Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế ii hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên thái bình dương và tác động của nó đến nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.86 KB, 30 trang )

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH CPTPP
1.1.

Quá trình hình thành và phát triển
Sau 5 năm đàm phán với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực Châu

Á- Thái Bình Dương, vào ngày 4 tháng 2 năm 2016 tại Auckland, New Zealand, Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được kí kết giữa 12 nước: Brunei, Chile,
New Zealand, Singapore, Australia, Malaysia, Peru, Hoa Kì, Canada, Mexico, Nhật Bản
và Việt Nam. Ngay sau khi nhậm chức vào tháng 1/2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump
đã tuyên bố rút khỏi hiệp định, cho rằng hiệp định đa phương này làm ảnh hưởng đến
công ăn việc làm của người Mỹ và nhấn mạnh, Mỹ sẽ tiến hành đàm phán các hiệp định
thương mại song phương. Ngày 11 tháng 11 năm 2017, các bộ trưởng TPP đã đạt được
thoả thuận cơ bản cho hiệp định TPP-11, đồng thời thống nhất tên mới cho hiệp định
là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương.
Tại lễ ký kết, các bộ trưởng đã thông qua Tuyên bố chung với quan điểm cho rằng,
CPTPP sẽ giúp tăng cường mối liên kết cùng có lợi giữa các nền kinh tế thành viên và
thúc đẩy thương mại, đầu tư và tăng trưởng kinh tế trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Hiệp định này thể hiện cam kết chung của các nước thành viên đối với hệ thống
thương mại hiệu quả, tuân thủ quy tắc và minh bạch, có tính mở đối với tất cả các nền
kinh tế sẵn sàng chấp nhận các điều khoản của Hiệp định. Ký kết CPTPP là tín hiệu quan
trọng chống lại xu hướng bảo hộ và chiến tranh thương mại đang tồn tại trên toàn cầu, thể
hiện hướng đi của thương mại tiến bộ trong thế kỷ XXI.
Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực từ ngày 30 tháng 12 năm 2018 đối với
nhóm 6 nước đầu tiên hoàn tất thủ tục phê chuẩn Hiệp định gồm Mexico, Nhật Bản,
Singapore, New Zealand, Canada và Australia.
Đối với Việt Nam, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn Hiệp định
CPTPP và các văn kiện có liên quan vào ngày 12 tháng 11 năm 2018. Theo đó, Hiệp định
sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14 tháng 01 năm 2019.
Theo văn bản được công bố, nội dung Hiệp định TPP gồm 30 chương bao quát
rộng về thương mại, thuế quan, đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường...



1


Hiệp định CPTPP về cơ bản sẽ giữ nguyên nội dung đã đàm phán của TPP nhưng
sẽ có thêm 2 phụ lục và bổ sung quy định về tính hiệu lực, quy trình rút lui, gia nhập, rà
soát lại CPTPP trong tương lai:
Phụ lục thứ nhất về Danh mục 20 nghĩa vụ tạm hoãn thực thi của TPP và 4 nội
dung cần đàm phán lại như đầu tư và cấp phép đầu tư; giải quyết tranh chấp viễn thông;
điều kiện tham dự thầu; đối tượng có thể cấp bằng độc quyền sáng chế; minh bạch và
công bằng về thủ tục đối với hàng hóa dược phẩm và thiết bị y tế… Phụ lục thứ 2 về 7
điều liên quan đến những điểm kỹ thuật của hiệp định mới.
Về quy mô, Hiệp định TPP chiếm 40% GDP, 30% thương mại toàn cầu và có 800
triệu dân. Trong khi đó, Hiệp định CPTPP chiếm khoảng 15% GDP, 15% tổng thương mại
toàn cầu và 500 triệu dân.
Bên cạnh đó, theo quy định TPP ban đầu, tỷ lệ GDP của các nước triển khai phải
đạt được 85% tổng GDP của 12 nước (ký năm 2013) thì hiệp định mới có hiệu lực. Với
việc Mỹ chiếm 60% GDP, TPP ít nhất sẽ cần thay đổi điều khoản hiệu lực để có thể bắt
đầu. Vì vậy, quy định này của CPTPP đã được thay đổi. Theo đó, chỉ cần ít nhất 6 quốc
gia thành viên ký phê chuẩn thì 60 ngày sau, hiệp định sẽ có hiệu lực.
Nếu như các hiệp định thương mại trước đây thường tập trung nhiều vào các cam
kết giảm thuế, thì CPTPP là các hiệp định thương mại thế hệ mới hướng đến thiết lập bộ
quy tắc thương mại có tiêu chuẩn và mức độ cam kết cao, phạm vi điều chỉnh rộng và khả
năng tác động lớn và toàn diện đến các vấn đề thương mại và kinh tế trong thế kỷ 21 như
vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật, đầu tư, lao động, tổ chức thể chế, quản trị,
chính sách và môi trường kinh doanh,… Hiệp định này được kỳ vọng đem lại nhiều cơ
hội thuận lợi cho thương mại và đầu tư, đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các nước thành
viên. Từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm thu nhập cao hơn, nâng cao
năng suất và cạnh tranh, nâng cao chất lượng sống, giảm đói nghèo, đồng thời tăng cường
minh bạch, khả năng quản trị và bảo vệ môi trường. Đồng thời, đi kèm với đó sẽ là các

thách thức lớn, đặc biệt là với các nước đang phát triển như Việt Nam.
1.2.

Nội dung chính của Hiệp định

2


Hiệp định CPTPP gồm 07 Điều và 01 Phụ lục quy định về mối quan hệ với Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), cũng như xử lý các vấn đề khác liên quan đến tính
hiệu lực, rút khỏi hay gia nhập Hiệp định CPTPP.
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP (gồm 30
chương và 9 phụ lục). Vì vậy, tại mục này sẽ phân tích những nội dung chính khác biệt,
được sửa đổi cho phù hợp hơn so với hiệp định TPP.
1.2.1. Mục tiêu và nguyên tắc của Hiệp định
a. Mục tiêu của Hiệp định CPTPP
Các nước tham gia Hiệp định CPTPP đều có chung những mục đích sau: Thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập; cùng nhau tiến tới xây dựng một khu vực thương
mại tự do xuyên Thái Bình Dương nhằm tăng cường hội nhập kinh tế khu vực; nắm bắt
cơ hội khai thác chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; mở rộng thị trường hàng hóa và
dịch vụ với các thành viên TPP hiện tại và tương lai; tạo cơ hội thu hút đầu tư và mở rộng
dịch vụ tài chính; và tiếp cận thị trường với những thành viên TPP khác chưa có FTA song
phương với nhau. Các nước thành viên kỳ vọng rằng việc ký kết TPP với các tiêu chuẩn
cao mới cho thương mại và đầu tư tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sẽ là một bước
gần hơn đến mục tiêu cuối cùng là mở cửa thương mại và hội nhập cho toàn khu vực.
b. Nguyên tắc của Hiệp định CPTPP
Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được
nhận định là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) với nhiều tiêu chuẩn cao
và toàn diện, bao trùm nhiều lĩnh vực với nhiều nguyên tắc về chính sách thuế quan, về
đầu tư, về lao động, về bảo hộ trí tuệ và nhiều nguyên tắc khác đặt ra cho các nước thành

viên.
1.2.2. Nội dung về thuế quan
Trong CPTPP, các cam kết về thuế quan được thể hiện chi tiết theo từng dòng thuế
trong Biểu thuế và mỗi nước CPTPP sẽ có một Biểu cam kết thuế quan riêng áp dụng cho
từng đối tác hoặc cho tất cả các đối tác CPTPP.
Trong Hiệp định, có 07 nước CPTPP đưa ra Biểu thuế quan áp dụng chung cho tất
cả các đối tác CPTPP khác, bao gồm: Úc, Brunei, Malaysia, New Zealand, Peru,
3


