Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Đề xuất cấu trúc bài học cho sgk lịch sử lớp 7 ở việt nam trên cơ sở nghiên cứu sgk lịch sử của australia​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.24 MB, 124 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
**********

NGUYỄN THU TRANG

ĐỀ XUẤT CẤU TRÚC BÀI HỌC CHO SGK
LỊCH SỬ LỚP 7 Ở VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ
NGHIÊN CỨU SGK LỊCH SỬ CỦA AUSTRALIA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học Lịch sử

HÀ NỘI, 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
**********

NGUYỄN THU TRANG

ĐỀ XUẤT CẤU TRÚC BÀI HỌC CHO SGK
LỊCH SỬ LỚP 7 Ở VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ
NGHIÊN CỨU SGK LỊCH SỬ CỦA AUSTRALIA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học Lịch sử
Người hướng dẫn khoa học

ThS. NINH THỊ HẠNH

HÀ NỘI, 2019




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp này, em tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc tới ThS. Ninh Thị Hạnh - Giảng viên Đại học Sư phạm Hà Nội
2, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, động viên và tạo mọi điều kiện thuận
lợi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận này.
Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 cùng các bạn sinh viên K41B Sư phạm Lịch sử đã có những ý
kiến đóng góp quý báu để em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường THCS Pascal, thành
phố Hà Nội, giáo viên tổ chuyên môn Lịch sử và các em HS khối 7 đã giúp đỡ
em trong quá trình nghiên cứu thực tiễn cho đề tài khóa luận.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình và bạn bè đã động
viên, giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
ĐỀ XUẤT CẤU TRÚC BÀI HỌC TRONG SÁCH GIÁO KHOA
LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS CỦA AUSTRALIA.................................. 13
1.1. Cơ sở lý luận ....................................................................................... 13
1.1.1. Quan niệm về sách giáo khoa Lịch sử ở trường THCS .................. 13
1.1.2. Xuất phát điểm của vấn đề .............................................................. 17
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của sách giáo khoa Lịch sử nói chung, cấu trúc bài
học trong sách giáo khoa nói riêng ............................................................. 25
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc đề xuất sách giáo khoa Lịch sử ở trường
THCS nói chung và SGK Lịch sử lớp 7 nói riêng..................................... 28
1.2.1. Nội dung chương trình, SGK Lịch sử 7 hiện hành và Chương trình

môn Lịch sử 7 sau năm 2018 ...................................................................... 28
1.2.2. Khảo sát về việc sử dụng SGK Lịch sử 7 ........................................... 30
1.3. Nội dung và cấu trúc bài học sách giáo khoa Lịch sử ở trường THCS
của Australia ............................................................................................... 36
1.3.1. Nội dung và cấu trúc sách giáo khoa Lịch sử 7 của Australia ......... 36
1.4. Một số kinh nghiệm cho xây dựng cấu trúc bài học Lịch sử 7 ở Việt
Nam sau 2018 .............................................................................................. 49
CHƯƠNG 2: ĐỀ XUẤT CẤU TRÚC BÀI HỌC CHO
SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 7 SAU NĂM 2018 TRÊN
CƠ SỞ NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC BÀI HỌC SÁCH GIÁO KHOA
LỊCH SỬ 7 Ở AUSTRALIA ...................................................................... 53
2.1. Yêu cầu của việc biên soạn cấu trúc bài học trong sách giáo khoa lịch
sử THCS Việt Nam sau năm 2018 ............................................................. 53
2.1.1. Yêu cầu của việc biên soạn cấu trúc bài học ................................... 53


2.2. Vị trí, nội dung, mục tiêu của chủ đề “Phát kiến địa lí” .................... 55
2.3. Đề xuất cấu trúc bài học cho SGK Lịch sử lớp 7 ............................... 57
2.3.1. Cấu trúc phần bài viết ...................................................................... 57
2.3.2. Cấu trúc phần cơ chế sư phạm ........................................................ 61
2.4. Thử nghiệm sư phạm .......................................................................... 77
2.4.1. Mục đích thử nghiệm ........................................................................ 77
2.4.2. Nội dung và phương pháp thử nghiệm ............................................. 78
2.4.3. Kết quả thử nghiệm .......................................................................... 79
KẾT LUẬN ................................................................................................. 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài
Cuộc cách mạng số đang lan tỏa trên toàn thế giới với sự bùng nổ của

phương tiện truyền thông, internet, hệ thống thiết bị thông minh... khiến thế
giới trở thành “thế giới phẳng” (Thomas Friedman). Nền giáo dục cũng cần
làm mới mình để theo kịp sự phát triển của công nghệ và sự thay đổi xã hội.
Cách mạng số đã mang vào Việt Nam một bức tranh hấp dẫn từ những nền giáo
dục tiên tiến, đặt nền giáo dục Việt Nam trước những thời cơ và thách thức mới.
Mặc dù không thể nhập khẩu một nền giáo dục “nguyên khối” từ các quốc gia
có nền giáo dục tiên tiến nhất nhưng Việt Nam hoàn toàn có thể học tập những
kinh nghiệm và tiến bộ của họ để tạo nên một môi trường giáo dục phù hợp.
Đảm bảo được vai trò đào tạo những “công dân toàn cầu”.
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nhấn mạnh: "Tri thức đã trở thành yếu tố
hàng đầu để phát triển kinh tế, tất cả các nền kinh tế lớn trên thế giới, các quốc
gia đều ý thức rõ về vai trò của giáo dục trong việc xây dựng nguồn nhân lực
chất lượng cao tạo đòn bẩy quan trọng để thúc đẩy lao động sản xuất, tạo động
lực tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội một cách bền vững". Nhận thức rõ
vai trò của giáo dục – đào tạo đối với sự phát triển đất nước, Đảng ta đã khẳng
định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, là mối quan tâm của toàn xã hội. Để
đổi mới chất lượng giáo dục, chương trình và SGK là hai nhân tố quan trọng.
Dù khoa học kĩ thuật phát triển có thể bổ sung nhiều phương tiện học tập hiện
đại nhưng không thể thay thế hoàn toàn SGK. SGK là nguồn tài liệu chọn lọc
có tính điển hình đối với giáo viên và là tài liệu học tập cơ bản của học sinh.
Tuy không đề cập đến phương pháp dạy học nhưng nội dung chương trình, cấu
tạo SGK là những gợi ý quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp dạy học.
SGK Lịch sử luôn giữ một vai trò quan trọng trong quá trình dạy và học Lịch
sử, bên cạnh việc cung cấp kiến thức là rèn luyện kĩ năng bộ môn.


