Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

tiểu luận tài chính công nghiên cứu các cuộc khủng hoảng ở một số nước trên thế giới và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.49 KB, 60 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................6
1.

Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................6

2.

Tình hình nghiên cứu............................................................................................7

3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài............................................................7

CHƯƠNG 1 ..TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU..................................................................................................................8

1.1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC.........8
1.2 .CƠ SỞ LÍ THUYẾT............................................................................................8
1.2.1.

NỢ CÔNG.....................................................................................................8

1.2.2.

KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG..................................................................... 13

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI..............................20
2.1. Khủng hoảng nợ công Hy Lạp............................................................................ 20
2.1.1.



Nền kinh tế Hy Lạp trước khủng hoảng nợ công:......................................... 20

2.1.2.

Diễn biến khủng hoảng nợ công Hy Lạp..................................................... 22

2.1.3.

Nỗ lực giải cứu vỡ nợ và chính sách thắt lưng buộc bụng:........................... 25

2.1.4.

Tác động của khủng hoảng nợ công Hy Lạp................................................ 28

2.1.5.

Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ ở Hy Lạp........................................ 31

2.2. Khủng hoảng nợ công Châu Âu.......................................................................... 33

2

2.2.1

.Những mầm mống trước khủng hoảng nợ công Châu Âu...........................33

2.2.2

.Diễn biến cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu.......................................... 34


2.2.3

.Những động thái của liên minh Châu Âu dưới nguy có khủng hoảng nợ....40

2.2.4

.Tác động của khủng hoảng nợ công ở Châu Âu.......................................... 40

2.2.5

. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng :........................................................ 42


2.3. Khủng hoảng nợ công khu vực Mỹ-Latinh......................................................... 43
2.3.1.

ầm mống và diễn biến của khủng hoảng...................................................... 43

2.3.2. Biện pháp đối phó với tình trạng khủng hoảng và tác động của nó mang lại
đối với nền kinh tế. .........................................................................................................
2.3.3.

Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng............................................................. 47

CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.......................................... 49
3.1 . Thực trạng nợ công ở Việt Nam........................................................................ 49
3.1.1.

Quy Nợ công đang gia tăng.......................................................................... 49


3.1.2.

Gánh nặng nợ công bình quân trên đầu người cao....................................... 51

3.1.3.

Đóng góp của nợ công trong tăng trưởng kinh tế......................................... 52

3.1.4.

Tình hình sử dụng nợ chưa đạt hiệu quả cao................................................ 53

3.2 Nguyên nhân nợ công Việt Nam gia tăng thời gian qua...................................... 55
3.2.1.

Áp lực huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội lớn................... 55

3.2.2. Bội chi NSNN gia tăng trong thời gian dài khiến vay nợ trở thành nguồn lực
để bù đắp vào thâm hụt ngân sách............................................................................. 55
3.2.3.

Đầu tư công cao, hiệu quả đầu tư còn thấp................................................... 56

3.2.4.

Việc huy động, phân bổ sử dụng vốn vay của Việt Nam còn dàn trải...........57

3.3 . Một số bài học rút ra cho Việt Nam.................................................................. 59


3

3.3.1.

Tổng quan về cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu...................................59

3.3.2.

Bài học rút ra cho Việt Nam......................................................................... 59


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nợ công đang là một trong những vấn đề mà mọi quốc gia trên thế giới đều phải đối
mặt trong thời điểm hiện tại .Hy Lạp là quốc gia đầu tiên trên thế giới rơi vào tình trạng
khủng hoảng nợ công và kéo theo nhiều quốc gia rơi vào tình trạng này. Hy Lạp chỉ là
quốc gia nhỏ nhưng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này khiến cho các nền kinh tế khác
trên thế giới phải xem xét lại cách quản lí tài chính của mình cũng như có những biện
pháp để mức nợ công không được vượt quá an toàn.
Mức nợ công cao buộc các chính ohur phải điều chỉnh lại các chính sách tài khóa,
tiền tệ. Các quốc gia buộc phải xây dựng lại lộ trình phát triển kinh tế, tính toán sử dụng
các nguồn vay hợp lí thậm chí là nhờ đến sự viện trợ từ các nước quốc tế. Như vậy, dù là
có nền kinh tế lớn nhất thế giới như Mỹ hay những nền kinh tế nhỏ như Việt Nam thì nợ
công vẫn luôn là nguyên nhân khiến cho kinh tế chậm phát triển thậm chí làm cho đất
nước sụp đổ trong tương lai.
Theo các chuyên gia kinh tế, cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu không chỉ có ảnh
hưởng đến hoạt động kinh tế của các nước trong khu vực Eu mà còn ảnh hưởng nghiêm
trọng đến các nền kinh tế khác trên thế giới. Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng này, các
quốc gia đã phải yêu cầu nhận viện trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế và cam kết thực
hiện các chính sách” thắt lưng buộc bụng” để giảm thiểu thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên

