Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

thực trạng khả năng trả nợ công của nền kinh tế việt nam, những hệ lụy của việc vay đảo nợ thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.89 KB, 22 trang )

1.

PHẦN 1: Thực trạng khả năng trả nợ công của nền
kinh tế Việt Nam
1.1

Khái quát về nợ công

1.1.1 Khái

niệm của nợ công

Nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách
nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử
dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy
nhiên, nợ công hoàn toàn khác với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản
nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai bộ phận là nợ của Nhà nước và nợ
của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, nợ công chỉ là một bộ
phận của nợ quốc gia.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Nợ
công, theo nghĩa rộng, là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ
của Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung
ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách nhà nước quyết
định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp vỡ nợ, nhà
nước phải trả nợ thay). Theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của
Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức
độc lập được Chính phủ bảo lãnh thanh toán.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu công quá lớn của Chính phủ. Chi
tiêu công nhằm: Thứ nhất, phân bổ nguồn lực; Thứ hai, phân phối lại thu
nhập; Thứ ba, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, chi tiêu công quá lớn hay kém
hiệu quả cũng sẽ gây ra những bất ổn cho nền kinh tế. Nhu cầu chi tiêu quá


nhiều (đặc biệt cho các khoản đầu tư công) so với nguồn thu có được (từ thuế,
phí, lệ phí thu được) sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách buộc Chính phủ phải đi vay
tiền trong hoặc ngoài nước ( thông qua nhiều hình thức như phát hành công trái,
trái phiếu, hiệp định tín dụng và vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại,
các thể chế tài chính quốc tế…) để trang trải thâm hụt ngân sách dẫn đến nợ
công. Nợ công đã từng được biết đến vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX khi
Mêhicô là quốc gia đầu tiên tuyên bố không trả được nợ vay của Quỹ tiến tệ
quốc tế (năm 1982). Tiếp đến khủng hoảng nợ công ở Áchentina (năm 2001)
với khoản nợ 90 tỷ USD – mức nợ lớn nhất trong lịch sử đất nước. Hàng loạt
quốc gia với tổng số nợ lên đến 240 tỷ USD đã tuyên bố hoãn trả nợ.


Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công
bao gồm bốn nhóm chủ thể:
- Nợ của Chính phủ Trung ương và các Bộ, ban, ngành trung ương.
- Nợ của các cấp chính quyền địa phương.
- Nợ của Ngân hàng Trung ương
- Nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc
quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là
người chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ.
Tuy nhiên theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao
gồm ba nhóm là:
-Nợ Chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, ngoài nước,
được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân dân Chính phủ hoặc các
khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy
định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
-Nợ được Chính phủ bảo lãnh: là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
-Nợ chính quyền địa phương :là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc ủy
quyền phát hành.
Như vậy khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam
được đánh giá là hẹp hơn so với thông lệ quốc tế. Tại hầu hết các nước trên thế
giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định: Nợ công gồm nợ của Chính phủ và nợ
được Chính phủ bảo lãnh. Một số nước và vùng lãnh thổ, nợ công còn bao gồm
cả nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan, Bungari, Rumani…), nợ của
doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Inđônêxia…).
1.1.2 Đặc

trưng cơ bản của nợ công

Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về cơ
bản, nợ công có những đặc điểm chủ yếu sau:
-Thứ nhất, nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước.
Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ


mà Nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm
trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc
độ trả nợ trực tiếpvà trả nợ gián tiếp. Trả nợ trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước sẽ chịu trách
nhiệm trả nợ khoản vay. Trả nợ gián tiếp là trường hợp cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường
hợp bên vay không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng
ra bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam vay vốn nước ngoài).
-Thứ hai, nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ
nhằm đảm bảo hai mục đích: Một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử

dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh
tài chính quốc gia; Hai là, đề đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng
vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan
trọng về mặt chính trị xã hội. Nguyên tắc quản lý nợ công Việt Nam là Nhà
nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng
vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản trên.
-Thứ ba, mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển
kinh tế – xã hội vì lợi ích cộng đồng. Nợ công được huy động và sử dụng không
phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi
ích chung của cộng đồng. Ở Việt Nam, xuất phát từ bản chất của Nhà nước là
thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì
dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích
của nhân dân, cụ thể là đề phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và phải coi đó
là điều kiện quan trọng nhất.
1.2

Thực trạng nợ công ở Việt Nam và hệ lụy

1.2.1 Tình

trạng nợ công của Việt Nam

Đối với mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn nhất định trong quá trình quản lý xã
hội và nền kinh tế, Nhà nước có lúc cần huy động nhiều hơn nguồn lực từ trong
và ngoài nước. Nói cách khác, khi các khoản thu truyền thống như thuế, phí, lệ
phí không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu, Nhà nước phải quyết định vay nợ để


thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình và chịu trách nhiệm trong việc chi
trả khoản nợ đó - thường được gọi là nợ công.

Tại Việt Nam, nợ công có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của
đất nước. Là nguồn tài trợ hàng đầu cho đầu tư phát triển kinh tế của đất nước
thông qua ngân sách Nhà nước (NSNN) và là nguồn cung cấp vốn đứng thứ 2
của nền kinh tế với tỷ trọng vốn 16 - 17% vốn đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nợ công khu
vực đồng tiền chung châu Âu và những khó khăn nội tại của nền kinh tế trong
nước đã có ảnh hưởng nhất định đến tình hình nợ công của Việt Nam cả về quy
mô, cơ cấu, nghĩa vụ trả nợ và các chỉ số an toàn nợ công.
Sau 30 năm mở cửa kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tiềm lực của đất nước đã lớn mạnh hơn nhiều, đời sống
vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện, chính trị - xã hội
ổn định. Trong vòng 10 năm trở lại đây, GDP của Việt Nam đã có bước tăng
trưởng tới hơn 4 lần, nếu năm 2006 GDP cả nước chưa đạt 1.000 nghìn tỷ đồng
và GDP/đầu người khoảng 715 USD thì năm 2015 GDP đã đạt đến con số xấp
xỉ 4.200 nghìn tỷ đồng và GDP/đầu người là 2.019 USD. GDP tăng trưởng
tương đối bền vững, lạm phát được kiềm chế đáng kể. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn
thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền kinh tế của Việt Nam vẫn là
nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất
khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ yếu. Do đó, hiện tại
và trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ công nói
chung là một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ trợ về mặt tài chính
(tức là vay nợ và viện trợ phát triển chính thức) từ các tổ chức đơn phương, đa
phương trên thế giới để phát triển nền kinh tế hơn nữa.
Theo Bản tin tài chính số 4 năm 2016, chỉ trong vòng 6 năm (2010-2015),
nợ công Việt Nam đã tăng gấp 3 lần. Đến cuối năm 2015, về số tuyệt đối, dư nợ
công lên đến 2.608 nghìn tỷ đồng; về số tương đối, tỷ lệ nợ công/GDP ở mức
62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát 65% của Quốc hội. đến cuối năm 2016 dư nợ
công khoảng 64,73% GDP, dư nợ Chính Phủ khoảng 53,62%. Hai con số này
đều đã tiến đến sát ngưỡng nợ không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá
54% GDP trong Nghị quyết về kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm giai đoạn

