Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

thực trạng khả năng trả nợ công của nền kinh tế việt nam và những hệ lụy của việc vay đảo nợ trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.52 KB, 33 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thế giới hiện đang trong bối cảnh tăng trưởng chậm lại, khủng hoảng nợ
công đang xảy ra tại Châu Âu và điển hình nhất là Hi Lạp đã rơi vào tình trạng vỡ
nợ và ảnh hưởng liên đới đến khu vực đồng tiền chung Châu Âu Eurozone, trở thành
bài học lớn cho các quốc gia về khả năng trả nợ công và việc đảo nợ vay hay nói
chung là công tác quản lý nợ công. Các yếu tố rủi ro ngày càng tăng cùng với sự
hiện hữu nguy cơ suy thoái kép được cảnh báo... dẫn đến sự cần thiết phải tái cơ cấu
lại nền kinh tế toàn cầu và cải cách hệ thống tài chính với việc áp dụng các tiêu
chuẩn về an toàn vốn. Việc đảm bảo tính bền vững của nợ công và giảm nợ xấu là
những thách thức chung đối với nhiều nước trên thế giới. Trong những năm gần đây,
cùng với sự đổi mới của đất nước thì “Nợ công” vượt quá cao so với mức an toàn ở
những nền kinh tế phát triển, và đang trở thành chủ đề nóng hiện nay bởi đó là yếu
tố có nguy cơ đe dọa những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế toàn cầu, làm người
ta lo ngại tới viễn cảnh nền kinh tế một lần nữa lại rơi vào tình trạng suy giảm. Nợ
công là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính mỗi quốc gia.
Từ những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang phát triển như Việt
Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao như Mỹ,
Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của
chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ công cần phải được sử dụng hợp lý,
hiệu quả và quản lý tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ công có thể xảy ra với bất cứ
quốc gia nào tại bất cứ thời điểm nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Trong
khi đó, nợ công của Việt Nam hiện đang ở mức 54,3% GDP với tốc độ tăng trưởng
nợ hàng năm trên 15%. Với tốc độ này, nợ công của Việt Nam sẽ vượt 100% GDP,
một con số đáng báo động đối với một nền kinh tế nhỏ đang phát triển và phụ thuộc
nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ. Do đó, bài viết
sẽ nêu lên những con số cụ thể về tình hình khả năng trả nợ công cũng như những hệ
lụy của việc vay đảo nợ ở Việt Nam nhằm phản ánh rõ hơn thực trạng tình hình nợ
công của Việt Nam hiện nay.




PHẦN 1: NỢ CÔNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm nợ công
Nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm trong
việc chi trả khoản nợ đó. Do đó thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng nghĩa
với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ công hoàn
toàn khác với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc
gia, bao gồm hai bộ phận là nợ của Nhà nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân). Như vậy, nợ công chỉ là một bộ phận của nợ quốc gia mà thôi.
1.2. Bản chất nợ công
Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước
- Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trực tiếp và gián
tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do
đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản. Gián tiếp là trong trường
hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước
vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc
về cơ quan đứng ra bảo đảm.
- Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền
- Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế –
xã hội vì lợi ích chung.
1.3. Phân loại nợ công
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong
việc quản lý và sử dụng nợ công. Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có
ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ.
- Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay thì nợ công gồm có hai loại: nợ trong
nước và nợ nước ngoài. Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ



chức Việt Nam. Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài,
vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
- Theo phương thức huy động vốn: nợ công có hai loại là nợ công từ thỏa thuận trực
tiếp và nợ công từ công cụ nợ.
Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa thuận vay
trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho vay. Nợ
công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn
hoặc dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài
chính.
- Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ công có ba loại

nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại thông
thường.
- Theo trách nhiệm đối với chủ nợ: nợ công được phân loại thành nợ công phải trả
và nợ công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền
địa phương có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách
nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ
có nghĩa vụ trả nợ.
- Theo cấp quản lý nợ: nợ công được phân loại thành nợ công của trung ương và nợ
công của chính quyền địa phương.
1.4. Những tác động của nợ công
a. Tác động tích cực:
- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để
phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Việt Nam
đang trong giai đoạn tăng tốc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong đó cơ sở hạ tầng là yếu tố có tính chất quyết định. Muốn phát
triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với



chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết
để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
- Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư.
Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước
vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả
kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế.
Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại giao quan trọng của các
nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp
tác kinh tế song phương. Nếu Việt Nam biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có
thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng
lợi ích nước bạn, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền và chính sách nhất quán của
Đảng và Nhà nước.
b. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra những tác động
tiêu cực nhất định. Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các
khoản tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, nợ công sẽ tỏ
ra kém hiệu quả và tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu thiếu cơ chế giám
sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công.
- Vấn đề nợ công của Việt Nam rõ ràng đang gây ra hàng loạt các mối lo ngại từ
quy mô, đến tính an toàn và khả năng tài trợ nợ công.
- Nợ chính phủ sẽ có những tác động không nhỏ tới tăng trưởng kinh tế bởi nó có
thể sẽ bị giảm xuống nếu các biện pháp can thiệp quá nhanh và quá mạnh, có thể
làm vô hiệu những chính sách kinh tế vĩ mô.
- Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn
một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng
của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:
+) Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường
xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.



+) Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì
sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính
phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển
thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
+) Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một
tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong
nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm méo mó nền
kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội.
- Rõ ràng, nợ công ở Việt Nam đang tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách đã
trở thành căn bệnh kinh niên, đầu tư không ngừng mở rộng kéo theo lạm phát và lãi
suất tăng cao khiến cho việc tài trợ nợ công ngày càng trở nên đắt đỏ và tạo áp lực
tín dụng dài hạn.
- Việc chính phủ sử dụng công cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu
suất cao vì có hiện tượng crowding out (đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên).
+) Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái phiếu
chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể
hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người
mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng. Điều này
tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư. Nó
còn tác động tích cực đến động cơ tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu
dùng. Nó còn làm cho lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài,
dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng
làm giảm xuất khẩu ròng. Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu,
song mức tăng không lớn vì có những tác động phụ làm giảm tổng cầu.
+) Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ tài sản
thì khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất, người
nắm giữ tài sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Tổng cầu
nhận được tác động tích cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ (nhờ phát hành công
trái) và tăng tiêu dùng nói trên. Tuy nhiên, tăng tiêu dùng dẫn tới tăng lượng cầu



tiền. Điều này gây ra áp lực lạm phát, vì thế tác động tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng
thực (bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát).