khi thực hiện chính sách này có ảnh hưởng không nhỏ đến cư dân trong nước, nhiều
cuộc biểu tình nổ ra , nguy cơ mất khả năng tự chủ tài chính là rất cao
Việt Nam là một quốc gia đang phát trỉên nên cần một lượng vốn đầu tư để phát triển
kinh tế là rất lớn. Và để đáp ứng được nguồn vốn lớn như vậy, Việt Nam phải tìm đến thị
trường tài chính thế giới, từ các tổ chức tài chính và các quốc gia khác. Nợ công của Việt
Nam hiện nay là vào khoảng 65% tức là vẫn đang nằm trong ngưỡng an toàn .Nước ta chưa
có nhiều dấu hiệu của khủng hoảng nợ công nhưng trong tương lai chúng ta sẽ phải

6


đối mặt với vấn đề này nếu không có cách thức quản lí và sử dụng vốn vay hợp lí và sử dụng
vốn vay để đầu tư các dự án công vẫn còn chưa thực sự hiệu quả như thời gian qua .
Trước những diễn biến phức tạp của các cuộc khủng hoảng trên thế giới và tình hình nợ
công của Việt Nam cũng như để trả lời Việt Nam cần làm gì để tránh khỏi “vết xe đổ”mà
các quốc gia tiền nhiệm đã để lại, chúng em mạnh dạn lựa chọn đề tài “ Nghiên cứu các
cuộc khủng hoảng ở một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam”.

2. Tình hình nghiên cứu
Tình hình nghiên cứu đề cập đến vấn đề nợ công ở các góc độ khác nhau ở các nước
trên thế giới và tìm hiểu, đi sâu vào vấn đề nợ công thế giới và nợ công Việt Nam trong
giai đoạn vừa qua và trong tương lại.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
-

Mục đích nghiên cứu:
Qua việc phân tích vấn đề nợ công ở một số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới,

đề tài rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam để tránh rơi vào tình trạng khung
hoảng trong tương lai.

-

Nhiệm vụ nghiên cứu :

Khái quát các vấn đề lí luận về nơ công, khủng hoảng nợ công.




7

Phân tích thực trạng ở một số nước trên thế giới.

Phân tích thực trạng nợ công ở Việt Nam và rút ra kinh nghiệm và đảm bảo nợ
công an toàn trong thời gian tới.


CHƯƠNG 1 .TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
Cuốn sách “ Chính sách công và phát triển bền vững” do các tác của Đại học kinh tế Đại học quốc gia Hà Nội làm chủ biên, NXB chính trị quốc gia – sự thật, 2012 đã đề cập
đến nợ công trong mối quan hệ với đầu tư công và phát triển bền vững của quốc gia,
mối quan hệ giữa nợ công và chính sahcs tài khóa… nhằm đưa ra gơi ý và cách tiếp cận
vấn đề nợ công Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ của trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh “Nợ nước ngoài và tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam” của tác giả Phạm Văn Dũng đã đề cập đến vấn đề khái niệm
nơ nước ngoài, các tiêu chí đánh giá nợ nước ngoài và phân tích một số khuyến nghị cho
Việt Nam thông qua phân tích thực trạng nợ nước ngoài tại Việt Nam để đưa ra giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả quản lí nợ nước ngoài là một phần lớn của nợ công,..


