Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

tiểu luận tài chính công các tiêu chí đánh giá ngưỡng nợ công của nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.63 KB, 56 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Xuyên suốt thời kì phát triển của mỗi một quốc gia từ nước phát triển đến các
nước đang phát triển thì nợ công là một phần quan trọng và không thể thiếu trong hệ
thống tài chính, với mục đích để chính phủ có thể thực hiện đầy đủ những chức năng
quan trọng của mình.
Ở Việt Nam, vay nợ nước ngoài của Chính phủ có nhiều vai trò tích cực. Đó là
tạo ra những tiền đề căn bản đáp ứng cho nhu cầu phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, đặc biệt phục vụ cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư xây dựng
các công trình trọng điểm quốc gia, phát triển kinh tế vùng, xóa đói giảm nghèo và các
mục tiêu an sinh xã hội khác. Các nguồn vốn vay nợ là cầu nối và là chất xúc tác quan
trọng trong thời kỳ đầu hội nhập kinh tế quốc tế, đóng vai trò đòn bẩy, kích thích thu
hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài phát triển kinh tế trong nước.
Bên cạnh đó, ở thời điểm hiện tại nước ta đang thực hiện mục tiêu nâng thu
nhập bình quân đầu người lên mức 2700 - 3200 USD, duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức
cao - 6,7%, đồng thời giữ cho lạm phát ở mức kì vọng 4%. Để đạt được điều này trong
khi vẫn đảm bảo các công tác an sinh xã hội cần thiết, chính phủ Việt Nam có nhu cầu
vay nợ tăng lên, dẫn đến xu hướng nợ công ngày càng tăng.
Trong năm 2015 vừa qua, Thế giới đã trải qua nhiều biến động lớn với liên tiếp các
cuộc khủng hoảng nợ công tại các quốc gia khác nhau. Trong đó, tiêu biểu nhất chính là
cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu và hậu quả nhãn tiền và rõ ràng nhất chính là việc Hy
Lạp đã chính thức vỡ nợ (01/07/2015). Chính vì vậy, các quốc gia cần xây dựng cho mình
các tiêu chí đánh giá ngưỡng chịu đựng nợ công phù hợp, từ đó đưa ra các chính sách
quản lý nợ công phù hợp, cũng như các biện pháp cần thiết khi rủi ro từ việc vỡ nợ xuất
hiện, và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Nợ công cần phải được sử dụng hợp
lý, hiệu quả và quản lý tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ công có thể xảy ra với bất cứ
quốc gia nào tại bất cứ thời điểm nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Nợ công của
Việt Nam hiện nay đang ở mức 65.2% GDP với tốc độ tăng trưởng nợ hàng năm cao. Đây
là một con số đáng báo động đối với nền kinh tế nhỏ đang phát triển và phụ thuộc nhiều
vào việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ.

[1]




Vỡ nợ là hoàn toàn có thể xảy ra đối với Việt Nam trong tương lai nếu không có những
biện pháp và chính sách hợp lý.
Câu hỏi cần đặt ra là “Nền kinh tế Việt Nam có thể chịu được mức nợ công là
bao nhiêu?”. Chính vì những lý do kể trên, nhóm em quyết định lựa chọn đề tài nghiên
cứu cho tiểu luận của mình là “Các tiêu chí đánh giá ngưỡng nợ công của nền kinh tế
Việt Nam". Đề tài tập trung các tiêu chí cấu thành nền ngưỡng chịu đựng rủi ro vỡ nợ
của nền kinh tế và những rủi ro trong quá trình quản lý, từ đó áp dụng cụ thể đến
trường hợp của Việt Nam.
Tiểu luận sẽ bao gồm những nội dung nghiên cứu chính sau đây:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu.
Chương 2: Phương trình chịu đựng nợ và áp dụng trong nền kinh tế Việt Nam

Chương 3: Kết luận về ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
và một số đề xuất về giải pháp và chính sách

[2]


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Chữ cái viết tắt
DN
DNNN
EAP
EC
ECB
EMDE
EU

FDI
GDP
HIPC
ICOR
IICR
IMF
LAC
MDRI
MENA
NN
NPV
NSCB
NSNN
OLS
SAR
SSA
WB

Ý nghĩa
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước
Khu vực Đông Á - Thái Bình Dương
Ủy ban Châu Âu
Ngân hàng Trung ương châu Âu
Nhóm các nước đang phát triển và mới nổi
Liên minh Châu Âu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tổng thu nhập quốc dân
Các nước đặc biệt nghèo
Hệ số sử dụng vốn

Chỉ số xếp hạng toàn cầu
Quỹ tiền tệ quốc tế
Khu vực Mỹ Latinh – Caribê
Viện nghiên cứu phát triển Mekong
Nước xuất khẩu hàng hóa Trung Đông và Bắc Phi
Nhà nước
Giá trị hiện tại ròng
Ngân sách cơ bản
Ngân sách nhà nước
Phương Pháp Ước Lượng Bình Phương Nhỏ Nhất
Các nước khu vực Nam Á
Khu vực cận Sahara
Ngân hàng thế giới

[3]


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU SỬ DỤNG TRONG TIỂU LUẬN

Số Trang
13

STT
Biểu đồ 1.1:

Tên
Tỷ lệ nợ công của Anh giai đoạn 1700 – 2011

Bảng 1.2:


Lịch sử vỡ nợ của các nước trên thế giới

20

Bảng 1.3:

Ngưỡng nợ công nước ngoài nguy hiểm theo khung nợ

24

DSF
Bảng 1.4:

Ngưỡng nợ nguy hiểm áp dụng cho tổng nợ

25

Hình 1.5:

Các mức rủi ro theo phân loại của IMF và Worldbank

25

Hình 1.6:

Sơ đồ cây nhị phân

27

Biểu đồ 2.1:


Mối quan hệ giữa IICR và tỷ lệ nợ

31

Biểu đồ 2.2:

Mối quan hệ giữa IICR và tỷ lệ lạm phát

32

Bảng 2.3:

Kết quả ước lượng OLS

33

Bảng 2.4:

IICR và xếp hạng của 3 tổ chức xếp hạng

35

Bảng 2.5:

Phân loại xếp hạng tín dụng và IICR 2016

36

Biểu đồ 3.1:


Chi tiêu công Việt Nam tính đến ngày 15/11/2017

40

Biểu đồ 3.2:

Tỷ lệ nợ công trên GDP

41

Bảng 3.3:

Kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020

46

Biểu đồ 3.4:

Cơ cấu nợ công trong nước và ngoài nước

48

[4]


PHẦN NỘI DUNG

Chương 1:


TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1.