Singapore, Việt Nam; có 04 nước CPTPP đưa ra Biểu thuế quan áp dụng riêng cho từng
đối tác CPTPP khác, bao gồm: Canada, Chile, Nhật Bản, Mexico.
Các cam kết dành ưu đãi thuế quan trong CPTPP thường là theo 03 hình thức:
Cam kết loại bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực: Đối
với các trường hợp này, thuế quan sẽ là 0% vào thời điểm CPTPP có hiệu lực.
Cam kết loại bỏ thuế quan theo lộ trình: Thuế quan sẽ được đưa về 0% nhưng
không phải ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực mà là sau một khoảng thời gian nhất
định (lộ trình). Trong CPTPP phần lớn là lộ trình 3-7 năm, tuy nhiên cũng nhiều trường
hợp lộ trình là 10, 15 năm, cá biệt có những trường hợp lộ trình trên 20 năm.
Cam kết hạn ngạch thuế quan: Đối với các trường hợp này thuế quan chỉ giảm
hoặc loại bỏ với một số lượng, khối lượng hàng hóa…nhất định (gọi là mức hạn ngạch);
còn vượt ra khỏi mức hạn ngạch thì thuế quan sẽ cao hơn (hoặc thuế quan không được ưu
đãi).
Đối với Việt Nam, Hiệp định CPTPP cam kết về thuế quan như sau: Xóa bỏ thuế
quan ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực cho khoảng từ 78-95% số dòng thuế trong Biểu
thuế; đến cuối lộ trình giảm thuế, sẽ xóa bỏ đến 97-100% số dòng thuế trong Biểu thuế.
Lộ trình xóa bỏ thuế: đối với hàng hóa thông thường là khoảng từ 5-10 năm, đối với hàng
hóa nhạy cảm là trên 10 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan.
1.2.3. Nội dung về đầu tư
Về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa chính phủ và nhà đầu tư (ISDS), CPTPP vẫn

bảo lưu ISDS, nhưng giảm bớt phạm vi cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng cơ chế
này để kiện chính phủ nước thành viên sở tại. Theo đó, trong khuôn khổ CPTPP, các công
ty tư nhân có hợp đồng đầu tư với chính phủ sẽ không được phép sử dụng cơ chế ISDS để
kiện chính phủ nước sở tại nếu đó là tranh chấp về hợp đồng.
Cần lưu ý rằng, công ty sở tại không được sử dụng ISDS để khởi kiện chính phủ nước
sở tại, nhưng có thể sử dụng ISDS để khởi kiện chính phủ của một nước thành viên khác.
ISDS chỉ liên quan đến các tranh chấp về các điều khoản đầu tư của CPTPP.

4


Công ty không có quyền quyết định lập ban trọng tài của ISDS. CPTPP có điều khoản
quy định ban trọng tài có ba thành viên, một do chính phủ cử ra, một do nguyên đơn lựa
chọn và một trọng tài chủ tọa do chính phủ và nguyên đơn cùng lựa chọn.
1.2.4. Nội dung về lao động
CPTPP chủ yếu viện dẫn tới các tiêu chuẩn lao động trong Tuyên bố 1998 của ILO
về Những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động và các vấn đề về điều kiện lao
động. Bên cạnh các quy định về các tiêu chuẩn lao động, CPTPP có một số cam kết khác
liên quan tới lao động, trong đó phần lớn là các cam kết mang tính khuyến nghị (không
bắt buộc) về việc cải thiện điều kiện lao động, hợp tác giữa các nước CPTPP trong lĩnh
vực lao động…
Tuy nhiên cũng có một số các cam kết bắt buộc, ví dụ cam kết về việc thiết lập cơ
chế để các tổ chức, cá nhân có thể đệ trình các yêu cầu về các vấn đề liên quan tới việc
thực thi Chương lao động của CPTPP và các cơ quan Nhà nước phải cân nhắc, xem xét
trả lời các đệ trình này phù hợp với pháp luật của các nước thành viên. Đặc biệt CPTPP
quy định một quy trình riêng để các nước CPTPP tham vấn với nhau và giải quyết các
vướng mắc liên quan tới việc thực thi Chương Lao động của CPTPP trong khuôn khổ Hội
đồng Lao động của CPTPP; chỉ khi tranh chấp không thể giải quyết theo quy trình này thì
các nước CPTPP mới có thể sử dụng tới quy trình Giải quyết tranh chấp Nhà nước – Nhà
nước trong CPTPP.

Đối với Việt Nam, Việt Nam sẽ có 3 năm để thể chế hóa các luật pháp liên quan
đến lao động trẻ em, lao động cưỡng bức và phân biệt đối xử, 5 năm để cải cách và hoàn
thiện các thiết chế về thương lượng tập thể và tự do liên kết.
1.2.5. Nội dung về bảo hộ trí tuệ
Có 4 nhóm về vấn đề bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ: Nhóm cam kết
chung, Nhóm các cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ, Nhóm các
cam kết về một số sản phẩm SHTT đặc thù, Nhóm các cam kết liên quan tới việc thực thi
các quyền SHTT.
Các cam kết trong CPTPP về nhãn hiệu thương mại (tương đương với nhãn hiệu,
tên thương mại theo pháp luật Việt Nam) tập trung vào các khía cạnh sau đây: Đối tượng
5


bảo hộ, Thời gian bảo hộ, Quyền của chủ sở hữu, Cải cách thủ tục hành chính, Đối với
Tên miền cao cấp mã quốc gia (ccTLD).
Một số quy định về sở hữu trí tuệ có trong TPP cũng bị đình chỉ trong CPTPP.
Chẳng hạn, các nước không còn phải gia hạn thời gian bảo hộ bản quyền lên 70 năm (từ
50 năm) và điều này giúp làm giảm chi phí hữu hình cho các nước thành viên của CPTPP
so với TPP. Có tổng cộng 11 quy định về sở hữu trí tuệ của TPP đã bị đình chỉ trong
CPTPP.

6


CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH CPTPP ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM
2.1.

Bối cảnh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay
Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế


giới (WTO) vào tháng 01 năm 2007 là sự kiện quan trọng đánh dấu một mốc mới trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, mở ra một giai đoạn mới: nền kinh tế nước
ta hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới. Từ đó đến nay, Việt Nam có
thêm nhiều cơ hội để phát triển nhanh hơn, toàn diện hơn nhưng cũng đặt ra những thách
thức rất gay gắt đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực vượt qua.
Chúng ta bắt đầu triển khai các cam kết WTO trong bối cảnh kinh tế thế giới bị suy
giảm nghiêm trọng do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ giữa năm
2008, tiếp đó là khủng hoảng nợ công châu Âu vào cuối năm 2009. Vòng đàm phán Doha
trong khuôn khổ WTO lâm vào bế tắc, các liên kết song phương và khu vực đang có xu
hướng phát triển cùng với chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch trỗi dậy tại nhiều nước… Những
biến động của kinh tế thế giới đã có những tác động tiêu cực đến kinh tế trong nước và
làm nảy sinh những quan điểm trái chiều về hội nhập. Trong bối cảnh đó, Đảng ta vẫn
kiên trì giữ vững chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó là xu thế
tất yếu, khách quan của thời đại. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011), chủ
trương hội nhập đã được khẳng định và nâng lên môt tầm cao mới: “triển khai đồng bộ,
toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế”. Theo
đó, hội nhập giờ đây không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng trên nhiều
lĩnh vực khác tuy nhiên hội nhập kinh tế vẫn được coi là nội dung quan trọng nhất. Với
chủ trương hội nhập quốc tế thì hội nhập kinh tế quốc tế cần là trọng tâm, phối hợp với
các lĩnh vực khác như chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội... để một mặt
phát triển được một nền kinh tế mở, phù hợp với xu hướng chung của thế giới song mặt
khác vẫn đảm bảo được nền kinh tế độc lập tự chủ, đáp ứng được đòi hỏi của đất nước
trong quá trình phát triển theo định hướng đã lựa chọn, đồng thời phát huy được vai trò,
đóng góp của đất nước đối với hoà bình, phát triển của khu vực và thế giới.

