. Các nước thành viên còn lại
của TPP là Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Úc, Nhật Bản, Singapore,
Brunei, Malaysia và Việt Nam đã thống nhất tiếp tục TPP dưới cái tên mới CPTPP
trong bản Tuyên bố chung ngày 11/11/2017 tại Đà Nẵng bên thềm Hội nghị APEC
2017. Hiệp định này đã được các quốc gia thành viên ký kết ngày 08/03/2018. Đối
với Việt Nam, Hiệp định có hiệu lực từ ngày 14/01/2019.
1.2 Nội dung chính của Hiệp định CPTPP
Hiệp định CPTPP gồm 07 Điều và 01 Phụ lục quy định về mối quan hệ với
Hiệp định TPP đã được 12 nước TPP ký ngày 06/02/2016 trước đó tại New Zealand,
cũng như xử lý các vấn đề khác liên quan đến tính hiệu lực, rút khỏi hay gia nhập
vào Hiệp định CPTPP.
Theo đó, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP (gồm 30
chương và 9 phụ lục) nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn 20 nhóm nghĩa
vụ để bảo đảm sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các nước thành viên trong
bối cảnh Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP. CPTPP là một hiệp định thương mại tự do
tiêu chuẩn cao với phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm hầu hết các lĩnh vực quan
trọng của nền kinh tế như thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, lao
động, môi trường,… Ngoài ra, Hiệp định CPTPP cũng quan tâm xử lý các vấn đề
khác như liên kết khu vực, hợp tác kinh tế, hợp tác phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa, nâng cao sức cạnh tranh,…
1.3 Sự khác biệt giữa CPTPP và TPP
Về cơ bản, CPTPP giữ nguyên các nội dung cốt lõi của TPP "cũ" với hy vọng
chờ sự quay lại của Mỹ. Tuy nhiên, CPTPP, có hơn 20 điều khoản đã bị tạm hoãn
hoặc sửa đổi so với thỏa thuận TPP trước đây. Những thay đổi đó gồm:




6
Một là, thay đổi về tên gọi. Hiệp định CPTPP đã bổ sung 2 từ "Toàn diện" và
"Tiến bộ" vào tên gọi chính thức. Vấn đề tên gọi đã được 11 quốc gia bàn luận
nhiều lần trong các vòng đàm phán. Sự bổ sung này đã thể hiện tính đồng thuận cao
trong nội bộ các nước tham gia đàm phán, khẳng định tầm vóc, chất lượng và ý
nghĩa của CPTPP – một hiệp định có tính tiêu chuẩn cao, toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực, không chỉ về thương mại mà còn đầu tư, sở hữu trí tuệ và nhiều vấn đề,
nguyên tắc khác. Về bản chất, hiệp định được đánh giá cao hơn, tiến bộ hơn so với
các hiệp định thương mại tự do đã được ký kết trước đây.
Hai là, số lượng thành viên trong Hiệp định CPTPP. 11 nước thành viên (bao
gồm Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand,
Peru, Singapore và Việt Nam) có quy mô kinh tế chiếm khoảng 13,5% GDP và
15,2% tổng kim ngạch thương mại toàn cầu, thấp hơn khá nhiều so với quy mô của
TPP khi có Mỹ (38,2% GDP và 26,5% kim ngạch thương mại toàn cầu). Mặc dù
Mỹ rút lui nhưng quy mô của CPTPP vẫn khá lớn, trong khi gánh nặng thực thi các
điều khoản đã giảm đáng kể so với trước.
Ba là, hiệu lực của Hiệp định CPTPP. Theo quy định của TPP cũ, để Hiệp định
có hiệu lực thì tổng GDP của các nước triển khai phải bằng 85% tổng GDP của 12
nước đã ký từ năm 2013. Như vậy, với tình huống Mỹ, quốc gia chiếm tới 60%
GDP toàn khối, rút lui khỏi TPP, thì 11 nước còn lại sẽ phải thay đổi điều khoản
hiệu lực để CPTPP có thể bắt đầu. Theo đó, chỉ cần ít nhất 6 quốc gia thành viên ký
phê chuẩn thì Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày ký. Sự thay đổi này
đã tạo điều kiện thuận lợi để CPTPP có thể dễ dàng được thực hiện trong bối cảnh
hiện nay. Ngoài ra, Hiệp định mới còn bổ sung các quy định về quy trình rút lui, gia
nhập, rà soát lại CPTPP trong tương lai, tạo tính linh hoạt của Hiệp định và sẵn sàng
cho những đợt kết nạp thành viên mới.
Bốn là, CPTPP có khoảng 20 nội dung bị tạm hoãn so với TPP cũ (chủ yếu là các
cam kết cứng rắn về sở hữu trí tuệ mà Mỹ là quốc gia đề xuất trước đây). Cụ thể, có

11/20 điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ, bảo vệ chặt chẽ quyền lợi của người sở
hữu sáng chế. CPTPP sẽ hoãn việc yêu cầu các nước thành viên thay đổi luật và thông
lệ của mình để bảo vệ các dược phẩm mới, bao gồm cả chế phẩm sinh học, không bị
cạnh tranh bởi các thuốc gốc. CPTPP cũng đình chỉ quy định về gia hạn thời hạn bản
quyền trong những trường hợp do sự chậm trễ của cơ quan cấp bằng hoặc


7
những trì hoãn bất hợp lý trong việc cấp bản quyền, cũng như cấp phép nhập khẩu một
loại dược phẩm nào đó vào các nước thành viên. Ngoài ra, các nước thành viên của
Hiệp định mới sẽ không cần phải gia hạn thời gian bảo hộ bản quyền từ 50 lên 70

năm,…
1.4 Vị trí và vai trò của Việt Nam trong CPTPP
Mặc dù chỉ có 10 đối tác thương mại nhưng tổng trị giá kim ngạch thương mại
giữa Việt Nam và các thành viên CPTPP đạt hơn 67,33 tỷ USD vào năm 2017, chiếm
15,84% tổng trị giá kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước trong năm 2017. Tính bình
quân, với khoảng 200 quốc gia, vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại, năm 2017, nước
ta đạt bình quân kim ngạch trên 2 tỷ USD mỗi thị trường. Trong khi đó, nếu tính riêng
các thành viên CPTPP, mức kim ngạch bình quân đạt hơn 6,7 tỷ USD/thị trường, tương
đương gần 3,5 lần mức bình quân chung cả nước. Dù những dữ liệu, so sánh nêu trên
mới ở mức tương đối và số học, nhưng cũng cho thấy phần nào tầm quan trọng của
CPTPP trong hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta.