Tổng quan nghiên cứu trong nước và quốc tế
Do ảnh hưởng từ khủng khoảng kinh tế toàn cầu, Hy Lạp chính là quốc gia khởi

điểm cho chuỗi khủng hoảng nợ công với các nước thuộc EU bắt đầu từ thời điểm đầu
năm 2010. Vào thời điểm đấy, chi phí cho các khoản nợ của chính phủ Hy Lạp liên tục
tăng. Lợi suất của trái phiếu Chính phủ kì hạn 02 năm tăng lên mức 3,47% vào tháng 01
năm 2010, và chạm mức 9,73% thời điểm tháng 07 năm 2010 và nhảy vọt lên
26,65%/năm vào tháng 07 năm 2011. Các gói cứu trợ từ EU bắt đầu phải đổ dồn để cứu
vãn tình hình của Hy Lạp trước khi mọi thứ đi quá xa. Tháng 05/2010, bộ ba Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ủy ban châu Âu (EC) đã cấp
gói cứu trợ đầu tiên cho Hy Lạp trị giá 110 euro. Tuy nhiên, tình hình tại Hy Lạp vẫn
không có nhiều cải thiện đáng kể dù cho những động thái rất nỗ lực tiếp theo của bộ máy
lãnh đạo đất nước này cũng như EU, ngày 1/7/2015: Hy Lạp bị tuyên bố vỡ nợ. Không chỉ
gây ra vỡ nợ tại Hy Lạp, Cuộc khủng hoảng sau đó đã lan sang Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha
và tiếp theo là Ý trong khu vực đồng Euro. Pháp đang là quốc gia có nhiều nguy cơ tụt
hạng tín dụng. Cộng hòa Sip cũng đã bị đẩy tới bờ vực để nhận gói cứu trợ.
Cũng nằm trong sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2010,
những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia có thị trường mới nổi như Việt
Nam, Campuchia hay những quốc gia có thị trường đã phát triển như Mỹ, Nhật, Liên
Minh Châu Âu đều buộc phải nới lỏng chính sách tài khóa, đi vay để phục vụ cho các nhu
cầu chi tiêu, kích thích nền kinh tế nhằm chống lại sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng,
điều này đã làm gia tăng tỷ lệ nợ của các quốc gia này. Sự gia tăng nhanh chóng trong nợ
nần, tuy là không lớn so với các nước công nghiệp hóa, nhưng vẫn đặt ra câu hỏi về tính
bền vững của nợ và không gian tài khóa của các nước này có đủ để đối đầu với cuộc
khủng hoảng trong tương lai. Một câu hỏi quan trọng trong bối cảnh này là: Mức độ nợ là

bao nhiêu để các nước này có thể đạt được mục tiêu an toàn của mình?

[5]


Đối với riêng Việt Nam, sau giai đoạn tăng trưởng ấn tượng đã có dấu hiệu
chậm lại và đang trải qua giai đoạn khó khăn nhất từ năm 1990 đến nay. Bên cạnh
những tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, một phần nguyên nhân lớn
chính là từ sự bất ổn trong cơ cấu nền kinh tế. Cỗ máy tăng trưởng bốn động cơ bao
gồm khu vực kinh tế nhà nước (NN), khu vực doanh nghiệp (DN) tư nhân trong nước,
nông nghiệp – hộ gia đình cá thể và khu vực DN FDI nhưng hiện tại chỉ còn khu vực
FDI hoạt động ổn định và tạo ra kết quả tốt. Tăng trưởng kinh tế liên tục suy giảm từ
mức khoảng 7.5% trong giai đoạn 2000 – 2007 xuống còn xấp xỉ 6% trong giai đoạn
2008 – 2012. Việt Nam đã bị thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) trong thời gian dài
và nợ công gia tăng nhanh chóng đi cùng với mở cửa nền kinh tế.
Trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về nợ công và ngưỡng chịu
đựng của các quốc gia. Nghiên cứu của Pattillo và cộng sự (2002) sử dụng dữ liệu bao
gồm 93 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1969-1998 cho thấy ảnh hưởng của nợ
công (nợ nước ngoài) có ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng GDP đầu người
nếu giá trị nợ nước ngoài vượt qua ngưỡng 35 - 40% GDP.
Nghiên cứu của Reinhart, Reinhart và Rogoff (2012) về mối quan hệ thống kê giữa
nợ công và tăng trưởng GDP thực trong dài hạn trong mẫu nghiên cứu gồm 20 quốc gia
phát triển trong giai đoạn (1970-2009) cho thấy mối quan hệ này là yếu nếu nợ công

ở mức < 90% GDP, trong trường hợp nợ công vượt ngưỡng trên 90% GDP, tốc độ tăng
trưởng kinh tế trung bình giảm 1%...
Nghiên cứu của Kumar và Woo (2010) lại tìm hiểu tác động của nợ công cao
đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn dựa trên một bảng số liệu của các nền kinh tế
tiên tiến và đang nổi lên trong gần bốn thập kỉ.
Kết quả thực nghiệm gợi ý mối quan hệ nghịch giữa nợ ban đầu và tăng trưởng

tiếp theo, kiểm soát các yếu tố quyết định tăng trưởng khác: Trung bình, tỷ lệ nợ/GDP
ban đầu tăng 10 điểm phần trăm liên quan đến sự suy giảm tốc độ tăng GDP thực tế
bình quân hàng năm khoảng 0,2 điểm phần trăm mỗi năm, với tác động nhỏ hơn ở các
nền kinh tế tiên tiến.
Có một số bằng chứng về sự phi tuyến tính với mức nợ ban đầu cao hơn có ảnh
hưởng tiêu cực lớn hơn đáng kể đối với tăng trưởng tiếp theo. Tuy nhiên, họ cũng tìm

[6]


thấy một số bằng chứng về tính không tuyến tính, nghĩa là chỉ có mức nợ cao (> 90%
GDP) có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đối với tăng trưởng cho toàn bộ mẫu của các
quốc gia mới nổi và các nước phát triển...
Nghiên cứu của Checherita-Westphal (2012) lại tập trung vào tác động trung
bình của nợ chính phủ đối với tăng trưởng GDP bình quân đầu người với mẫu gồm 12
quốc gia thuộc khu vực đồng Euro như Áo, Bỉ, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ailen,
Italia, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trong khoảng 40 năm bắt
đầu từ năm 1970.
Kết quả cho thấy, có mối quan hệ phi tuyến tính giữa nợ công với tăng trưởng
GDP bình quân đầu người, đó là tỷ lệ nợ của chính phủ so với GDP có ảnh hưởng tiêu
cực tới tăng trưởng dài hạn (khoảng 90 - 100% GDP)...
Trong nước, Lê Phan Thị Diệu Thảo và Thái Hán Vinh (2015) nghiên cứu vấn
đề “Kiểm định tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế”. Với phương pháp sử
dụng mô hình hồi quy, quy mô mẫu gồm 7 nước đang phát triển khu vực Đông Nam Á
là Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Philipines, Lào, Campuchia với chuỗi số
liệu từ năm 1995 - 2013, kết quả cho thấy giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế có mối
quan hệ phi tuyến tính, mô hình chữ U ngược.
Khi tỷ lệ nợ công/GDP nhỏ hơn 68% nợ công có tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế. Từ đó, nghiên cứu đã xác định được ngưỡng nợ công để có thể tham
khảo chính xác ngưỡng nợ công.