7


Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ, tình hình hội nhập kinh tế của Việt

Nam trong giai đoạn sau khi gia nhập WTO cho tới thời điểm hiện nay có các nét chính
sau:
Nhằm triển khai các cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải
cách chính sách thương mại theo hướng ngày càng minh bạch và phù hợp hơn với các
cam kết, thông lệ quốc tế. Việc cải cách này thể hiện ở các cam kết đa phương về pháp
luật và thể chế cũng như các cam kết mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ. Trong vòng 5
năm sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã xây dựng mới và hoàn thiện trên 30 bộ luật; có
tới hơn 400 văn bản pháp luật liên quan đến 300 loại giấy phép kinh doanh dưới nhiều
hình thức khác nhau đã được rà soát, đánh giá và loại bỏ. Bên cạnh đó, Việt Nam đã thực
hiện nghiêm túc lộ trình mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ theo cam kết của WTO.
Năm 2013, Việt Nam đã hoàn thành Phiên rà soát chính sách thương mại lần đầu tiên
trong WTO. Cộng đồng quốc tế đã hoan nghênh và đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam
trong quá trình cải cách, hoàn thiện chính sách và thực thi các cam kết để phù hợp với quy
định của WTO.
Với tư cách thành viên WTO, Việt Nam đã tham gia tích cực vào các cuộc đàm
phán trong khuôn khổ WTO ở các nội dung có liên quan đến Việt Nam như nông nghiệp,
công nghiệp, sở hữu trí tuệ ... và đóng góp tiếng nói bảo vệ quyền và lợi ích của các nước
đang phát triển. Tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 9 (2013), Việt Nam cùng các thành
viên WTO đã thông qua Gói cam kết thương mại Bali - một thỏa thuận lịch sử khai thông
bế tắc trong đàm phán WTO, gồm 10 Hiệp định với 3 nhóm nội dung là nông nghiệp,
thuận lợi hóa thương mại và thương mại và phát triển.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn tham gia vào các cuộc đàm phán song phương với các
nước thành viên và các nước chưa là thành viên về mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ
trong WTO, trong đó có đàm phán với Liên bang Nga và một số đối tác kinh tế truyền
thống của Việt Nam.
Việt Nam cũng đang tận dụng hiệu quả Chương trình hỗ trợ thương mại của WTO
(AfT). Gần đây, OECD, tổ chức đồng triển khai AfT cùng với WTO đã lựa chọn Việt

8



Nam là một trong số các quốc gia để tiến hành nghiên cứu điển hình về AfT và qua đó
tiếp tục đưa ra các định hướng thúc đẩy hoạt động này cho Việt Nam.
Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN, Việt Nam đã cùng với các nước ASEAN nỗ
lực thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN thông qua
việc triển khai đầy đủ Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA), thúc đẩy triển
khai Hiệp định Hải quan ASEAN, Hiệp định thương mại hàng hóa (ATIGA), hoàn tất bản
chào Gói 8 về thương mại dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ
(AFAS)… Trong quá trình này, tỷ lệ thực thi các biện pháp nhằm thực hiện Kế hoạch tổng
thể xây dựng AEC của Việt Nam đạt trên 80%, ở mức cao so với tỷ lệ thực hiện chung
của ASEAN.
Bên cạnh đó, Việt Nam và các nước thành viên ASEAN cũng đang đẩy mạnh hợp
tác ngoại khối ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc- Niu Dilan.
Cùng với việc tiếp tục thực hiện và nâng cấp các FTA đã ký với các đối tác, Việt Nam và
các nước thành viên đang đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)
nhằm sớm đạt được một thỏa thuận hợp tác kinh tế hiện đại, toàn diện, chất lượng cao và
cùng có lợi; thiết lập một môi trường thương mại và đầu tư mở để tạo điều kiện mở rộng
thương mại và đầu tư trong khu vực; góp phần nâng cao vai trò của ASEAN và đóng góp
của ASEAN vào tăng trưởng và phát triển kinh tế toàn cầu.
Ngoài ra, Việt Nam còn đẩy mạnh các hoạt động hợp tác Tam giác phát triển
Campuchia – Lào – Việt Nam; hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS); hợp tác
trong khuôn khổ Tổ chức Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyarwady - Chao Phraya - Mê
Kông (ACMECS); Hợp tác Mê Công - Nhật Bản, Mê Công – Hàn Quốc, Mê Công –
Sông Hằng.v.v.
Trong khuôn khổ hợp tác APEC, đối với Việt Nam, APEC là khu vực chiếm tới
65% tổng số vốn đầu tư nước ngoài, 60% giá trị xuất khẩu, 80% giá trị nhập khẩu và 75%
tổng số khách du lịch quốc tế tới Việt Nam. Hầu hết các đối tác chiến lược quan trọng và
các đối tác kinh tế - thương mại hàng đầu của Việt Nam là các nền kinh tế thành viên của
APEC. Với tất cả những yếu tố trên, APEC ngày càng có vai trò quan trọng trong chiến
9



lược hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện cũng như quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của Việt Nam.
Dù trình độ phát triển còn thấp so với nhiều nền kinh tế APEC khác nhưng Việt
Nam đã chủ động tham gia, đóng góp tích cực cho nhiều hoạt động hợp tác của APEC với
tinh thần trách nhiệm cao. Việt Nam đã tham gia một số Kế hoạch hành động tập thể
(CAPs) ở các lĩnh vực Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn (SCSC), Thủ tục Hải quan, Kinh tế kỹ
thuật (ECOTECH), Chương trình thẻ đi lại của doanh nhân APEC (ABTC). Việt Nam đã
góp phần củng cố và tăng cường tình hữu nghị, hợp tác và hiểu biết lẫn nhau giữa các
thành viên, chia sẻ kinh nghiệm, sử dụng hiệu quả các nguồn tài trợ, phát triển hạ tầng,
chuyển giao công nghệ. Việt Nam cũng đóng góp tích cực vào việc giải quyết những
thách thức đang đặt ra cho APEC.
Đặc biệt, trong vai trò nước chủ nhà, Việt Nam đã tổ chức thành công Năm APEC
2017 với nhiều dấu ấn mang tính lịch sử, góp phần nâng cao vị thế của đất nước, khẳng
định năng lực chủ động đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương, góp phần
hiện thực hóa mục tiêu chung của APEC về xây dựng châu Á - Thái Bình Dương hòa
bình, ổn định, năng động, gắn kết và thịnh vượng.
Trong khuôn khổ hợp tác ASEM, diễn đàn này không chỉ là cầu nối cho quan hệ
đối tác mới giữa hai châu lục Á-Âu mà còn hướng tới mục tiêu đem lại những đóng góp
thiết thực cho hòa bình, hợp tác và phát triển trên toàn thế giới. Là một trong những thành
viên sáng lập ASEM, Việt Nam đã tích cực tham gia các chương trình hợp tác của ASEM
trên các trụ cột hợp tác kinh tế, văn hoá và chính trị trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện và
bình đẳng. Sau 21 năm tham gia ASEM, Việt Nam đã đóng góp có hiệu quả vào việc
nâng cao vai trò và vị thế của Diễn đàn, ghi những dấu mốc quan trọng trên chặng đường
phát triển của ASEM. Hiện tại, Việt nam là một trong những thành viên tích cực trong
việc đề xuất các sáng kiến hợp tác cụ thể, điển hình là đi đầu thúc đẩy và triển khai cơ chế
đối thoại ASEM về phát triển bền vững , góp phần nâng hợp tác Mekong - Danube lên
tầm liên khu vực.
Tham gia các Hiệp định thương mại tự do: Song hành cùng với sự phát triển của