1


Tuy nhiên, trong thực tế trường THPT nói chung và THCS nói riêng, bộ
môn Lịch sử chưa có một vị trí xứng đáng, chưa nhận được sự yêu thích đông
đảo từ phía học sinh, SGK Lịch sử còn nhiều hạn chế nhất định. Vì vậy, để tạo
điều kiện cho học sinh phát huy khả năng sáng tạo và tính tự học tích cực của
mình, để phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của SGK nói
chung và SGK Lịch sử nói riêng, tiến hành đổi mới chương trình và SGK là
điều hết sức quan trọng và cần thiết.
Một số nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới hết sức chú trọng đến
cải cách và đổi mới giáo dục. Đặc biệt, Australia là một trong những quốc gia
có nền giáo dục tiên tiến. Ở Australia thực hiện nguyên tắc “một chương trình,
nhiều bộ SGK”. Nhiều NXB được tham gia vào quá trình nghiên cứu biên soạn
SGK, trong đó có hai nhà xuất bản Macmillan Education, Pearson - những nhà
xuất bản uy tín ở Australia. Nhìn ra thế giới, Việt Nam cần thiết phải học tập
xu hướng giáo dục của các nước tiên tiến, đặc biệt trong việc cải tiến SGK và
ứng dụng phù hợp vào thực tiễn Việt Nam để rút ngắn con đường tiếp cận với
trình độ giáo dục trên thế giới. Lí do chúng tôi lựa chọn nghiên cứu SGK Lịch
sử 7 Australia vì hai lý do chính. Thứ nhất, SGK Lịch sử 7 Australia với nội
dung kiến thức; tư liệu tham khảo phong phú; kênh hình bắt mắt và chứa đựng
nội dung kiến thức sâu sắc; cách thiết kế hoạt động học tập thu hút, phát triển
toàn diện các kĩ năng cho HS. Thứ hai, chúng tôi nhận thấy SGK Australia có
một số nội dung tương đồng với chương trình Lịch sử 7 của Việt Nam thuận
lợi cho việc tham khảo, đề xuất cấu trúc, vận dụng cho việc biên soạn SGK
Việt Nam.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Đề xuất
cấu trúc bài học cho SGK Lịch sử lớp 7 ở Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu SGK
Lịch sử của Australia” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.


2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tài liệu nước ngoài
*Sách chuyên khảo
SGK có vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, và luôn
nhận được mối quan tâm hàng đầu. Trong đó, tiêu biểu phải kể đến công trình
“Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” của N.G.Đai-ri (Đặng Bích Hà,
Nguyễn Cao Lũy dịch, NXB Giáo dục, 1973). Đai-ri không chỉ quan tâm đến
vấn đề biên soạn SGK cho phù hợp với trình độ nhận thức và phát triển kỹ năng
của người học. Tác giả còn đưa ra sơ đồ thể hiện mối tương quan giữa SGK với
bài giảng của giáo viên. Trong đó, bài giảng của giáo viên không bao gồm toàn
bộ bài đọc trong SGK nhưng nhất thiết phải bao gồm một phần tài liệu nhất
định. Sơ đồ Đai-ri này giúp giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác và sử dụng
hiệu quả SGK.
Trong cuốn “Dạy học nêu vấn đề” (NXB Giáo dục, Hà Nội, 1977) của
I.Ia.Lecne quan tâm đến SGK từ khía cạnh dạy học nêu vấn đề, thể hiện quan
điểm học lịch sử không cần tư duy là nhận thức sai lầm. Bên cạnh đó, tác giả
cho rằng SGK cần tăng cường tính nêu vấn đề, thay vì những câu hỏi ở mức độ
nhận thức, cần làm phong phú về số lượng, tính đa dạng của các câu hỏi các
bài tập thực hành, đảm bảo khả năng cá biệt hóa trong quá trình học tập trên
lớp và ở nhà của HS và thúc đẩy nâng cao trình độ của GV.
Trong cuốn “Phát huy tính tích cực của HS như thế nào” của
Kharlamop tập II (NXB Giáo dục, 1979) đi sâu chỉ ra bản chất sử dụng SGK
và đề xuất những yêu cầu khi làm việc với SGK ở trên lớp, đồng thời khẳng
định vị trí và vai trò của SGK. SGK không chỉ là tài liệu học tập mà còn có vị
trí đáng kể trong việc phát huy tính tích cực trong hoạt động trí tuệ của HS.
Trong cuốn “Phương pháp và kỹ thuật lên lớp trường phổ thông tập
1” (NXB Giáo dục, 1983) đã khẳng định và phân tích ý nghĩa của SGK và đưa