PHẦN 2: THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
2.1. Đôi nét về tình hình nợ công ở Việt Nam hiện nay
Theo Luật Quản lý nợ công của Việt Nam năm 1999, nợ công bao gồm: nợ chính
phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địaphương. Theo báo cáo của
Bộ Tài chính, cơ cấu nợ công của Chính phủ tính đến ngày 31/12/2015 như sau: nợ
chính phủ chiếm 80%, nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 19% và nợ chính quyền
địa phương chiếm 1%. Trong đó, tỷ lệ nợ nước ngoài của Chính phủ/GDP giảm nhẹ
từ 28,7% năm 2010 xuống quanh mức 28% năm 2014, chỉ duy trì vay thêm vốn
ODA với quy mô hạn chế. Việc Chính phủ hạn chế tăng vay nợ nước ngoài những
năm gần đây được cho là một bước đi đúng hướng.
Trong cơ cấu nợ nước ngoài, nợ song phương chiếm 46,66%, nợ đa phương chiếm
44,59%, còn lại các khoản nợ tín dụng thương mại, tín dụng tư nhân và trái phiếu...
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, nợ công ở Việt Nam có xu
hướng tăng lên rất nhanh. Theo biểu đồ cung cấp tỷ lệ nợ công và nợ chính phủ/GDP
do bộ tài chính cung cấp sau đây:


Theo đánh giá của Bộ Tài chính, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam có xu hướng tăng
liên tục với tốc độ khá nhanh, từ mức 51,7% năm 2010 lên mức 59,6% năm 2014, và
ước tính sẽ đạt 61,3% năm nay và mức 64,3% trong năm 2017, sát mức trần 65% mà
Quốc hội cho phép.

Còn theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công Việt Nam tăng từ 31,7%
GDP năm 2001 lên 42,2% GDP năm 2005, đạt 52,7% GDP năm 2010. Tính trong
giai đoạn 2007-2011, nợ công Việt Nam đã tăng khoảng 25%, đạt mức tăng trung

bình 5%/năm. Tính theo tốc độ tăng trung bình, đến năm 2019, dự báo nợ công Việt
Nam sẽ đạt mức 100% GDP. Nợ công tăng cao khiến thâm hụt ngân sách của Việt
Nam luôn ở mức lớn, dừng ở mức -5,8% GDP năm 2010 theo đánh giá của Bộ Tài
chính, và ở mức -6% năm 2010 theo đánh giá của IMF.
Nếu so sánh với một số nước đang gặp khủng hoảng nợ công ở châu Âu như Hy
Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hoặc Mỹ thì tình hình nợ công của Việt Nam hiện
nay vẫn được đánh giá là khá an toàn. Vào thời điểm công bố khủng hoảng cuối năm
2009, nợ công ở Hy Lạp đạt mức 115% GDP, còn ở các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha nợ công đều khoảng 100%. GDP, thâm hụt ngân sách của các nước này đều
gấp 3-4 lần cho phép.. Đối với Việt Nam, các tổ chức xếp hạng quốc tế mặc dù duy
trì mức tín nhiệm nợ công là B+ nhưng họ đều cho rằng nợ công Việt Nam năm
2011 là khoảng 58,4% GDP (theo đánh giá của IMF) và mức nợ công này đã cao
hơn rất nhiều so với mức trung bình 37% đối với hạng B. Trong khu vực châu Á,
tỷ lệ nợ công của Việt Nam đang ở mức cao hơn khá nhiều so với một số nước có
điều kiện phát triển tương đồng trong khu vực. Đáng chú ý là tỷ lệ này có xu hướng
giảm dần hoặc khá ổn định tại các nước khác kể từ năm 2006, trong khi ở Việt Nam
lại tăng rõ nét, nhất là giai đoạn 2009 đến nay.ỷ lệ nợ nước ngoài/GDP của Việt Nam
tăng nhẹ trong giai đoạn 2010-2014 (dao động từ 37-40%), nhưng vẫn cao so với


các nước cùng nhóm khác trong khu vực (Bangladesh từ 18-22%; Thái Lan từ 3036%; Philippin từ 22-30%; Indonesia từ 24-33%).
* Biểu đồ về tỷ lệ nợ công/GDP và tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP của Việt Nam so với
các nước cùng khu vực đến ngày 31/12/2015

2.2. Thực trạng và rủi ro trong khả năng trả nợ công của nền kinh tế Việt Nam.
Như đã đề cập, nợ công của Việt Nam hiện nay gồm nợ trong nước và nợ nước
ngoài. Nợ trong nước chủ yếu là trái phiếu chính phủ mà hệ thống ngân hàng thương
mại mua, còn nợ nước ngoài phần lớn là nợ song phương và nợ đa phương, trong đó
nợ nước ngoài của doanh nghiệp do Chính phủ bảo lãnh chiếm một tỷ trọng rất lớn.
Cả nợ trong nước và nợ nước ngoài ở Việt Nam đều rất đáng lo ngại.

Đối với vấn đề nợ trong nước, hiện nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đang gặp
rất nhiều vấn đề về tính thanh khoản và nợ xấu. Nghĩa vụ trả nợ nội địa trong 3 năm
tới được ước tính trên số lượng trái phiếu chính phủ đã phát hành và sẽ đáo hạn
trong vòng 3 năm tới, ước khoảng 215.000 tỷ đồng, tương đương 20% dự toán thu
ngân sách nhà nước của thời điểm đó (2014).
Nếu trong trường hợp xấu (chẳng hạn có biến động bất lợi về tỷ giá hoặc bong
bóng bất động sản bị vỡ), hệ thống ngân hàng Việt Nam có khả năng chao đảo và có
nguy cơ sụp đổ, lúc đó Chính phủ không thể đủ dự trữ ngoại tệ và dự trữ nợ để cứu