Báo cáo của World Bank vào 06/2017 về “Tình hình nợ công tại các nước đang
phát triển và mới nổi” nêu rõ: do tăng trưởng kinh tế ngày càng bền vững và lạm phát
tiến sát mục tiêu đề ra, chính sách tiền tệ tại các nước phát triển được kỳ vọng sẽ bình
thường hóa trở lại sau thời gian nới lỏng quá mức. Quá trình trở lại với chính sách tiền tệ
bình thường có vẻ đang diễn ra một cách êm thấm, nhưng có thể làm bùng phát nguy cơ
bất ổn tài chính tại các EMDE. Đối với nhiều EMDE, điều kiện tài chính thắt chặt dần làm
tăng chi phí vay vốn và nợ nần tăng cao, kể cả nợ chính phủ và nợ tư nhân, xói mòn vị thế
tài khóa quốc gia, cản trở khả năng triển khai chính sách tài khóa hiệu quả để có thể đẩy
lùi những cú sốc tài chính. Đáng lưu ý, GDP tại các nước xuất khẩu hàng hóa có xu hướng
tăng chậm dần, trên 70% số EMDEs và trên 25% số EMDEs tại khu

[7]


vực Cận Sahara (SSA) và Mỹ Latinh - Caribê (LAC) đang đối mặt với động thái nợ
công ngày càng xấu đi (với mức biến dạng so với mức chênh lệch bền vững đã vượt
quá 1% GDP.
Tính trung bình tại các nước đang phát triển và mới nổi, nợ chính phủ tăng từ tỷ
lệ 12% GDP trong năm 2007 lên khoảng 47% GDP trong năm 2016, cán cân ngân sách
cũng chuyển từ trạng thái thặng dư gần 1% GDP trong năm 2007 sang trạng thái thâm
hụt khoảng 5% GDP trong năm 2016. Điều này cho thấy, điều kiện tài chính thuận lợi
đã góp phần thay đổi cơ cấu trong bảng cân đối tài sản quốc gia, nhưng hầu như không
nâng cao được tính bền vững về tài chính, nợ dưới dạng ngoại tệ tại các nước có mức
thu nhập trung bình có xu hướng tăng trở lại.
Từ năm 2007, nợ tư nhân tại các EMDE tăng nhanh, phản ánh sự kết hợp giữa
độ sâu tài chính và bùng nổ tín dụng. Trong đó, tín dụng ngân hàng dành cho khu vực
kinh tế tư nhân tăng từ tỷ lệ 12% GDP trong năm 2007 lên 52% GDP trong năm 2016
(không kể Trung Quốc) và tăng lên tỷ lệ 20% trong 1/5 số EMDEs. Nợ nần tăng cao
đang khiến tình hình tài chính của khu vực doanh nghiệp ngày càng xấu đi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, phần lớn sự bùng nổ tín dụng tại EMDEs đều

mang tính trợ cấp, đã để lại di sản nợ nần quá mức tại một số EMDEs. Tại 2/3 số quốc
gia có nợ tư nhân cao, chênh lệch bền vững tài khóa trong năm 2016 đã mở rộng đáng
kể. Trong đó, tới 2/3 số quốc gia thuộc diện này có mức nợ tư nhân vượt ngưỡng trung
bình. Tại những quốc gia này, thời khắc áp lực tài khóa có thể cản trở các hoạt động
của khu vực công và tư, và hai khu vực này sẽ tác động qua lại lẫn nhau.
Báo cáo cho thấy, từ năm 2000, tính bền vững về nợ tại EMDEs liên tục được cải
thiện, nợ công giảm dần và chuyển sang trạng thái thặng dư. Tại các nước thu nhập thấp,
kết quả này phần nào phản ánh những nỗ lực quốc tế về giảm nợ tại nhóm quốc gia này
như sáng kiến dành cho các nước nghèo khó khăn (HIPC) và sáng kiến đa biên về giảm nợ
(MDRI). Những sáng kiến này đã mang lại lợi ích cho EMDEs tại SSA cũng như tại LAC.
Trái với xu hướng cải thiện trên đây, tình hình nợ công tại EMDEs lại xấu đi nhanh chóng
sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Bức tranh nợ công bị biện dạng tại 2/3 số các nước
xuất khẩu hàng hóa thuộc nhóm EMDEs, một phần là do GDP tăng chậm lại và giá hàng
hóa giảm sâu. Tại các nước nhập khẩu hàng hóa thuộc nhóm EMDEs, vị

[8]


thế tài khóa vẫn yếu ớt do kết quả của chính sách kích thích tài khóa trong thời kỳ khủng
hoảng, thâm hụt triền miên, một số nước rơi vào thời kỳ suy thoái và tăng trưởng thấp.

Đến năm 2016, nợ công tăng rõ rệt và ảnh hưởng đến vị thế tài khóa của hầu hết
EMDEs. Trong đó, mức chênh lệch tài khóa vượt quá 1% GDP tại 80% số nước xuất
khẩu hàng hóa và 40% số nước nhập khẩu hàng hóa, chỉ khoảng 27% EMDEs có tình
hình tài chính sải thiện và bức tranh tài khóa lành mạnh hơn so với năm 2000, đây là
nhóm nước có tình hình tài khóa cải thiện liên tục ngay trong thời kỳ trước khủng
hoảng tài chính toàn cầu.
Theo từng khu vực, xu hướng cải thiện tài khóa trước khủng hoảng và biến
dạng sau khủng hoảng thể hiện rõ nét tại nhiều nước xuất khẩu hàng hóa Trung Đông
và Bắc Phi (MENA), LAC, SSA. Tại châu Âu và Trung Á (ECA), khủng hoảng tài

chính đã cản trở tăng trưởng kinh tế, giá hàng hóa giảm thấp tại các nước phía đông
của khu vực này và xu hướng giảm đòn bẩy khu vực tư tại các nước phía tây. Điều này
làm trầm trọng thêm những thách thức về tính bền vững của nợ nần bất chấp những nỗ
lực của EMDEs tại các khu vực trong việc củng cố nền tài khóa. Tình hình tài chính tại
EMDEs thuộc khu vực Đông Á - Thái Bình Dương (EAP) vẫn bền vững, nhưng chênh
lệch tài khóa đã giảm về mức âm trong năm 2016. Tại các nước Nam Á (SAR), thâm
hụt quy mô lớn đã góp phần làm tăng chênh lệch tài khóa.
Tính trung bình, trong giai đoạn 2007-2016, chênh lệch mức độ bền vững nợ
công mở rộng tới 4 điểm phần trăm xuống -3% GDP tại SSA và tới 5 điểm phần trăm
xuống -4% GDP tại LAC. Sự biến dạng này phản ánh xu hướng gia tăng nợ nần, nhất
là tại SSA, và thâm hụt tài khóa mở rộng, nhất là tại LAC. Tại hai khu vực này, mức
độ xói mòn tài khóa ngày càng mở rộng. Động thái nợ công yếu ớt tại những khu vực
này cũng đi kèm với xu hướng gia tăng nợ tư nhân, mặc dù từ mức khiêm tốn ban đầu,
phản ánh sự kết hợp giữa bùng nổ tín dụng và độ sâu tài chính. Trong năm 2016, tín
dụng tư nhân từ các ngân hàng trong nước chiếm trung bình 48% GDP tại LAC và
29% GDP tại SSA. Tại 1/3 số EMDEs tại SSA và trên ¼ số EMDEs tại LAC, tín dụng
ngân hàng dành cho khu vực tư nhân tăng trên 10% trong giai đoạn 2007-2016.
So với những áp lực tài chính trước đây, động thái nợ công sau khủng hoảng tài
chính toàn cầu bị biến dạng đáng kể và có nguy cơ kéo dài. Đối với các EMDE xuất
khẩu hàng hóa, tình hình tài khóa xấu đi còn bắt nguồn từ những cú sốc thương mại.