Ngoài ra còn một số trang báo như “ Luận bàn về nợ công ở Việt Nam “ của Nguyễn
Quốc Nghị,..
Trong công trình nghiên cứu External Debt Management in Low-Income Country các tác
giả Bangura Sheku, Damoni Kitabire Robert Powell đã chỉ ra nhu cầu vay mượn phải
được xây dựng dựa trên khả năng trả nợ, các chủ thể quản lí nợ nước ngoài là một hệ
thống các cơ quan được sắp xếp từ thấp đến cao theo chức năng nhiệm vụ quản lí nợ.
1.2 .CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.2.1. NỢ CÔNG
1.2.1.1. Khái niệm
Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp và do đó được định nghĩa theo rất nhiều
cách khác nhau nhưng xét về bản chất thì nợ công chính là sự mất cân đối giữa thu và chi
dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước và buộc các nhà nước phải đi vay nợ. Và các nhà
8


nước phải chịu trách nhiệm về khoản nợ đó.. Hầu hết những cách tiếp cận hiện nay đều
cho rằng nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm
trong việc chi trả khoản nợ đó. Vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng
nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ công hoàn
toàn khác với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia,
bao gồm hai bộ phận là nợ của Nhà nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân). Như vậy, nợ công chỉ là một bộ phận của nợ quốc gia. Để có được một cái nhìn
tổng thể về bức tranh nợ công, trước hết chúng ta cần có một khung lý thuyết cơ bản và
đầy đủ về nợ công cũng như các khái niệm liên quan.
- Theo luật quản lí nợ công của Việt Nam
Năm 2009, Quốc hội đã ban hành Luật quản lý nợ công, được xem là một bước
tiến bộ lớn trong hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam về vấn đề này. Theo Bộ Luật
này, nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền
địa phương. .
Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoàđược

ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác
do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ
chính phủ không bao gồm các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành
nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Nợ được chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín
dụng vay trong nước, nước ngoài được chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
- Theo WB (2002)
Nợ công là toàn bộ những khoản nợ của Chính phủ và những khoản nợ được
Chính phủ bảo lãnh. Với định nghĩa trên, nếu hiểu nợ của Chính phủ bao gồm nợ của
Chính phủ Trung ương và nợ của chính quyền địa phương thì có thể thấy định nghĩa của
WB giống với định nghĩa được đưa ra trong Luật quản lý nợ công của Việt Nam.
9


-

Theo IMF (2010)
Nợ công được hiểu là nghĩa vụ trả nợ của khu vực công bao gồm khu vực Chính

phủ tại các cấp chính quyền, từ trung ương đến địa phương và khu vực các tổ chức công
gồm các tổ chức công tài chính và phi tài chính. Các tổ chức công phi tài chính có thể là
các tập đoàn nhà nước không hoạt động trong lĩnh vực tài chính như điện lực, viễn thông,
… hoặc cũng có thể là các tổ chức như bệnh viện và các trường đại học công lập.
Các tổ chức công tài chính là các tổ chức nhận hỗ trợ từ Chính phủ và hoạt động trong
lĩnh vực tài chính, thực hiện các dịch vụ nhận tiền gửi và trả lãi thuộc khu vực công, cung
cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, bảo hiểm hay quỹ lương hưu.
1.2.1.2. Phân loại nợ công:
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau

trong việc quản lý và sử dụng nợ công.



Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay:
Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức trong nước.
Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh

thổ
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ.
Việc phân loại này sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế.
Việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ, vì các khoản vay nước
ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế
khác.
-

Theo phương thức huy động vốn:

 Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa thuận
vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho vay.
Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở tầm
quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa các nhà nước.

10


 Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời
hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị
trường tài chính.

-

Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công:

 Nợ công có ba loại: Nợ công từ vốn vay ODA, Nợ công từ vốn vay ưu đãi và
Nợ thương mại thông thường.
-

Theo trách nhiệm đối với chủ nợ:



Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có
nghĩa vụ trả nợ.



Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người
vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.