hệ thống thương mại đa biên và của toàn cầu hoá kinh tế (đặc biệt trong bối cảnh hệ thống
10


thương mại đa biên đang gặp phải những khó khăn nhất định), sự phát triển hợp tác kinh
tế song phương và khu vực, thể hiện qua việc hình thành các FTA là một sự bổ trợ quan
trọng cho mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư đa phương trên phạm vi toàn cầu hiện
nay. Việc hình thành các FTA với mức độ tự do hoá sâu rộng đã và đang đem lại những cơ
hội và cả thách thức không nhỏ đối với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc mà cần phải chủ động nắm bắt
xu thế FTA, tham gia có lựa chọn để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường, mở rộng quan hệ
kinh tế thương mại với các đối tác quan trọng.
Cho tới thời điểm hiện nay, Việt Nam đã tham gia ký kết 12 FTA gồm: 7 FTA ký
kết với tư cách là thành viên ASEAN (CEPT/AFTA và FTA với các đối tác: Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc và Niu Dilân, Hồng Kông); 5 FTA ký kết với tư cách là
một bên độc lập (với các đối tác: Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh Kinh tế Á-Âu,
và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP). Hiện chúng
ta đang đàm phán 4 FTA, gồm: Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), FTA
với Liên minh Châu Âu (EU), FTA với Khối thương mại tự do Châu Âu (EFTA), FTA
Việt Nam - I-xra-en.
Như vậy, kể từ sau khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc
tế đầy đủ và toàn diện trên tất cả các các cấp độ đa phương, khu vực và song phương. Dù
ở cấp độ và hình thức nào, Việt Nam cũng được đánh giá là thành viên tích cực, có trách
nhiệm và thực thi nghiêm túc các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Sự chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của Việt
Nam trong 10 năm qua. Nếu như trước khi gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam chỉ khoảng 30 tỷ USD thì hiện nay, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam đã đạt vượt mức
200 tỷ USD (năm 2017 đạt tới 214 tỷ USD). Thị trường hàng hoá của Việt Nam ngày
càng được mở rộng, cơ cấu mặt hàng cũng có những thay đổi theo hướng tích cực theo
hướng tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến, chế tạo và giảm dần sản phẩm thô. Cùng với đẩy

mạnh xuất khẩu thì thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng có những bước tiến
đáng kể. Nét mới của FDI đăng ký và thực hiện trong thời kỳ này là có nhiều dự án lớn,
cơ cấu vốn đầu tư chuyển từ công nghiệp sang dịch vụ, tập trung vào các ngành có lợi thế
11


cạnh tranh cao. Đến cuối năm 2017, đã có 126 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư
tại Việt Nam. Từ những kết quả đạt được trong xuất khẩu, thu hút đầu tư, GDP của Việt
Nam hiện nay đã đạt mức trên 200 tỷ USD, gấp 4 lần năm 2006 (53 tỉ USD); Nước ta đã
ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập
trung bình từ năm 2010 với mức thu nhập bình quân đầu người là 1.068 USD, năm 2017
đạt khoảng 2400 USD.
Về phía Việt Nam, sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế
quốc tế và 10 năm kể từ khi gia nhập WTO, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đang
ngày càng được nâng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng quan hệ đối ngoại và hội
nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã nằm trong nhóm
đang phát triển có thu nhập trung bình tuy nhiên năng lực cạnh tranh còn thấp trên cả cấp
độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Chúng ta đang trong giai đoạn cuối triển khai
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 với những trọng tâm chính là tái cấu trúc
nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng để tạo nên những đột phá trong phát triển
kinh tế.
2.2.

Cơ hội đối với Việt Nam
CPTPP là Hiệp định mang tính toàn diện, bao trùm các nguyên tắc về thương mại,

đầu tư, sở hữu trí tuệ và nhiều chủ đề khác. Hiệp định sẽ tạo áp lực lên cải cách môi
trường đầu tư, kinh doanh, mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp phát triển, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Cụ thể:
Tăng cường vị thế và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế

Việc tham gia và sớm phê chuẩn Hiệp định CPTPP giúp ta thể hiện cam kết mạnh
mẽ đối với đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; khẳng định vai trò và vị thế
địa lý - chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á cũng như châu Á Thái Bình Dương, thực sự nâng cao vị thế của nước ta trong khối ASEAN, trong khu vực
cũng như trên trường quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình chính trị-an ninh thế giới
và khu vực đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường, tham gia CPTPP
vừa giúp Việt Nam có điều kiện nâng cao nội lực để ứng phó, vừa giúp củng cố vị thế để
12


thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa đi đôi với củng
cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Hiệp định CPTPP khi đi vào triển khai sẽ góp phần
tăng cường sự đan xen lợi ích, làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước
thành viên CPTPP, đặc biệt là các nước thành viên có quan hệ đối tác chiến lược với nước
ta.
Cải cách thể chế, tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi.
CPTPP có những điều kiện tiêu chuẩn cao về mặt thể chế, chất lượng quản lý nhà
nước cũng như khuôn khổ pháp luật. Việc tham gia Hiệp định này sẽ góp phần cải cách
môi trường thể chế, hướng tới các “luật chơi” quốc tế. Đây là điều kiện cần thiết cho tăng
trưởng, mang lại động lực tích cực để phát triển đất nước. Cải cách thể chế sẽ giúp cho
toàn xã hội thúc đẩy được khả năng cạnh tranh, huy động và sử dụng tốt nhất những
nguồn lực sẵn có ở trong nước và tận dụng tốt hơn các nguồn lực bên ngoài. CPTPP sẽ
giúp khuyến khích và thúc đẩy cải cách trong nước ở nhiều lĩnh vực như dịch vụ, hải
quan, thương mại điện tử, mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, các vấn đề pháp lý,
tiếp cận thị trường cho hàng hóa, quy tắc xuất xứ, các biện pháp phi thuế quan…
Ngoài ra, CPTTP còn là động lực giúp đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế; đổi mới và
sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành
chính; tạo sự liên thông giữa các bộ, ngành để nâng cao tính cạnh tranh của môi trường
kinh doanh, thúc đẩy kết nối và hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh
nghiệp nước ngoài. Việc ký kết CPTPP được các chuyên gia đánh giá sẽ là lực đẩy cải
cách thể chế, nhất là trong bối cảnh dù đã có những cải thiện nhưng nhiều điều kiện kinh

doanh vẫn đang tiếp tục tạo ra rào cản với doanh nghiệp.
Củng cố thêm sức mạnh, tạo động lực tăng trưởng kinh tế
CPTPP củng cố thêm sức mạnh kinh tế cho Việt Nam thông qua việc thúc đẩy tang
trưởng kinh tế, thương mại cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo thêm xung lực
mới cho phát triển kinh tế-xã hội của đấ nước.