2016 – 2020.
Theo nhiều chuyên gia, quy mô nợ công thực tế có thể cao hơn so với
mức công bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số tổ chức
quốc tế có sự khác biệt. Cụ thể, nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam dựa trên
nguyên tắc: Trách nhiệm thanh toán thuộc về chủ thể đi vay; còn nợ công theo
tiêu chuẩn quốc tế được xác định trên cơ sở: Chủ sở hữu thực sự hay pháp nhân
đứng sau chủ thể đi vay phải có trách nhiệm thanh toán. Theo đó, nợ công theo


tiêu chuẩn quốc tế sẽ bằng nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam cộng với nợ của:
Ngân hàng Nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức bảo hiểm xã hội và
an sinh xã hội và một số địa phương.
Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công là
động lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho các nước phát triển là
90%, các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30 40%. Vì vậy, mức ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hội đề ra 65% là phù hợp
với thông lệ quốc tế; và việc vượt ngưỡng tối ưu có thể tiềm ẩn rủi ro.
Nếu chỉ số nợ công/GDP của một quốc gia thể hiện quy mô nợ công so
với quy mô của nền kinh tế thì chỉ số nợ công trên bình quân đầu người thể hiện
trung bình mỗi người dân của quốc gia này đang gánh bao nhiêu nợ.
Theo đồng hồ nợ công toàn cầu The Global Debt Clock trên trang
Economist.com, tính đến thời điểm hiện tại, nợ công Việt Nam đang là 94,85 tỷ
USD, tương đương 45,6% GDP, chia bình quân đầu người là 1.039 USD, mức
gia tăng nợ là 9,3% /năm.
Mặc dù Bộ Tài chính khẳng định nợ công được quản lý, kiểm soát chặt
chẽ đảm bảo trong giới hạn cho phép nhưng Thủ tướng trong phiên họp mới đây
với cơ quan này đã nhắc lại việc tỷ lệ nợ công tăng rất nhanh, mức tăng trung
bình 5 năm qua là 18,4%, gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế và việc “nếu tính
đủ thì nợ đã vượt quá trần cho phép”.
Do đó, người đứng đầu Chính phủ đã cảnh báo về “việc không tránh khỏi
sự sụp đổ nền tài khoá quốc gia” nếu không chấm dứt được tình trạng trên.

Vì vậy, trong năm 2017, Thủ tướng yêu cầu các cơ quan chức năng phải
có cải cách đột phá trong tư duy ngân sách, kiểm soát nợ công và đảm bảo khả
năng trả nợ. Về phía Bộ Tài chính, một trong những giải pháp mà Bộ này sẽ
triển khai trong năm mới là không chuyển vốn vay về cho vay lại, bảo lãnh
Chính phủ thành vốn cấp phát ngân sách Nhà nước. Mặt khác, Bộ Tài chính
cũng khẳng định sẽ thực hiện đầy đủ các yếu tố tác động lên nợ công và khả
năng trả nợ trong trung hạn trước khi thực hiện các khoản vay mới.
Trước đó, ngay ngày đầu năm 2017, HSBC đã phát đi cảnh báo “nợ công
vẫn tăng và có thể ảnh hưởng đến những lựa chọn chính sách trong trường hợp
tăng trưởng sẽ thoái trào trong thời gian tới”.
HSBC cũng nhận định đối với trường hợp Việt Nam, nợ công đang tăng
lên không hẳn là một điều xấu: trong bối cảnh tăng trưởng mạnh, chắc chắn cần
thiết phải tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế


mạnh. Nhưng, trong thời gian dài, có thể phải đảm bảo việc điều điều tiết tăng
trưởng nợ.
“Việc hiện đại hóa và tăng trưởng ngoạn mục của Việt Nam có được là
nhờ sự gia tăng nhanh hơn về nợ công của quốc gia”, phía HSBC cho biết.
Nếu so sánh với một số nước đang gặp khủng hoảng nợ công ở châu Âu
như Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hoặc Mỹ thì tình hình nợ công của Việt
Nam hiện nay vẫn được đánh giá là khá an toàn. Vào thời điểm công bố khủng
hoảng cuối năm 2009, nợ công ở Hy Lạp đạt mức 115% GDP, còn ở các nước
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha nợ công đều khoảng 100% GDP, thâm hụt ngân sách
của các nước này đều gấp 3-4 lần cho phép.. Đối với Việt Nam, các tổ chức xếp
hạng quốc tế mặc dù duy trì mức tín nhiệm nợ công là B+ nhưng họ đều cho
rằng nợ công Việt Nam năm 2011 là khoảng 58,4% GDP (theo đánh giá của
IMF) và mức nợ công này đã cao hơn rất nhiều so với mức trung bình 37% đối
với hạng B. Trong khu vực châu Á, Việt Nam là nước có tỷ lệ nợ công/GDP cao
hơn nhiều so với Trung Quốc, Indonesia, Campuchia, Hàn Quốc, Đài Loan,

Thái Lan, Philippines.

1.2.2 Những

rủi ro tiềm ẩn của nợ công và quản lý nợ công ở Việt

Nam
Rủi ro trong chi tiêu công: Trong nhiều năm qua, tình hình chi tiêu công
ở Việt Nam không đạt hiệu quả cao. Vấn đề chi tiêu không đúng chế độ, sử
dụng tài chính không đúng mục tiêu, không đúng nguồn, tình trạng bội chi, lãng
phí và thất thoát diễn ra khá phổ biến. Số liệu của Kiểm toán Nhà nước năm
2008 công bố số tài sản mua sai chế độ, sử dụng sai mục đích của 8 bộ ngành
lên đến 95 tỷ đồng. Kiểm toán Nhà nước cũng thống kê những thất thoát tiền
của trong chi tiêu công ở hầu hết các dự án lên tới con số 783,8 tỷ đồng năm
2008. Trong chi tiêu thường xuyên, số tiền chi không đúng chế độ, không thuộc
nhiệm vụ chi ở 16/29 tỉnh được kiểm toán vượt quá con số quy định là 800 tỷ
đồng. Theo số liệu của Bộ Tài chính, tổng chi ngân sách nhà nước năm 2008
tăng 22,3% so với năm 2007 và bằng 118,9% so với dự toán. Trong đó, chi đầu
tư phát triển và chi thường xuyên vượt mức dự toán tương ứng ở mức 118,3%
và 113,3%. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong 9 tháng đầu năm 2011,
vốn đầu tư thực hiện từ Ngân sách Nhà nước là 131.364 tỷ đồng, tăng gần 24%
so với cùng kỳ năm trước. Việc cắt giảm đầu tư công đôi khi còn không hiệu
quả. Nhiều dự án trọng điểm đang đầu tư lại bị dừng đột ngột, chẳng hạn như
xây dựng bệnh viện cấp vùng ở Tiền Giang để giảm tải cho các bệnh viện tuyến
trên. Trong khi đó, một số khoản mục đầu tư cần cắt giảm như mua sắm thiết bị,
máy móc, xe cộ… vẫn chưa được cắt giảm nghiêm ngặt. Trong điều kiện thế


giới đang gặp khủng hoảng, mức chi công tăng cao như trên cho thấy kỷ luật
đầu tư công hiện nay của Việt Nam còn lỏng lẻo.