-

Theo cấp quản lý nợ:



Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo
lãnh.
Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là bên




vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà
nước năm 2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi
là nguồn thu ngân sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của
địa phương được Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ
ngân sách trung ương.
Việc phân loại nợ công có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý và sử dụng nợ công.
Tương ứng với mỗi loại nợ sẽ có giải pháp quản lý bảo đảm quy mô nợ phù hợp, qua đó
sẽ chủ động tăng hay giảm nợ để tạo nguồn thúc đẩy phát triển kinh tế –hội.
1.2.1.3. Tác động của nợ công đến nền kinh tế
1.2.1.3.1. Tiêu cực

11


- Quan điểm Barro-Ricardo cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ
chính phủ không kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn vì không làm tăng thu nhập
thường xuyên của các cá nhân mà nó chỉ làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai.
Các cá nhân dự tính rằng, hiện giờ chính phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp
thâm hụt, thì đến một thời điểm trong tương lai chính phủ sẽ lại tăng thuế để có tiền trả nợ
hoặc in tiền để trả nợ (mà hậu quả là lạm phát tăng tốc); do đó, người ta tiết kiệm hiện tại
để có tiền đóng thuế trong tương lai hoặc mua hàng hóa và dịch vụ sẽ lên giá.

- Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một
khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng của sản
lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:


Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất

khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.



Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở
hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính
phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển
thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một



tổng thể thì chính phủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong
nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm méo mó
nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội.
-

Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công cụ nợ

để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện tượng crowding out (đầu
tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên).
-

Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái phiếu chính

phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua
việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua. Lãi suất trái
phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực
12



đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư. Nó còn tác động tích cực
đến động cơ tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó còn làm cho lãi
suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước
ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm xuất khẩu ròng. Tóm
lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng không lớn vì có những
tác động phụ làm giảm tổng cầu.
-

Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ tài sản thì khi

chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất, người nắm giữ tài sản
thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Tổng cầu nhận được tác động tích
cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ (nhờ phát hành công trái) và tăng tiêu dùng nói trên.
Tuy nhiên, tăng tiêu dùng dẫn tới tăng lượng cầu tiền. Điều này gây ra áp lực lạm phát, vì
thế tác động tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng thực (bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa

trừ tỷ lệ lạm phát).
1.2.1.3.2. Tích cực
-

Nợ công trong ngắn hạn làm tăng ngân sách cho nhà nước, giúp cho Chính phủ chi

tiêu cho các khoản về chi đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chi thường xuyên: lương cho
công nhân viên chức,.. Với một chính sách vay nợ cùng với chi hợp lí chính phủ hoàn
toàn có thể kích thích nền kinh tế phát triển tốt hơn
-

Nợ công góp phần vào việc Nhà Nước có thể huy động được nguồn vốn nhàn rồi


từ người dân trong nước thông qua việc Chính phủ phát hành trái phiếu, tín phiếu Chính
phủ,… Do đó đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.
-

Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế.

Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại giao quan trọng của các nước
phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế
song phương. Nếu Việt Nam biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn
vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích nước bạn, đồng
thời giữ vững độc lập, chủ quyền và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước.

1.2.2. KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
13


1.2.2.1. Khái niệm
Cũng giống như tình trạng đa khái niệm của nợ công, tùy thuộc vào từng góc độ nhìn
nhận và đánh giá sự kiện, khủng hoảng nợ công được cắt nghĩa theo các cơ sở khác nhau.
Hiểu một cách khái quát nhất, khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ),
làm chao đảo nên kinh tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu chi
nhiều quá, trong khi thu không đap ứng được, chính phủ đi vay tiền thông qua nhiều hình
thức như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,...để chi, từ đó dẫn đến tình trạng
nợ. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm, để lâu thành
lãi “mẹ đẻ lãi con” và ngày càng chồng chất thêm. Trải qua thời gian dài vận động phát triển
của nền kinh tế thế giới nói chung, khái niệm về vấn đề khủng hoảng nợ công cũng được
thay đổi nhiều lần và riêng rẽ đối với từng tổ chức, khu vực độc lập.

- Theo Detragiache và Spilimbergo (2001) xác định rằng cuộc khủng hoảng nợ sẽ xảy
ra nếu một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau đây xảy ra:



Có những khoản nợ gốc hoặc lãi chưa hoàn trả hoặc đang trả dở dang song
phải xin khất lại nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nợ (ngân hàng, tổ chức sở hữu trái
phiếu) chiếm trên 5% tổng dư nợ.