giúp các ngân hàng, làm cho nền kinh tế dễ có nguy cơ sụp đổ. Nợ trong nước thông
qua trái phiếu ngân hàng sẽ chỉ khiến khủng hoảng của khu vực này là tiền đề cho
khủng hoảng ở khu vực kia.
Đối với vấn đề nợ nước ngoài, khả năng thanh toán nợ của Việt Nam được Ủy
ban Giám sát Tài chính Quốc gia đánh giá theo các chỉ tiêu: (i) quy mô của khoản nợ
so với GDP; (ii) quy mô khoản nợ so với tổng thu ngân sách nhà nước và so với
tổng giá trị xuất khẩu. Tính trong GDP, nợ nước ngoài của Việt Nam tang từ 31,4 %
năm 2006 lên 42,2% năm 2010 và nợ nước ngoài của khu vực công tăng từ 26,7%
năm 2006 lên 31,1% GDP năm 2010. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ so
với thu ngân sách nhà nước duy trì ở mức 3,5-3,6%/năm, nghĩa vụ trả nợ trung và
dài hạn so với xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ duy trì ở mức 3,3-4,2%/năm trong giai
đoạn 2006-2010.
Tính toán thông qua các chỉ tiêu trên, có thể thấy khả năng thanh toán nợ của Việt
Nam đang giảm dần. Cụ thể, nếu xét theo chỉ tiêu quy mô của khoản nợ so với GDP
thì khả năng thanh toán nợ của Việt Nam đang giảm rất nhanh kể từ năm 2008. So
với tổng thu ngân sách nhà nước, năm 2010, tổng nợ công gấp gần hai lần (chưa bao
gồm nghĩa vụ trả nợ dự phòng cho các doanh nghiệp nhà nước). Còn tỷ lệ nợ công
nước ngoài với tổng giá trị xuất khẩu được tính xấp xỉ khoảng 44%.



Trong cơ cấu vay nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh
chiếm một tỷ lệ tương đối lớn và có xu hướng tăng mạnh. Nợ được Chính phủ bảo
lãnh phần lớn là nợ nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước. Trong điều kiện
doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả như hiện nay, nghĩa vụ trả nợ nước
ngoài của các doanh nghiệp đều dồn lên vai Nhà nước.

Tính thanh khoản nợ công của Việt Nam hiện nay vẫn được đánh giá là khá tốt vì
các khoản vay dài hạn với lãi suất thấp chiếm tới 80% (nghĩa vụ trả nợ đến năm
2013 chiếm khoảng 10% dự trữ ngoại hối quốc gia và nợ nước ngoài chiếm 20% dự
trữ ngoại hối hiện nay). Mặc dù vậy, nợ công của Việt Nam vẫn có thể xảy ra những
rủi ro về tính thanh khoản, khi thời hạn trả nợ bị xáo trộn (khoản nợ từ trung hạn và
dài hạn có thể chuyển thành ngắn hạn - trong trường hợp các chủ nợ gặp khó khăn
hay khủng hoảng kinh tế trong nước). Đặc biệt, rủi ro về tính thanh khoản của những
khoản nợ nước ngoài ngắn hạn là điều rất đáng lo ngại khi tỷ lệ dự trữ ngoại hối của
Việt Nam trên tổng dư nợ ngắn hạn đã và đang sụt giảm với tốc độ rất nhanh, từ mức
100 lần năm 2007 xuống còn 28 lần năm 2008, còn 3 lần năm 2009 và chỉ còn gấp
khoảng gần 2 lần năm 2010.


2.3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ công của nền kinh tế Việt Nam hiện
nay.
Nợ công hiện nay ở Việt Nam có thể xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất, mở rộng đầu tư công một cách ồ ạt nhưng không hiệu quả dẫn đến nợ
công tang mạnh. Trong nhiều năm qua, Nhà nước đầu tư rất lớn cho các công trình
công cộng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng, cảng biển, sân bay, đặc khu kinh tế... Các
chuyên gia cho rằng, với tình hình tỉnh nào cũng lập kế hoạch xây dựng cảng biển,
đệ trình kế hoạch làm sân bay, tỉnh nào cũng xin làm đặc khu kinh tế, thì đầu tư công
dàn trải và lãng phí là điều tất yếu xảy ra. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mỗi năm
Việt Nam cần khoảng 25 tỷ USD để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, trong khi đó vốn huy

động được hàng năm từ các nguồn của Nhà nước cũng như của tư nhân chưa đến 16
tỷ USD, phần còn lại là phải vay nợ nước ngoài. Chi tiêu và đầu tư nợ công kém
hiệu quả đang đem lại những rủi ro đáng báo
động cho nền kinh tế. Nó khiến mức thâm hụt ngân sách của Việt Nam luôn ở
mức rất cao trong khu vực, đồng thời khiến hiệu quả đầu tư trên một đồng vốn luôn
ở mức thấp. Nếu giai đoạn 2000-2005 bỏ ra gần 5 đồng có thể tạo ra 1 đồng tăng
thêm của GDP, đến giai đoạn 2006-2010 phải bỏ ra 7,4 đồng mới tạo ra 1 đồng tăng
thêm của GDP. Trong nhiều năm gần đây, Việt Nam đang gặp phải vấn đề thâm hụt
kép: thâm hụt ngân sách và chi tiêu công đều ở mức cao. Tuy chưa đủ điều kiện để
xảy ra một cuộc khủng hoảng nợ công như một số nước châu Âu và Mỹ như thời
gian qua, bởi Việt Nam vẫn là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao, nhưng một khi tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm vì nhiều lý do khác
nhau thì Chính phủ buộc phải lựa chọn các
gói kích thích kinh tế khiến nợ công ngày càng tăng mạnh hơn. Với mức nợ công
của Chính phủ như hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng đầu tư công tiếp tục có xu hướng
đi vay nước ngoài với lãi suất cao, khiến nợ công của Việt Nam càng tăng nhanh,
gây khả năng dễ bị tổn thương đối với nền kinh tế vĩ mô. Theo Cục Quản lý nợ và
Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ tăng từ


1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm vào năm 2009 và năm 2010 đạt 2,1%/năm.
Với thực trạng này, chi phí trả lãi đang trở thành gánh nặng ngày càng gia tăng
của Chính phủ. Trong khi nợ nước ngoài của khu vực công tăng cao những năm
gần đây, thì tỷ lệ dự trữ ngoại hối so với tổng dư nợ ngắn
hạn lại có xu hướng giảm mạnh. Điều này cho thấy việc trả nợ nước ngoài ở Việt
Nam tuy vẫn ở trong mức độ an toàn, nhưng có nguy cơ mất
an toàn trong nhiều năm tới khi Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung
bình, không còn được hưởng ưu đãi từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) trong khi vay nợ từ các ngân hàng thương mại nước ngoài gặp rất nhiều khó
khăn.