3


ra hướng dẫn sử dụng SGK sao cho hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng bài học
Lịch sử qua việc GV hướng dẫn HS tự nghiên cứu, tìm hiểu.
Trong cuốn “Các phương pháp giảng dạy hiệu quả” của nhóm tác giả
Marzano, Debrra J. Pickering, Jane E.Pollock đã nghiên cứu lý thuyết, tổng kết
kinh nghiệm giảng dạy. Đó là các phương pháp như: tóm tắt và ghi ý chính, bài
tập về nhà và thực hành trên lớp, gợi ý câu hỏi và khung thông tin cho trước…
Các tác giả cũng hướng dẫn GV những biện pháp phát huy năng lực học tập
nói chung của HS.
Trong cuốn “Nghệ thuật và khoa học dạy học” của tác giả Robert
J.Marzno đã chỉ ra vai trò của người thầy: hướng dẫn HS phát hiện vấn đề, đặt
ra giả thuyết đề so sánh, đánh giá, giải quyết,...
Trong cuốn “Kỹ năng học tập để thành công” của Fred Orr đã đề cập
đến một số kĩ năng sử dụng SGK, kĩ năng nghe giảng, đọc hiệu quả, ghi chép
hiệu quả, kĩ năng viết luận văn, kỹ năng ôn tập,...
* Bài viết Tạp chí, hội thảo
Trong bài “Hãy mở sách giáo khoa ra” đăng trên “Báo giáo viên” hai
tác giả B. P. Êxipôp và L. P. Arictôva đã chỉ ra những hạn chế trong quá trình
GV hướng dẫn, HS sử dụng SGK đồng thời đề xuất những phương pháp hiệu
quả, đẩy mạnh tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh khi làm
việc với SGK.
Trong bài viết “Làm thế nào để SGK Lịch sử định hình một đơn vị kiến
thức thông qua chủ đề phân biệt chủng tộc” của hai tác giả Katalin Morgan và
Elizabeth Henning, đăng trên tạp chí “Sử gia”, tháng 11/ 2011. Tác giả khẳng
định SGK có vai trò đặc biệt quan trọng trong các lớp học ở Nam Phi, nơi nhiều
GV không được hỗ trợ bằng các phương tiện khác. Tác giả so sánh mười cuốn
SGK trong cùng một đơn vị kiến thức trong chương trình giảng dạy, cụ thể là

“Tác động của chế độ phân biệt chủng tộc và Chủ nghĩa Darwin xã hội đối với

4


thế kỉ XIX và XX (Phân biệt chủng tộc ở châu Phi, Hoa Kỳ, Úc, châu Âu đặc
biệt dẫn đến nạn diệt chủng của Đức Quốc Xã).
Trong bài viết “SGK trong lớp học EFL: xác định, đánh giá và phân tích”
của hai tác giả Bijiana B.Radic - Bojanic và Jagoda P. Topalov đăng trên “Bộ
sưu tập các bài viết của khoa Triết học XLVI”, tháng 3/ 2016, bài viết tập trung
giải thích quá trình lựa chọn SGK, nêu quy trình phân tích nội dung sau đó đánh
giá tiềm năng, sự phù hợp của những SGK này. Tác giả kết luận rằng: GV phải
đối mặt với việc lựa chọn và đánh giá SGK, đồng thời bài viết cũng đưa ra
những hướng dẫn, tiêu chí cụ thể để hỗ trợ GV trong quá trình này.
Trong bài viết “Vai trò của SGK Lịch sử trong việc thúc đẩy tư duy lịch
sử ở Bắc Phi” của tác giả Daniel Ramoroka và Alta Engelbrecht đăng trên tạp
chí “Xưa và nay” số 14, tháng 11/ 2015. Bài viết tập trung phân tích ba cuốn
SGK vẫn bị đóng khung bởi tư duy viết sách đã lỗi thời. Ba cuốn SGK này với
nguồn tư liệu nghèo nàn, phần lớn các thông tin được truyền tải giống như một
bản tóm tắt các sự kiện, ảnh hưởng tiêu cực đến việc phân tích tư liệu, tư duy
và thực hành trong lớp học của HS.
2.2. Tài liệu trong nước
* Sách chuyên khảo
Nghiên cứu về SGK không chỉ nhận được sự chú ý của các nhà giáo dục
nước ngoài mà còn nhận được sự quan tâm của của các nhà giáo dục trong nước.
Trong cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách
giáo khoa” của tác giả Trần Bá Hoành (NXB Đại học Sư phạm, 2006) đã trình
bày cụ thể về việc tổ chức biên soạn, xuất bản, phát hành SGK. Ngoài ra tác
giả đưa ra những quan điểm cá nhân về những yếu tố tiến bộ, hạn chế của SGK
hiện nay.

Trong cuốn “Giáo dục học 1” (NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2007)
do tác giả Trần Thị Tuyết Oanh chủ biên đã phân biệt các khái niệm: chương

5


trình, SGK và các tài liệu học tập khác, đồng thời cuốn sách cũng trình bày
chức năng và những yêu cầu đối với một cuốn SGK.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học Lịch sử tập 1”, Phan Ngọc Liên
(chủ biên) Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng (NXB Giáo dục, 2010), các tác
giả đều khẳng định chương trình được thể hiện ở SGK do đó cần nghiên cứu kĩ
tài liệu này, nhóm tác giả cũng nhấn mạnh đến vị trí, ý nghĩa của SGK trong
dạy học Lịch sử ở trường phổ thông. Bên cạnh đó, nhóm tác giả đề cập đến mục
tiêu bộ môn, những nguyên tắc xây dựng chương trình và biên soạn SGK ở
trường trung học phổ thông.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học Lịch sử tập 2”, Phan Ngọc Liên
(chủ biên) Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng (NXB Giáo dục, 2010), các tác
giả đưa ra phương pháp sử dụng SGK, các phương pháp dạy học Lịch sử phải
được giải quyết phù hợp trên cơ sở nội dung bài học và nội dung SGK.
Trong cuốn “Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học
lịch sử ở trường phổ thông” (NXB Đại học Sư Phạm, 2006) tác giả Nguyễn
Thị Côi đã nhấn mạnh quan điểm dạy học Lịch sử để phát huy năng lực của HS.
Trong đó cũng nhấn mạnh kỹ năng tự làm việc, đặc biệt GV phải hướng dẫn
HS tự làm việc với SGK, hoàn thành các bài tập trong SGK hay tự làm việc với
các bản đồ, tranh ảnh ngoài SGK…
Trong cuốn “Phương pháp dạy học môn lịch sử ở trường trung học
phổ thông” do Vũ Quang Hiển và Hoàng Thanh Tú đồng chủ biên (NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2014) nhóm tác giả đã khái quát về phương pháp sử dụng
SGK Lịch sử và sử dụng tài liệu tham khảo; trong đó nêu ra những nhiệm vụ
cơ bản của GV và HS khi sử dụng SGK, “trong quá trình giảng dạy GV hướng

dẫn HS sử dụng SGK không chỉ tiếp nhận kiến thức mà còn rèn luyện các kĩ
năng tự học, tự nghiên cứu”…