Có một thỏa thuận gia hạn hoặc tái cơ cấu nợ với chủ nợ được liệt kê trong Báo
cáo Phát triển Tài chính Toàn cầu (GDF) của Ngân hàng Thế giới (WB).

- Theo Sy(2004) đưa ra lập luận: giống như việc mất khả năng thanh toán những khoản
nợ trong khu vực tài chính doanh nghiệp, khủng hoảng nợ công là biểu hiện “tiền phá sản”

của trái phiếu chính phủ. Theo định nghĩa đó, Sy đã chỉ ra từ năm 1994 đến năm 2002,
trên thế giới xảy ra 140 sự kiện “tiền phá sản”, làm giảm uy tín và năng lực của thị trường
trái phiếu Chính phủ.
- Theo IMF và WB: trong thời điểm hiện nay, định nghĩa về nợ công của tổ chức Standard

and Poor’s, quỹ tiền tệ thế giới IMF và Ngân hàng thế giới WB là một số cách giải thích
được ưa thích trích dẫn và sử dụng nhiều hơn cả.

14




Theo IMF một quốc gia được xác nhận lâm vào khủng hoảng nợ nếu nó được

tổ chức Standard & Poor’s liệt vào danh sách các nước không có khả năng hoàn trả nợ hoặc

phải xin vay từ IMF một khoản lớn (vượt quá 100% hạn mức tín dụng đề ra) để tài trợ cho
khoản nợ nói trên. Ở đây, tiêu chuẩn được đưa ra để Standard and Poor’s xác định một quốc
gia là không có khả năng hoàn trả nợ là việc chính phủ của quốc gia đó không thể thanh toán
đủ gốc hoặc tiền lãi cho các khoản nợ nước ngoài vào ngày đáo hạn hoặc trong thời gian ân
hạn quy định (bao gồm các khoản phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán nợ

bằng hối phiếu, nghiệp vụ SWAPs tài sản nợ, …). Như vậy, tình hình vay nợ bất thường
với quy mô lớn tại Quỹ tiền tệ quốc tế IMF là một trong những dấu hiệu báo trước cho
những bất ổn trong tình trạng nợ công của một quốc gia, có thể dẫn đến nguy cơ khủng
hoảng nhanh chóng.
Dù các khái niệm nêu trên diễn đạt khủng hoảng nợ công theo các cách khác
nhau, có thể thấy rõ rằng mọi định nghĩa đều bao chứa những nội dung cơ bản tương
đồng. Đó là: Khủng hoảng nợ công xảy ra khi chính phủ một quốc gia không thể trả được
nợ và buộc phải tìm kiếm, cầu viện đến các sự trợ giúp khác.
1.2.2.2. Các hình thức chủ yếu của khủng hoảng nợ công
Dựa trên rất nhiều nghiên cứu trước đây của IMF, Andrea Pescatory và Amadou
N.R.Sy, hai nhà kinh tế kỳ cựu của IMF, đã tổng hợp ra 4 hình thức chủ yếu của khủng
hoảng nợ. Theo đó, khủng hoảng nợ là các cuộc khủng hoảng xảy ra khi: một quốc gia bị
vỡ nợ; có khoản nợ xấu lớn; có các khoản vay quy mô lớn từ IMF hoặc có điềm báo tai
họa.
- Thứ nhất, về khủng hoảng nợ xảy ra khi một quốc gia bị vỡ nợ định nghĩa này
được các tổ chức định mức tín dụng tập trung xây dựng dựa vào các khả năng không chi
trả được nợ. Tổ chức định mức tín dụng Moody’s năm 2003 đã định nghĩa một quốc gia bị
vỡ thường có các biểu hiện sau đây: Có sự chậm trễ trong thanh toán lãi và/hoặc gốc, ngay
cả khi việc thanh toán chậm được thực hiện trong thời gian ân hạn. Việc hoán đổi nợ xảy ra
trong đó Quốc gia phát hành trái phiếu đề nghị người nắm giữ trái phiếu một khoản nợ mới,
hoặc một gói chứng khoán mới tương đương nghĩa vụ tài chính giảm bớt,
15