Thứ hai, chính sách kích cầu của Chính phủ trong những năm qua đã khiến bội
chi ngân sách của Việt Nam tăng cao và Chính phủ buộc phải vay nợ để bù đắp ngân
sách, dẫn đến nợ công tăng cao. Năm 2008, Chính phủ chi 1 tỷ USD để kích cầu đầu
tư và tiêu dùng, đến năm 2009, Chính phủ lại tung hai gói kích cầu với tổng trị giá 9
tỷ USD. Nhờ các gói kích cầu này, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi tích
cực trong khủng hoảng, nhưng đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến nợ
công gia tăng. Ngân sách nhà nước vốn đã rất căng thẳng vì nguồn thu từ thuế giảm
trong những năm khủng khoảng kinh tế toàn cầu, cùng với giá dầu thế giới giảm
khiến doanh thu của Chính phủ bị ảnh hưởng, cho nên việc tung ra các gói kích cầu
trên đã ảnh hưởng mạnh đến tài chính công.
Thứ ba, nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước ngày càng lớn. Mặc dù trong cơ
cấu nợ công của Việt Nam hiện nay chưa tính đến nợ của khu vực doanh nghiệp nhà
nước, nhưng trong cơ cấu nợ của doanh nghiệp do Chính phủ bảo lãnh hầu hết là các
khoản vay ngắn hạn, vì vậy trong trường hợp doanh nghiệp không có khả năng trả
nợ, Chính phủ sẽ là người phải trả nợ thay cho doanh nghiệp. Hơn thế, nhiều chuyên
gia cho rằng, việc không tính nợ của doanh nghiệp nhà nước trong cơ cấu nợ công
của Việt Nam là điều khó lường trước được rủi ro, có khả năng đưa Việt Nam rơi
vào cái bẫy khủng hoảng nợ công nếu không kiểm soát tốt nợ của doanh nghiệp nhà
nước. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, đầu tư của


22/100 doanh nghiệp nhà nước lớn năm 2010 tương đương 17 tỷ USD (17% GDP),
và nếu tính cả 100 doanh
nghiệp nhà nước thì quy mô đầu tư của khu vực doanh nghiệp này là rất lớn,
trong đó phần lớn là đi vay. Theo báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội vào ngày
1/11/2010, nợ của 81/91 doanh nghiệp nhà nước (chưa tính Vinashin) trong năm
2009 là 813.435 tỷ đồng, tương đương 49% GDP. Nếu tính cả nợ của Vinashin, nợ
của khu vực doanh nghiệp nhà nước vào cuối năm 2009 tương đương 54,2% GDP.
Rõ ràng nợ của cả doanh nghiệp nhà nước và Chính phủ đều tăng rất nhanh trong
một thời gian rất ngắn, trong đó mức tăng nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước

thật sự đáng lo ngại. Nếu nhìn vào con số tuyệt đối, sau khi trừ đi các khoản nợ nước
ngoài và với những tính toán thận trọng nhất thì trong năm 2009, khu vực doanh
nghiệp nhà nước chiếm không dưới 60% trong tổng tín dụng nợ nội địa tăng them
của toàn nền kinh tế. Đây là bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp nhà nước là đối
tượng được hưởng lợi nhiều nhất từ chương trình hỗ trợ lãi suất và kích cầu của
Chính phủ năm 2009. Với mức nợ của doanh nghiệp nhà nước lớn như trên, Chính
phủ không nên loại nợ của doanh nghiệp nhà nước ra khỏi nợ công của Việt Nam
bởi nếu doanh nghiệp nhà nước không trả được nợ thì ngân sách sẽ phải gánh.


PHẦN 3: ĐẢO NỢ VÀ NHỮNG HỆ LỤY CỦA VAY ĐẢO NỢ TRONG
THỜI GIAN QUA
3.1. Khái niệm đảo nợ và những tác động của đảo nợ tới nền kinh tế
3.1.1. Khái niệm đảo nợ vay
Đảo nợ là việc khách hàng (doanh nghiệp hoặc cá nhân) vay một khoản vay mới
để trả món nợ cũ cho chính tổ chức tín dụng đó hoặc để trả nợ cho tổ chức tín dụng
khác. Về bản chất, đây chính là biện pháp cơ cấu lại khoản vay theo thỏa thuận giữa
tổ chức tín dụng và khách hàng nhằm tăng khả năng thu hồi nợ. Theo Luật quản lý
nợ công, đảo nợ được định nghĩa là “việc vay mới để trả một hoặc nhiều khoản nợ
hiện có”. Tuy nhiên, rủi ro ở chỗ các khoản vay được cơ cấu lại có thể tăng lên và
ảnh hưởng đến cả hệ thống tín dụng. Vì thế, theo quy định hiện hành, việc đảo nợ sẽ
tuân theo quy định Chính phủ và hướng dẫn về nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam.
Tính đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam chưa có quy định hướng dẫn về việc đảo
nợ. Luật các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà nước ban hành năm 2010 song
không có điều khoản nào quy định về đảo nợ. Một số văn bản dưới luật không cho
phép cơ cấu lại nợ nếu mục đích của việc cơ cấu lại nợ là để lấy nợ mới trả nợ cũ
nhằm che giấu nợ xấu. Tại khoản 4 Điều 14, Nghị định số 202/2004/NĐ-CP năm
2004 có quy định “Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 9.000.000 đồng đối với một
trong những hành vi sau: Miễn giảm lãi suất; gia hạn nợ gốc hoặc lãi, điều chỉnh kỳ

hạn trả nợ gốc và lãi; đảo nợ không theo quy định của pháp luật”. Ngoài ra, khoản 2
Điều 35, Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp có quy định doanh nghiệp muốn giải thể
phải thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và với điều kiện là “không
dùng vốn vay mới, kể cả đảo nợ, để thanh toán các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác đến hạn phải trả”.