13


Cụ thể, theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, với CPTPP, GDP dự
báo tăng thêm 1,32%; xuất khẩu tăng thêm 4%, nhập khẩu tăng 3,8%. Việc tăng xuất khẩu
sẽ chủ yếu ở nội khối với tốc độ tăng xuất khẩu sang các nước trong CPTPP thêm 14,3%
(giả định lũy tiến đến năm 2035), tương đương 2,61 tỷ USD, trong khi xuất khẩu sang các
quốc gia ngoài CPTPP sẽ tăng thêm 1,7% (tương đương 1,4 tỷ USD). Như vậy, CPTPP có
tác động chuyển hướng thương mại khá lớn và việc tham gia hiệp định này có thể giúp
Việt Nam đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, từ đó thúc đẩy tăng trưởng nhiều ngành sản
xuất trong nước.
Trong đó, dệt may và da giày được cho là những ngành sẽ hưởng lợi nhiều nhất về
tăng thêm quy mô sản xuất cũng như giá trị xuất khẩu. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu tăng thêm của dệt may được dự báo sẽ ở mức cao (từ 8,3% đến 10,8%), do đây là
ngành có sức cạnh tranh về giá lớn hơn ở các thị trường mới trong CPTPP, trong khi vẫn
giữ được các thị trường chủ lực là Mỹ và EU.
Theo một số chuyên gia trong ngành cho biết, tham gia CPTPP là cơ hội lớn để
ngành Dệt may Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các nước nội khối, nhất là
những thị trường tiềm năng như Australia, New Zealand. Bởi vì đây là hai thị trường có
sự phát triển cao, mức tiêu thụ khoảng 10 tỷ USD/năm trong khi thị phần xuất khẩu của
dệt may Việt Nam vào các thị trường này còn nhỏ, chỉ khoảng 500 triệu USD. Chính vì
vậy, dung lượng để mở rộng thị phần rất lớn, đóng góp chung vào mục tiêu tăng trưởng
hơn 10% của ngành.
Hiện, mức tăng trưởng xuất khẩu của ngành Da giày vào thị trường Nhật Bản cũng

đang ở mức khoảng 12%, Mexico 11%, Canada 16%, Australia 18,4%. Trong khi mức
bảo hộ hiện nay của nhóm ngành này ở các nước trong khối còn khá cao, chênh lệch giữa
mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi thông thường MFN (Most favoured nation) và mức thuế
quan ưu đãi trong CPTPP cũng khá lớn, đồng nghĩa với việc cắt giảm thuế quan càng tạo
ra thuận lợi lớn trong cạnh tranh về giá cho ngành này.
Một số chuyên gia cũng cho biết, hầu hết các ngành công nghiệp nhẹ và thâm dụng
lao động cũng được hưởng lợi từ CPTPP. Theo tính toán, CPTPP có thể tạo thêm mức
14


tăng trưởng cho nhóm ngành này từ 4% đến 5%, và mức tăng xuất khẩu có thể đạt thêm
từ 8,7% đến 9,6%. Cùng đó, mức độ ảnh hưởng của CPTPP tới các ngành công nghiệp
nặng được đánh giá sẽ không quá lớn với mức tăng trưởng tăng thêm chỉ được dự báo ở
mức từ 0,8% đến 1,2%. Việt Nam vốn không có lợi thế cạnh tranh ở nhóm hàng công
nghiệp nặng, vì đây là những ngành thâm dụng vốn. Các nước trong CPTPP cũng không
phải là các đối tác chính có thể thúc đẩy công nghiệp nặng của Việt Nam phát triển.
Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, đã chính thức bước vào sân chơi toàn cầu kể
từ năm 2007 - thời điểm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đến
nay, Việt Nam đã ký kết, thực thi và đang đàm phán tổng cộng 16 hiệp định thương mại tự
do cả song phương lẫn đa phương. Từ thực tế tham gia sân chơi toàn cầu cho thấy, doanh
nghiệp Việt Nam đã gặt hái thành công ở mức độ nhất định, nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu
của nước ta luôn tăng trưởng ở mức 2 con số.
Nhân thêm cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam.
Trong CPTPP, các nước thành viên đã xóa gần như toàn bộ thuế nhập khẩu theo lộ
trình, tự do hóa dịch vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm
sự quản lý của Nhà nước. Điều này sẽ tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp và
lợi ích người tiêu dùng của các nước thành viên.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với những lợi thế trên, việc tham gia CPTPP khiến
thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng và tận dụng được lợi thế với các thị
trường mà từ trước đến nay Việt Nam chưa từng thâm nhập như: Canada, Mexico, Peru.

Kết quả một khảo sát toàn diện về doanh nghiệp trên toàn cầu của Ngân hàng
HSBC cho thấy, khoảng 63% các doanh nghiệp tại Việt Nam tin rằng CPTPP sẽ có tầm
ảnh hưởng tích cực lên hoạt động kinh doanh của họ. Trong số 1.150 doanh nghiệp có trụ
sở tại các nước thành viên CPTPP tham gia khảo sát, gần một nửa (46%) kỳ vọng những
lợi ích tích cực từ Hiệp định.
Hơn nữa, Hiệp định CPTPP sau khi được thông qua sẽ mở ra nhiều cơ hội cho
cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Với việc giảm thuế sang các quốc gia nhập khẩu, các
15


doanh nghiệp sẽ có thêm cơ hội mới để mở rộng việc cung cấp các sản phẩm vào thị
trường các quốc gia thành viên. Việc giảm thuế nhập khẩu cho sản phẩm vào Việt Nam
cũng sẽ giúp cho doanh nghiệp có thêm đối tác mới, đa dạng hóa các chủng loại hàng hóa,
mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Hiệp định sẽ tạo ra một sân
chơi công bằng, minh bạch và là cơ sở, nền tảng để cho các DOANH NGHIỆP có định hướng
phát triển bền vững; nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng hàng hóa dịch vụ,
khả năng sản xuất của nền kinh tế để bắt kịp xu hướng phát triển của thế giới, từ đó tham
gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Cùng với các cơ hội trên, việc thực thi các quy định của CPTTP cũng sẽ giúp Việt
Nam trở thành một trong những địa chỉ hấp dẫn về đầu tư tạo ra các cơ hội cho các doanh
nghiệp Việt Nam thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài cũng như khả năng tiếp cận
công nghệ hiện đại..
2.3.