Rủi ro trong trả nợ công: Như đã đề cập, nợ công của Việt Nam hiện
nay gồm nợ trong nước và nợ nước ngoài. Nợ trong nước chủ yếu là trái phiếu
chính phủ mà hệ thống ngân hàng thương mại mua, còn nợ nước ngoài phần lớn
là nợ song phương và nợ đa phương, trong đó nợ nước ngoài của doanh nghiệp
do Chính phủ bảo lãnh chiếm một tỷ trọng rất lớn. Cả nợ trong nước và nợ nước
ngoài ở Việt Nam đều rất đáng lo ngại.
Đối với vấn đề nợ trong nước, hiện nay hệ thống ngân hàng Việt Nam
đang gặp rất nhiều vấn đề về tính thanh khoản và nợ xấu. Nghĩa vụ trả nợ nội
địa trong 3 năm tới được ước tính trên số lượng trái phiếu chính phủ đã phát
hành và sẽ đáo hạn trong vòng 3 năm tới, ước khoảng 215.000 tỷ đồng, tương
đương 20% dự toán thu ngân sách nhà nước của thời điểm đó (2014). Nếu trong
trường hợp xấu (chẳng hạn có biến động bất lợi về tỷ giá hoặc bong bóng bất
động sản bị vỡ), hệ thống ngân hàng Việt Nam có khả năng chao đảo và có nguy
cơ sụp đổ, lúc đó Chính phủ không thể đủ dự trữ ngoại tệ và dự trữ nợ để cứu
giúp các ngân hàng, làm cho nền kinh tế dễ có nguy cơ sụp đổ. Nợ trong nước
thông qua trái phiếu ngân hàng sẽ chỉ khiến khủng hoảng của khu vực này là
tiền đề cho khủng hoảng ở khu vực kia.
Đối với vấn đề nợ nước ngoài, khả năng thanh toán nợ của Việt Nam
được Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đánh giá theo các chỉ tiêu: (i) quy mô
của khoản nợ so với GDP; (ii) quy mô khoản nợ so với tổng thu ngân sách nhà
nước và so với tổng giá trị xuất khẩu. Tính trong GDP, nợ nước ngoài của Việt
Nam tăng từ 31,4 % năm 2006 lên 42,2% năm 2010 và nợ nước ngoài của khu
vực công tăng từ 26,7% năm 2006 lên 31,1% GDP năm 2010. Nghĩa vụ trả nợ
nước ngoài của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước duy trì ở mức 3,53,6%/năm, nghĩa vụ trả nợ trung và dài hạn so với xuất khẩu hàng hóa và dịch
vụ duy trì ở mức 3,3-4,2%/năm trong giai đoạn 2006-2010. Tính toán thông qua
các chỉ tiêu trên, có thể thấy khả năng thanh toán nợ của Việt Nam đang giảm
dần. Cụ thể, nếu xét theo chỉ tiêu quy mô của khoản nợ so với GDP thì khả năng
thanh toán nợ của Việt Nam đang giảm rất nhanh kể từ năm 2008. So với tổng
thu ngân sách nhà nước, năm 2010, tổng nợ công gấp gần hai lần (chưa bao
gồm nghĩa vụ trả nợ dự phòng cho các doanh nghiệp nhà nước). Còn tỷ lệ nợ

công nước ngoài với tổng giá trị xuất khẩu được tính xấp xỉ khoảng 44%.
Trong cơ cấu vay nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo
lãnh chiếm một tỷ lệ tương đối lớn và có xu hướng tăng mạnh. Nợ được Chính
phủ bảo lãnh phần lớn là nợ nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước. Trong
điều kiện doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả như hiện nay, nghĩa vụ
trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp đều dồn lên vai Nhà nước.


Tính thanh khoản nợ công của Việt Nam hiện nay vẫn được đánh giá là
khá tốt vì các khoản vay dài hạn với lãi suất thấp chiếm tới 80% (nghĩa vụ trả
nợ đến năm 2013 chiếm khoảng 10% dự trữ ngoại hối quốc gia và nợ nước
ngoài chiếm 20% dự trữ ngoại hối hiện nay). Mặc dù vậy, nợ công của Việt
Nam vẫn có thể xảy ra những rủi ro về tính thanh khoản, khi thời hạn trả nợ bị
xáo trộn (khoản nợ từ trung hạn và dài hạn có thể chuyển thành ngắn hạn - trong
trường hợp các chủ nợ gặp khó khăn hay khủng hoảng kinh tế trong nước). Đặc
biệt, rủi ro về tính thanh khoản của những khoản nợ nước ngoài ngắn hạn là
điều rất đáng lo ngại khi tỷ lệ dự trữ ngoại hối của Việt Nam trên tổng dư nợ
ngắn hạn đã và đang sụt giảm với tốc độ rất nhanh, từ mức 100 lần năm 2007
xuống còn 28 lần năm 2008, còn 3 lần năm 2009 và chỉ còn gấp khoảng gần 2
lần năm 2010..
1.2.3 Nguyên

nhân dẫn đến tình trạng nợ công hiện nay ở Việt Nam

Nợ công hiện nay ở Việt Nam có thể xuất phát từ một số nguyên nhân
chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, mở rộng đầu tư công một cách ồ ạt nhưng không hiệu quả dẫn
đến nợ công tăng mạnh. Trong nhiều năm qua, Nhà nước đầu tư rất lớn cho các
công trình công cộng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng, cảng biển, sân bay, đặc khu kinh
tế... Các chuyên gia cho rằng, với tình hình tỉnh nào cũng lập kế hoạch xây dựng

cảng biển, đệ trình kế hoạch làm sân bay, tỉnh nào cũng xin làm đặc khu kinh tế,
thì đầu tư công dàn trải và lãng phí là điều tất yếu xảy ra. Theo Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, mỗi năm Việt Nam cần khoảng 25 tỷ USD để đầu tư cho cơ sở hạ tầng,
trong khi đó vốn huy động được hàng năm từ các nguồn của Nhà nước cũng
như của tư nhân chưa đến 16 tỷ USD, phần còn lại là phải vay nợ nước ngoài.
Chi tiêu và đầu tư nợ công kém hiệu quả đang đem lại những rủi ro đáng báo
động cho nền kinh tế. Nó khiến mức thâm hụt ngân sách của Việt Nam luôn ở
mức rất cao trong khu vực, đồng thời khiến hiệu quả đầu tư trên một đồng vốn
luôn ở mức thấp. Nếu giai đoạn 2000-2005 bỏ ra gần 5 đồng có thể tạo ra 1
đồng tăng thêm của GDP, đến giai đoạn 2006-2010 phải bỏ ra 7,4 đồng mới tạo
ra 1 đồng tăng thêm của GDP. Trong nhiều năm gần đây, Việt Nam đang gặp
phải vấn đề thâm hụt kép: thâm hụt ngân sách và chi tiêu công đều ở mức cao.
Tuy chưa đủ điều kiện để xảy ra một cuộc khủng hoảng nợ công như một số
nước châu Âu và Mỹ như thời gian qua, bởi Việt Nam vẫn là một trong những
nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhưng một khi tốc độ tăng trưởng
kinh tế suy giảm vì nhiều lý do khác nhau thì Chính phủ buộc phải lựa chọn các
gói kích thích kinh tế khiến nợ công ngày càng tăng mạnh hơn.
Với mức nợ công của Chính phủ như hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng đầu
tư công tiếp tục có xu hướng đi vay nước ngoài với lãi suất cao, khiến nợ công
của Việt Nam càng tăng nhanh, gây khả năng dễ bị tổn thương đối với nền kinh