Trong số 10 thành viên còn lại của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Nhật Bản là đối tác thương mại lớn nhất của
Việt Nam và đứng thứ 4 trong tổng số các bạn hàng của nước ta trên toàn thế giới
(sau Trung Quốc, Hàn Quốc và Hoa Kỳ).
Rõ ràng, với nền kinh tế đang chú trọng đẩy mạnh hoạt động sản xuất xuất
khẩu của Việt Nam hiện nay, với những ưu đãi về thuế quan và sự thông thoáng

trong các hàng rào kỹ thuật, CPTPP sẽ mang lại những cơ hội không nhỏ cho các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam (bao gồm cả doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài).
2 Tình hình chung về ngành xuất khẩu ở Việt Nam khi ký kết CPTPP
2.1 Trước khi Hiệp định có hiệu lực
Trước khi CPTPP chính thức có hiệu lực, Việt Nam đã có quan hệ FTA với 7
trên tổng số 10 nước thành viên, bao gồm Australia, Brunei, Chile, Nhật Bản,
Malaysia, New Zealand và Singapore. CPTPP tạo ra 3 thị trường mới là Canada,
Mexico và Peru.
Trước đó, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2018, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam sang Mexico là 2,2 tỉ USD, sang Canada là 3 tỉ USD. Các mặt hàng xuất
khẩu chính của Việt Nam gồm dệt may, giày dép, thủy sản, hạt điều, máy tính,


8
sản phẩm điện tử và linh kiện,… Tuy nhiên, do hàng rào về thuế, pháp lý,… mà Việt
Nam chưa thực sự có cơ hội khai thác hết tiềm năng xuất khẩu sang các thị trường
đầy hứa hẹn đối với nền kinh tế nêu trên.
2.2 Sau khi Hiệp định có hiệu lực
Ngay sau khi Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) có hiệu lực tại Việt Nam vào ngày 14/01/2019, rất nhiều các cam kết giữa
Việt Nam và các quốc gia thành viên cũng chính thức có hiệu lực, đem đến một số
thay đổi cho tình hình chung của ngành xuất khẩu.
Theo đó, các nước CPTPP cam kết xóa bỏ hoàn toàn từ 97% đến 100% số
dòng thuế nhập khẩu đối với hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam, tùy theo cam kết của
từng nước. Gần như toàn bộ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào các nước CPTPP
khác sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu hoàn toàn ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc
theo lộ trình.
Hiệp định CPTPP sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với hàng dệt may có xuất xứ
từ Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường các nước đối tác (ngay hoặc có lộ trình).

Đối với những nước mà Việt Nam chưa có FTA, việc mở cửa thị trường này rất
quan trọng, do thuế nhập khẩu áp dụng với hàng dệt may thường cao hơn nhiều so
với các mặt hàng công nghiệp khác. Một số nhóm hàng khác cũng ngay lập tức
được hưởng các ưu đãi thuế suất lên đến 0% như giày dép, thủy sản, gạo, cà phê,
chè, hạt tiêu, hạt điều, đồ gỗ,…
CHƯƠNG II. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO NGÀNH XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM KHI HỘI NHẬP CPTPP
1 Cơ hội đối với ngành xuất khẩu của Việt Nam
1.1 Hạ thấp hàng rào thuế quan
Có thể nói, một trong những nội dung rất quan trọng của các hiệp định FTA là vấn
đề thuế quan. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), thuế quan áp dụng cho Việt Nam dự tính
sẽ giảm xuống mức gần thấp nhất khi CPTPP có hiệu lực, tuy mức độ giảm có sự chênh
lệch so với TPP, song dự tính mức thuế quan thương mại bình quân gia quyền khi xuất
khẩu sang các nền kinh tế CPTPP vẫn sẽ đạt mức giảm từ 1,7% xuống 0,2% (đối với
TPP mức giảm sẽ nhiều hơn từ 4,2% xuống 0,1%, chủ yếu do lượng xuất khẩu trực tiếp
vào Mỹ lớn và các mức thuế quan hiện hành của Mỹ đối với hàng xuất khẩu Việt Nam
cao). Về thuế quan thương mại bình quân gia quyền của Việt


9
Nam áp dụng cho các bên khác, trong CPTPP, mức giảm theo giả định sẽ giảm từ
2,9% xuống 0,1% (theo TPP sẽ giảm từ 3,2% xuống 0,1%).
Các hàng rào phi thuế quan dự kiến sẽ đóng vai trò quyết định đối với vấn đề
tiếp cận thị trường. CPTPP được đánh giá là có mục tiêu lớn về mức độ mở cửa thị
trường. Theo đánh giá của WB, những hàng rào phi thuế quan áp dụng đối với Việt
Nam tại các thị trường nước ngoài dự kiến sẽ giảm bình quân 3,6 điểm phần trăm
(tính theo mức thuế theo giá trị) khi CPTPP có hiệu lực. Các hàng rào phi thuế quan
mà Việt Nam áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu cũng sẽ giảm 2,9 trong CPTPP.
Việc cải thiện tiếp cận thị trường ở các ngành khác nhau là yếu tố ảnh hưởng đến
việc phân bổ lợi ích giữa các ngành. Đối với CPTPP, thuế quan sẽ giảm xuống mức gần

thấp nhất, và hàng rào phi thuế quan cũng giảm đáng kể giữa các ngành, đặc biệt là
lương thực, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá; nông nghiệp và toàn bộ lĩnh vực xuất khẩu
dịch vụ. Lợi ích kinh tế của Việt Nam nhờ hội nhập CPTPP sẽ đạt mức dự tính đến năm
2030 sẽ là GDP đạt mức tăng 1,1%. Những ngành được hưởng lợi nhiều nhất trong
CPTPP là: thực phẩm, đồ uống, thuốc lá; may mặc, hàng da; dệt. Khi CPTPP có hiệu
lực, sản lượng của một số ngành dịch vụ sẽ tăng. Nguồn cầu tăng do kinh tế tăng
trưởng cao hơn và thu nhập tăng, cũng như mức cầu cao về các dịch vụ liên quan đến
thương mại như vận tải, tài chính và các dịch vụ kinh doanh khác.