Thách thức đặt ra đối với Việt Nam
CPTPP mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với nền

kinh tế nói chung và đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là cải cách thể chế.
Để thực thi cam kết trong CPTPP, Việt Nam sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy

định pháp luật về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động…Ví dụ như về lao động,
Việt Nam sẽ phải có những điêu chỉnh phù hợp về quyền thành lập tổ chức của người lao
động tại DN và sự quản lý của Nhà nước để đảm bảo hoạt động của các tổ chức này tuân
thủ đúng pháp luật Việt Nam, phù hợp với nguyên tắc "tuân thủ pháp luật của nước sở tại"
đã nêu trong Công ước 87 của Tổ chức Lao động Thế giới, đồng thời giữ vững ổn định
chính trị - xã hội. Hay như về an toàn, an ninh thông tin, Việt Nam đã ký thư song phương
với các thành viên CPTPP về các nghĩa vụ Tự do lưu chuyển thông tin và Yêu cầu đặt
máy chủ tại nước sở tại trong 2 điều khoản thuộc Chương Thương mại điện tử. Thư song
phương này có giá trị hạn chế khả năng Việt Nam bị khiếu kiện trong vòng 5 năm kể từ
khi Hiệp định có hiệu lực… Trong và sau lộ trình 5 năm, Việt Nam cần xây dựng kế
hoạch, biện pháp thực thi các nghĩa vụ của Hiệp định CPTPP, Luật An ninh mạng và một
16


số văn bản pháp luật khác liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc lưu chuyển thông tin
và đặt máy chủ tại Việt Nam nhằm vừa bảo đảm an ninh quốc gia nhưng cũng vừa tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thương mại số trong bối cảnh Việt Nam đang
thúc đẩy kinh tế số.
Thách thức thứ hai chính là khả năng thích ứng của doanh nghiệp Việt Nam.
Yêu cầu đặt ra là các doanh nghiệp phải tăng cường sự hiểu biết để tận dụng lợi thế
mà CPTPP đem lại. Đặc biệt, cần hiểu rằng, doanh nghiệp không chỉ am hiểu về luật chơi
quốc tế mà còn phải nắm bắt thông tin cũng như kịp thời cập nhật các thay đổi chính sách
tương ứng; nâng cao năng lực pháp lý, quản trị kinh doanh, để tự bảo vệ mình. Để chuẩn
bị tham gia CPTPP, việc cải cách mạnh mẽ từ bên trong là vấn đề đặt ra cấp thiết, đối với
Việt Nam. Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai vẫn còn gặp nhiều vướng mắc, khó khan
khi các doanh nghiệp Việt Nam còn kém so với tiêu chuẩn đặt ra, công nghệ lạc hậu, công
tác tổ chức sản xuất, kiểm soát thị trường của Việt Nam cũng chưa theo kịp các nước
thành viên… Trong khi, CPTPP đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa,
các quy định về sở hữu trí tuệ cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc và
chặt chẽ. Chưa kể, sau khi CPTPP có hiệu lực, cạnh tranh cũng sẽ diễn ra quyết liệt không

chỉ ở thị trường các nước thành viên, mà ngay tại thị trường trong nước trên cả ba cấp độ:
sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia.
Theo quy định của CPTPP, mức thuế suất xuất nhập khẩu bình quân áp dụng cho
các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường CPTPP sẽ giảm từ 1,7% xuống
0,2%. Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi về tài chính, trình độ quản trị, chuỗi phân phối
toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với một thách thức, đó là các doanh
nghiệp nước ngoài sẽ “nhanh chân” hơn doanh nghiệp Việt Nam trong việc hưởng lợi từ
các ưu đãi thuế quan từ CPTPP. Đây cũng là thách thức rất lớn đối với doanh nghiệp Việt
Nam, bởi vì, tiềm lực của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn yếu, chưa có sự liên
kết chặt chẽ và tương hỗ lẫn nhau...
Tham gia CPTPP, Việt Nam sẽ phải mở cửa cho hàng hóa, dịch vụ của các nước
đối tác tại thị trường trong nước, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh
17


tranh gay gắt hơn tại “sân nhà”. Điều này sẽ gây nên không ít áp lực cho hàng hóa Việt
Nam và nguy cơ thất bại của các doanh nghiệp trên chính thị trường nội địa cũng vì thế sẽ
gia tăng.

18


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆT NAM
3.1.

Các giải pháp đối với nhà nước.

Nhà nước cần nhanh chóng cụ thể hóa các cơ chế chính sách cam kết trong CPTPP.
Các thành viên CPTPP đều cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với gần như toàn bộ
biểu thuế quan nhập khẩu của nước mình. Theo nội dung của Hiệp định, các cam kết về

xóa bỏ và cắt giảm thuế quan nhập khẩu trong CPTPP được chia làm ba nhóm chính:
nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực; nhóm xóa bỏ thuế
nhập khẩu theo lộ trình (các dòng thuế nhập khẩu sẽ được đưa về 0% sau một khoảng thời
gian nhất định, phần lớn là lộ trình 3-7 năm, tuy nhiên trong một số trường hợp, lộ trình
có thể là trên 10 năm, thậm chí 20 năm); nhóm áp dụng hạn ngạch thuế quan (thuế nhập
khẩu chỉ xóa bỏ hoặc cắt giảm với một khối lượng hàng hóa nhất định, nếu vượt quá sẽ
không được hưởng ưu đãi).
Đối với Việt Nam, các nước CPTPP cam kết xóa bỏ hoàn toàn từ 97% đến 100%
số dòng thuế nhập khẩu đối với hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam, tùy theo cam kết của
từng nước. Trong đó, Canada cam kết xoá bỏ thuế nhập khẩu cho 95% số dòng thuế và
78% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt 100% kim ngạch xuất khẩu thủy sản và
100% kim ngạch xuất khẩu gỗ được xóa bỏ; Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế đối với 86%
số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực và gần 90% số dòng thuế sau 5 năm.
Ở chiều ngược lại, Việt Nam cam kết một biểu thuế chung cho tất cả các nước
CPTPP. Theo đó, Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 66% số dòng thuế ngay khi
Hiệp định có hiệu lực và 86,5% số dòng thuế sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
Các mặt hàng còn lại có lộ trình giảm thuế chủ yếu từ 5-10 năm. Đối với một số mặt hàng
đặc biệt nhạy cảm, như: bia, rượu, thịt gà, sắt thép, ô tô con dưới 3.000 phân phối, Việt
Nam có lộ trình giảm thuế trên 10 năm. Việt Nam áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với
đường, trứng, muối (nằm trong lượng hạn ngạch WTO) và ô tô đã qua sử dụng. Ngoài ra,
hiệp định còn bao gồm các cam kết khác, quy định riêng về hàng dệt may, cam kết về lao
động và công đoàn.
Các nội dung đàm phán trên cần được chính phủ quan tâm chỉ đạo một cách kịp
thời cũng như đề ra định hướng đúng đắn, phù hợp. Việc nhanh chóng thúc đẩy việc thực
19


hiện các cam kết đã kí trong hiệp định là một bước tiến quan trọng giúp ngước ta có thể
“đi chung” với 10 nước còn lại.
Theo đó, Bộ Công thương ban hành Quyết định số 456/QĐ-BCT về Kế hoạch thực