3.1.2. Phân loại tác động của vay đảo nợ tới nền kinh tế
Trên thực tế, hành vi đảo nợ được tiếp cận trên hai giác độ:
(1) Tích cực: đảo nợ nhằm che giấu nợ xấu, doanh nghiệp không thể trả nợ vay
nhưng ngân hàng vẫn kéo dài khoản nợ để làm đẹp sổ sách, thì hành vi đảo nợ này
cần phải nghiêm cấm;
(2) Tiêu cực: đảo nợ nhằm hỗ trợ sản xuất - kinh doanh cho doanh nghiệp gặp khó
khăn tạm thời nhưng về tầm nhìn lâu dài vẫn rất có triển vọng kinh doanh và cơ hội
phát triển tăng doanh thu lợi nhuận được đảm bảo, không trả được nợ đúng hạn thì
ngân hàng sẽ kéo dài thời hạn nợ. Tuy nhiên, ngân hàng khi tái cơ cấu nợ cho khách
hàng cần chứng minh được khách hàng đó có khả năng trả nợ, chứ không phải thực
hiện cơ cấu lại nợ để làm sạch nợ xấu, làm đẹp báo cáo và trốn tránh việc phải lập
các khoản dự phòng nợ xấu theo quy định.
Thực tế cho thấy, ranh giới giữa đảo nợ để che giấu nợ xấu với đảo nợ để hỗ trợ
sản xuất rất khó phân biệt, chủ yếu phụ thuộc vào quan điểm và đạo đức của từng
ngân hàng. Vì vậy, hành vi đảo nợ tiềm ẩn nhiều rủi ro khi có rất nhiều khoản nợ
đáng lý ra đã quá hạn phải chuyển xuống nhóm nợ xấu, thì cách giãn nợ và đảo nợ
làm cho các món nợ đó trở thành nợ bình thường, chất lượng các món nợ được đảm
bảo một cách giả tạo. Điều này đồng nghĩa với việc Bảng cân đối tài sản của ngân
hàng sẽ trở nên “sạch” hơn và các ngân hàng cũng không phải trích lập dự phòng rủi
ro, giúp cải thiện các con số về lợi nhuận. Ngược lại, nếu giữ nguyên các khoản vay
này thì chất lượng tín dụng của ngân hàng có thể sụt giảm từ nhóm 3 (nợ dưới tiêu
chuẩn) xuống nhóm 4 (nợ nghi ngờ mất vốn), thậm chí nhóm 5 (nợ có khả năng mất

vốn), đồng nghĩa với việc rủi ro tín dụng tăng lên, buộc các ngân hàng phải ghi nhận
khoản chi phí trích lập dự phòng rủi ro tăng tương ứng, làm suy giảm đáng kể lợi
nhuận của ngân hàng.


3.2. Những hệ lụy của đảo nợ vay trong thời gian qua
3.1.1. Dưới góc độ doanh nghiệp.
Năm 2009, Nhà nước có chính sách hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay
vốn ngân hàng để sản xuất - kinh doanh nhằm giảm giá thành sản phẩm hàng hoá,
duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm, trong điều kiện nền kinh tế bị tác động
của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Theo tính toán, với
mức hỗ trợ lãi suất 4% từ gói hỗ trợ khoảng 17.000 tỷ đồng, thì số vốn dành cho các
doanh nghiệp vào khoảng 620.000 tỷ đồng. Đối tượng được hỗ trợ lãi suất chủ yếu
là các đơn vị thuộc lĩnh vực xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp, diện chính
sách xã hội hóa giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa thể thao, môi trường. Thời hạn vay
được hỗ trợ lãi suất tối đa là 8 tháng, áp dụng trong năm 2009. Mức lãi suất hỗ trợ
cho khách hàng vay là 4%/năm, tính trên số dư nợ vay và thời hạn cho vay thực tế
nằm trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 02 đến 31 tháng 12 năm 2009. Phương
thức thực hiện hỗ trợ lãi suất là đến kỳ hạn thu lãi tiền vay, các ngân hàng thương
mại giảm trừ ngay số lãi tiền vay phải trả của khách hàng bằng với số lãi tiền vay
được hỗ trợ lãi suất. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển số lãi tiền vay đã hỗ trợ
lãi suất trên cơ sở báo cáo số tiền hỗ trợ lãi suất của ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện gói hỗ trợ lãi suất nói trên, rất dễ xảy ra hiện
tượng cán bộ tín dụng và khách hàng doanh nghiệp cấu kết với nhau để cho vay đảo
nợ nhằm hưởng lợi từ chính sách hỗ trợ lãi suất của Nhà nước. Do vậy, về phía ngân
hàng, cần tăng cường việc áp dụng các chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh, đặc
biệt đối với cán bộ tín dụng. Trước và sau khi giải ngân cho khách hàng, cần xem
xét kỹ hồ sơ tín dụng và điều kiện vay vốn của khách hàng. Đối với các khách hàng
đáp ứng đủ điều kiện vay vốn và có mục đích sử dụng vốn vay đúng đối tượng được
hỗ trợ lãi suất mới được xét duyệt cho vay hỗ trợ lãi suất. Mặt khác, cần kiểm soát

chặt chẽ và có hiệu quả các khoản vay để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh
của khách hàng. Hỗ trợ lãi suất giúp khách hàng vượt qua khó khăn, ví dụ, nếu trước
đây lãi suất vay vốn lưu động là 8,5%/năm thì hiện nay với việc hỗ trợ lãi suất,
khách hàng chỉ phải vay với lãi suất 4,5%/năm. Như vậy, giúp cho khách hàng ổn