như là những công cụ nợ mới. Việc hoán đổi nợ có mục đích rõ ràng là giúp quốc gia đi
vay tránh khả năng vỡ nợ. Đối với trái phiếu, tín phiếu, hối phiếu được phát hành bằng
nội tệ hoặc ngoại tệ, mỗi khoản nợ của bên phát hành được coi là không có khả năng chi
trả (vỡ nợ) khi việc thanh toán nợ hàng năm theo lịch trình không được thực hiện vào
ngày đáo hạn, hoặc khi đề nghị hoán đổi khoản nợ mới bao hàm những điều kiện kém
thuận lợi hơn so với việc phát hành ban đầu. Ngoài ra, có nhiều khoản vay ngân hàng
được gia hạn cuối cùng bị chiết khấu một khoản so với giá trị ban đầu. Hay những thỏa
thuận khác bao gồm đề nghị hoán đổi nợ, hoán đổi nợ/vốn chủ sở hữu liên quan tới các
chương trình tư nhân hóa của chính phủ, và/hoặc mua lại bằng tiền mặt. S&P coi các giao
dịch này là vỡ nợ vì chúng bao gồm những điều kiện kém thuận lợi hơn so với ban đầu.
- Thứ hai, khủng hoảng nợ xảy ra khi có khoản nợ xấu hơn, theo một số nghiên cứu
đưa ra, một cuộc khủng hoảng nợ được xếp vào loại này nếu một hoặc cả hai điều kiện sau
đây xảy ra. - Có khoản nợ xấu về gốc hoặc lãi về nghĩa vụ bên ngoài đối với các chủ nợ
thương mại (ngân hàng hoặc người nắm giữ trái phiếu) lớn hơn 5% tổng dư nợ thương mại.
- Có thoả thuận gia hạn hoặc cơ cấu lại nợ với các chủ nợ thương mại được liệt kê trong Báo
cáo Tài chính Phát triển của ngân hàng Thế giới. Nếu xác định theo tiêu

chí này thì đã có khoảng 54 cuộc khủng hoảng nợ xảy ra. Các cuộc khủng hoảng này
có xu hướng tập trung vào những năm 1980, khi hầu hết các nước Mỹ La tinh và một
số nước Châu phi và không thể thanh toán các khoản vay ngân hàng quá mức của họ
trong những năm 1970.
- Thứ ba, khủng hoảng nợ xảy ra khi có khoản vay quy mô lớn từ IMF, một quốc
gia đang trải qua một cuộc khủng hoảng nợ nếu: - Nó được xếp vào trường hợp vỡ nợ
như trong định nghĩa ở bên trên của S&P, hoặc. - Nó nhận được một khoản cho vay lớn
(có điều kiện) vượt quá 100% hạn mức ấn định trước từ IMF. Như đã đề cấp ở bên trên,
S&P đánh giá một quốc gia phát hành bịvỡnợ nếu chính phủ không đáp ứng một khoản
thanh toán gốc hoặc lãi vào ngày đáo hạn (bao gồm cả đềnghị hoán đổi nợ, hoán đổi
nợ/vốn chủsởhữu liên quan tới các chương trình tư nhân hoá của chính phủ, và/hoặc mua
lại bằng tiền mặt). Đối với Manasse, Roubini và Schimmelpfennig, cuộc khủng hoảng nợ
không chỉ bao gồm các trường hợp nợ vỡ hoàn toàn hoặc bắt buộc tái cơ cấu, mà còn cả