6


*Bài viết tạp chí, hội thảo
“Mô hình SGK trường học mới đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông” của tác giả Nguyễn Vinh Hiển đăng trên tạp chí Giáo dục,
số 410, năm 2017. Trong bài viết này tác giả đề cập đến nhiều giải pháp cải
cách giáo dục phải được thực hiện một cách nhất quán. Bên cạnh đó, tác giả
cũng đề cập đến SGK cho mô hình trường học mới, chỉ ra lợi thế của mô hình
này trong giai đoạn hiện tại.
“Từ SGK Lịch sử phổ thông của Cộng hòa Pháp đến khả năng vận dụng
vào Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Văn Ninh đăng trên Tạp chí giáo dục, số
316 (Kì 2), năm 2013. Bài viết trình bày những đặc điểm SGK Lịch sử Phổ
thông của Cộng hòa Pháp và đề xuất một số nội dung biên soạn SGK Lịch sử
Phổ thông ở Việt Nam như: Cấu trúc bài học trong SGK, mối quan hệ giữa
kênh hình, kênh chữ và tư liệu tham khảo, mối quan hệ giữa SGK và tài liệu
tham khảo, SGK điện tử,...
“Cấu trúc bài Các quốc gia cổ đại phương Tây: Hi Lạp và Rô Ma trong
sách giáo khoa Trung học phổ thông của Pháp và Việt Nam - Một cái nhìn so
sánh”, của tác giả Nguyễn Văn Ninh đăng trên Tạp chí khoa học - Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, năm 2013. Bài viết chỉ ra những điểm tương đồng và
khác biệt trong cùng một bài học của hai quốc gia, từ đó đề xuất việc tiếp thu
những kinh nghiệm, những điểm tiến bộ trong cách biên soạn SGK Lịch sử
Pháp và Việt Nam.
“Xây dựng cấu trúc bài học trên lớp nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường THPT” tác giả Nguyễn Thị
Thùy Mỵ đăng trên Tạp chí Giáo dục, số 189, năm 2017. Bài viết chỉ ra các

dạng cấu trúc và yêu cầu khi xây dựng cấu trúc bài học trên lớp trong dạy học
Lịch sử, đồng thời xây dựng cấu trúc bài học trên lớp qua bài “Phong trào cách
mạng 1930 - 1935”.

7


“Một số yêu cầu khi xác định các biện pháp sử dụng SGK trong dạy học
Lịch sử ở trường THPT theo hướng phát triển năng lực học sinh” của tác giả
Bùi Thị Oanh đăng trên tạp chí Giáo dục số 398, năm 2017. Bài viết nhấn mạnh
phát triển một số kĩ năng cơ bản theo đặc trưng môn học để phát huy tính tích
cực của HS, đề xuất các biện pháp sử dụng SGK phải linh hoạt, phù hợp với
khả năng nhận thức của HS.
“Nâng cao chất lượng giáo dục Lịch sử - tiếp cận từ thực tiễn” của tác
giả Đỗ Hồng Thái đăng trên Tạp chí Giáo dục, số 317, năm 2013. Bài viết chỉ
ra những đặc điểm nổi bật trong chương trình giáo dục phổ thông của các nước
phát triển và đưa ra một số kiến nghị: chất lượng giáo dục Lịch sử phải bắt đầu
từ tư duy quản lí giáo dục; khắc phục bất cập trong chương trình, SGK và
phương pháp dạy học Lịch sử;...
“Biên soạn sách giáo khoa Lịch sử sau năm 2015 theo hướng phát triển
năng lực học sinh” của tác giả Hoàng Thanh Tú đăng trên Chuyên san Nghiên
cứu giáo dục, năm 2014. Bài viết đề xuất ý kiến cho việc biên soạn SGK Lịch
sử sau năm 2015, từ xây dựng chuẩn và hệ mục tiêu môn học đến đề xuất cấu
trúc nội dung cũng như hình thức cho SGK. Một số điều kiện thực thi chương
trình, sách giáo khoa sau năm 2015 cũng được đề xuất để đạt được mục tiêu
giáo dục.
“Đôi nét về sách giáo khoa Lịch sử của hai nước Anh, Australia và kinh
nghiệm trong việc biên soạn sách giáo khoa Lịch sử của Việt Nam sau năm
2015”, của tác giả Hoàng Thanh Tú đăng trên Tạp chí Giáo dục số 330, năm
2014. Bài viết chỉ ra một số kinh nghiệm biên soạn SGK Lịch sử của Anh và

Australia. Nhấn mạnh những ưu điểm nổi bật có thể vận dụng biên soạn SGK
Lịch sử ở Việt Nam: về nội dung, về cấu trúc.
*Luận án, luận văn
Luận văn, “Cấu tạo sách giáo khoa lịch sử bậc THPT của Cộng hòa
Pháp và khả năng vận dụng vào Việt Nam (qua nội dung: các quốc gia cổ đại

8


phương Tây – Hi Lạp và Roma)”, Trần Quỳnh Chi, Đại học sư Phạm Hà Nội,
2013. Luận văn chỉ ra cấu tạo SGK Lịch sử THPT Cộng hòa Pháp, rút ra những
kinh nghiệm có khả năng vận dụng vào Việt Nam. Đề xuất biên soạn, thiết kế
cấu tạo bài Các quốc gia cổ đại Phương Tây - HI Lạp và Roma.
Luận văn, “Biên soạn bài học trong sách giáo khoa Lịch sử ở trường
trung học cơ sở Việt Nam sau năm 2015 với việc vận dụng kinh nghiệm một số
nước trên thế giới (qua ví dụ các cuộc cách mạng tư sản thời kì Cận đại)”,
Phan Thị Thúy Châm, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2015. Luận văn đã đánh giá
ưu điểm và hạn chế của SGK. Đồng thời chỉ ra mô hình cấu trúc bài viết SGK
Lịch sử THCS của Trung Quốc, Pháp, Đức và đề xuất cấu trúc bài viết cho
SGK Lịch sử THCS ở Việt Nam
Luận văn, “Mô hình bài viết sách giáo khoa lịch sử ở trường Trung học
Cơ sở nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và khả năng vận dụng vào Việt
Nam”, Lương Thị Phương Liên, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2013. Tác giả tập
trung tìm hiểu mô hình bài viết trong SGK ở trường THCS Trung Quốc, từ đó
rút ra kinh nghiệm và đề xuất mô hình bài viết trong SGK Lịch sử lớp 6 trường
THCS ở Việt Nam.
Luận án, “Sử dụng SGK trong DHLS ở trường THPT theo hướng phát
triển năng lực học tập của HS”, Bùi Thị Oanh, Đại học sư phạm Hà Nội, 2014.
Luận án đã đề ra các biện pháp sư phạm sử dụng SGK trong dạy học Lịch sử ở
trường THPT theo hướng phát triển năng lực của HS.