định sản xuất, giảm chi phí và giá thành, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm và nâng
cao năng lực cạnh tranh.
Năm 2012, khó khăn của các doanh nghiệp do ảnh hưởng của lạm phát cao và suy
giảm tăng trưởng kinh tế năm 2011 bắt đầu lộ rõ, thể hiện ở con số thống kê số
doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động, thua lỗ và có nguy cơ phá sản tăng đột
biến. Sự suy giảm sức mua của toàn bộ nền kinh tế, chỉ số tồn kho cao khiến doanh
nghiệp không có động lực vay vốn để sản xuất, và đầu tư. Không chỉ các doanh
nghiệp xây dựng, bất động sản rơi vào khủng hoảng, mà hàng loạt các doanh nghiệp
trong các lĩnh vực kinh doanh khác hiện cũng đang phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn. Thực hiện Nghị quyết số 13/NQ-CP của Chính phủ về một số giải pháp tháo
gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ thị trường; Ngân hàng Nhà nước đã
chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan và địa phương thực hiện các biện pháp cơ cấu
lại nợ (thời hạn trả nợ, lãi suất, cho vay mới trả nợ cũ) nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp vay vốn phục vụ sản xuất - kinh doanh, đặc biệt đối với các doanh
nghiệp có triển vọng phát triển, có sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường nhưng
hiện đang gặp khó khăn về tài chính. Tuy nhiên, trong thực tế triển khai Nghị quyết
này, nhiều lãnh đạo ngân hàng chia sẻ “kinh tế tăng trưởng chậm, sản xuất kinh
doanh gặp khó đã khiến nhiều công ty không còn động lực, xin vay vốn chỉ nhằm
mục đích đảo nợ”. Cho vay đảo nợ dẫn đến hậu quả phản ánh không đúng thực chất
tình trạng nợ xấu, tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho hệ thống ngân hàng và cho toàn bộ nền
kinh tế do sự thiếu minh bạch về thông tin.
Một DN do số thu về kinh doanh nhiều năm không bù đủ chi phí, nên phải vay
ngân hàng để bù đắp phần thiếu hụt đó và số vay lần sau nhiều hơn lần trước. Song,
khi chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng bị kiểm soát chặt chẽ, ngân hàng

không thể tiếp tục cho vay. DN buộc phải bán tài sản để trả nợ, quy mô DN giảm đi
và dần dần “biến mất”. Không ít DN có năng lực tài chính yếu, nhưng cũng “nhảy”
vào kinh doanh bất động sản - một lĩnh vực hái ra tiền trong những năm trước đây.
Nhưng bong bóng tài sản trên thị trường bất động sản xì hơi, hàng hoá không có
người mua, do đó DN không thể trả được nợ ngân hàng khi đến đến hạn. Việc phát


mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn cho vay của ngân hàng cũng bế tắc do thị trường
bất động sản “đóng băng” và thủ tục hành chính không đơn giản. Nợ xấu của các
ngân hàng phát sinh. Nguy hiểm hơn nữa, một số DN đã sử dụng vốn vay ngắn hạn
để đầu tư dài hạn. Khi đó, trả nợ tiền vay bằng nguồn thu từ dự án đầu tư là hoàn
toàn không thể và khi không được tiếp tục vay đảo nợ, DN đã đứng bên bờ vực của
sự phá sản...
Lâm vào tình trạng nêu trên, một số chủ DN đã tìm đến thị trường tín dụng đen,
đưa ra những thông tin không đúng hoặc không có thật về DN hoặc dự án của mình
để huy động vốn từ nhân dân. Song, cái gì đến ắt vẫn đến, dù đảo đến hàng trăm lần
thì nợ vẫn còn là nợ. Và, kết quả là, chủ DN lại gánh thêm tội lừa đảo. Sự nghiệp
kinh doanh hoàn toàn bị tiêu tan.
Thực trạng của vay đảo nợ còn rất nhiều tranh cãi. Việc cho vay đảo nợ (cho vay
nợ mới để trả nợ cũ) rất rủi ro nếu cho vay đảo nợ không đúng quy định, không đảm
bảo các điều kiện cho vay an toàn, trong đó có việc nhằm mục đích che giấu, lấp
liếm nợ xấu.
Cũng giống như việc cho vay một khoản vay hoàn toàn mới để sản xuất kinh
doanh hay trả nợ, việc cho vay đảo nợ theo nghĩa thông thường nhất cũng chỉ là việc
vay nợ mới để trả nợ cũ, vì vậy nó chưa nói lên rủi ro gì cụ thể.
Tuy nhiên, sẽ là rủi ro nếu cho vay đảo nợ không đúng quy định, không bảo đảm
các điều kiện cho vay an toàn, trong đó có việc nhằm mục đích che giấu, lấp liếm nợ
xấu. Khi đó, rủi ro cũng giống như với mọi khoản cho vay nói chung.
Tù mù quy định pháp lý
Điều khó nhất hiện nay là cơ sở pháp lý để cho phép hay cấm việc đảo nợ đang

rất tù mù. Ngay khái niệm thế nào được coi là đảo nợ cũng không có quy định rõ.
Chỉ biết rằng, việc cho vay đảo nợ đã từng bị cấm trong suốt nhiều năm.
Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 lần đầu tiên “bật đèn xanh” cho việc đảo nợ
bằng quy định “Việc đảo nợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ”.


Điều này vẫn đang được quy định và có hiệu lực trong Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN, chỉ khác một chút là không phải theo quy định của Chính
phủ mà là theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
“Tuy nhiên, đã gần 20 năm nay, Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước chưa
bao giờ có quy định về việc đảo nợ. Vì vậy, việc đảo nợ vẫn không có cơ sở pháp lý.
Tuy nhiên, qua nhiều công văn hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước, thì hiện nay có
thể hiểu, chỉ cấm việc đảo nợ nhằm che giấu nợ xấu, mà không cấm đảo nợ nói
chung. Nghị định hiện hành số 96/2014/NĐ-CP ngày 17-10-2014 của Chính phủ
“Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng” cũng đã
không còn xử phạt hành vi đảo nợ”.
Mặt tích cực của việc đảo nợ là nợ của cả ngân hàng và doanh nghiệp vẫn được
coi như nợ tốt. Thậm chí nợ xấu nhiều nhưng lại được đánh giá là xấu ít, nên vẫn
được tiếp tục cho vay, vẫn được lãi suất thấp.
Mặt tiêu cực là nợ không xấu và doanh nghiệp hoạt động bình thường nhưng lại
ẩn chứa nguy cơ lớn, mà thực chất đó là nợ xấu, là doanh nghiệp có rủi ro lớn. Tức
là con bệnh rất nặng, nhưng lại vẫn cứ như là bệnh nhẹ, thậm chí cứ như là người
hoàn toàn khoẻ mạnh.
Điều đó một mặt tạo điều kiện tốt nhất để doanh nghiệp vượt qua khó khăn, trở lại
hoạt động tốt, nhưng mặt khác nó cũng dễ tạo ra tâm lý chủ quan, dễ đánh lừa cả
doanh nghiệp, cả ngân hàng cũng như các cơ quan quản lý. Một khi con số bị che
giấu, nợ xấu không đúng, sức khoẻ doanh nghiệp không đúng và tình hình cả nền
kinh tế không đúng, nguy cơ rủi ro cho tất cả đương nhiên là lớn hơn.
Trên thực tế, một số doanh nghiệp lớn luôn đứng trước tin đồn nợ ngân hàng với
số lượng cực “khủng”. Các doanh nghiệp “phải” có dự án mới hoặc mở rộng một