tế vĩ mô. Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ
nước ngoài của Chính phủ tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm vào
năm 2009 và năm 2010 đạt 2,1%/năm. Với thực trạng này, chi phí trả lãi đang
trở thành gánh nặng ngày càng gia tăng của Chính phủ. Trong khi nợ nước
ngoài của khu vực công tăng cao những năm gần đây, thì tỷ lệ dự trữ ngoại hối
so với tổng dư nợ ngắn hạn lại có xu hướng giảm mạnh. Điều này cho thấy việc
trả nợ nước ngoài ở Việt Nam tuy vẫn ở trong mức độ an toàn, nhưng có nguy
cơ mất an toàn trong nhiều năm tới khi Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập

trung bình, không còn được hưởng ưu đãi từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) trong khi vay nợ từ các ngân hàng thương mại nước ngoài gặp rất
nhiều khó khăn.
Thứ hai, chính sách kích cầu của Chính phủ trong những năm qua đã
khiến bội chi ngân sách của Việt Nam tăng cao và Chính phủ buộc phải vay nợ
để bù đắp ngân sách, dẫn đến nợ công tăng cao. Năm 2008, Chính phủ chi 1 tỷ
USD để kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đến năm 2009, Chính phủ lại tung hai gói
kích cầu với tổng trị giá 9 tỷ USD. Nhờ các gói kích cầu này, nền kinh tế Việt
Nam đã có nhiều thay đổi tích cực trong khủng hoảng, nhưng đó cũng là một
trong những nguyên nhân khiến nợ công gia tăng. Ngân sách nhà nước vốn đã
rất căng thẳng vì nguồn thu từ thuế giảm trong những năm khủng khoảng kinh
tế toàn cầu, cùng với giá dầu thế giới giảm khiến doanh thu của Chính phủ bị
ảnh hưởng, cho nên việc tung ra các gói kích cầu trên đã ảnh hưởng mạnh đến
tài chính công.
Thứ ba, nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước ngày càng lớn. Mặc dù
trong cơ cấu nợ công của Việt Nam hiện nay chưa tính đến nợ của khu vực
doanh nghiệp nhà nước, nhưng trong cơ cấu nợ của doanh nghiệp do Chính phủ
bảo lãnh hầu hết là các khoản vay ngắn hạn, vì vậy trong trường hợp doanh
nghiệp không có khả năng trả nợ, Chính phủ sẽ là người phải trả nợ thay cho
doanh nghiệp.
Hơn thế, nhiều chuyên gia cho rằng, việc không tính nợ của doanh
nghiệp nhà nước trong cơ cấu nợ công của Việt Nam là điều khó lường trước
được rủi ro, có khả năng đưa Việt Nam rơi vào cái bẫy khủng hoảng nợ công
nếu không kiểm soát tốt nợ của doanh nghiệp nhà nước. Theo báo cáo của Viện
Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, đầu tư của 22/100 doanh nghiệp nhà
nước lớn năm 2010 tương đương 17 tỷ USD (17% GDP), và nếu tính cả 100
doanh nghiệp nhà nước thì quy mô đầu tư của khu vực doanh nghiệp này là rất
lớn, trong đó phần lớn là đi vay. Theo báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội vào
ngày 1/11/2010, nợ của 81/91 doanh nghiệp nhà nước (chưa tính Vinashin)
trong năm 2009 là 813.435 tỷ đồng, tương đương 49% GDP. Nếu tính cả nợ của

Vinashin, nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước vào cuối năm 2009 tương
đương 54,2% GDP. Rõ ràng nợ của cả doanh nghiệp nhà nước và Chính phủ


đều tăng rất nhanh trong một thời gian rất ngắn, trong đó mức tăng nợ của khu
vực doanh nghiệp nhà nước thật sự đáng lo ngại. Nếu nhìn vào con số tuyệt đối,
sau khi trừ đi các khoản nợ nước ngoài và với những tính toán thận trọng nhất
thì trong năm 2009, khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm không dưới 60%
trong tổng tín dụng nợ nội địa tăng thêm của toàn nền kinh tế. Đây là bằng
chứng cho thấy các doanh nghiệp nhà nước là đối tượng được hưởng lợi nhiều
nhất từ chương trình hỗ trợ lãi suất và kích cầu của Chính phủ năm 2009. Với
mức nợ của doanh nghiệp nhà nước lớn như trên, Chính phủ không nên loại nợ
của doanh nghiệp nhà nước ra khỏi nợ công của Việt Nam bởi nếu doanh nghiệp
nhà nước không trả được nợ thì ngân sách sẽ phải gánh.
1.3

Khả năng trả nợ công của Việt Nam

Trong những năm đầu thập niên 90 VN là một nước nợ lớn, tổng nợ cao hơn
nhiều lần so với tổng thu nhập quốc dân. Tổng nợ năm 1990 là 23,27 tỷ USD trong
khi tổng thu nhập quốc dân (GNI) là 6,06 tỷ cho thấy sự khủng hoảng về khả năng
thanh toán nợ của VN. Tuy nhiên nhờ kinh tế tăng trưởng nhanh nên từ nửa sau thập
niên 90 tổng thu nhập quốc dân đã tăng lên liên tục cộng với việc giảm nợ và xóa nợ
của một số nhà tài trợ đặc biệt là Nga với những khoản nợ để lại từ thời Liên Xô cũ
nên tổng nợ giảm liên tục, đến năm 2000 tổng nợ chỉ còn 11,586 và chỉ bằng 1/3 so
với tổng thu nhập. Khả quan đối với phát triển kinh tế, VN đã nhận được nhiều khoản
vay phát triển mới đặc biệt là vốn ODA từ Nhật Bản, WB và ADB. Đến năm 2005 dù
tổng nợ đã tăng lên gần 20 tỷ USD nhưng cũng chỉ bằng khoảng 40% tổng thu nhập
quốc dân.


Nợ phải trả hàng năm và giá trị xuất khẩu

Nguồn: Asia
Bank 2007

Development

Giá trị xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ xuất khẩu thể hiện cho khả năng
trả nợ của một quốc gia. Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với kinh tế của
khu vực và thế giới, VN là một trong những nước có độ mở cửa thương mại lớn
nhất thế giới (tỉ lệ giá trị xuất nhập khẩu/GDP là 150%). Tổng giá trị xuất khẩu
của VN đã tăng 15 lần từ 2,4 tỷ USD năm 1990 lên 32,4 năm 2005 và hơn gấp


đôi tổng số nợ hiện hữu. Mặc dù VN có mức tổng nợ lớn nhưng nợ phải trả
hàng năm bao gồm trả nợ gốc và trả lãi lại khá thấp. Do phần lớn các khoản nợ
là những khoản viện trợ không hoàn lại hoặc vay ưu đãi với lãi suất thấp. Giá trị
xuất khẩu cao hơn gấp nhiều lần so với số nợ phải trả hàng năm cho thấy tính
thanh khoản trong khả năng thanh toán nợ nước ngoài.
Đối với những quốc gia đang phát triển, các khoản vay nước ngoài chủ
yếu là vay nợ của chính phủ hoặc do chính phủ đảm bảo. Nguyên nhân chủ yếu
ở đây là khu vực tư nhân chưa đủ uy tín để có thể vay mượn trực tiếp các nguồn
vốn từ bên ngoài. Do đó khả năng trả nợ của một quốc gia không chỉ phụ thuộc
vào giá trị xuất khẩu mà còn phải căn cứ vào nguồn thu của chính phủ.
Tổng nợ - nợ phải trả - thu ngân sách

Nguồn: Asia Development Bank 2007
Cùng với đà tăng trưởng kinh tế, nguồn thu của chính phủ tăng lên rất
nhanh từ mức dưới 1 tỷ USD năm 1990 đã tăng lên gần 5 tỷ năm 1995 và đến
năm 2005 đạt hơn 13 tỷ USD. Trong những năm gần đây nợ nước ngoài phải trả

hàng năm dưới 10% tổng thu ngân sách. Trong khi thu ngân sách của chính phủ
ngày càng tăng cao và tỉ trọng nợ phải trả không lớn là những điều khiện thuận
lợi đảm bảo cho khả năng thanh toán nợ của chính phủ và tạo được lòng tin cho
các nhà tài trợ.