hiện CPTPP. Quyết định gồm 2 phần: Kế hoạch thực hiện CPTPP, trong đó xác định rõ
các mục tiêu, nhiệm vụ chính với các lộ trình thực hiện cụ thể; phụ lục các công việc cụ
thể được phân công cho từng đơn vị trong bộ này để triển khai kèm theo các yêu cầu chi
tiết về kết quả và thời gian hoàn thành. Các nhóm công việc chính sẽ được Bộ Công
thương tập trung thực hiện trong 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 từ năm 2019 và giai đoạn 2 từ
năm 2020 - 2025, tầm nhìn đến năm 2035. Trong đó, có một số nhóm công việc chính
như khẩn trương xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thực thi CPTPP, trong đó tập
trung vào các lĩnh vực thuộc phạm vi phụ trách như quản lý xuất nhập khẩu, quy tắc xuất
xứ, cạnh tranh…
Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành thường xuyên cập nhật những tác động
tổng thể đến nền kinh tế cũng như từng lĩnh vực cụ thể từ CPTPP.
Với 11 nước tham gia, trong đó có Việt Nam, CPTPP là một trong những hiệp định
thương mại lớn nhất thế giới và khi được thực thi đầy đủ, sẽ bao gồm một thị trường gần
500 triệu người tiêu dùng, chiếm khoảng 13,5% GDP toàn cầu. Khi được kí kết, CPTTP
sẽ đem đến những thay đổi đáng kể không chỉ trong nội bộ một số ngành mà còn tác động
mạnh lên toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói riêng cũng như các nước tham gia. Vì vậy, các
bộ, ban ngành cần có những động thái, quan sát, đánh giá nhận xét tác động tổng thể đến
nền kinh tế nước nhà và trong từng lĩnh vực cụ thể. Cần chỉ đạo theo dõi sát sao những
thay đổi xuất hiện trên bàn đàm phán của các nước để kịp thời có những điều chỉnh phù
hợp với quốc gia đồng thời đề xuất được hướng đi phát triển của Việt Nam trên tiền đề
phối hợp tích cực với các nước.
Đồng thời, khẩn trương xây dựng và triển khai các biện pháp nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh cho doanh nghiệp thông qua các chương trình phát triển thị trường xuất
khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp trong các vụ việc phòng vệ thương mại để bảo vệ lợi ích chính
đáng của doanh nghiệp.
Song song với đó, điều phối và tham gia các hoạt động của Hội đồng CPTPP, các
ủy ban chuyên môn CPTPP và các công việc khác trong khuôn khổ CPTPP.
20



Trong thời gian tới, Bộ Công thương sẽ tập trung chỉ đạo và thực hiện quyết liệt
Kế hoạch này nhằm góp phần hiện thực hóa các lợi ích mà CPTPP mang lại cho người
dân và doanh nghiệp trên cả nước.
Các cơ quan chức năng, tổ chức, hiệp hội cần có các giải pháp đẩy mạnh tuyên truyền,
cung cấp thông tin về CPTTP.
Mặc dù không còn Hoa Kỳ nhưng Hiệp định CPTPP vẫn được coi là Hiệp định
thương mại tự do lớn nhất được kết thúc đàm phán trong thời gian gần đây. Dự kiến, Hiệp
định sẽ đem lại lợi ích cụ thể cho tất cả các nước tham gia. Riêng Việt Nam, hiệp định có
thể mang lại nhiều lợi ích, giúp mở rộng xuất khẩu đến các thị trường lớn trên thế giới và
giúp tăng trưởng GDP và kích thịch đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Bởi vậy, để bảo đảm Hiệp định CPTPP nhanh chóng đi vào cuộc sống, đem lại lợi
ích cho doanh nghiệp và người dân Việt Nam, chính phủ cần chỉ đạo Bộ Công thương và
các Bộ, ngành liên quan tiến hành tuyên truyền, phổ biến về nội dung và tác động của
hiệp định tới công chúng. Chính phủ cần phải phổ biến, cập nhật những kiến thức về hiệp
định CPTTP nói riêng và các hiệp định khác cho doanh nghiệp. Việc tuyên truyền có thể
thông qua tất cả các hình thức khác nhau như phát thanh, truyền hình, báo chí, hội nghị,
hội thảo, ấn phẩm, internet... để đảm bảo cộng đồng doanh nghiệp cũng như người dân
hiểu rõ, hiểu đúng về các cam kết của CPTPP, từ đó tận dụng được tối đa những cơ hội và
hạn chế tối thiểu các thách thức mà Hiệp định mang lại
Bộ Công Thương nên đưa ra một cẩm nang về các điều khoản cam kết, thời gian
thực hiện, mức độ thực hiện của từng ngành để doanh nghiệp mở ra là biết . Đồng thời,
các cơ quan chức năng, tổ chức, hiệp hội cần có các giải pháp cung cấp thông tin, hỗ trợ
doanh nghiệp nắm bắt được các thông tin cụ thể từ Hiệp định; hướng dẫn, giải đáp thắc
mắc về hàng rào thuế quan, xuất xứ… Chúng ta cần nhanh chóng xây dựng cẩm nang cho
doanh nghiệp về CPTTP, thông qua đó, doanh nghiệp nắm bắt thông tin để xây dựng
chiến lược của mình một cách sát nhất với thực tiễn.
Ngoài ra, cần tổ chức thêm nhiều buổi tập huấn, trao đổi kinh nghiệm giữa các
doanh nghiệp, cùng nhau thảo luận hướng đi chung cho cả tiến trình đưa kinh tế Việt Nam
vươn ra biển lớn sau thời điểm hiệp định CPTTP được kí kết. Có thể kể đến buổi tập huấn
ngày 11/5/2018 do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang phối hợp với Phòng Thương mại và

21


Công nghiệp Việt Nam Chi nhánh tại Cần Thơ tổ chức với chủ đề: “Đánh giá tác động từ
CPTPP và các FTA mới của Việt Nam - Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp An
Giang”. Chương trình tập huấn nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong tỉnh An Giang
nắm bắt các thông tin về phương pháp cải thiện môi trường kinh doanh hiệu quả và những
thông tin quan trọng về cơ hội, thách thức liên quan đến Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các hiệp định thương mại tự do (FTA) mới
của Việt Nam. Ngoài ra, các chuyên gia còn chia sẻ những vấn đề cần lưu ý khi soạn thảo
hợp đồng thương mại như: Cần hiểu rõ hợp đồng ký kết, điều kiện hiệu lực của hợp đồng,
điều kiện giải quyết khi xảy ra tranh chấp, luật áp dụng trong ký kết hợp đồng thương
mại; Các vấn đề thường gặp khi làm ăn với các đối tác nước ngoài-góc nhìn từ các tranh
chấp hợp đồng xuất nhập khẩu tại VIAC. Bên cạnh đó, các chuyên gia còn đưa ra các lời
khuyên và phân tích những lợi ích, cơ hội cho các doanh nghiệp nội địa khi Việt Nam
tham gia vào Hiệp định CPTPP.
Nhà nước cần tạo một môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, giảm thiểu thủ
tục hành chính cho doanh nghiệp.
Hiện tại, tuy đã có nhiều chính sách thay đổi và nỗ lực, song môi trường kinh
doanh, các thủ tục hành chính cho doanh nghiệp tại nước ta vẫn còn khá rườm rà, mất
nhiều thời gian và chi phí, gây cản trở cho bước tiến của doanh nghiệp Việt Nam, nhất là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình phát triển, vươn ra các thị trường lớn.
Để nắm bắt cơ hội và đạt được những con số tăng trưởng vượt bậc khi tham gia
CPTPP, Việt Nam cần nỗ lực rất nhiều. Ðây là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao
cho nên tác động đến môi trường chính sách là khá lớn, đòi hỏi những thay đổi tích cực
về môi trường kinh doanh. Chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách về thủ tục hành chính,
đơn giản hóa các loại giấy tờ, cắt bỏ triệt để điều kiện kinh doanh, khai tử các loại giấy
phép con gây phiền hà… nhằm tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, nâng cao
sức cạnh tranh cho cộng đồng doanh nghiệp. Với việc cắt giảm thêm các điều kiện thủ
tục kinh doanh cho các doanh nghiệp sẽ khiến các doanh nghiệp bớt đi một phần gánh

nặng trong các thủ tục hành chính và nguồn lực dành ra sẽ được chuyển sang các bộ phận
kinh doanh khác như thị trường, nghiên cứu, đào tạo…
22