16


trường hợp gần như vỡnợ nhưng tránh được nhờ gói hỗ trợ chính thức có quy mô lớn
của IMF. Trong các quan niệm trên thì quan niệm thứ 3 được IMF và các tổ chức quốc tế
khác trên thếgiới sử dụng phổbiến nhất.
Tựu chung lại, khủng hoảng nợ là tình trạng một quốc gia không thể chi trả
được các khoản nợ của mình, phải đề nghị thương thảo lại về các thỏa thuận vay nợ, hoàn
trả gốc và/hoặc lãi, và phải nhận một khoản tài trợ chính thức có quy mô lớn từ IMF.
1.2.2.3. Nguyên nhân tạo ra khủng hoảng nợ công
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này là khác nhau đối với từng quốc gia vì mỗi
quốc gia có những tình hình kinh tế chính trị khác nhau, nhưng nó xuất phát từ những
nguyên nhân chính sau đây:
- Kiểm soát và quản lí nợ nhà nước kém
Sự kiểm soát chi tiêu và quản lí nợ công của nhà nước kém, không chặt chẽ, thậm
chí buông lỏng, thất thoát lãng phí trong đầu tư là nguyên nhân lớn làm cho nợ công tăng
. Nhà nước quản lí nợ công thông qua hệ thống các ngân hàng. Hệ thống ngân hàng yếu
kém về quản lí liên tục phát sinh các khoản nợ xấu. Trong khi chính phủ không có sự can
thiệp vào hoạt động kinh daonh của các ngân hàng , các tổ chức tài chính nhằm hướng
tới hoạt động của ngân hàng vào hỗ trợ chính phủ cho chính sách phát triển kinh tế, dãn
tới quản lí tín dụng lỏng lẻo và mở rộng đầu tư quá mức khiến cho hiệu quả kinh tế thấp
- Sử dụng nguồn vốn vay không hiệu quả
Vốn vay trong nước hay ngoài nước đều phục vụ Nhà Nước trong các vấn đề về đầu
tư cơ sở vật chất, quản lí đất nước,... với mục đích là phát triển nền kinh tế. Nếu như nhà
nước sử dụng nguồn vốn để đầu tư tốt, hiệu quả cao thì sẽ đem lại nguồn thu quan trọng
cho ngân sách nhà nước, giúp trả nợ dễ dàng hơn Tuy nhiên việc sử dụng vốn vay này
không phải lúc nào cũng hiệu quả như kế hoạch đã định ra. Trong nhiều trường hợp, việc sử
dụng vốn vay không hiệu quả thì chính phủ còn phải đứng ra trả nợ thay cho các đợn vị,
doanh nghiệp mà mình bảo lãnh. Dẫn đến chính phủ không thu hồi được nguồn
17



vốn đã vay. Việc xin gia hạn thanh toán làm cho các khoản nợ ngày càng trở nên trầm
trọng.
- Mức thâm hụt ngân sách lớn
Nếu như thâm hụt ngân sách và nợ công kéo dài sẽ làm mất niềm tin của các nhà
đầu tư . Lượng vốn đầu tư vào bị hạn chế, hoặc họ sẽ bán tháo tài sản đang sở hữu. Các
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất, điều này làm cho nguồn thu
của Chính phủ từ thu thuế bị giảm xuống. Chính phủ thực hiện gia tăng nguồn thu từ
thuế thông qua việc tăng thuế của người dân là điều không hề dễ dàng. Việc mỗi người
dân gánh trên vai một khoản thuế lớn hơn sẽ làm cho chính phủ gặp những rắc rối từ sự
phản đối của người dân. Tình trạng như vậy khiến cho nhiều nước quyết định in thêm
tiền để trả nợ, tuy nhiên việc in thêm tiền cũng làm cho quốc gia của họ đối mặt với tỉ lệ
lạm phát ngày càng tăng cao. Thực tế cho thấy một quốc gia có tỉ lệ nợ công cao, mức
thâm hụt ngân sách lớn nếu không xử lí tốt rất sẽ rơi vào khủng hoảng nợ công
1.2.2.4. Tác động của khủng hoảng nợ công đến nền kinh tế của các quốc gia
- Suy giảm tăng trưởng kinh tế
Khủng hoảng nợ công ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động kinh tế của các quốc gia,
không chỉ đối với doanh nghiệp nhà nước mà cả các doanh nghiệp tư nhân. Vốn tài chính
là nguồn vốn quan trọng mà chính phủ cần phải sử dụng cho các kế hoạch chi tiêu của
mình. Việc không tiếp cận được các nguồn vốn làm cho nhiều dự án bị đình trệ, trong đó
có đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động sản xuất. Để cứu vãn tình hình, chính
phủ huy động vốn trong nước với lãi suất cao, lãi suất trên thị trường trong nước cũng
tăng theo lại làm cho khu vực kinh tế tư nhân không vay được vốn. Các doanh nghiệp
gặp nhiều khó khăn nên đã thu hẹp sản xuất. Nguồn thu ngân sách nhà nước giảm, tiêu
dung của chính phủ giảm, tuw2f đó làm cho tổng cầu của nền kinh tế giảm.
- Giảm khả năng huy động vốn của chính phủ