Như vậy, qua tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi nhận thấy:
lịch sử nghiên cứu về SGK đã có nền tảng nhiều năm, các công trình trên đã
khái quát tầm quan trọng của SGK trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử
nói riêng nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Tuy nhiên
nguồn tài liệu nghiên cứu, đối chiếu SGK nước ngoài với SGK Việt Nam, đặc
biệt là SGK Australia còn khiêm tốn, chủ yếu dừng lại ở các tạp chí, báo, kỉ
yếu hội thảo.

9


Các công trình kể trên là nguồn tài liệu tham khảo quý giá để chúng tôi
nghiên cứu và đề xuất cấu trúc bài học SGK Lịch sử lớp 7.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cấu trúc bài học SGK Lịch sử lớp 7
của Australia, từ đó đề xuất cấu trúc bài học cho SGK Lịch sử lớp 7 ở Việt
Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu cấu trúc bài học
của Sách giáo khoa Lịch sử 7 Australia. Từ đó rút ra những kinh nghiệm có khả
năng vận dụng vào Việt Nam
- Về điều tra, khảo sát thực tế: Tiến hành điều tra thực tế việc sử dụng
SGK Lịch sử của GV và HS của một số trường THCS.
- Về thực nghiệm sư phạm: Nội dung thực nghiệm là chủ đề “Những phát
kiến lớn về địa lí” trong Chương trình Giáo dục Phổ thông môn Lịch sử (năm
2018), thử nghiệm tại trường THCS Pascal (Thành phố Hà Nội).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của SGK trong dạy học Lịch sử

và từ việc nghiên cứu cấu trúc bài học của SGK Australia chúng tôi đề xuất cấu
trúc bài học cho SGK Lịch sử 7 ở Việt Nam góp phần đổi mới SGK Lịch sử ở
trường THCS.
4.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài cần thực hiện
những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tìm hiểu lí luận về xây dựng và biên soạn SGK Lịch sử THCS ở trên
thế giới và ở Việt Nam

10


- Điều tra thực trạng sử dụng SGK trong dạy và học học Lịch sử của GV
và HS hiện nay ở một số trường THCS. Từ đó rút ra những ưu điểm và hạn chế
của SGK Lịch sử hiện hành.
- Tìm hiểu mô hình bài viết trong SGK Lịch sử THCS của Australia và
rút ra bài học kinh nghiệm có khả năng vận dụng vào Việt Nam.
- Đề xuất cấu trúc bài học trong SGK Lịch sử lớp 7 trường THCS tại Việt
Nam.
- Tiến hành thử nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của những
đề xuất đưa ra.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là:
- Những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục nói chung và giáo dục lịch sử nói riêng.
- Lý luận về tâm lí học, giáo dục học, phương pháp dạy học của các nhà
giáo dục liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu các tác phẩm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh và

Đảng ta về giáo dục và giáo dục lịch sử.
Nghiên cứu các công trình của các nhà tâm lí, giáo dục, giáo dục lịch sử
và những tài liệu lịch sử có liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa lịch sử ở trường THCS.
Nghiên cứu cấu tạo bài học trong SGK Lịch sử lớp 7 THCS của Australia
và Việt Nam. Đề xuất cấu tạo bài viết trong SGK Lịch sử lớp 7 THCS ở Việt
Nam năm 2018 trên cơ sở học tập kinh nghiệm của Australia.
Điều tra thực tế ở trường THCS qua các hình thức: quan sát, dự giờ,
phiếu điều tra, trao đổi với GV về thực tế giảng dạy và sử dụng SGK Lịch sử ở
trường THCS trong dạy học lịch sử ở trường THCS

11


Soạn giáo án và tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả
thi của đề tài.
6.

Giả thuyết nghiên cứu
Nếu xây dựng được cấu trúc bài học trong SGK Lịch sử 7 trên cơ sở tiếp

thu kinh nghiệm của Australia theo những yêu cầu đề tài đưa ra sẽ góp phần
đổi mới SGK và nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử ở trường THCS.
7.

Đóng góp của đề tài
- Khẳng định tầm quan trọng của việc biên soạn SGK Lịch sử nói chung,

SGK Lịch sử lớp 7 THCS nói riêng.
- Chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của SGK Lịch sử lớp 7 hiện hành.

- Nghiên cứu cấu trúc bài học SGK Lịch sử lớp 7 THCS của Australia,
rút ra những kinh nghiệm có khả năng vận dụng vào Việt Nam.
- Đề xuất cấu trúc bài học trong SGK Lịch sử 7 THCS trên cơ sở học tập
kinh nghiệm của Australia.
8.

Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài bao

gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất cấu trúc bài học
trong sách giáo khoa Lịch sử ở trường THCS của Australia.
Chương 2: Đề xuất cấu trúc bài học cho sách giáo khoa Lịch sử lớp 7
sau năm 2018 trên cơ sở nghiên cứu cấu trúc bài học sách giáo khoa Lịch sử 7
ở Australia. Thử nghiệm sư phạm.

12


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
ĐỀ XUẤT CẤU TRÚC BÀI HỌC TRONG SÁCH GIÁO KHOA
LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS CỦA AUSTRALIA
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về sách giáo khoa Lịch sử ở trường THCS
1.1.1.1. Quan niệm về sách giáo khoa
SGK là tài liệu học tập và giảng dạy cơ bản không thế thiếu của GV và
HS ở trường phổ thông. Dù công nghệ có phát triển như thế nào thì chưa có
một thiết bị hay dụng cụ nào có thể thay thế hoàn toàn SGK. SGK với vai trò
quan trọng của mình nhận được sự quan tâm đông đảo của giới nghiên cứu
trong và ngoài nước.