[9]


Trong hai năm qua, động thái nợ công tại EMDEs bắt đầu có dấu hiệu cải thiện nhanh
chóng, nhiều chính phủ đã bước vào chu kỳ thắt chặt tài khóa. Tuy nhiên, xu hướng
của chu kỳ thắt chặt tài khóa trong môi trường hiện nay có thể kìm hãm tăng trưởng
kinh tế. Trong năm 2016, mức độ nợ công tại EMDEs nhìn chung đã giảm, nhưng
động thái nợ công có vẻ không thuận lợi như thời kỳ trước khi giá dầu lao dốc, chênh
lệch tài khóa gia tăng.


1.2.
1.2.1.

Không thể phủ định nợ công cung cấp nguồn vốn quan trọng trong đầu tư công
và là nhân tố góp phần tạo nên sự tăng trưởng và phát triển kinh tế trong giai đoạn
trước khủng hoảng. Tuy nhiên, đầu tư công của Việt Nam mang lại hiệu quả chưa cao,
gây lãng phí kéo dài cho nguồn lực xã hội và thậm chí gây ra hiệu ứng chèn lấn khu
vực tư nhân. Việc lãng phí nguồn lực này đến mức độ nào sẽ chạm ngưỡng chịu đựng
nợ công của nền kinh tế nước ta hiện nay là điều cần được nghiên cứu cụ thể.
Cơ sở lý thuyết và khung phân tích
Khái niệm nợ công và sự khác biệt trong định nghĩa về nợ công quy định ở
Việt Nam
Hiện nay, mỗi nước trên thế giới đều có cách quy định nợ công khác nhau xuất phát
từ sự khác nhau trong khái niệm khu vực nợ công. Tuy nhiên, nhìn chung nợ công sẽ được
phân chia thành 02 loại chính: nợ công nghĩa rộng và nợ công theo nghĩa hẹp.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công theo
nghĩa rộng là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ của Chính phủ
trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc
lập (nguồn vốn hoạt động do NSNN quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà
nước và trong trường hợp vỡ nợ, nhà nước phải trả nợ thay). Theo nghĩa hẹp, nợ công
bao gồm nghĩa vụ nợ của Chính quyền Trung ương, các cấp chính quyền địa phương
và nợ của các tổ chức độc lập được Chính phủ bảo lãnh thanh toán.


Cũng theo quy định này, nợ công bao gồm bốn nhóm chủ thể:
(1) Nợ của Chính quyền Trung ương và các Bộ, ban, ngành Trung ương
(2) Nợ của các cấp chính quyền địa phương
(3) Nợ của Ngân hàng Trung ương


[10]


(4) Nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc
quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là người
chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ.
Ở Việt Nam, theo quy định Luật Quản lý nợ công năm 2009 quy định, nợ công
được hiểu bao gồm ba nhóm là: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ
chính quyền địa phương. Trong đó:
(1) Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, ngoài
nước, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài
chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chính
phủ không bao gồm khoản nợ do NHNN Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính
sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
(2) Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
(3) Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
Khái niệm về nợ công của Việt Nam được đánh giá là hẹp hơn so với thông lệ
quốc tế. Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định: Nợ
công gồm nợ của Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh. Một số nước và vùng
lãnh thổ, nợ công còn bao gồm cả nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan, Bungari,
Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Inđônêxia…).
Tuy nhiên nhìn chung, nợ công là tổng giá trị các khoản tiền mà Chính phủ thuộc
mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm bù đắp cho các khoản thâm hụt ngân
sách” và Chính phủ phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản vay đó. Vì thế, nợ công
nói cách khác là thâm hụt ngân sách lũy kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình
dung quy mô của nợ Chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu
phần trăm so với GDP. Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu công quá lớn của Chính phủ.

Chi tiêu công nhằm: Phân bổ nguồn lực; phân phối lại thu nhập; ổn định kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, chi tiêu công quá lớn hay kém hiệu quả cũng sẽ gây ra những bất ổn cho nền
kinh tế. Nhu cầu chi tiêu quá nhiều trong khi các nguồn thu không đáp ứng nổi buộc
Chính phủ phải đi thông qua nhiều hình thức (như phát hành công trái, trái

[11]


phiếu, hiệp định tín dụng) và vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể
chế tài chính quốc tế… để bù vào khoản thâm hụt, từ đó dẫn đến tình trạng nợ công.
1.2.2. Nợ công bền vững
Khái niệm nợ công bền vững được đặt ra để trả lời một câu hỏi nghe thì có vẻ
“đơn giản”: “Khi nào nợ của một quốc gia trở nên quá lớn đến nỗi không thể trả
được?” Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF định nghĩa một khoản nợ là bền vững nếu nó đáp ứng
điều kiện khả năng thanh toán mà không có một sự điều chỉnh lớn và không tạo ra các
chi phí tài chính trong tương lai (IMF, 2002).
Khả năng thanh toán được nhắc đến ở đây chính là việc tổng các khoản nợ hiện
tại cộng với giá trị chiết khấu về hiện tại của tất cả các khoản chi tiêu không vượt quá
giá trị chiết khấu về hiện tại của tất cả các khoản thu. Ngoài ra, khả năng thanh toán nợ
được thực hiện khi thặng dư ngân sách cơ bản (NSCB) trong tương lai đủ lớn để trang
trải khoản trả lãi và nợ gốc. Hai tiêu chuẩn trong định nghĩa của IMF về sự phát triển
bền vững đưa ra yêu cầu khắt khe hơn so với khả năng thanh toán. Điều kiện đầu tiên
là loại trừ “sự điều chỉnh lớn” trong cán cân NSCB. Điều này có thể đề cập đến sự cắt
giảm mạnh chi tiêu hoặc gia tăng nguồn thu nhanh chóng. Do vậy, định nghĩa này bao
hàm cả ý nghĩa về giới hạn khả năng thanh khoản của một quốc gia. Điều kiện thứ hai
đề cập đến “chi phí tài trợ”. Chi phí tài trợ luôn thay đổi theo thời gian và khó dự đoán
trước. Đặc biệt, nó có thể tăng lên khi bùng phát nợ và có thể tạo ra một vòng luẩn
quẩn. Kết quả là một khoản nợ có thể bền vững trong hôm nay nhưng có thể ngày mai
không bền vững và ngược lại.
Tuy nhiên, định nghĩa về tính bền vững nợ của IMF có sự mơ hồ và khó tiếp cận

đánh giá. Khả năng thanh toán được định nghĩa rõ ràng và từ lâu đã được chính thức hóa,
tuy nhiên nó đặt ra nhiều khó khăn khi thực hiện. Ở một quốc gia, các khoản nợ lớn có thể
được trả và các khoản nợ nhỏ có thể là không bền vững, tất cả đều phụ thuộc vào tương
lai. Trong thực tế, hầu hết các chính phủ mắc nợ mãi mãi và nhiều khoản nợ nước ngoài
vẫn còn cao sau nhiều thập kỷ. Ví dụ, hình 2.1 cho thấy tình hình các khoản nợ công của
Anh, được tính theo phần trăm so với GDP. Trong suốt 300 năm qua, nó không bao giờ
giảm xuống dưới mức 21%, đã đạt mức cao nhất là 260% và trung bình tỷ lệ nợ của Anh ở
mức 103%. Nợ công của Anh đã nhiều lần được coi là không bền vững, tuy nhiên nó vẫn
là bền vững theo ý nghĩ rằng chính phủ Anh chưa bao giờ bị vỡ nợ. Điều

[12]


này cho thấy, việc xác định một tỷ lệ nợ để đảm bảo tính bền vững là một điều khó
khăn và rất mơ hồ vì trong đa số trường hợp nó sẽ tuân theo ý chí của thị trường chứ
không theo những số liệu thống kê của IMF.