Là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, việc Việt Nam có thể tiếp cận các
thị trường lớn như Nhật Bản, Canada,… với các mức thuế suất bằng 0 hoặc thấp
như vậy sẽ mang lại một lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn và một triển vọng lớn cho
nhiều ngành hàng của chúng ta. Lợi ích này không chỉ dừng lại ở những nhóm mặt
hàng mà Việt Nam đang có thể mạnh xuất khẩu (ví dụ như dệt may, giày dép,…), nó
còn là động lực để nhiều nhóm mặt hàng khác hiện chưa có kim ngạch đáng kể có
điều kiện để gia tăng sức cạnh tranh. Nói một cách khác, lợi ích thế này không nhỉ
nhìn từ góc độ hiện tại mà còn được tìm thấy ở cả tiềm năng trong tương lai.
1.2 Gia tăng thị phần thương mại
Điều đáng chú ý khi CPTPP có hiệu lực chính là mặc dù không có Mỹ, CPTPP
vẫn chiếm tới 13,5% tổng GDP và gần 15% tổng thương mại toàn cầu. Thực tế cho
thấy, Việt Nam đang nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu cũng như thay thế nhập khẩu. Theo
dự báo của nhiều cơ quan chức năng, xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng bình quân
4,32% hàng năm, và thị trường xuất khẩu được đa dạng hóa hơn. Tổng kim ngạch


10
xuất khẩu đến năm 2030 sẽ đạt 311,1 tỉ USD so với mức ước tính 179,5 tỉ USD của
năm 2017. Quy mô xuất khẩu trong các hiệp định FTA được sẽ tăng lên. Trong
trường hợp CPTPP tính đến năm 2030, lượng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam dự
tính sẽ tăng 13,1 tỉ USD.

Các hiệp định FTA thường có xu hướng làm tăng xuất khẩu sang các nước ký
kết hiệp định. Trong CPTPP, tính đến năm 2030, xuất khẩu sang các nước CPTPP sẽ
tăng từ 54 lên 80 tỉ USD, chiếm 25% tổng lượng xuất khẩu. Xuất khẩu sang các
nước thành viên CPTPP sẽ tăng ở các ngành thực phẩm, đồ uống, thuốc lá; may
mặc, hàng da; và dệt may, lần lượt là 10,1 tỉ USD; 6,9 tỉ USD; và 0,5 tỉ USD.
Việt Nam có danh mục hàng hóa xuất khẩu đa dạng, cả về thị trường và lĩnh
vực xuất khẩu so với các đối tác thương mại của mình. Đối với CPTPP, mức độ đa
dạng hóa xuất khẩu sẽ bị ảnh hưởng vừa phải với mức độ tập trung xuất khẩu theo
ngành tăng 6,5%, và mức độ đa dạng hóa xuất khẩu theo thị trường tăng 10,6%.
Nhìn chung, tác động của thị phần thương mại rộng lớn của CPTPP đối với
Việt Nam trong dài hạn, lợi ích đạt được không chỉ là tăng xuất khẩu mà còn bao
gồm tăng hàm lượng công nghệ của hàng xuất khẩu. Đầu tư tăng nhờ các lợi ích
tiềm năng của CPTPP có thể làm cho xuất khẩu ít phụ thuộc vào nguyên liệu nhập
khẩu hơn, thay vào đó sẽ dựa nhiều hơn vào chuỗi cung ứng trong nước để khắc
phục các hạn chế của quy tắc xuất xứ. Phản ứng này sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa có giá trị gia tăng, khuyến khích các công ty tư nhân trong nước hội nhập
tích cực hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và do đó thúc đẩy phát triển khu vực doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, việc đầu tư tăng lên không phải là không đi kèm chi
phí. Do vậy, Việt Nam cần đưa ra những chính sách khôn ngoan để lựa chọn công
nghệ tiên tiến và dòng vốn đầu tư nước ngoài thân thiện với môi trường để tối ưu
hóa tác động của hiệp định này. CPTPP mở ra cơ hội để một số nhóm hàng phát
triển bởi những cam kết rất "mở", tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu ở cả nhóm
hàng nông, lâm thủy sản và nhóm hàng công nghiệp. Theo đó, các ngành dự kiến có
mức tăng trưởng lớn sẽ là thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, dệt may, hóa chất, sản
phẩm nhựa và đồ da, trang thiết bị vận tải, máy móc và các trang thiết bị khác.


11
1.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh của đa dạng ngành hàng và mở ra cơ hội
tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu

Doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước
thành viên CPTPP được hưởng những cam kết cắt giảm thuế quan ở mức cao, cụ
thể: Australia là trên 93% số dòng thuế (tương đương 95,8% kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam sang thị trường này); cam kết cắt giảm thuế ngay của Canada lên đến
94,9% số dòng thuế (tương đương 77,9% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam); với
Nhật Bản, cam kết cắt giảm thuế tốt hơn nhiều so với trong Hiệp định FTA song
phương giữa 2 nước (như cam kết xóa bỏ ngay 86% số dòng thuế, tương đương
93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản và gần 90% số dòng thuế
sau 5 năm)… Đây là lần đầu tiên, Nhật Bản cam kết xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập
khẩu cho đại đa số nông, thủy sản xuất khẩu của ta.
Các ngành hàng dệt may và da giày được cho là những ngành sẽ hưởng lợi
nhiều nhất về tăng thêm quy mô sản xuất cũng như giá trị xuất khẩu. Cụ thể, tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu tăng thêm của dệt may được dự báo sẽ ở mức cao (từ 8,3%
đến 10,8%), do đây là ngành có sức cạnh tranh về giá lớn hơn ở các thị trường mới
trong CPTPP, trong khi vẫn giữ được các thị trường chủ lực là Mỹ và EU.
Một số chuyên gia cũng cho biết, hầu hết các ngành công nghiệp nhẹ và thâm
dụng lao động cũng được hưởng lợi từ CPTPP. Theo tính toán, CPTPP có thể tạo
thêm mức tăng trưởng cho nhóm ngành này từ 4% đến 5%, và mức tăng xuất khẩu
có thể đạt thêm từ 8,7% đến 9,6%. Cùng đó, mức độ ảnh hưởng của CPTPP tới các
ngành công nghiệp nặng được đánh giá sẽ không quá lớn với mức tăng trưởng tăng
thêm chỉ được dự báo ở mức từ 0,8% đến 1,2%. Việt Nam vốn không có lợi thế
cạnh tranh ở nhóm hàng công nghiệp nặng, vì đây là những ngành thâm dụng vốn.
Các nước trong CPTPP cũng không phải là các đối tác chính có thể thúc đẩy công
nghiệp nặng của Việt Nam phát triển.
Các thành công trong tăng tốc xuất khẩu cũng mở ra cơ hội tham gia vào chuỗi
cung ứng trong khu vực và thế giới: CPTPP là khu vực thị trường tiềm năng với dân
số khoảng 490 triệu người, chiếm 13% GDP toàn cầu, với thu nhập bình quân đầu
người trên 19.000 USD. CPTPP có ý nghĩa quan trọng vì đây là một sự nâng cấp so
với các thỏa thuận tự do thương mại hiện có, thúc đẩy tạo các mối quan hệ FTA mới
và thiết lập mạng lưới mới, bao gồm chuỗi cung ứng giữa châu Á và châu Mỹ.



12
Với tình hình xung đột thương mại giữa các nền kinh tế lớn đang và có thể sẽ
còn tiếp diễn trong thời gian tới, các doanh nghiệp lớn đang có xu hướng thiết lập
các chuỗi cung ứng mới. CPTPP sẽ giúp xu hướng này phát triển ngày càng mạnh
mẽ hơn, là điều kiện quan trọng để nâng tầm trình độ phát triển của nền kinh tế,
tăng năng suất lao động, giảm dần việc gia công lắp ráp, tham gia vào các công
đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, từ đó bước sang giai đoạn phát triển các
ngành điện tử, công nghệ cao, sản phẩm nông nghiệp xanh,… Thu hút vốn FDI
cũng hứa hẹn mang lại cơ hội hợp tác về vốn, chuyển giao công nghệ và phương
thức quản lý hiện đại, hiệu quả hơn cho doanh nghiệp Việt Nam.
1.4 Đơn giản hóa quy trình xuất khẩu và giảm chi phí thương mại
CPTPP đem lại cho Việt Nam cơ hội cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, nhập
khẩu. Hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu với khu vực châu
Á (chiếm khoảng 80% kim ngạch nhập khẩu và 50% kim ngạch xuất khẩu). Các
FTA mới sẽ giúp doanh nghiệp có điều kiện thâm nhập, khai thác các thị trường
mới, thị trường còn nhiều tiềm năng cho xuất khẩu của Việt Nam.
Bên cạnh đó, CPTPP có hiệu lực góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường, hỗ trợ tích cực tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng
trưởng. Các FTA thế hệ mới là động lực giúp Việt Nam hoàn thiện thể chế, tạo môi
trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch hơn. Qua đó, thúc đẩy đầu tư, cả đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài, giúp tạo ra năng lực sản xuất mới, tạo nguồn hàng
cho xuất khẩu, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại, hiệu quả.
Ngoài ra, việc có quan hệ FTA với các nước CPTPP sẽ giúp cơ cấu lại thị
trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn, từ đó nâng cao tính độc lập tự chủ
của nền kinh tế Việt Nam.
2 Thách thức đối với ngành xuất khẩu của Việt Nam
2.1 Yêu cầu cao hơn đối với tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn lao động

Đánh giá về sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam trong các hoạt động
xuất, nhập khẩu nội khối CPTPP, Bộ Công Thương cho rằng, đến nay, đa số doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), chưa đáp ứng được yêu cầu
của Hiệp định CPTPP.


13
Ông Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội
DNNVV Việt Nam đánh giá, hiện các DNNVV đang trong quá trình làm quen với thị
trường các nước thành viên CPTPP. Nhiều mặt hàng có tính chất thủ công, làm bằng
tay hay những sản phẩm nông sản, rau quả vẫn có thể xuất khẩu sang các nước thành
viên CPTPP với số lượng và chất lượng tốt hơn, song các DNNVV lại chưa tận dụng
được. Chỉ rõ một số hạn chế, rào cản đối với các DNNVV trong việc xuất khẩu sang
các nước thành viên CPTPP, ông Nam cho rằng, khả năng liên kết, chia sẻ thông tin còn
kém của các doanh nghiệp dẫn tới việc không thể cung cấp một lượng hàng lớn khi thị
trường có nhu cầu. Bên cạnh đó, DNNVV hiểu biết chưa đầy đủ về thị trường các nước
thành viên CPTPP, nhất là các thị trường như Canada, Mexico. Sự tinh thông của
DNNVV về các thị trường này vẫn là rào cản chủ yếu. Ngoài ra, quy tắc xuất xứ hàng
hóa trong CPTPP với nhiều điểm mới so với các FTA mà Việt Nam đã ký kết và tham
gia khiến DNNVV sẽ phải mất thêm thời gian để tìm hiểu kỹ càng.