Trong cuốn “Bài học là gì?” của giáo sư Hồ Ngọc Đại đã khẳng định
“Sách giáo khoa là chứng cớ nói lên quá trình phát triển của mỗi em trong quá
trình giáo dục. Nó phản ánh được sự phân hóa, cá thể hóa quá trình giáo dục
mà vẫn đảm bảo được những yêu cầu cơ bản nhất của quá trình giáo dục nói
chung” [2; tr.42].
Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử tập 1” các nhà Giáo dục đưa
ra khái niệm “Sách giáo khoa là tài liệu cơ bản trong học tập của học sinh, nên
được biên soạn theo chương trình và quán triệt mục tiêu đào tạo đã được xác
định” [9; tr.89]. Do đó, “kiến thức trong SGK phải đạt yêu cầu chuẩn mực cho
việc truyền thụ, giáo dục, cho các hình thức đánh giá, kiểm tra học sinh” [9;
tr.89].
Trong luật giáo dục nước ta có quy định: “SGK do Bộ Giáo dục và Đào
tạo tổ chức biên soạn và duyệt trên cơ sở thẩm định của Hội đồng Quốc gia
thẩm định để sử dụng chính thức, thống nhất, ổn định trong giảng dạy, học tập
ở nhà trường và các cơ sở giáo dục khác” [11; tr.19].
Các định nghĩa về SGK dù khác nhau về từ ngữ biểu đạt, nhưng các quan
điểm trên đều thống nhất ở bản chất: SGK là công cụ dạy và học, là yếu tố quan

13


trọng trong quá trình tổ chức dạy học với hai nhóm chức năng chính là cung
cấp thông tin khoa học và tổ chức hoạt động dạy học. Như vậy, “SGK là tài
liệu tiếp nối của chương trình, cụ thể hóa những quy định của chương trình về
mục tiêu môn học, về phạm vi, số lượng và mức độ của các đơn vị kiến thức…
Chính vì vậy, SGK là tài liệu quan trọng nhất trong nhà trường, được dùng
trong việc học tập ở lớp, ở nhà của học sinh đồng thời được sử dụng trong quá
trình chuẩn bị bài và tiến hành dạy học của giáo viên” [8; tr.18]. Như vậy,
SGK là tài liệu quan trọng trong giảng dạy và học tập cơ bản cho GV và HS
nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo. Ứng với quan niệm dạy học và chương trình

đào tạo sẽ có một bộ SGK tương ứng.
Một cách tiếp cận khác, một số nhà nghiên cứu có quan niệm “SGK là
loại sách trình bày có hệ thống những kiến thức cơ sở của một lĩnh vực khoa
học nhất định, ở mức độ hiện tại những thành tựu khoa học và văn hóa”.
Trong phạm vi khóa luận chúng tôi chọn cách tiếp cận thứ nhất vì dù tiếp
cận ở góc độ nào thì SGK vẫn là loại sách được sử dụng phổ biến nhất. SGK
giúp đối tượng sử dụng đạt được những mục tiêu học tập trong một thời gian
nhất định.
Đối với SGK Lịch sử ở trường THCS, là cuốn sách được biên soạn theo
chương trình dạy môn Lịch sử ở trường THCS. SGK Lịch là công cụ cụ thể hóa
mục tiêu bộ môn, chương trình được Bộ Giáo dục quy định đồng thời phải thể
hiện được mục đích, yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy học. SGK nói
chung và SGK Lịch sử nói riêng là công trình nghiên cứu khoa học, chủ yếu là
khoa học giáo dục “Mục tiêu của SGK Lịch sử không phải là phát hiện những
vấn đề mới về nghiên cứu lịch sử dân tộc và xã hội loài người như một công
trình sử học, mà phải giải quyết tốt nhất việc cung cấp những kiến thức cơ bản,
hiện đại cho HS phù hợp với mục tiêu đào tạo và nội dung đã quy định” [9;
tr.89].

14


SGK Lịch sử THCS dành cho lứa tuổi từ 12 - 15. SGK bậc học này khác
so với bậc Tiểu học và bậc THPT nhưng vẫn phải đáp ứng mục tiêu môn học
đã đề ra. Về mặt kiến thức đảm bảo nguyên tắc “hiện đại, cơ bản, phù hợp với
thực tiễn Việt Nam”, về mặt phát triển: nội dung SGK phải phù hợp với trình
độ nhận thức, đặc điểm tâm lý, lứa tuổi; về mặt giáo dục: SGK phải được biên
soạn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, theo quan điểm của Đảng
và nhà nước.
Khi biên soạn SGK, tác giả cần vận dụng sáng tạo những quan điểm trên,

mặt khác cần khách quan khi đánh giá một sự kiện, nhân vật lịch sử, không
lồng ghép quan điểm, tư tưởng cá nhân. Giáo dục tri thức đồng bộ với giáo dục
nhân cách, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức. Giúp HS hiểu rõ hơn về giá trị nền
tảng, ý nghĩa thực tiễn của khoa học lịch sử đối với cuộc sống.
Bước vào thời đại công nghệ phát triển như vũ bão, nhưng chưa một công
cụ, thiết bị nào có thể thay thế hoàn toàn SGK. Qua những ý kiến trên, tôi thấy
rằng SGK giữ một vị trí quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử
nói riêng. Vậy làm thế nào để SGK phát huy tối đa vai trò của mình trong công
tác giảng dạy và học tập đó luôn là trăn trở và mục tiêu hướng đến những người
viết sách.
1.1.1.2. Cấu trúc sách giáo khoa Lịch sử
Về cấu trúc của SGK nói chung và SGK Lịch sử nói riêng, cho đến nay
còn có nhiều quan điểm khác nhau. Trong cuốn Phương pháp dạy học Lịch sử
ở trường THPT của nhóm tác giả Vũ Quang Hiển, Hoàng Thanh Tú chỉ hai
quan niệm cơ bản:
Quan niệm thứ nhất: SGK bao gồm hai phần là kênh chữ và kênh hình.
- Kênh chữ: tất cả các thông tin thành văn trình bày nội dung tri thức của
bài học bao gồm bài viết chính, tóm tắt mở đầu bài học, tư liệu tham khảo, câu
hỏi, chú thích,..