Biểu đồ 1.1: Tỷ lệ nợ công của Anh giai đoạn 1700 - 2011
1.2.3. Nợ mục tiêu
a. Nợ mục tiêu trong lý thuyết
Nợ công mục tiêu tập trung vào việc làm rõ sự đánh đổi giữa lợi ích của nợ
công làm tăng khả năng thanh khoản của hộ gia đinh bằng các phương tiện khác nhau.
Các mô hình cân bằng tổng thể (General Equilibrium Models) đã được phát
triển để tìm hiểu sự đánh đổi giữa chi phí và lợi ích của nợ chính phủ. Ví dụ, Aiyagari
et al. (1998), Floden (2001) và Shin (2006) đã làm rõ sự đánh đổi giữa lợi ích này bằng
cách cung cấp một phương tiện bổ sung để cân bằng chi tiêu (smooth consumption) và
làm dãn 7 giới hạn vay mượn của họ và chi phí trong tương lai ngụ ý đến các khoản
thuế, nó sẽ có những tác động xấu đến phân phối của cải và những ưu đãi, và đầu tư
công “chèn lấn” đầu tư tư nhân.


[13]


Trong đó, các nghiên cứu của Aiyagari (2002), Aiyagari và McGrattan (1998) đã
thảo luận về vai trò của nợ công như một khả năng trả nợ cá nhân. Họ giả sử rằng trái
phiếu chính phủ được phân bổ đều giữa các hộ gia đình, người nắm giữ trái phiếu có thể
sử dụng trái phiếu đó làm tài sản thế chấp. Một mức nợ cao hơn do đó có thể làm dãn giới
hạn vay mượn của họ. Saint Paul (2005) nêu ra các lợi ích bổ sung của các thị trường nợ
chính phủ cho các thị trường tài chính hiệu quả, bao gồm cả những đổi mới tài chính
(financial innovation) và khả năng sử dụng nợ công như một tài sản thế chấp cho khu vực
tư nhân vay mượn. Aiyagari và McGrattan (1998), hiệu chỉnh mô hình của họ đối với Mỹ
và tính toán tỷ lệ nợ tối ưu ở mức 66% GDP; Weh-Sol (2010) sử dụng cùng một mô hình
để tính toán một tỷ lệ nợ tối ưu cho Hàn Quốc 62% GDP. Rất ít các mô hình này được
thực hiện theo thực nghiệm, hầu hết dựa trên mức giả định.

b. Nợ mục tiêu trong thực tiễn
Do chủ yếu dựa trên giả định, các dự đoán lý thuyết về ngưỡng nợ công tối ưu
đang còn thiếu sự rõ ràng, cho nên một mức nợ công cao vẫn là mối quan tâm cho cả
các nước đang phát triển và các nước phát triển. Hiện nay, mức trần nợ mục tiêu đã
được nhiều quốc gia thông qua trong bộ luật của mình, đồng thời các hiệp định của các
khu vực hội nhập cũng đã áp dụng trần nợ như là tiêu chuẩn để tham gia. Giảm nợ
thường được thúc đẩy bởi nhận thức cao về nhu cầu chi tiêu trong tương lai, mong
muốn cân bằng qua các thế hệ, giảm sự “chèn lấn” đầu tư tư nhân, và chung hơn là
cung cấp một không gian lớn hơn trong tương lai để chống lại những cú sốc lớn và hấp
thụ các khoản nợ bất ngờ dễ gây ảnh hưởng đến tính bền vững của nợ hoặc ảnh hưởng
nghiêm trọng hơn là có thể dẫn đến vỡ nợ. Trong đó, nợ mục tiêu trong thực tiễn chịu
ảnh hưởng trực tiếp bởi các nhân tố như sau:
Đảm bảo tính bền vững của chính sách tài khóa: Một phương pháp thường
được sử dụng để xem xét chính sách tài khóa có bền vững hay không là xem sự ổn
định của tỷ lệ nợ công trên GPD. Một cách tiếp cận khác, IMF sử dụng cách tiếp cận

nợ bền vững để xác định mức nợ trên GDP phù hợp với hiệu quả tài khóa trong quá
khứ của mỗi quốc gia. Nếu một quốc gia có thể tạo ra thặng dư cơ bản (primary
surplus) cao trong quá khứ thì nó sẽ có thể chịu được một tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn
mà không gặp phải những bất ổn và mất tính bền vững của nợ. Con số này dựa trên
hiệu quả tài khóa trong quá khứ, được tóm lược bởi thặng dư cơ bản trung bình.

[14]


Theo kịch bản này, giả định nếu xảy ra một sự khác biệt giữa lãi suất thực và tốc
độ tăng trưởng thực trong lịch sử, họ xác định ngưỡng chịu đựng nợ bền vững trung
bình cho các nền kinh tế mới nổi là khoảng 25% của GDP. Một phân tích gần đây dành
cho các nước công nghiệp hóa đã được đưa ra bởi Ostry (2010), tác giả này xây dựng
một hàm phản ứng tài khóa để tóm tắt những hành vi trong quá khứ. Và họ tìm thấy
giới hạn của nợ là khoảng 170% – 180% của GDP, trên mức này nợ sẽ mất đi tính bền
vững và dễ dẫn tới khủng hoảng vỡ nợ.
Chính sách tài khóa phản chu kỳ: Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng mức độ ảnh
hưởng của chính sách tài khóa đến tổng cầu phụ thuộc vào mức độ ban đầu của nợ, với
mức nợ cao hơn dẫn đến sự giảm theo số nhân hoặc thậm chí một số nhân âm. Ở mức nợ
thấp, chính sách tài khóa có tác động theo Keynes truyền thống, tuy nhiên các tác động bị
đảo ngược ở mức độ căng thẳng tài khóa cao, khi các biện pháp thắt chặt tài khóa có thể
được mở rộng thông qua những tác động của nó đối với lãi suất, phần bù rủi ro và niềm
tin. Chính xác mức nợ mà tại đó những tác động theo Keynes bị đảo ngược rất khó để xác
định từ các tài liệu hiện nay. Trong một dữ liệu của 19 quốc gia OECD, Perotti (1999) đã
tìm thấy bằng chứng rõ ràng rằng căng thẳng tài khóa, được tính toán như là một hàm số
của nợ công và nhu cầu chi tiêu của chính phủ trong tương lai, là một yếu tố quan trọng
quyết định hiệu quả của chính sách tài khóa. Tuy nhiên, mức nợ chính xác mà tại đó xảy
ra sự đảo ngược không được để cập đến. Tương tự như vậy, IMF (2008) phát hiện ra rằng
tính hiệu quả của chính sách tài khóa như một công cụ phản chu kỳ là nhỏ hơn ở các quốc
gia có mức nợ công cao – được xác định là trên 75% so với GDP ở những nước công