Bà Trần Thị Thanh Huyền, Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Tài chính) nhận định, điều
kiện để được ưu đãi thuế trong các FTA không hề đơn giản, đặc biệt là với một FTA
kiểu mới, toàn diện như CPTPP. Bởi muốn nhận được các ưu đãi về thuế, hàng hóa
Việt Nam phải đáp ứng được rất nhiều tiêu chuẩn khắt khe. Bên cạnh đó, còn phải
đối mặt với rất nhiều “rào cản kỹ thuật”; trong khi sức cạnh tranh của nền kinh tế
Việt Nam nói chung và của doanh nghiệp nói riêng còn yếu so với các đối tác.
Phân tích trong ngành dệt may, ông Phạm Xuân Hồng cho rằng lợi thế nổi bật
mà dệt may Việt Nam có được từ CPTPP mà mức thuế quan được cắt giảm sâu và
nhanh, từ đó gia tăng năng lực cạnh tranh về giá. Tuy nhiên, việc khai thác ưu đãi

thuế là không dễ bởi muốn được ưu đãi phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng
như nguyên tắc xuất xứ rất khắt khe. Với năng lực, trình độ may hiện nay, các tiêu
chuẩn kỹ thuật không phải là vấn đề lớn của doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Tuy
nhiên, yêu cầu xuất xứ từ sợi trở đi, nghĩa là từ công đoạn kéo sợi, dệt, nhuộm vải
đều phải thực hiện trong khu vực CPTPP là thách thức không nhỏ vì Việt Nam hiện
đang phải nhập khẩu hơn 60% nguyên phụ liệu (ngoài khu vực CPTPP). Theo ông
Phạm Xuân Hồng, việc giải quyết nguồn nguyên liệu là bài toán không hề đơn giản
với ngành dệt may Việt Nam. CPTPP được xem là một trong những yếu tố thu hút
đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu.


14
2.2 Nông sản chịu áp lực lớn trong quá trình hội nhập
Cơ hội mà CPTPP mang lại cho ngành nông nghiệp được đánh giá là không
quá lớn do các mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam đều đã được hưởng thuế
suất ưu đãi tại các thị trường lớn thông qua các FTA song phương. Không chỉ vậy,
trong quá trình hội nhập, CPTPP còn đặt ra một số thách thức lớn cho ngành nông
nghiệp nói chung và xuất khẩu nông sản Việt Nam nói riêng.
Chất lượng sản phẩm đang là rào cản trong việc ổn định và mở rộng thị trường
xuất khẩu của nông sản Việt. Vấn đề đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp đang là một
khó khăn rất lớn cho sản xuất nông nghiệp, với việc thường xuyên xảy ra hiện tượng
được mùa thì rớt giá, được giá thì mất mùa. Về hoạt động xuất khẩu, theo thống kê
hiện nay, thị trường xuất khẩu thiếu ổn định, xuất khẩu chủ yếu lệ thuộc vào Trung
Quốc nhưng chủ yếu qua đường tiểu ngạch nên giá trị thấp. Cùng với đó, những rào
cản về kỹ thuật là khó khăn lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam khi hàng nông sản
xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế khoảng 5%. Bên cạnh đó, doanh
nghiệp Việt Nam chưa chủ động tìm hiểu thông tin, do đó thông tin về các thị
trường tiềm năng còn mù mờ, là yếu tố cản trở khi hội nhập. Ngoài ra, việc hỗ trợ
kết nối hình thành chuỗi liên kết sản xuất - phân phối các sản phẩm nông nghiệp
chủ lực vẫn còn gặp nhiều khó khăn do người sản xuất chưa bảo đảm các tiêu chuẩn

về mẫu mã, bao bì sản phẩm, giấy chứng nhận và chất lượng cho nên khó đáp ứng
nhu cầu thu mua của các nhà phân phối.
Quá trình dỡ bỏ các rào cản thuế quan sẽ tạo sức ép cạnh tranh rất lớn cho
nhiều nông sản tại thị trường trong nước như rau quả, thịt, sữa với các sản phẩm từ
sữa, thực phẩm đã qua chế biến từ các nước như Australia, New Zealand, Chile. Đặc
biệt với CPTPP, sản phẩm sữa, bắp, đậu nành nhập khẩu có giá thành thấp hơn sản
phẩm trong nước. Nếu doanh nghiệp không ứng dụng công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm và hạ giá thành sẽ thua ngay trên sân nhà.
2.3 Sự cạnh tranh từ các mặt hàng nước ngoài
Sự cạnh tranh diễn ra quyết liệt không chỉ ở thị trường các nước tham gia Hiệp
định mà ngay tại thị trường Việt Nam trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và
quốc gia.
Các doanh nghiệp nước ngoài, với những thuận lợi về tài chính, trình độ quản trị,
chuỗi phân phối toàn cầu sẽ nhanh hơn doanh nghiệp Việt Nam trong việc hưởng


15
lợi từ các ưu đãi thuế quan. Bên cạnh đó, do tiềm lực của các doanh nghiệp Việt Nam
yếu, sự liên kết với nhau kém nên sức ép cạnh tranh trên thị trường nước ngoài cũng là
thách thức lớn. Việc phải mở cửa cho hàng hóa, dịch vụ của các nước đối tác tại thị
trường Việt Nam đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt
hơn tại “sân nhà”, điều này sẽ gây nên không ít áp lực cho hàng hóa Việt Nam trong
việc cạnh tranh với hàng hóa của các quốc gia khác ngay tại thị trường nội địa. Do khả
năng thích nghi của doanh nghiệp Việt Nam với kinh tế thị trường kém nên nguy cơ
thất bại của các doanh nghiệp trong nước cũng vì thế gia tăng.