15


- Kênh hình bao gồm hình ảnh, tranh vẽ, bản đồ, sơ đồ, đồ thị,… Tùy vào
mục đích sử dụng, kênh hình được chia thành 5 loại: loại minh họa để cụ thể
hóa nội dung một sự kiện quan trọng; loại cung cấp thông tin; loại vừa cung
cấp thông tin vừa minh họa cho kênh chữ; loại để rèn luyện kĩ năng thực hành,
kiểm tra kiến thức hay còn gọi là loại bài tập thực hành.
“Cách phân chia nội dung theo kênh hình và kênh chữ mới chỉ nhấn
mạnh về mặt thông tin để HS nhận thức, nội dung bài học chứ chưa làm rõ

chức năng, nhiệm vụ của mỗi phần trong SGK Lịch sử” [9; tr.90]. Có lẽ vì thế
việc sử dụng SGK mới chỉ dừng lại ở việc đọc, nhìn đơn thuần, hạn chế phát
triển năng lực người học.
Quan niệm thứ hai: SGK bao gồm hai phần là bài viết và cơ chế sư phạm.
Quan điểm này thế hiện được tính sư phạm của việc biên soạn và sử dụng SGK.
- “Bài viết” “tức là nội dung cơ bản của chương trình được trình bày
ngắn gọn trong một số trang cho mỗi tiết học, chỉ dẫn về phương pháp học tập
về đánh giá, kiểm tra kết quả học tập của học sinh” [9; tr.90].
- “Cơ chế sư phạm” “chỉ tất cả những thành tố trong SGK, trừ bài viết,
dành cho một tiết học. Đây là bộ phận chủ yếu của sách giáo khoa mà học sinh
phải nghiên cứu, nắm vững kiến thức cơ bản được lựa chọn phù hợp với yêu
cầu học tập” [9; tr.91].
“Cơ chế sư phạm” là một thành tố quan trọng trong SGK Lịch sử, do đó
cần phải đầu tư chú trọng lựa chọn tư liệu, tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, tài liệu
tham khảo…
Mặc dù các quan niệm khác nhau về cấu trúc nhưng tựu chung lại, hai
quan điểm đều thể hiện tất cả các thành tố trong SGK đều thực hiện chức năng
bồi dưỡng nhận thức, phát triển năng lực và giáo dục nhân cách,.. Cách phân
chia thứ hai dễ được chấp nhận hơn vì thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa hai
phần của SGK. “Phần bài viết” là nội dung chủ yếu, được trình bày ngắn gọn

16


mà HS cần nghiên cứu, “phần cơ chế sư phạm” bổ sung, cụ thể hóa bài viết,
kiểm tra đánh giá quá trình nhận thức của HS...
Tỉ lệ phần “bài viết” với phần “cơ chế sư phạm” phải tùy thuộc vào lứa
tuổi, trình độ nhận thức của HS. Ở các lớp THCS, phần tranh ảnh có thể tăng
hơn so với các lớp THPT, ngoài ra cần tăng thêm tư liệu, sơ đồ, biểu đồ, đồ
dùng trực quan bên cạnh phần bài viết.

1.1.2. Xuất phát điểm của vấn đề
1.1.2.1.

Mục tiêu và nhiệm vụ bộ môn Lịch sử ở trường THCS

Luật Giáo dục được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam khóa X thông qua ngày 25/12/2001 đã nêu: “Mục tiêu của Giáo dục là
đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, trí thức, sức khỏe,
thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [11; tr.11]. Mục tiêu
bộ môn Lịch sử trường phổ thông được xây dựng trên cơ sở mục tiêu giáo dục,
mục tiêu cấp học, quán triệt đường lối và quan điểm của Đảng và Nhà nước về
giáo dục và sử học.
Từ mục tiêu môn học, đối với bậc THCS sẽ giúp “HS có được những
kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, làm cơ sở bước
đầu cho việc hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương
đất nước, truyền thống dân tộc, tạo cho học sinh các năng lực tư duy, hành
động, có thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội” [24; tr.8].
Lịch sử với tư cách của một môn khoa học xã hội góp phần:
- Về kiến thức: đối với phần Lịch sử dân tộc mục tiêu chính là nhận biết
được quá trình phát triển lịch sử dân tộc với những sự kiện, nhân vật nổi bật,
có chọn lọc của từng thời kì. Đối với phần Lịch sử thế giới, mục tiêu là nhận
biết những sự kiện chính của lịch sử xã hội loài người từ nguồn gốc đến nay.

17


Sở dĩ đây được coi là kiến thức nền tảng vì những kiến thức này sẽ được củng
cố, mở rộng, làm sâu sắc hơn trong bậc học THPT.

- Về kĩ năng: Thông qua bộ môn Lịch sử, HS từng bước hình thành những
kĩ năng chung và kĩ năng chuyên biệt trong môn học: Tái hiện sự kiện, hiện
tượng, nhân vật lịch sử; thực hành bộ môn; liên hệ kiến thức với thực tiễn; thể
hiện quan điểm cá nhân về các vấn đề lịch sử,… góp phần thực hiện mục tiêu
“hình thành năng lực phát hiện, đề xuất, giải quyết vấn đề trong dạy học Lịch
sử”.
- Về thái độ: HS bước đầu hình thành thái độ, tư tưởng, tình cảm trên cơ
sở nội dung kiến thức cụ thể. Đối với dân tộc, góp phần giáo dục lòng yêu quê
hương đất nước, giữ gìn giá trị truyền thống, tin tưởng vào XHCN. Đối với thế
giới, giáo dục tinh thần đoàn kết quốc tế, hữu nghị giữa các dân tộc, yêu chuộng
hòa bình, căm ghét chiến tranh. Đạt được điều này là ghi dấu vào tâm hồn mỗi
người, góp phần tạo nên những phẩm chất tốt đẹp của công dân Việt Nam.
Như vậy, mục tiêu của môn Lịch sử là “dạy chữ để dạy người” học Lịch
sử không chỉ tiếp nhận những kiến thức cơ bản về quá khứ của dân tộc của thế
giới mà còn hướng đến phát triển những năng lực chủ chốt cho người học như
năng lực nêu và giải quyết vấn đề, năng lực nhận thức và tư duy lịch sử, năng
lực tự học,… Qua đó giáo dục nhân cách, tư tưởng, thái độ cư xử đúng đắn
trong xã hội.
1.1.2.2. Đặc trưng của kiến thức Lịch sử ở trường THCS
Tính quá khứ: Tất cả những sự kiện, hiện tượng lịch sử đều đã xảy ra
và nó mang tính quá khứ, do đó người ta không thể trực tiếp quan sát lịch sử
quá khứ mà chỉ có thể tìm hiểu chúng thông qua tư liệu, hiện vật lịch sử hoặc
dựa vào các hiện tượng lịch sử tương tự đang diễn ra để tham khảo. Do tính
quá khứ sẽ khiến việc giảng dạy Lịch sử có những khó khăn nhưng cũng đem
lại những ưu thế riêng của môn Lịch sử như: phát triển, bồi dưỡng trí tưởng
tượng tái tạo, khả năng tư duy của HS,…