nghiệp và 25% so với GDP ở các nền kinh tế mới nổi. Gần đây nhất, IMF (2009) khẳng
định lại phát hiện này bằng các tài liệu chứng minh rằng sự hiệu quả của chính sách tài
khóa trong việc kích thích tổng cầu trong giai đoạn suy thoái kinh tế là tỉ lệ nghịch với
mức độ nợ công: tác động của chi tiêu công lên khả năng hồi phục kinh tế trở nên tiêu cực
khi mức nợ vượt quá 60% so với GDP.
Hạn chế tác động từ cuộc khủng hoảng: khủng hoảng tính thanh khoản và sự vỡ
nợ đã xảy ra ở nhiều mức nợ công khác nhau. Nhiều nghiên cứu đã cố gắng kiểm tra
những mức độ nợ nước ngoài nào ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng bằng cách tăng
mức ý nghĩa xác xuất xảy ra khủng hoảng. Trong một mẫu của các nước đang phát triển,
Pattillo (2002) phát hiện ra rằng tại mức 35-40% GDP tác động của nợ nước ngoài lên

[15]


tăng trưởng trở nên tiêu cực – nguyên nhân chính là do giảm hiệu quả đầu tư. Cohen
(1997) tìm thấy điểm nợ cao hơn: với mức nợ khoảng 50% GDP, khả năng gia hạn nợ
tăng lên đáng kể. Ngưỡng nợ được ước tính tương tự trong nghiên cứu của Manasse,
Roubini và Schimmelpfennig (2003) – các tác giả này đã ước tính một ngưỡng nợ là
50% so với GDP. Những bài nghiên cứu này đưa ra ý tưởng về mức nợ trung bình mà
tại đó tình trạng dễ bị tổn thương tăng lên.
Tối ưu hóa tố độ tăng trưởng bằng cách giảm nguy cơ “chèn lấn”: Một mức nợ
mục tiêu cũng có thể được thiết lập với góc nhìn nhằm tối ưu hóa tốc độ tăng trưởng theo
giả định rằng tại mức nợ cao đầu tư công sẽ “chèn lấn” đầu tư tư nhân. Mức nợ cao cũng
có thể dẫn đến gánh nặng thuế kỳ vọng trong tương lai cao hơn, điều này sẽ làm giảm lợi
nhuận sau thuế kỳ vọng của nhà đầu tư, do đó làm giảm đầu tư và tăng trưởng. Ngoài ra,
mức độ nợ cao có thể cản trở khả năng nới lỏng các chính sách khi thích hợp, kết quả là
tăng trưởng thấp. Ví dụ, Smyth (1995) đã ước tính tỉ lệ nợ làm tối đa hóa tốc độ tăng
trưởng của Mỹ là khoảng 40% GDP. Mati(2005) ước tính tỷ lệ nợ trên 38% GDP sẽ làm
giảm tốc độ tăng trưởng của Indonesia. Reinhart và Rogoff (2010), với một mẫu của 44
quốc gia qua 200 năm, chỉ ra rằng mối quan hệ giữa tăng trưởng và nợ là yếu tại mức nợ

dưới 90% GDP, nhưng khi nợ tăng lên trên 90% GDP tốc độ tăng trưởng trung bình giảm
1%. Caner et al. (2010) sử dụng cách tiếp cận kinh tế lượng: hồi quy tốc độ tăng trưởng
bằng mô hình ước lượng bình phương nhỏ nhất ngưỡng (threshold least squares estimate),
(Hansen, 2000) xác định một ngưỡng trong mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công trung bình dài
hạn trên GDP và tốc độ tăng trưởng trung bình dài hạn của giai đoạn (1980-2008). Họ
nhận thấy rằng với ngưỡng nợ là 77,1% GDP thì với mỗi phần trăm tăng thêm trong tỷ lệ
nợ làm tốc độ tăng trưởng giảm 0,0174%. Đối với các nước đang phát triển tỷ lệ này là
thấp hơn 64% so với GDP. Kumar và Woo (2010) bằng cách sử dụng phương trình tốc độ
tăng trưởng với dữ liệu mảng “động” điều tra các mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ trên GDP và
tăng trưởng, và ước tính ngưỡng nợ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng là khoảng 90%
GDP.
Tạo không gian cho những khoản nợ bất ngờ lớn hơn: Thực nghiệm gần đây đã
thừa nhận rằng các khoản nợ bất ngờ hoặc tiềm ẩn – đặc biệt là những khoản nợ liên quan
đến tái cấp vốn của khu vực tài chính – có thể làm nợ công tăng đáng kể và đe dọa

[16]


tính bền vững của nó. Chi phí của chính phủ cho việc đương đầu với các cuộc khủng
hoảng hệ thống ngân hàng trong 3 thập kỷ vừa qua trung bình là 16% GDP.
Các nghiên cứu thực nghiệm đã cung cấp một loạt các ngưỡng nợ công tùy thuộc
vào tình hình của mỗi quốc gia và những mục tiêu chính sách được ưu tiên. Những ước

tính từ tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP thấp như là 15% đối với những quốc gia đã từng
vỡ nợ cho đến mức cao hơn khoảng 60 – 70%. Tuy nhiên, những ước tính này thậm chí
vẫn còn nhiều nghi vấn. Dữ liệu lịch sử về nợ công (không giống như nợ nước ngoài) bị

hạn chế, chủ yếu là số liệu của các nước công nghiệp và trong khoảng thời gian tương
đối gần đây. Nghiên cứu về nợ công trong nước đã bị gạt sang một bên do quan điểm
cho rằng các thị trường mới nổi thường sử dụng nợ nước ngoài hơn là nợ trong nước.

Chỉ gần đây mới có một bộ dữ liệu toàn diện về nợ công được biên soạn bởi IMF (2003)

và Reinhart và Rogoff (2008), cho phép các nhà nghiên cứu xem xét lại nợ công ảnh
hưởng như thế nào đến khả năng đạt được các mục tiêu của họ.
1.3.

Ngưỡng chịu đựng nợ công và chuỗi vỡ nợ trong lịch sử thế giới.