Tỷ

lệ

vay

ngắn

hạn



dài

hạn

Cơ cấu về tỉ lệ nợ ngắn hạn và dài hạn cho thấy khả năng ổn định của
dòng vốn vay nợ nước ngoài. Tỉ lệ vay ngắn hạn càng cao thì dòng vốn càng dễ
đổi chiều và gây bất ổn cho nền kinh tế. Biều đồ cho thấy tuy có mức vay nợ
nhiều nhưng cơ cấu nợ nước ngoài của VN chủ yếu là nợ dài hạn. Tỉ lệ nợ dài
hạn trên tổng nợ luôn ở mức trên dưới 90% trong khi nợ ngắn hạn trên tổng nợ
thường ở mức dưới 10%, thời điểm cao nhất cũng ở mức 14% năm 1996. Cuộc
khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 khiến nhiều nước rơi vào khủng hoảng
do các dòng vốn chảy ra nhất là những nước vay nợ ngắn hạn cao như Thái Lan,

nhưng VN lại không bị ảnh hưởng trực tiếp một phần cũng vì tỉ lệ vay ngắn hạn
thấp.

-Trích từ một bài báo ( nguồn internet)
'Việt Nam có khả năng trả hết nợ công 100%'
Đây là khẳng định của ông Sandeep Mahajan – Chuyên gia Kinh tế
trưởng của Ngân hàng Thế giới( WB) tại Việt Nam tại phiên họp báo công bố
báo cáo kinh tế khu vực sáng nay.
World Bank dự báo thâm hụt tài khóa của Việt Nam sẽ bắt đầu giảm nhằm giảm
nguy cơ tăng nợ công. Theo đó, thâm hụt tài khóa của Việt Nam ở mức 6,5%
trong năm 2015 là kết quả của giảm thu và tăng chi đầu tư cơ bản và chi thường
xuyên. Yếu tố này đã làm áp lực tài khóa tăng lên.
Ước tính nợ công và nợ do nhà nước bảo lãnh (theo quy định của Bộ Tài chính)
đã đạt mức 62,5% GDP năm 2015, trong khi năm 2014 con số này là 59,6%.
Theo dự báo của World Bank, các khoản nợ này có thể sẽ nhanh chóng chạm
mức nợ trần do luật quy định là 65%. Do vậy, Chính phủ cần đưa ra các biện


pháp thích hợp để thực hiện củng cố tình hình tài khóa trung hạn (về phía thu
hoặc chi).
Về tỷ lệ nợ trên GDP của Việt Nam trong năm 2016, World Bank nhận định tỷ
lệ sẽ ở mức 63,8% trước khi tăng lên 64,4% vào năm 2017. Thâm hụt tài khóa
sẽ thu hẹp còn 5,9% GDP so với mức 6,5% năm 2015.
“Chúng tôi không quan ngại về khả năng trả nợ của Việt Nam. Tỷ lệ nợ vẫn an
toàn song vấn đề đáng ngại đối với Việt Nam là kỳ hạn trả nợ. Các kỳ hạn trả nợ
đang ngày càng ngắn lại, áp lực trả nợ rất lớn. Chính phủ vẫn hoàn toàn có khả
năng trả nợ các khoản đến hạn 100%. Nếu như thâm hụt ngân sách vẫn cao như
hiện nay thì con số nợ sẽ không bền vững, rủi ro trong trung hạn là rất lớn”. –
Ông Sandeep Mahajan cho biết.
Cũng theo ông Sandeep Mahajan cho rằng, việc dành tới 16% ngân sách để trả

nợ sẽ tạo ra một rủi ro lớn cho việc đầu tư. Nếu càng trả nợ nhiều sẽ rủi ro cho
những khoản chi tạo ra năng suất lao động, giảm chi vào giáo dục, y tế và các
lĩnh vực khác. Vì vậy Chính phủ Việt Nam phải ổn định chi tiêu thường xuyên,
có phương án thu chi ngân sách hợp lý.
Ông Sandeep cũng khẳng định: Trong 4 năm vừa qua, Việt Nam đã được phân
bố 3,7 tỷ USD vay vốn ưu đãi. Việc chấm dứt cho Việt Nam vay vốn ưu đãi
ODA từ tháng 7/2017 là do Việt Nam đã tốt nghiệp IDA (gói tín dụng lãi suất
thấp cho các nước có thu nhập thấp) từ nước có thu nhập thấp sang nước trung
bình. “Đây là quyết định của nhóm các quốc gia góp vốn vào gói IDA. Việt
Nam phải trình với các nước về sử dụng nguồn vốn và cần có lộ trình để cân
bằng nguồn vốn sẽ bị giảm sút trong những năm tới” – ông Sandeep Mahajan
gợi ý thêm.

1.4

Ảnh hưởng của nợ công đến nền kinh tế

Nhìn chung, các tổ chức tài chính quốc tế và chuyên gia kinh tế khuyến
nghị rằng, nếu nợ công/GDP quá lớn, 65%-80% GDP, thì dù vay bằng hình thức
nào, GDP sẽ bị ảnh hưởng xấu, thậm chí có thể dẫn đến tăng trưởng âm, vì hầu
hết tiền đều phải dùng để trả nợ chứ không còn đủ để đầu tư cho kinh tế. Còn
phải đánh giá thực trạng nợ, tình hình kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa, tiền tệ,
nhu cầu về vốn đầu tư phát triển, hệ số tín nhiệm của quốc gia… Theo các
chuyên gia kinh tế, đối với các quốc gia mới nổi hay đang phát triển, nợ
công/GDP ở mức 40% là tỷ lệ được đề xuất và tỷ lệ này không nên bị phá vỡ
trong dài hạn.


Ngay cả khi chưa tính đúng và đủ nợ công, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt
Nam đã xấp xỉ 65%, cao thứ hai ASEAN, chỉ sau Singapore có tỷ lệ nợ công lên