18



Tính không lặp lại: Mỗi sự kiện lịch sử xảy ra gắn với một không gian
và thời gian nhất định. Không có sự kiện lịch sử nào xảy ra cùng thời điểm,
trong các thời kì khác nhau mà lại hoàn toàn giống nhau; nếu có điểm giống
nhau đó chính là sự kế thừa, phát triển. Do đó trong giảng dạy, khi trình bày
một sự kiện lịch sử cần phải xem xét cụ thể cả về không gian và thời gian nảy
sinh sự kiện đó.
Tính cụ thể: Lịch sử của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang những
đặc điểm riêng do đặc điểm kinh tế, chính trị, giáo dục khác nhau. Chính đặc
điểm này đòi hỏi sự trình bày lịch sử một cách rõ ràng, cụ thể, phản ánh được
những đặc điểm riêng biệt của mỗi quốc gia, dân tộc. Tuy có sự khác biệt, sự
phát triển lịch sử của các dân tộc đều không nằm ngoài quy luật phát triển của
xã hội.
Tính hệ thống (tính logic lịch sử): không có sự kiện Lịch sử nào đơn lẻ
mà luôn có mối liên hệ với các sự kiện trước, sau và đồng thời với chúng. Khoa
học Lịch sử bao gồm những nội dung tri thức phong phú, đa dạng: từ cơ sở kinh
tế, đấu tranh xã hội đến quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng,… Điều này
đòi hỏi người GV khi giảng dạy Lịch sử luôn phải chú ý đến mối quan hệ giữa
các sự kiện lịch sử để HS hiểu được mối quan hệ và bản chất cốt lõi của vấn đề.
Tính thống nhất giữa sử và luận: “Lí luận lịch sử cũng như quan điểm
lịch sử trước khi có chủ nghĩa Mác, cơ bản đều xuất phát từ lập trường bảo vệ
lợi ích của giai cấp bóc lột” C. Mác và Ăng-ghen đứng trên lập trường của giai
cấp vô sản, vận dụng nguyên lí của chủ nghĩa duy vật biện chứng vạch ra quá
trình chung của sự phát triển tuần tự các hình thái kinh tế xã hội, hai ông đã
chứng minh rằng “lao động sản xuất và đấu tranh giai cấp là động lực chủ yếu
thúc đẩy sự phát triển của xã hội” [9; tr.142]. Từ đó, sử học mới trở thành một
khoa học chân chính.
Xuất phát từ đặc trưng bộ môn Lịch sử mà trong quá trình giảng dạy của
GV và quá trình học tập của HS: nội dung bài viết, hình ảnh, sơ đồ, lược đồ,…

19



trong SGK có tác động rất lớn đến quá trình HS tưởng tượng tái hiện bức tranh
trong quá khứ, từ đó giúp các em tìm hiểu và phát hiện bản chất cốt lõi của vấn
đề. Vì vậy, việc biên soạn SGK đổi mới, chú trọng đến thẩm mỹ và những đặc
điểm đặc trưng của môn Lịch sử là rất cần thiết.
1.1.2.3. Đặc điểm tâm lý và nhận thức của học sinh trong học tập lịch sử
* Đặc điểm tâm lý
Học sinh THCS đang ở “tuổi thiếu niên từ 12 - 15 tuổi: Hoạt động chủ
đạo của tuổi này là hoạt động giao tiếp nhóm bạn. Đây là tuổi vươn lên làm
người lớn, trẻ muốn được đối xử như người lớn, hình thành nhiều phẩm chất
tâm lý mới như nhu cầu tình bạn, khả năng tự ý thức, năng lực đánh giá” [16;
tr.42].
Lứa tuổi này có vị trí phát triển quan trọng trong cuộc đời mỗi con người,
là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ sang tuổi trưởng thành. Do sự khác biệt về
lứa tuổi, tâm lý, nhận thức nên việc biên soạn SGK cũng cần đổi mới cho phù
hợp với đặc điểm và động cơ học tập của các em.
Sự thay đổi của môi trường học tập, chương trình học tập cũng tác động
đến tâm lý của các em. Đến thời kỳ này, HS được tiếp xúc với nhiều môn học,
mỗi môn học lại cung cấp những khối lượng thông tin đa dạng khác nhau điều
này đòi hỏi phải tìm ra phương pháp học tập phù hợp. HS được hướng dẫn, tiếp
xúc với nhiều môn học mới, điều đó giúp tri thức các em tiếp nhận ngày càng
trở nên phong phú.
Ở cấp học THCS, mức độ tự học của các em đã tiến cao hơn so với giai
đoạn học Tiểu học, động cơ và mục đích học tập của HS rất phong phú, tất cả
các em đều ý thức được việc học tập rất cần thiết và quan trọng nhưng thái độ
học tập của mỗi người lại khác nhau. Do đó, để định hướng các em hướng tới
thái độ học tập đúng đắn thì sách giáo Lịch sử - tài liệu học tập chủ yếu cần
đảm bảo yếu tố khoa học, hình thức đẹp sẽ để lại những ấn tượng sâu sắc trong


20


×