Hơn thế, để doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được triệt để những cơ hội mà hiệp
định CPTTP mang lại, các cơ quan chức năng bắt buộc phải thay đổi theo tiêu chuẩn của
các nước phát triển, nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp để có thể tiến sâu
hơn trong sân chơi tầm cỡ này. Nhận định của chuyên gia cho rằng, đây cũng chính là thời
cơ để cơ quan nhà nước thay đổi tư duy và hành động, thu hút được các nguồn lực từ
doanh nghiệp vào nước ta.
Nhà nước cần đảm bảo nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực.
Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia. Chính
phủ cần tăng đầu tư phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng nguồn
vốn đầu tư toàn xã hội. Đẩy mạnh xã hội hóa để tăng cường huy động các nguồn vốn cho
phát triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của
người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: trực tiếp đầu tư
xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hóa, thể dục thể thao. Góp vốn, mua
công trái, hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực. Cần quy định trách nhiệm của
doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính
sách mạnh để doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng đầu tư phát triển nhân lực
nói chung và đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề nói riêng.
Ngoài ra, cần tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực.
Trong đó, cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực, đổi mới
phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý
về phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng
hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm cân đối
cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu cao về nhân lực đối với
việc kí kết hiệp định CPTTP.
3.2.


Các giải pháp đối với doanh nghiệp.

Doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu thông tin về CPTPP.
Như đã trình bày, CPTPP là một trong những hiệp định thương mại lớn nhất thế
giới. Nội dung Hiệp định CPTPP tuy đã được đơn giản hóa hơn rất nhiều so với TPP
trước đó, nhưng vẫn còn khá nhiều vấn đề mà Việt Nam phải lưu tâm. Bên cạnh những
lĩnh vực truyền thống như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch
23


vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại… CPTPP còn đề cập đến
một số vấn đề mới như lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước…
Tuy nhiên, không thể chủ quan, để các doanh nghiệp Việt có thể tham gia vào sân
chơi này, trước hết cần chủ động tìm hiểu thông tin về CPTPP để nắm vững cam kết của
Việt Nam và các thị trường đối tác quan tâm, đặc biệt là các thông tin về các ưu đãi thuế
quan theo hiệp định này đối với những mặt hàng ta đang có thế mạnh hoặc có nhiều tiềm
năng xuất khẩu trong thời gian tới.
Doanh nghiệp cần có cái nhìn bao quát đối với hiệp định, không chỉ tìm hiểu thông
tin về lĩnh vực trực tiếp liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Việc hiểu
rõ CPTTP giúp doanh nghiệp định hướng được lối đi của riêng mình dựa trên nền tảng
những chính sách được ưu đãi như nhà nước và những cơ hội lớn mà hiệp định mang lại.
Doanh nghiệp cần thay đổi tư duy kinh doanh, tự đổi mới trong bối cảnh mới.
Thực trạng của doanh nghiệp Việt hiện nay phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Với đại bộ phận đa số doanh nghiệp này, khả năng tiếp cận thị trường xuất khẩu thông
qua việc nắm bắt các luật chơi mới còn hạn chế, lại thiếu nguồn vốn đầu tư, việc mở rộng
quy mô sản xuất khó khăn, khoa học công nghệ lạc hậu, tỷ lệ ứng dụng công nghệ cao còn
thấp nên năng suất lao động kém…
Vì vậy, cùng với sự hỗ trợ của nhà nước thì bản thân các doanh nghiệp phải thay
đổi tư duy kinh doanh thích nghi với bối cảnh mới, tích cực tìm hiểu, nắm bắt thông tin và

linh hoạt trong việc tiếp cận, tận dụng cơ hội.
Doanh nghiệp phải tự nhận thấy cần phải thay đổi bằng cách đầu tư vào hệ thống
cơ sở sản xuất, đào tạo nhân viên nhằm từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp
ứng tiêu chuẩn khắt khe của những thị trường khó tính trên thế giới. Bởi, mỗi khách hàng
tại các thị trường khác nhau đều có tiêu chuẩn riêng, doanh nghiệp phải tuân thủ đúng tiêu
chuẩn chất lượng của thị trường thì mới có thể bán được hàng.
CPTPP chắc chắn sẽ mang lại cơ hội cho doanh nghiệp nào chủ động đáp ứng với
những thay đổi về môi trường kinh doanh do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại
thông qua việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung và dài
hạn nhằm thúc đẩy dòng chảy của hàng hóa vào các thị trường đối tác tiềm năng nêu trên.
Doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao.
24


CPTTP là sân chơi chung, quy định chung cho khối gồm 11 quốc gia. Trong đó,
Việt Nam là nước có nền kinh tế nhỏ nhất; trình độ lao động, năng lực lao động cũng thấp
nhất. Trong sân chơi chung, năng lực lao động rất quan trọng; lao động yếu sẽ bị thất thế.
Hiện nay, lao động Việt Nam có nhiều điểm yếu như trình độ kỹ thuật thấp, phần
lớn lao động là phổ thông, không phải lao động chuyên môn; trình độ ngoại ngữ cũng
thấp. Trong khi nhiều nước khác lao động rất chuyên nghiệp và chuyên môn, và tại phần
lớn các quốc gia trong khối CPTPP, tiếng Anh là ngôn ngữ chính. Bên cạnh đó, một khó
khăn khi hội nhập là văn hóa ứng xử. Cụ thể, văn hóa ứng xử của lao động Việt Nam đang
không theo kịp đà phát triển thế giới. Từ cách hành xử trong thương trường đến việc tuân
thủ luật lệ, đến cách ứng xử của con người với nhau trong xã hội, chúng ta còn có một
khoảng cách xa đối với người lao động trong các quốc gia khác.
Do đó, khi "một người thấp đi vào sân chơi của những người cao" thì cuộc chơi
chưa công bằng và chúng ta phải chạy nhanh hơn để bắt kịp họ. Chính vì vậy, doanh
nghiệp Việt cần đẩy mạnh công cuộc nâng cao trình độ của người lao động, đảm bảo về
số lượng, chất lượng, cơ cấu của ngành, phù hợp với nhu cầu phát triển của ngành và hội
thời quốc tế. Các doanh nghiệp cần chú trọng bồi dưỡng nguồn nhân lực từ các trường đại

học, cao đẳng, tham gia nhiều hơn vào quá trình kiểm tra cũng như giám sát chất lượng
đầu ra. Ngoài ra, doanh nghiệp cần thiết lập một hệ thống thông tin thị trường lao động để
cung cấp, xử lý thông tin tạo cơ sở tin cậy xác định nhu cầu đào tạo và bồi dưỡng, gắn sử
dụng nhân lực với việc làm.
Các doanh nghiệp cũng cần chủ động tìm hướng hợp tác với các thị trường đối tác
Chúng ta thấy rằng, với những quy định trong CPTPP, các doanh nghiệp Việt sẽ
phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt từ thị trường các nước tham gia hiệp định cho
đến “sân nhà”. Trong bối cảnh khả năng thích nghi của doanh nghiệp với kinh tế thị
trường còn kém, sức cạnh tranh của hàng hóa chưa cao thì nguy cơ bị lấn át tại thị trường
nội địa không phải là ít.
Vì vậy, các doanh nghiệp cần chủ động tìm hướng hợp tác với các thị trường đối
tác của hiệp định, để thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhằm tận dụng hiệu
quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn. Đây cũng chính là cơ
25


×