Việc xóa bỏ hàng rào thuế quan sẽ khiến áp lực cạnh tranh giữa các nước
thành viên gia tăng, buộc các nước thành viên nói chung và doanh nghiệp nói riêng
phải chuyển đổi, cơ cấu lại phù hợp với thông lệ quốc tế. Nếu không làm được
những điều này, nhiều doanh nghiệp có thể phải đối mặt với nguy cơ thất bại. Hậu

quả là nhiều lao động có thể bị mất việc và sự chênh lệch giàu nghèo gia tăng.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều trở
ngại trong việc hưởng lợi từ các FTA và CPTPP. Minh chứng là Việt Nam đã thực
thi 10 FTA song phương và đa phương trước khi CPTPP có hiệu lực nhưng mức độ
tận dụng các ưu đãi ở một số FTA đang có xu hướng giảm. Với một số đối tác lớn,
việc thực thi FTA lại thúc đẩy nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu, dẫn đến thâm
hụt thương mại.
2.4 Hoàn thiện hồ sơ, thủ tục, thể chế pháp lý đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đòi hỏi các
quốc gia phải chủ động và linh hoạt trong cải cách thể chế, chuyển đổi cơ cấu kinh
tế, điều chỉnh mô hình tăng trưởng; các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh
tranh, coi trọng hiệu quả quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,... để phát
triển sản xuất, kinh doanh.
Để thực thi cam kết trong CPTPP, sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định
pháp luật về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động, công đoàn,… Sức ép phải
thay đổi hệ thống pháp luật để tuân thủ những chuẩn mực mới của Hiệp định là có
nhưng sẽ vượt qua được với các lý do sau: Một là, những cam kết khó nhất, đòi hỏi
nguồn lực thực thi lớn (ví dụ như trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ), đã được 11 nước "tạm
hoãn" sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP. Hai là, nhiều cam kết tuy mới nhưng lại
phù hợp hoàn toàn với đường lối, chủ trương của Đảng cũng như pháp luật của


16
Nhà nước (ví dụ như trong lĩnh vực mua sắm của Chính phủ, bảo vệ môi trường,
doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa...) nên sức ép thay đổi hệ thống
pháp luật không lớn.
Ngoài ra, như kinh nghiệm gia nhập WTO đã chỉ ra, với sự chuẩn bị nghiêm túc
và nỗ lực cao, ta có thể thực hiện thành công khối lượng công việc này, nhất là khi ta
được quyền thực hiện theo lộ trình. Cụ thể, ngay sau khi Hiệp định được ký kết, Chính
phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành phối hợp với Bộ Tư pháp khẩn trương rà soát các quy

định hiện hành trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi phụ trách để từ đó
đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung hoặc hình thức áp dụng phù hợp nhằm đảm bảo phù
hợp với các yêu cầu của Hiệp định CPTPP. Dự kiến, sau khi Hiệp định được Quốc hội
phê chuẩn, một Chương trình xây dựng pháp luật thực thi Hiệp định CPTPP với các nội
dung cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới kèm theo phân công và thời hạn cụ thể cũng
sẽ được ban hành để Chính phủ và các Bộ, ngành thực hiện.

CHƯƠNG III. ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH CPTPP CỦA
NGÀNH XUẤT KHẨU NĂM 2019 VÀ HƯỚNG TỚI NHỮNG MỤC TIÊU
CỦA NĂM 2020
1 Đánh giá thực hiện Hiệp định CPTPP của ngành xuất khẩu năm 2019
Kinh tế Việt Nam năm 2019 đón nhận một sự kiện quan trọng – Hiệp định Đối
tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực
vào ngày 14/01/2019 – đánh dấu bước tiến mới trên phương diện ngoại giao, hội
nhập kinh tế của đất nước. Hiệp định CPTPP được thông qua mang đến nhiều cơ hội
và thách thức cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành xuất khẩu của Việt
Nam nói riêng. Trong năm đầu thực hiện Hiệp định, các doanh nghiệp trong nước
đã phản ứng rất nhanh, ngay lập tức tận dụng cơ hội này để tham gia vào các thị
trường mới, đem đến nhiều tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, mặc dù ngành xuất
khẩu đã đạt mức tăng trưởng tốt, nhưng kết quả đem lại vẫn chỉ ra rằng tiềm năng
mà bản Hiệp định này có thể đem lại vẫn chưa được tận dụng hiệu quả.
1.1 Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng đạt mục tiêu, nhưng chưa đạt kỳ vọng
Tăng trưởng thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và các nước đối tác được coi là
một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của nền kinh tế khi Hiệp định CPTPP
chính thức có hiệu lực. Xét tổng thể, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang


17
các thị trường thành viên CPTPP ghi nhận sự thay đổi theo chiều hướng gia tăng so
với các năm trước.

Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa 14, Chính phủ đã đề ra một số mục tiêu về tăng
trưởng kinh tế năm 2019, trong đó có: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng khoảng 7%
và tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu dưới 3% mặc dù năm 2018 kết thúc với
kim ngạch xuất khẩu đạt 243,483 tỷ USD, xuất siêu hơn 6,795 tỷ USD.

Theo thống kê của Bộ Công thương, năm 2019, với nỗ lực của các doanh
nghiệp trong việc thích nghi với thị trường thương mại rộng mở mà CPTPP đem lại,
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 264 tỷ USD, tăng khoảng 8% so với
năm 2018, tạo nên con số xuất siêu 10 tỷ USD và kim ngạch 2 chiều đạt hơn 500 tỷ
USD đầy ấn tượng.
Theo đó, xuất khẩu sang một số thị trường CPTPP đạt mức tăng trưởng tốt,
cho thấy bước đầu tận dụng hiệu quả các cam kết từ hiệp định này để thúc đẩy xuất
khẩu, đa dạng hóa thị trường. Xuất siêu sang các nước CPTPP đã đạt gần 4 tỷ USD,
chiếm khoảng 40% trong tổng số 10 tỷ USD xuất siêu của toàn ngành xuất khẩu
trong năm 2019. Cụ thể, xuất sang hai thị trường mới lần đầu tiên có FTA với Việt
Nam là Canada và Mexico đạt lần lượt 3,86 tỷ USD, tăng 28,2% và 2,84 tỷ USD,
tăng 26,8%; xuất sang Chile tăng 20,5%, đạt gần 1 tỷ USD; sang Peru tăng tới 40%,
đạt 350 triệu USD. Tuy nhiên, có thị trường tăng rất không đáng kể, như Singapore
(chỉ tăng 1,1%, đạt 3,231 tỷ USD). Thậm chí, xuất khẩu sang một số thị trường còn
giảm, như Australia (giảm 12% so với năm 2018, đạt 3,523 tỷ USD), Malaysia
(giảm 3%, đạt 3,376 tỷ USD).
Nhìn vào kết quả nêu trên, có thể thấy, đa số các thị trường CPTPP đều ghi
nhận sự tăng trưởng, song, nếu nhìn vào quá khứ, những mức tăng này đều chưa
phải là đột biến. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đối với hai thị trường lần đầu
có FTA với Việt Nam ghi nhận mức tăng ấn tượng là Canada và Mexico, trong các
năm 2013-2014, xuất khẩu của Việt Nam sang hai thị trường này từng đạt mức tăng
trưởng lần lượt là 32,7% và 35%. Với Nhật Bản, một thị trường có tiềm năng xuất
khẩu lớn của Việt Nam, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 7,7% năm 2019 đã giảm tốc rõ
nét so với mức 14,9% năm 2017 và 11,7% năm 2018. Mức tăng trưởng này còn thấp
hơn tăng trưởng trung bình xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này trong suốt