1.3.1. Khái niệm “Ngưỡng chịu đựng nợ công”
Không phải lúc nào nợ công cao cũng sẽ ngay lập tức mang lại những kết cục bi
đát. Thực tế trên thế giới cho thấy những cuộc khủng hoảng nợ công chỉ diễn ra khi
chính phủ quốc gia nào đó không thể trả nợ đúng hạn, cả nợ gốc và nợ lãi, nên phải
tuyên bố phá sản quốc gia hoặc cầu cứu sự trợ giúp quốc tế.
Có nhiều nghiên cứu về bản chất của khủng hoảng nợ công đã được tiến hành,
đồng thời cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về khủng hoảng nợ công. Theo định
nghĩa của Manasse, Roubini và Schimmelpfennig (2003): “Một quốc gia được cho là
bị khủng hoảng về nợ công nếu được Standard & Poor’s xếp hạng là vỡ nợ, hoặc
được nhận một khoản vay không ưu đãi lớn của IMF”.
Nợ công phản ánh và ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và khả năng tài chính của
một nền kinh tế. Chính vì vậy, việc đánh giá khoản nợ của một quốc gia có an toàn hay
không trở nên vô cùng cần thiết đối với các nhà đầu tư cũng như chính bản thân chính
phủ của quốc gia đó.
Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới chưa có tiêu chuẩn chung về mức ngưỡng an toàn đối
với các chỉ tiêu về nợ công để áp dụng cho tất cả các nước.
1.3.2. Chuỗi vỡ nợ trong lịch sử thế giới
Trong lịch sử nợ dài hạn của một quốc gia, có nhiều nước bị vỡ nợ trên nợ nước
ngoài của họ và điều này tái diễn nhiều lần trong lịch sử. Gần đây, nhiều nước ở Châu
Âu đang gặp phải những vấn đề nợ nần nghiêm trọng cũng như đã trải qua vấn đề đó

[17]



trong những năm 2010, 1932, 1890, 1837. Vấn đề nợ của Hy Lạp đã thu hút nhiều sự
chú ý trong thời gian khi đất nước này đã vỡ nợ nước ngoài sáu lần trong vòng 200
năm qua. Cũng trong khoảng thời gian đó, Tây Ban Nha đã vỡ nợ sáu lần và Bồ Đào
Nha vỡ nợ năm lần. Nhưng vấn đề không chỉ bị giới hạn ở các nước Châu Âu, mà còn
xảy ra ở các nước thuộc khu vực Mỹ Latin, ví dụ, Brazil, một tâm điểm của sự chú ý
sau này, đã vỡ nợ chín lần trong 200 năm qua. Tuy nhiên, ở một mặt khác, một vài
nước đã tránh được vỡ nợ trong những thập kỷ qua. Ấn Độ, Hàn Quốc, Malaysia,
Singapore, và Thái Lan là những thành viên nổi bật và cũng có mối tương quan lớn với
nền kinh tế Việt Nam trong danh sách này.
Sự tương phản giữa lịch sử của các nước có lịch sử vỡ nợ và các nước có lịch sử
không vỡ nợ tóm tắt trong bảng 1.2. Trong giai đoạn từ năm 1824 đến năm 2001, các
khoản nợ của Brazil và Argentina hoặc là vỡ nợ hoặc là trải qua tái cấu trúc nợ ¼ thời
gian, Venezuela và Colombia gần 40% thời gian, và Mexico gần như ½ kể từ khi nó
độc lập.
Trong đó, trung bình chuỗi những quốc gia vỡ nợ có lạm phát hằng năm vượt
quá 40% chiếm khoảng ¼ thời gian. Ngược lại, các nền kinh tế mới nổi trong bảng với
lịch sử không có vỡ nợ nước ngoài hoặc tái cấu trúc thì không có năm nào mà lạm phát
vượt quá 40%. Bảng 1.2 cũng bao gồm một mẫu các nước đã phát triển với lịch sử
không vỡ nợ nước ngoài.

Phần trăm của
giai đoạn 12
tháng với lạm
phát bằng hoặc
lớn hơn 40%
1958 - 2001*

Số quan sát Phần trăm

vỡ nợ hoặc
các năm
tái cấu trúc trong trạng
1824 - 1999 thái vỡ nợ
hoặc tái cấu
trúc nợ
1824 – 1999

Số năm kể từ
năm cuối
cùng trong
trạng thái vỡ
nợ hoặc tái
cấu trúc nợ

Xếp hạng
của
Institutional
Investor
9/2002**

Các nước mới nổi với ít nhất một lần tái cấu trúc hoặc vỡ nợ nước ngoài
từ 1824
Argentina

47,2

4

25,6


[18]

0

15,8


Brazin

59,0

7

25,6

7

39,9

Chile

18,6

3

23,3

17


66,1

Colombia

0,8

7

38,6

57

38,7

Ai Cập

0,0

2

12,5

17

45,5

Mexico

16,7


8

46,9

12

59,0

Philippines

2,1

1

18,5

10

44,9

Thổ Nhỉ Kỳ

57,8

6

16,5

20


33,8

Venezuela

11,6

9

38,6

4

30,6

Trung bình

23,8

5,2

27,3

16

41,6

Các nước mới nổi với lịch sử không có tái cấu trúc hoặc vỡ nợ nước ngoài
Hàn Quốc

0,0


0

0,0

---

65,6

Malaysia

0,0

0

0,0

---

57,7

Ấn Độ

0,0

0

0,0

---


47,3

Singapore

0,0

0

0,0

---

86,1

Thái Lan

0,0

0

0,0

---

51,9

Trung bình

0,0


0,0

0,0

---

61,7

Các nước công nghiệp với lịch sử không có tái cấu trúc hoặc
vỡ nợ nước ngoài
Austrailia

0,0

0

0,0

Canada

0,0

0

0,0

New
Zealand


0,0

0

0,0

[19]

-------

84,5
89,4
81,2


Na Uy

0,0

0

0,0

---

93,1

Anh

0,0


0

0,0

---

94,1

Mỹ

0,0

0

0,0

---

93,1

Trung bình

0,0

0

0,0

---


89,2

* Giai đoạn bắt đầu: 1962:1 đối với Singapore; 1964:1 đối với Brazil; 1966:1 đối với
Thái Lan; 1970:1 đối với Thổ Nhĩ Kỳ; và 1971:1 đối với Hàn Quốc
** Theo tỷ lệ từ 0 đến 100, ở đây 100 cho biết xác suất thấp nhất của vỡ nợ trên nợ chính
phủ.
Chú ý: --- biểu thị không được áp dụng.

Nguồn: Reinhart, Rogoff và Savastano (2003)

Bảng 1.2: Lịch sử vỡ nợ của các nước trên thế giới
Các nền kinh tế thị trường mới nổi hôm nay thường không tạo ra chuỗi vỡ nợ.
Nhưng chuỗi vỡ nợ đã xuất hiện ở châu Âu ít nhất là từ thế kỷ mười sáu, Tây Ban Nha
đã vỡ nợ mười ba lần từ thế kỷ mười sáu đến thế kỷ hai mươi, với ghi chép vỡ nợ đầu
tiên vào năm 1557 và cuối cùng vào năm 1882. Chỉ trong thế kỷ mười chín, Bồ Đào
Nha, Đức, Áo đã vỡ nợ nước ngoài năm lần, và Hy Lạp, với bốn lần vỡ nợ trong suốt
giai đoạn này. Pháp vỡ nợ hai lần trong giai đoạn từ năm 1800 đến 1932.
1.4.