lĩnh vực kinh doanh để làm cơ sở cho ngân hàng giải ngân. Từ đó dẫn đến không
kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp, rủi ro nợ xấu cho ngân hàng.
Thực tế việc doanh nghiệp “càng lớn càng vay” nhìn chung là đương nhiên và
hoàn toàn bình thường bởi doanh nghiệp càng lớn lại càng muốn và có khả năng đầu
tư lớn. Đi đối với điều đó là số tiền vay thường cũng lớn tương ứng với quy mô đầu


tư, phát triển dự án. Điều quan trọng nhất là khả năng an toàn vốn vay, trong đó có
tỷ lệ vay vốn lớn hay nhỏ và khả năng trả nợ cao hay thấp, chứ không phải là nợ
nhiều hay ít.
“Phao cứu sinh” nào cho DN?
Một khi doanh nghiệp không kiểm soát được khả năng an toàn vốn vay, bài học
về nợ xấu năm 2008 của các ngân hàng Hoa Kỳ dường như lại ứng với một số
trường hợp của doanh nghiệp Việt Nam. Tháng 11/2008, Tổng thống Hoa Kỳ
George W.Bush đã phải đệ trình Hạ viện phê chuẩn gói cứu trợ 700 tỷ USD cho các
ngân hàng và công ty tài chính nước này. Người dân Hoa Kỳ nổi giận với lý do các
định chế tài chính đã kiếm bộn tiền khi thị trường thuận lợi, giờ lại dùng tiền thuế
của người dân để sửa chữa cho những sai lầm của các ông lớn phố Wall. Nhưng lúc
đó, sự công bằng đã bị bỏ qua một bên, Hạ viện Hoa Kỳ miễn cưỡng phê chuẩn lời
thỉnh cầu của Tổng thống bởi các ngân hàng này lớn đến mức “không thể cho sụp
đổ”.
Xét ở góc độ nào đó, việc nhà nước xem xét giải cứu một doanh nghiệp nào đó
quả là có sự bất công, không bình đẳng khi chỉ cứu doanh nghiệp này mà không cứu
doanh nghiệp khác. Cùng là bệnh trọng, nhưng bệnh nhân này thì được cứu sống vì
được các bác sĩ tận tình cứu chữa, với thuốc hay, thầy giỏi, con bệnh khác thì phải
chết hoặc tàn tật, vì chỉ được điều trị qua loa, toàn là giả dược.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là bề nổi, cần phải tìm hiểu rõ bản chất của sự việc mới có
thể đánh giá được là có nên cứu, cần cứu và phải cứu hay không. Sự sống còn của
một vài doanh nghiệp lớn, thậm chí là siêu lớn (chỉ đối với Việt Nam), nhiều khi tác
động dây truyền và ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế.

Ngay quy định của pháp luật về hoạt động bình thường của doanh nghiệp cũng đã
có sự phân biệt khác nhau giữa doanh nghiệp nhỏ và lớn. Chẳng hạn như doanh
nghiệp vừa và nhỏ thuộc nhóm đối tượng được ưu đãi về lãi suất vay ngân hàng,
được quỹ bảo lãnh doanh nghiệp nhỏ và vừa bảo lãnh vay vốn ngân hàng, hay được
áp dụng lộ trình giảm thuế suất thu nhập doanh nghiệp xuống 20% trước doanh
nghiệp lớn.


“Tuy nhiên, giải cứu doanh nghiệp lớn tức là ảnh hưởng đến sự vận hành bình
thường của nền kinh tế thị trường, thậm chí làm méo mó môi trường kinh doanh. Tất
nhiên, nếu điều gì đó rất không hợp lý với nền kinh tế thị trường đúng nghĩa thì rất
có thể lại phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
Đối với một doanh nghiệp nào đó rơi vào khủng hoảng nợ và cần được giải cứu,
có nhiều phương án có thể áp dụng như: giãn nợ bằng việc gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ
hạn trả nợ; đảo nợ; cho vay thêm vốn để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh; khoanh nợ
(tạm dừng thu nợ và dừng tính lãi); xoá, miễn, giảm nợ gốc và lãi; bán nợ (cho
VAMC hoặc các tổ chức khác),… Trong đó việc giãn nợ và đảo nợ là dễ được chấp
nhận hơn cả.
Tuy nhiên, phương án cứu tốt nhất là chính doanh nghiệp phải mạnh dạn chấp
nhận tái cơ cấu, cắt bỏ, hy sinh bớt quy mô và lợi ích, chứ không thể giữ lại toàn bộ.
Vì vậy, muốn nhanh chóng vượt qua khó khăn và dễ được ngân hàng chấp nhận giải
cứu thì phải cắt giảm, tiết kiệm chi phí; bán bớt nợ xấu để làm trong sạch sổ sách;
bán bớt tài sản (nhất là tài sản thế chấp) để trả nợ; bán bớt dự án không phải là hoạt
động cốt lõi để tập trung năng lực khôi phục doanh nghiệp.
3.1.2. Dưới góc dộ Nhà nước
Trong nhiều thời điểm thì việc chính phủ đi vay đảo nợ cũng đã xảy ra, không ít
các trường hợp việc chính phủ Việt Nam phải đi vay để thực hiện việc thanh toán
các khoản nợ. Xem xét các tình huống đã xảy ra:



28/8/2014, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Văn Nên được các báo

trong nước dẫn lời xác nhận rằng "chính phủ đang tính toán vay một khoản khác
tương đương với lãi suất thấp hơn" do khoản vay khoảng 1 tỷ đôla trước đây lãi
cao".
Nếu kế hoạch được thông qua, đây sẽ là lần thứ ba chính phủ Việt Nam phát hành
trái phiếu quốc tế.
Hồi năm 2005, chính phủ Việt Nam cũng đã phát hành trái phiếu quốc tế tại thị
trường chứng khoán New York để vay 750 triệu đôla, với kỳ hạn 10 năm và lãi suất
7,125%/năm, theo báo điện tử VnEconomy.