giai đoạn 2011-2018 (8,6%).


18
Những hạn chế nêu trên đến từ nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân cơ bản nhất
chính là những thách thức mà nền kinh tế Việt Nam chưa thể khắc phục hoàn toàn trong
giai đoạn đầu tham gia vào sân chơi của các FTA thế hệ mới. Việt Nam ghi nhận sự chủ
động cải thiện của Chính phủ trong vấn đề thực thi và quản lý thực hiện Hiệp định,
song vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu của giai đoạn hội nhập hiện nay. Hơn nữa,
nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng cũng như nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp phát triển xuất
khẩu còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu cao của thị trường; năng lực cạnh tranh
ở một số ngành còn chưa được cải thiện, liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành để
tăng năng lực cạnh tranh chưa cao. Bên cạnh đó, một số địa phương chưa chủ động
nắm bắt các cơ hội mà CPTPP có thể mang đến cho doanh nghiệp: ban hành Kế hoạch
hành động nhưng không chỉ rõ nhiệm vụ chi tiết với mốc thời gian cụ thể để doanh
nghiệp thực hiện; hoạt động nhằm phổ biến, tuyên truyền cho các cơ quan quản lý nhà
nước các cấp, cộng đồng doanh nghiệp nắm được phương hướng và lợi ích khi thực
hiện tốt Hiệp định CPTPP. Ngoài ra, còn có trường hợp các hoạt động tuyên truyền ở
một số tỉnh, thành được thực hiện tốt, song doanh nghiệp được mời tham dự chưa nhiệt
tình tham gia. Không những thế, năng lực hấp thụ các FTA nói chung và Hiệp định
CPTPP nói riêng của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, cần được cải thiện hơn ở trình
độ quản lý, công nghệ và các kỹ năng cần thiết khác.

1.2 Ngành dệt may ổn định với mức tăng trưởng khá
Ngành hàng dệt may với kỳ vọng sẽ tận dụng tốt Hiệp định CPTPP để đẩy
mạnh xuất khẩu lại không đạt được mức tăng trưởng như kỳ vọng. Theo báo cáo của
Bộ Công thương, Kim ngạch xuất khẩu toàn ngành năm 2019 đạt mức tăng trưởng
7,55% so với năm 2018, song lại không đạt mức 40 tỷ USD như kỳ vọng đầu năm
(khoảng 39 tỷ USD, thấp hơn 1 tỷ USD so với mục tiêu đề ra). Trong khi đó, thông
thường quý IV của năm trước, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu dệt may của Việt Nam

đã có đơn hàng cho cả năm sau đó nhưng đến năm 2019, số lượng đơn hàng ghi
nhận giảm so với năm 2018, nhiều doanh nghiệp mới chỉ nhận được số lượng đơn
hàng bằng 80% so với cùng kỳ. Không chỉ vậy, nhiều doanh nghiệp không tiếp nhận
được đơn hàng dài hạn, mà thay vào đó là các đơn hàng ngắn hạn theo tháng, dài
nhất là theo quý.
Kết quả trên cho thấy xuất khẩu dệt may vẫn chưa tận dụng được các cơ hội của
CPTPP nếu so sánh với các mặt hàng như nông sản, dù được hưởng những ưu đãi


19
thuế quan khi CPTPP đi vào thực thi. Thách thức đối với ngành dệt may có thể chỉ
ra như: việc không tự chủ được nguyên phụ liệu, khâu nhuộm còn yếu dẫn đến
ngành hàng này chịu tác động lớn của quy định xuất sứ “từ sợi trở đi” trong CPTPP,
hàng năm, có đến 50% nguyên phụ liệu vẫn phải nhập khẩu, trong đó, bao gồm gần
99% bông, 80% vải,…; các doanh nghiệp dệt may chưa thực sự nắm được cách thức
thực hiện hay thiếu hụt thông tin trong cách tổ chức và thực thi của cơ quan nhà
nước; ngành dệt may Việt Nam đã và đang gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh
tranh với các cường quốc dệt may như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh,…
Đánh giá kết quả tăng trưởng xuất khẩu năm 2019 là mức tăng trưởng không
lớn, tuy nhiên, trong bối cảnh xuất khẩu của nhiều nước đều có chiều hướng sụt
giảm do nhu cầu thị trường biến động hay chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, kết
quả này được coi là một tác động tích cực mà CPTPP đem lại cho nền kinh tế Việt
Nam trước nguy cơ suy thoái.
2 Ngành xuất khẩu tiếp tục thực hiện Hiệp định CPTPP hướng tới những
mục tiêu của năm 2020
Đối với một Hiệp định như CPTPP, một năm thực hiện là chưa đủ để có đánh
giá chính xác và đầy đủ về các tác động mà CPTPP có thể đem tới cho xuất khẩu.
Tuy nhiên, một năm này đủ để cho chúng ta nhận diện về những hạn chế trong công
tác thực thi Hiệp định này. Sự chậm trễ của các cơ quan Nhà nước và sự thiếu chủ
động của doanh nghiệp có lẽ là điều dễ nhận thấy nhất trong suốt khoảng thời gian

kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
2.1 Tiếp tục cải cách thể chế đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập
Trong năm 2020, Bộ Công Thương tiếp tục đẩy mạnh việc đôn đốc, điều phối
các Bộ, ngành triển khai đầy đủ và đúng thời hạn các hoạt động đã đề ra trong Kế
hoạch thực hiện CPTPP của Chính phủ và của từng Bộ, ngành, địa phương. Mặt
khác, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến nội dung và các cam kết của Hiệp định
CPTPP dưới nhiều hình thức, tập trung sâu hơn về nội dung, mức độ và phạm vi
cam kết; đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin theo từng lĩnh vực cụ thể của doanh
nghiệp, hiệp hội ngành hàng.
2.2 Xây dựng Cổng thông tin điện tử về các Hiệp định Thương mại Tự do
Hiện tại, trong khuôn khổ hợp tác của Hiệp định CPTPP, Bộ Công Thương đang
làm việc với Đại sứ quán Australia và Ngân hàng Thế giới nhằm xây dựng Cổng


20
thông tin điện tử về các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA Portal). Đây sẽ là một
cổng thông tin điện tử chính thức từ phía Bộ Công Thương để cung cấp thông tin về
các FTA mà trước mắt là Hiệp định CPTPP một cách chính thống, hiệu quả và kịp
thời tới cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Cổng thông tin này sẽ là cửa ngõ toàn diện hướng dẫn doanh nghiệp và người
dân tận dụng tối đa cơ hội do các FTA mang lại trên cơ sở công cụ tra cứu, hướng
dẫn tiện ích cho người dùng. Đặc biệt, trong năm 2020, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục
trao đổi, làm việc chặt chẽ với Ngân hàng Thế giới với mục tiêu nhanh chóng vận
hành Cổng thông tin điện tử về FTA trên thực tiễn. Ngoài ra, Bộ Công Thương còn
chủ động phối hợp với các Bộ, ngành trong việc tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung
hoặc xây dựng các văn bản pháp luật cần thiết để thực thi Hiệp định CPTPP.
2.3 Cam kết tiếp tục đồng hành cùng doanh nghiệp trong giai đoạn hội nhập
Bộ Công Thương sẽ tiếp tục tiến hành rà soát, hoàn thiện lộ trình và triển khai
xây dựng, hoàn thiện các biện pháp kỹ thuật (tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia, vệ sinh an toàn thực phẩm) phù hợp với các cam kết quốc tế để hỗ trợ phát

triển doanh nghiệp, sản phẩm Việt Nam và bảo vệ người tiêu dùng. Đặc biệt, Bộ cũng
hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ứng phó với các vụ điều tra phòng vệ thương mại
với hàng hóa Việt Nam, sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của Hiệp định hoặc các
cơ chế khác khi cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp Việt Nam.

Ngoài ra, Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng cho biết, Hiệp hội sẽ tiếp tục đồng
hành cùng doanh nghiệp trong việc phản ánh, đề xuất tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp khi thực hiện các văn bản pháp luật như: thủ tục hải quan, xuất nhập khẩu,
hoàn thuế, góp ý sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Lao động, các chế độ liên quan đến
người lao động,… Đồng thời, đóng góp ý kiến cho bản Dự thảo Chiến lược phát
triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam 2020-2030 của Bộ Công Thương.


21

KẾT LUẬN
Nhìn chung, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
mang lại cho nền kinh tế Việt Nam rất nhiều cơ hội phát triển, đặc biệt là ngành xuất
khẩu dù không còn sự có mặt của Mỹ. Từ hạ thấp hàng rào thuế quan, gia tăng thị
phần thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh của đa dạng ngành hàng và mở ra
cơ hội tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, đến đơn giản hóa quy trình
xuất khẩu và giảm chi phí thương mại. Bên cạnh đó cũng đặt ra những thách thức
mà có giải quyết chúng thì ta mới tận dụng được triệt để hiệu quả mà CPTPP mang
lại như yêu cầu cao hơn đối với tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn lao động, nông sản
phải chịu áp lực lớn trong quá trình dỡ bỏ hàng rào thuế quan, hay sự cạnh tranh từ
các mặt hàng của nước ngoài. Để đạt được mục tiêu đó thì Nhà nước và các doanh
nghiệp phải cùng nỗ lực và tạo mối liên kết chặt chẽ với nhau.
Qua bài tiểu luận, mong rằng bạn đọc đã có nhiều thông tin hơn về ảnh hưởng
của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đem đến cho
ngành xuất khẩu của Việt Nam. Nhóm hy vọng nhận được những góp ý để bài tiểu

luận thêm hoàn chỉnh.
Xin chân thành cảm ơn.


22

TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Bảo Anh, 2019, Tham gia CPTPP: Nhiều mặt hàng xuất khẩu sẽ tăng tốc,
< (truy cập 13/03/2020).
2. Tuấn Anh, 2019, 5 cơ hội lớn cho hàng xuất khẩu Việt Nam trong CPTPP,
< (truy cập 13/03/2020).

3. Hồng Hạnh, 2019, CPTPP: Cơ hội và thách thức cho nông sản Việt,
< (truy cập 17/03/2020).
4. Nguyễn Mạnh Hùng, 2019, Cơ hội và thách thức với Việt Nam sau khi Hiệp
định CPTPP có hiệu lực, < (truy cập 13/03/2020).
5. Uyên Hương, 2020, Bức tranh thương mại sau 1 năm Hiệp định CPTPP
có hiệu lực, < />idTin=45100&idcm=49>, (truy cập 14/03/2020).
6. Theo Thuongtruong.com.vn, 2018, Vị trí của Việt Nam trong quan hệ thương
mại với các nước CPTPP, < (truy cập ngày 12/03/2020).
TRANG WEB
1. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương,
/>2. Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam,
/>3. Cổng thông tin điện tử Bộ Công thương Việt Nam, />4. Tổng cục Thống kê, />5. Tạp chí tài chính, />


×