Các thành phần đo lường ngưỡng chịu đựng nợ công

1.4.1. IICR
Chỉ số xếp hạng toàn cầu IICR của Institutional Investor về độ ổn định của nợ
công đối với mỗi quốc gia. Số liệu dựa trên thông tin cung cấp từ các chuyên gia kinh
tế hàng đầu và các nhà phân tích rủi ro nợ công tại các ngân hàng toàn cầu hàng đầu,
các công ty Chứng khoán. Các đáp viên sẽ phải đánh giá từng quốc gia theo thang
điểm từ 0 đến 100. Trong đó, 100 tương đương với rủi ro chắc chắn vỡ nợ.

[20]



1.4.2. Lạm phát
Lạm phát là sự tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian. và
sự mất giá trị của một loại tiền tệ. Khi so sánh với các nước khác thì lạm phát là sự
giảm giá trị tiền tệ của một quốc gia này so với các loại tiền tệ của quốc gia khác.
Lạm phát là một loại thuế tàng hình, nó có thể giúp làm giảm Nợ/Tổng sản
phẩm quốc nội do làm tăng GDP danh nghĩa. Tuy nhiên, lưu ý rằng lạm phát chủ yếu
làm giảm giá trị thực của các khoản nợ bằng nội tệ. Đối với các khoản nợ bằng ngoại
tệ, khi lạm phát gia tăng cũng thường kèm theo sự mất giá của nội tệ và làm tăng gánh
nặng nợ công nước ngoài. Ngoài ra, lạm phát bị chi phối bởi tăng trưởng cung tiền, và
tăng trưởng cung tiền thường có mối quan hệ chặt với thâm hụt ngân sách.
Lạm phát cao làm cho Chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người dân,
nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trần trọng hơn. Chính phủ được lợi trong
nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài. Lý do là vì: lạm phát đã làm tỷ giá giá tăng
và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài tính
trên cá khoản nợ.
1.4.3. Cán cân vãng lai/GDP
Tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán của một quốc gia ghi chép những
giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài
nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư
trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng
mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho
người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài
khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ. Ngược lại, nếu nên nợ lớn hơn bên
có thì gọi là thâm hụt tài khoản vãng lai.
Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do IMF
soạn năm 1993, tài khoản vãng lai bao gồm:
● Cán cân thương mại hàng hóa
● Xuất khẩu

● Nhập khẩu
● Cán cân thương mại phi hàng hóa
● Cán cân dịch vụ

[21]











Vận tải
Du lịch
Các dịch vụ khác
Cán cân thu nhập
Kiều hối
Thu nhập từ đầu tư
Các chuyển khoản
Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được
gộp chung vào trong tính toán này.
Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất khẩu

ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên tài khoản
vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này.
Cùng với tài khoản vốn, và thay đổi trong dự trữ ngoại hối, nó hợp thành cán

cân thanh toán.
Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, hay
khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia
nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hàm ý quốc
gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách
bền vững. Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính bằng
phần trăm của GDP lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng
lai không lành mạnh.
Cán cân vãng lai/GDP thể hiện tỉ trọng giữ độ thâm hụt/thặng dư trong việc trao
đổi đầu tư với nước ngoài so với tỉ trọng toàn bộ GDP. Nếu mức độ tham hụt càng lớn,
rủi ro vỡ nợ của quốc gia đó càng cao.
1.4.4. Dự trữ quốc gia
Dự trữ quốc gia là nguồn dự trữ chiến lược của Nhà nước nhằm chủ động đáp
ứng những yêu cầu cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn,
dịch bệnh; bảo đảm quốc phòng, an ninh; tham gia bình ổn thị trường, góp phần ổn
định kinh tế vĩ mô và thực hiện các nhiệm vụ đột xuất bức thiết khác của Nhà nước.
Để đối phó với các khoản vay đến hạn cũng như được chấp nhận cho vay những
khoản vay mới, một quốc gia phải chứng mình được mình có một quỹ dự trữ quốc gia

[22]


đủ dày để đối phó với các rủi ro. Trong trường hợp xảy ra vỡ nợ, dự trữ quốc gia chính
là lớp đệm đầu tiên hấp thụ tác động của sự cố này.

1.5.
1.5.1.

1.4.5. Nợ/GDP
Khả năng mất khả năng thanh toán chủ yếu vào quy mô của khoản nợ so với

khả năng chi trả, đo lường theo GDP, xuất khẩu, hoặc tổng thu của chính phủ. Cụ thể,
chính phủ được coi là có khả năng thanh toán nợ nếu như giá trị chiết khấu của cán cân


ngân sách cơ bản trong tương lai lớn hơn hoặc bằng với giá trị hiện tại của khoản nợ
công. Tương tự như vậy, một quốc gia được coi là có khả năng thanh toán nợ nếu như
giá trị chiết khấu của cán cân thương mại trong tương lai lớn hơn giá trị hiện tại của
khoản nợ nước ngoài. Cán cân ngân sách cơ bản và cán cân vãng lai có vai trò quan
trọng do chúng làm tăng tích lũy các khoản nợ và ảnh hưởng đến ràng buộc về ngân
sách. Trong tương lai, một chính phủ/quốc gia không thể có thâm hụt ngân sách cơ bản
và thâm hụt thương mại mãi được. Đến một thời điểm nào đó, ngân sách cơ bản và cán
cân thương mại buộc phải thặng dư để tránh mất khả năng thanh toán. Do vậy, các cán
cân này sẽ ảnh hưởng đến khả năng chi trả bất kể quy mô nợ là bao nhiêu.
Khối lượng nợ (Debt stock) là chỉ số phản ánh gánh nặng nợ có tính đến các khoản
thanh toán nợ trong tương lai. Khối lượng nợ có thể được đo lường bởi giá trị danh nghĩa
hoặc giá trị hiện tại ròng (NPV) của nợ. Khi đo lường theo giá trị danh nghĩa, khối lượng
nợ chính là tổng giá trị của các khoản chi trả nợ gốc trong tương lai, mà không liên quan
gì đến lãi suất của nợ. Khi đo lường theo NPV, khối lượng nợ là tổng giá trị chiết khấu của
các dòng chi trả nợ gốc và lãi trong tương lai. Tuy nhiên, thước đo NPV cũng bỏ qua sự
thay đổi của năng lực trả nợ theo thời gian. Gánh nặng nợ hiện tại có thể không đáng ngại
nếu như năng lực trả nợ của quốc gia tăng dần trong tương lai. Ngoài ra, cũng như nhiều
quốc gia có thu nhập thấp khác, nợ nước ngoài của Việt Nam phần lớn là nợ ưu đãi với lãi
suất thấp và kì hạn dài. Do vậy, thước đo NPV có thể phản ánh chính xác hơn gánh nặng
nợ nước ngoài. Trong khi đó, nợ trong nước thường có lãi suất thị trường, do vậy giá trị
danh nghĩa thường được sử dụng khi xem xét tổng nợ công.

Phương pháp nghiên cứu
Theo khuyến nghị ngưỡng an toàn của IMF/WB
Khung phân tích nợ bền vững (Debt Sustainability Framework – DSF) cho các
nước có thu nhập thấp được IMF và WB đưa vào sử dụng năm 2005, được cập nhật vào


[23]


×