"Số trái phiếu này sẽ đến hạn trả nợ gốc và lãi vào năm 2016. Tuy nhiên, do
Chính phủ cho Vinashin vay lại toàn bộ số trái phiếu nói trên và khoản vay đã không
được sử dụng hiệu quả, nên Vinashin hầu như không có khả năng trả nợ cho Chính
phủ."
"Trong năm 2010, chính phủ Việt Nam tiếp tục phát hành 1 tỷ đôla trái phiếu kỳ
hạn 10 năm tại Sở giao dịch chứng khoán Singapore với lãi suất 6,75%/năm, báo
này cho biết thêm. Số tiền này sau đó được Chính phủ cho một số tập đoàn kinh tế
lớn như Dầu khí, Điện lực, Vinalines... vay lại", báo này cho biết:
“Chính phủ dự kiến vay 452.000 tỉ đồng (hơn 20 tỉ đô la Mỹ), và đặt kế hoạch trả
nợ 273.000 tỉ đồng (12 tỉ đô la Mỹ) trong trong năm 2016.”
Đây là những con số chính theo Quyết định 1011/QĐ-TTg về kế hoạch vay, trả nợ
của Chính phủ và các hạn mức vay nợ năm 2016 vừa được Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc ký. Khoản vay này dùng để bù đắp bội chi là 254.000 tỉ đồng; phát hành trái
phiếu Chính phủ cho đầu tư là 60.000 tỉ đồng; vay ODA, ưu đãi để cho vay lại là
43.000 tỉ đồng; vay đảo nợ khoảng 95.000 tỉ đồng.
Về nguồn huy động vốn, vay trong nước thông qua phát hành trái phiếu, vay từ
quỹ bảo hiểm xã hội và SCIC là 336.000 tỉ đồng.
Vay nước ngoài từ nguồn vốn ODA, ưu đãi 4,7 tỉ đô la Mỹ (99.000 tỉ đồng, trong

đó 43.000 tỉ đồng cho vay lại, và 56.000 tỉ đồng để bù đắp bội chi ngân sách nhà
nước).
Chính phủ cũng sẽ vay 17.000 tỉ đồng thông qua các hình thức khác như phát
hành trái phiếu ngoại tệ trong nước, phát hành trái phiếu quốc tế. Trường hợp cần
thiết phát hành trái phiếu Samurai, tức trái phiếu bằng đồng Yen phát hành tại Nhật.
Cũng theo Quyết định trên, kế hoạch trả nợ của Chính phủ năm 2016 là 273.000 tỉ
đồng (12 tỉ đô la Mỹ). Trong số đó, trả nợ trực tiếp của Chính phủ được bố trí trong
dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2016 là 154.000 tỉ đồng; trả nợ vay nước
ngoài của Chính phủ về cho vay lại khoảng 24.000 tỉ đồng; đảo nợ khoảng 95.000 tỉ
đồng.


Đáng chú ý là Quyết định trên căn cứ vào Luật NSNN năm 2002, do Luật NSNN
mới sẽ chỉ có hiệu lực vào đầu năm 2017. Theo Luật mới này, vốn trái phiếu chính
phủ sẽ được tính vào bội chi, và như vậy, số bội chi dự kiến sẽ cao lên.
Báo cáo của Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội tháng 3 vừa rồi khẳng
định, bội chi NSNN năm sau cao hơn năm trước, không đạt mục tiêu đề ra. Cụ thể,
năm 2011 mức bội chi là 4,4% GDP, năm 2012 là 5,4% GDP, năm 2013 là 6,6%
GDP, năm 2014 là 5,64% GDP, và năm 2015 là 6,11% GDP.
Đánh giá khái quát về tình hình thực hiện NSNN giai đoạn 2011-2015, Ủy ban
cho rằng nợ công ngày càng tăng nhanh và đang tiệm cận đến mức trần cho phép.
Trong đó, nợ Chính phủ đã vượt trần (cuối năm 2015 là 50,3% GDP).
NSNN còn nợ nhiều khoản chi, nhất là nợ chi cho chính sách an sinh xã hội. Tỷ
trọng chi thường xuyên tăng nhanh, chi đầu tư phát triển giảm mạnh. Kỷ luật, kỷ
cương tài khóa và các nguyên tắc cân đối, quản lý tài chính - ngân sách chưa được
chấp hành nghiêm theo quy định của pháp luật.
Một mặt, việc chính phủ vay đảo nợ trên thị trường quốc tế khi lãi suất đang ở
mức thấp được coi là một bước đi hợp lý và khôn ngoan để giảm bớt gánh nặng lãi
suất cao trước đây. Hơn thế nữa, mới đây, Moody's đã nâng xếp hạng tài chính của
Việt Nam cũng là một tín hiệu thuận lợi

Mặt khác, việc sử dụng khoản vay này như thế nào, ngoài việc đảo nợ, là điều
được quan tâm để tránh việc lặp lại kinh nghiệm cay đắng của khoản vay 750 triệu
đôla đã được trao hết cho Vinashin mà nay nhà nước đang phải trả nợ thay cho tập
đoàn này.
Về mặt kỹ thuật, ngoài lãi suất, phí thu xếp khoản vay của các ngân hàng tham
gia thu xếp khoản tín dụng này cũng không phải thấp cũng cần phải được xem xét
một cách cẩn trọng.
Xét tổng quan ở góc độ của một chính phủ khi phải đi vay đảo nợ có thể coi là sự
yếu kém.
Việc lấy nợ mới để đắp vào nợ cũ là một bước đi thể hiện sự yếu kém về nguồn
lực và sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trước quốc tế. Nếu nhà nước Việt Nam


cần vay tiền để trả nợ cũ thì nó thể hiện một yếu thế của nhà nước. Nó cho thấy nhà
nước không đủ phương tiện để thanh toán nợ khi đáo hạn mà phải lấy nợ mới để trả
nợ cũ.
Điều này không được thị trường tài chính quốc tế đánh giá cao, vì nó biểu hiện
cho sự yếu kém của hệ thống tài chính và sẽ ảnh hưởng hệ số tín nhiệm của Việt
Nam khi đi vay trên thị trường quốc tế.
Nếu nền kinh tế phát triển tốt, doanh nghiệp phát triển tốt, không phải chết hàng
loạt như lúa sau đợt bão như hiện nay thì doanh nghiệp sẽ có tiền trả thuế cho nhà
nước, giúp nhà nước có khả năng thanh toán nợ, giúp nền kinh tế phát triển tốt, tăng
dự trữ ngoại hối và giải quyết nợ.


×