đến 104,7% GDP. Tuy nhiên, phần lớn nợ công của Singapore là vay từ dân cư
của quốc đảo này bằng chính đồng nội tệ với mức lãi suất rất thấp nên nợ công
không chịu tác động rủi ro tỷ giá hay mất khả năng chi trả. Singapore cũng là
quốc gia hiếm hoi của Châu Á được đánh giá tín nhiệm ở mức cao nhất AAA
(cùng với nền kinh tế Hồng Kông).
So sánh với các quốc gia đang trong giai đoạn phát triển, nợ công/GDP
của họ hầu hết thấp hơn mức 40%, các quốc gia này hầu hết có mức đánh giá tín
nhiệm dao động từ A- đến AA+, trong khi mức tín nhiệm của Chính phủ Việt
Nam hiện ở mức BB-.Điều này có nghĩa Việt Nam phải chi trả lãi cao hơn so
với các quốc gia phát triển tương đương khi đi vay nợ và nợ phải trả hàng năm
lớn hơn nhiều so với các quốc gia khác (vì quy mô nợ lớn hơn, mức lãi suất
TPCP cao hơn). Kết quả là, nguồn thu từ thuế sẽ phải dành nhiều hơn cho trả
nợ, giảm tỷ lệ tiền dành cho đầu tư phát triển. Đây chính là nguyên nhân khiến
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam khó bền vững, chưa tính đến hiệu quả đầu tư
và các vấn đề về tham nhũng, thể chế yếu kém.Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ
khó tiếp cận hơn với ODA, Việt Nam chỉ có thể phát hành TPCP với mức lãi
suất cao để có tiền đảo nợ và bù đắp bội chi.
Việt Nam hiện đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, nguồn vốn vay ưu
đãi viện trợ phát triển ODA đang giảm dần.
Theo kế hoạch, tháng 7/2017, World Bank sẽ chấm dứt cho Việt Nam vay
ODA. Đến 2019, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), các nhà tài trợ song
phương cũng không còn dành ưu đãi ODA cho Việt Nam. Điều này có nghĩa, để
có tiền đảo nợ và bù đắp bội chi, Việt Nam buộc phải phát hành trái phiếu trong
nước và quốc tế với mức lãi suất cao do tín nhiệm Chính phủ ở mức quá thấp
(BB-). Không chỉ rủi ro nợ công tăng mà tăng trưởng sẽ tiếp tục chịu tác động
tiêu cực hơn.


2.


PHẦN 2: những hệ lụy của việc vay đảo nợ thời
gian qua
2.1

Đảo nợ là gì?

Đảo nợ là việc khách hàng (doanh nghiệp, cá nhân) vay một khoản vay mới để trả
món nợ cũ cho chính Tổ
chức tín dụng (“TCTD”)
đó hoặc để trả nợ cho
TCTD khác. Về bản
chất, đây chính là biện
pháp cơ cấu lại khoản
vay theo thỏa thuận giữa
TCTD và khách hàng
nhằm tăng khả năng thu
hồi nợ. Tuy nhiên, rủi ro
ở chỗ các khoản vay được cơ cấu lại có thể tăng lên và ảnh hưởng đến cả hệ thống tín
dụng. Vì thế, về lý thuyết, theo quy định hiện hành việc đảo nợ sẽ theo tuân theo quy
định Chính phủ và hướng dẫn về mặt nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Trong thực tế, cho đến nay chưa có quy định hướng dẫn về việc đảo nợ.
Hiểu một cách đơn giản thì đảo nợ là việc thay một món nợ cũ thành một món nợ mới.

2.2

Nguyên nhân đảo nợ:

Vay đảo nợ xảy ra do rất nhiều nguyên nhân, trong đó, chủ yếu là số thu từ hoạt động
kinh doanh không đủ bù đắp các chi phí cần thiết; số nợ phải thu quá lớn; do biến
động của thị trường, hàng hoá không tiêu thụ được và số thu của dự án đầu tư không

đạt như dự kiến; thời hạn vay không phù hợp - do vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, do
lãng phí, thất thoát...

Mặt tích cực của việc đảo nợ là nợ của cả ngân hàng và doanh nghiệp vẫn được coi
như nợ tốt. Thậm chí nợ xấu nhiều nhưng lại được đánh giá là xấu ít, nên vẫn được
tiếp tục cho vay, vẫn được lãi suất thấp.
Trên thực tế, một số doanh nghiệp lớn luôn đứng trước tin đồn nợ ngân hàng với số
lượng cực “khủng”. Các doanh nghiệp “phải” có dự án mới hoặc mở rộng một lĩnh
vực kinh doanh để làm cơ sở cho ngân hàng giải ngân. Từ đó dẫn đến không kiểm soát
được hoạt động của doanh nghiệp, rủi ro nợ xấu cho ngân hàng.


Thực tế việc doanh nghiệp “càng lớn càng vay” nhìn chung là đương nhiên và hoàn
toàn bình thường bởi doanh nghiệp càng lớn lại càng muốn và có khả năng đầu tư lớn.
Đi đối với điều đó là số tiền vay thường cũng lớn tương ứng với quy mô đầu tư, phát
triển dự án. Điều quan trọng nhất là khả năng an toàn vốn vay, trong đó có tỷ lệ vay
vốn lớn hay nhỏ và khả năng trả nợ cao hay thấp, chứ không phải là nợ nhiều hay ít.
Khi một doanh nghiệp vay nợ ngân hàng và không trả được nợ đúng hạn, điều này ảnh
hưởng xấu đến cả ngân hàng và doanh nghiệp. Nếu khoản vay không được thu hồi nợ
đúng thời hạn sẽ phải xếp vào nhóm nợ xấu, ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro,
vốn khả dụng giảm, cho vay giảm, ảnh hưởng đến lợi nhuận.
Một khi doanh nghiệp không kiểm soát được khả năng an toàn vốn vay, bài học về
nợ xấu năm 2008 của các ngân hàng Hoa Kỳ dường như lại ứng với một số trường
hợp của doanh nghiệp Việt Nam. Tháng 11/2008, Tổng thống Hoa Kỳ George W.Bush
đã phải đệ trình Hạ viện phê chuẩn gói cứu trợ 700 tỷ USD cho các ngân hàng và công
ty tài chính nước này. Người dân Hoa Kỳ nổi giận với lý do các định chế tài chính đã
kiếm bộn tiền khi thị trường thuận lợi, giờ lại dùng tiền thuế của người dân để sửa
chữa cho những sai lầm của các ông lớn phố Wall. Nhưng lúc đó, sự công bằng đã bị
bỏ qua một bên, Hạ viện Hoa Kỳ miễn cưỡng phê chuẩn lời thỉnh cầu của Tổng thống
bởi các ngân hàng này lớn đến mức “không thể cho sụp đổ”.

Xét ở góc độ nào đó, việc nhà nước xem xét giải cứu một doanh nghiệp nào đó quả là
có sự bất công, không bình đẳng khi chỉ cứu doanh nghiệp này mà không cứu doanh
nghiệp khác. Cùng là bệnh trọng, nhưng bệnh nhân này thì được cứu sống vì được các
bác sĩ tận tình cứu chữa, với thuốc hay, thầy giỏi, con bệnh khác thì phải chết hoặc tàn
tật, vì chỉ được điều trị qua loa, toàn là giả dược.

Tuy nhiên, đó mới chỉ là bề nổi, cần phải tìm hiểu rõ bản chất của sự việc mới có
thể đánh giá được là có nên cứu, cần cứu và phải cứu hay không. Sự sống còn của một
vài doanh nghiệp lớn, thậm chí là siêu lớn (chỉ đối với Việt Nam), nhiều khi tác động
dây truyền và ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế.
Ngay quy định của pháp luật về hoạt động bình thường của doanh nghiệp cũng đã
có sự phân biệt khác nhau giữa doanh nghiệp nhỏ và lớn. Chẳng hạn như doanh
nghiệp vừa và nhỏ thuộc nhóm đối tượng được ưu đãi về lãi suất vay ngân hàng, được
quỹ bảo lãnh doanh nghiệp nhỏ và vừa bảo lãnh vay vốn ngân hàng, hay được áp dụng
lộ trình giảm thuế suất thu nhập doanh nghiệp xuống 20% trước doanh nghiệp lớn.
“Tuy nhiên, giải cứu doanh nghiệp lớn tức là ảnh hưởng đến sự vận hành bình
thường của nền kinh tế thị trường, thậm chí làm méo mó môi trường kinh doanh. Tất
nhiên, nếu điều gì đó rất không hợp lý với nền kinh tế thị trường đúng nghĩa thì rất có


thể lại phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,” Luật sư Trương Thanh
Đức nói.
Đối với một doanh nghiệp nào đó rơi vào khủng hoảng nợ và cần được giải cứu, Luật
sư Trương Thanh Đức cho rằng có nhiều phương án có thể áp dụng như: giãn nợ bằng
việc gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ; đảo nợ; cho vay thêm vốn để đẩy mạnh sản
xuất kinh doanh; khoanh nợ (tạm dừng thu nợ và dừng tính lãi); xoá, miễn, giảm nợ
gốc và lãi; bán nợ (cho VAMC hoặc các tổ chức khác),… Trong đó việc giãn nợ và
đảo nợ là dễ được chấp nhận hơn cả.
Khi đó, chắc chắn, những nhân sự ngân hàng có liên quan đến khoản nợ xấu sẽ bị quy
trách nhiệm, tùy theo mức độ và quy mô của khoản nợ. Ở phía doanh nghiệp, khi có

khoản nợ quá hạn tại một ngân hàng thì thông tin này sẽ hiển thị trên hệ thống thông
tin tín dụng của ngành ngân hàng và việc xin cấp hạn mức tín dụng ở các ngân hàng
khác sẽ rất khó khăn.
Để né tránh tác động xấu của khoản nợ quá hạn, cả doanh nghiệp và ngân hàng đều
“vui lòng” cùng nhau đảo nợ dù việc này không được pháp luật cho phép.
2.3

Thực tế của đảo nợ:

Cuối năm 2016, Công ty CP Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) gây sốc cho thị trường khi
thông báo phát hành thành công 930 tỷ đồng trái phiếu cho một tổ chức tín dụng. Theo
nhận định của giới phân tích, nhiều khả năng, đây là giải pháp đảo nợ được HAGL và
chủ nợ (một ngân hàng thương mại) tiến hành, bởi doanh nghiệp này đang nợ các
ngân hàng lên tới gần 26.000 tỷ đồng. Nếu không “đảo nợ”, HAGL có thể lâm vào
tình thế khó khăn, gây sức ép không chỉ với doanh nghiệp mà với cả ngân hàng.
Với việc dùng pháp nhân khác để vay tiền ngân hàng, chủ doanh nghiệp cũng dễ
rơi vào vòng lao lý. Đơn cử như trong vụ án tại Vina Megastar, diễn biến tại phiên tòa
cho thấy, từ tháng 6/2010, Vina Megastar và các công ty có liên quan đã vay một ngân
hàng gần 30 tỷ đồng. Khi món nợ này sắp đến hạn, Vina Megastar đã thông báo với
ngân hàng là thu xếp được để trả nợ đúng hạn.
Theo lời khai của bị cáo Nguyễn Hoàng Long, nguyên Chủ tịch Vina Megastar thì
chính giám đốc chi nhánh ngân hàng trên đã hướng dẫn bị cáo làm các hợp đồng mua
bán hàng hóa, xuất hóa đơn giá trị gia tăng rồi chuyển cho ngân hàng làm thủ tục vay
tiền, rồi dùng tiền vay mới trả nợ cũ cho ngân hàng.


Các bút lục vụ án cho thấy, các công ty con của Vina Megastar ký giấy nhận nợ cho
khế ước mới và nhận tiền từ ngân hàng chuyển lòng vòng qua các công ty khác, rồi
chuyển về trả nợ theo các khế ước cũ cho ngân hàng. Cuối cùng, ngay cả việc đảo nợ
cũng không cứu được các khoản nợ của Vina Megastar thoát cảnh nợ xấu. Khi xem

xét, xử lý các khoản nợ quá hạn, ngân hàng đã có đơn tố cáo các cá nhân liên quan có
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Khi cơ quan điều tra xác minh thì các hợp đồng mua bán hàng hóa, các hóa đơn giá trị
gia tăng được xác định là không có thật, chỉ là các giấy tờ khống đưa vào cho đủ thủ
tục để ngân hàng giải ngân cho vay. Cũng vì thế, các bị cáo là chủ doanh nghiệp được
xác định là có hành vi lừa dối hòng chiếm đoạt tài sản.
Hành vi đảo nợ của Ngân hàng có thể bị xử lý trách nhiệm hành chính về cho vay với
hành vi “đảo nợ không theo quy định của pháp luật” quy định tại điểm c, khoản 4,
Điều 14 Mục 4 Nghị định số 202/2004/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 10 tháng
12 năm 2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân
hàng. Theo đó, hành vi đảo nợ của Ngân hàng có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 VNĐ
đến 9.000.000 VNĐ.
Tuỳ theo tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi cho vay đảo nợ, cán bộ tín dụng
của Ngân hàng và lãnh đạo của doanh nghiệp cùng những người có liên quan có thể
phải chịu trách nhiệm hình sự (Ví dụ: đồng phạm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Điều
139 Bộ luật Hình sự 1999; hoặc Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Điều 140
Bộ luật Hình sự…).
Tuy nhiên, đứng dưới góc độ thực tiễn hiện nay, Ngân hàng sẽ khó kiểm soát được hết
việc đảo nợ. Doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp đang trong tình trạng có nợ cũ với lãi
suất cao) sẽ tìm mọi cách để vay khoản vay mới với mức lãi suất thấp. Phần lớn
Doanh nghiệp này vẫn có thị trường và khả năng trả nợ, vì vậy họ cũng là đối tượng
cạnh tranh của thị trường tiền tệ. Nếu doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn theo Quyết
định 131 và Thông tư 02, có hồ sơ dự án khả thi, Ngân hàng phải có trách nhiệm cho
vay vốn với lãi suất thấp. Nếu không chấp nhận, Doanh nghiệp sẽ vay của Ngân hàng
khác với lãi suất thấp và trả nợ cũ cho Ngân hàng. Ngoài ra, chi phí đảo nợ của doanh
nghiệp và Ngân hàng trong nền kinh tế cũng tương đối cao. Để phù hợp với tình hình
thực tế này, thiết nghĩ Chính phủ nên khảo sát lại thực tiễn việc cho vay hỗ trợ lãi suất
và điều chỉnh lại Quyết định 131 theo hướng: bên cạnh việc cho vay các nhu cầu vốn
lưu động phát sinh sau ngày 01 tháng 02 năm 2009 (theo Quyết định 131), cho phép
các khoản nợ vốn của doanh nghiệp trước cũng được hỗ trợ lãi suất. Như vậy, sẽ tránh

được tình trạng cho vay đảo nợ, hạn chế chi phí vay vốn và tiêu cực, tiết giảm thời
gian đưa vốn vào hoạt động sản xuất - kinh doanh.


2.4

Hậu quả/hệ lụy của việc đảo nợ:

Hành vi đảo nợ của Ngân hàng có thể bị xử lý trách nhiệm hành chính về cho vay với
hành vi “đảo nợ không theo quy định của pháp luật” quy định tại điểm c, khoản 4,
Điều 14 Mục 4 Nghị định số 202/2004/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 10 tháng
12 năm 2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân
hàng. Theo đó, hành vi đảo nợ của Ngân hàng có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 VNĐ
đến 9.000.000 VNĐ.
Tuỳ theo tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi cho vay đảo nợ, cán bộ tín dụng
của Ngân hàng và lãnh đạo của doanh nghiệp cùng những người có liên quan có thể
phải chịu trách nhiệm hình sự (Ví dụ: đồng phạm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Điều
139 Bộ luật Hình sự 1999; hoặc Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Điều 140
Bộ luật Hình sự…).
Tuy nhiên, đứng dưới góc độ thực tiễn hiện nay, Ngân hàng sẽ khó kiểm soát được hết
việc đảo nợ. Doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp đang trong tình trạng có nợ cũ với lãi
suất cao) sẽ tìm mọi cách để vay khoản vay mới với mức lãi suất thấp. Phần lớn
Doanh nghiệp này vẫn có thị trường và khả năng trả nợ, vì vậy họ cũng là đối tượng
cạnh tranh của thị trường tiền tệ. Nếu doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn theo Quyết
định 131 và Thông tư 02, có hồ sơ dự án khả thi, Ngân hàng phải có trách nhiệm cho
vay vốn với lãi suất thấp. Nếu không chấp nhận, Doanh nghiệp sẽ vay của Ngân hàng
khác với lãi suất thấp và trả nợ cũ cho Ngân hàng. Ngoài ra, chi phí đảo nợ của doanh
nghiệp và Ngân hàng trong nền kinh tế cũng tương đối cao. Để phù hợp với tình hình
thực tế này, thiết nghĩ Chính phủ nên khảo sát lại thực tiễn việc cho vay hỗ trợ lãi suất
và điều chỉnh lại Quyết định 131 theo hướng: bên cạnh việc cho vay các nhu cầu vốn

lưu động phát sinh sau ngày 01 tháng 02 năm 2009 (theo Quyết định 131), cho phép
các khoản nợ vốn của doanh nghiệp trước cũng được hỗ trợ lãi suất. Như vậy, sẽ tránh
được tình trạng cho vay đảo nợ, hạn chế chi phí vay vốn và tiêu cực, tiết giảm thời
gian đưa vốn vào hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Mặt tiêu cực là kết quả sau khi đảo nợ sẽ là nợ không xấu và doanh nghiệp hoạt
động bình thường nhưng lại ẩn chứa nguy cơ lớn, mà thực chất đó là nợ xấu, là doanh
nghiệp có rủi ro lớn. Tức là con bệnh rất nặng, nhưng lại vẫn cứ như là bệnh nhẹ,
thậm chí cứ như là người hoàn toàn khoẻ mạnh.
Điều đó một mặt tạo điều kiện tốt nhất để doanh nghiệp vượt qua khó khăn, trở lại
hoạt động tốt, nhưng mặt khác nó cũng dễ tạo ra tâm lý chủ quan, dễ đánh lừa cả
doanh nghiệp, cả ngân hàng cũng như các cơ quan quản lý. Một khi con số bị che
giấu, nợ xấu không đúng, sức khoẻ doanh nghiệp không đúng và tình hình cả nền kinh
tế không đúng, nguy cơ rủi ro cho tất cả đương nhiên là lớn hơn.


Cả hai trường hợp đều mang lại rủi ro cho doanh nghiệp. Chẳng hạn, nếu doanh
nghiệp sau khi trả nợ ngân hàng và không được ngân hàng cho vay mới thì sẽ rơi vào
tình trạng bị lãi suất “chợ đen” đè sụp. Trên thực tế, đã từng có vụ án, chủ doanh
nghiệp vay tiền tín dụng đen để đáo hạn ngân hàng với số tiền 4 tỷ đồng, nhưng sau
đó lãi mẹ đẻ lãi con dẫn đến số tiền lên tới trên 20 tỷ đồng và khi không có khả năng
chi trả thì bị tố cáo có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Trong quy chế cho vay cũ 1627 của NHNN ban hành từ năm 2002 do không cấm
về cho vay đảo nợ và chỉ nói là thực hiện theo quy định riêng của NHNN. Trong khi
đó, quy chế này cũng không hướng dẫn gì cụ thể về quy định riêng của NHNN nên
các ngân hàng thương mại (NHTM) cho rằng, những gì không cấm thì họ được phép
làm.
Có thể thấy, thời gian qua đã có nhiều ngân hàng lợi dụng kẽ hở của quy chế cho vay
cũ 1627 để cho vay đảo nợ, một mặt để tăng dư nợ, mặt khác tăng lợi nhuận. Điều này
đã tạo điều kiện và kẽ hở cho các DN có nhiều nợ xấu vay, khiến tình trạng nợ xấu
ngày càng tăng.

Chính vì vậy, từ năm 2001 đến nay, các NHTM đã “ầm ầm” cho vay đảo nợ mà
không cần quan tâm khách hàng của mình có khả năng trả nợ được hay không. Điều
này vô tình đã làm cho nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng lên, cùng với đó nhiều
NHTM, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ và yếu kém càng thêm yếu kém vì không trích
lập quỹ dự phòng theo quy định của NHNN”, TS.LS Tín chia sẻ.
Thống kê của NHNN cho thấy, tính đến 31/12/2016, nợ còn phải xử lý tại VAMC
khoảng 190.000 tỷ đồng; nợ tồn đọng tại khâu thi hành án tính đến 30/9/2016 là
khoảng 58.998 tỷ đồng. Thực tế cho thấy, quá trình xử lý nợ xấu trong thời gian qua
còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu liên quan đến khâu xử lý tài sản đảm bảo.

2.5

Kết luận:


Cũng giống như việc cho vay một khoản vay hoàn toàn mới để sản xuất kinh doanh
hay trả nợ, việc cho vay đảo nợ theo nghĩa thông thường nhất cũng chỉ là việc vay nợ
mới để trả nợ cũ, vì vậy nó chưa nói lên rủi ro gì cụ thể.
Rủi ro pháp lý là rủi ro
lớn nhất và khó chống đỡ
nhất đối với chủ doanh
nghiệp khi quyết định
tham gia vào việc đảo nợ.
Mặc dù họ không lừa dối,
cán bộ ngân hàng biết rõ
hồ sơ tín dụng này được
làm chỉ để cho doanh
nghiệp vay lấy tiền trả nợ
cũ, hành vi chiếm đoạt tài
sản cũng không xảy ra, tiền cho vay lại quay trở về chính ngân hàng nhưng vẫn bị quy

kết là lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tuy nhiên, sẽ là rủi ro nếu cho vay đảo nợ không đúng quy định, không bảo đảm các
điều kiện cho vay an toàn, trong đó có việc nhằm mục đích che giấu, lấp liếm nợ xấu.
Khi đó, rủi ro cũng giống như với mọi khoản cho vay nói chung.
“Nếu không có khả năng trả nợ thì hãy thẳng thắn chấp nhận tình trạng đó thay vì
tham gia đảo nợ. Doanh nghiệp và ngân hàng cùng cân nhắc biện pháp giải quyết, có
thể là xử lý tài sản bảo đảm, để đảm bảo lợi ích cho cả hai bên. Việc tham gia đảo nợ
là rất nguy hiểm vì nó dẫn đến hậu quả pháp lý nặng nề, thậm chí là mức án chung
thân nếu bị kết tội”, Luật sư Hoàng Văn Hướng (Trưởng văn phòng Luật sư Hoàng
Hưng) cảnh báo.
Việc chấm dứt cho vay đảo nợ của NHNN được giới chuyên gia đánh giá cao, bởi khi
đó chất lượng tín dụng, tình hình nợ xấu, sức khỏe ngân hàng và sức khỏe doanh
nghiệp sẽ được nhìn nhận thực chất hơn, tránh tình trạng “bệnh nan y nhưng lại chỉ
được cấp thuốc hạ sốt”. Do đó, nợ xấu chắc chắn sẽ giảm mạnh.




×