18



Khi một quốc gia lâm vào tình trạng vỡ nợ không thực hiện được nghĩa vụ trả
nợ thì quốc gia đó ngay lập tức bị hạ mức tín nhiệm. Trái phiếu chính phủ do quốc gia
đó phát hành bị sụt giảm giá một cách nhanh chóng. Các nhà đầu tư không mua trái
phiếu chính phủ đang sở hữu. Việc chính phủ huy động vốn trên thị trường quốc tế gặp
nhiều khó khăn với lãi suất vay cao hơn .
Khi tín nhiệm trái phiếu quốc tế của chính phủ bị sụt hạng, việc tiếp cận nguồn vốn
nước ngoài gặp trở ngại thì chính phủ thiên về huy dộng nguồn vốn vay trong nước.
Nguồn vốn vay trong nước từ các khoản tiết kiệm của dân cư, từ các ngân hàng thương
mại… cũng bị hạn chế do óc sự lo ngại về khả năng thanh toán nợ của chủ thể đi vay
đang phải đối mặt với nhiều vẫn đề

- Gây ra những bất ổn tài chính
Khả năng trả nợ quốc gia là chỉ số quan trọng để đảm bảo niềm tin của cộng đồng
quốc tế đối với nền kinh tế đó. Nghiên cứu James Roaf ( 2007) và thực tế đã chỉ ra rằng
khủng hoảng nợ công thường kéo theo hoặc đi kèm khủng hoảng tiền tệ ngân hàng.
Niềm tin của dân chúng bị lung lay, các khoản tiền tiết kiệm bị rút ra khỏi ngân hàng.
Nếu như hệ thống các ngân hàng bị đổ vỡ thì lại đòi hỏi có sự cứu trợ của chính phủ, nợ
công lại gia tăng...

19


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

2.1. Khủng hoảng nợ công Hy Lạp
2.1.1. Nền kinh tế Hy Lạp trước khủng hoảng nợ công:
- Hy Lạp là quốc gia phía Đông- Nam của Châu Âu với dân số khoảng 10,7 triệu
người ( năm 2007 ) chiếm khoảng 2,2% EU, đóng góp 2,8% GDP của Châu ÂU. Thu

nhập bình quân đầu người của Hy Lạp là 15360 USD, một mức thu nhập khá so với
bình quân của các nước trong khu vực. Tỷ lệ thất nghiệp ở mức vừa phải đó là 10,2%
- Hy Lạp có nền kinh tế công- nông nghiệp khá phát triển , là sự kết hợp giữa nền
kinh tế tư bản và nền kinh tế nhà nước. Cơ cấu nền kinh tế của Hy Lạp năm 2009 như

sau:
Các ngành

Nông nghiệp

Công nghiệp

Dịch vụ

Tỷ trọng

3,4%

20,6%

76%

- Thế mạnh của Hy Lạp là ngành du lịch chiếm 15% GDP, đó cũng là nguồn thu
ngoại tệ lớn nhất của nước này.Bên cạnh đó những ngành như tài chính, ngân hàng, viễn
thông, sản xuất các công nghệ thiết bị cao cũng rất phát triển

Hình 2.1 Biểu đồ tốc độ tăng trưởng GDP của Hy Lạp từ năm 2000-2008
20



( nguồn TradingEconomics )
19/6/2000 Hy Lạp đạt được tiêu chí và được gia nhập khu vực đồng EURO. Động
lực từ việc gia nhập thị trường chung Châu Âu cùng với những chính sách tài chính kinh
tế có hiệu quả đã làm cho nền kinh tế Hy Lạp phát triển rất nhanh trong giai đoạn này
( Năm 2001-2007 tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 4,3% - Đó là một trong nhưng
mức tăng trưởng cao nhất Châu Âu ) Năm 2008 tăng trưởng kinh tế của Hy Lạp chỉ đạt
2,8% đây là một con số thấp hơn năm trước nhưng vẫn cao hơn so với mức trung bình
của Châu Âu . Kèm théo sự phát triển của nền kinh tế là việc nâng cao mức sống của
người dân Hy Lạp, chỉ số con phát triển con người xếp thứ 22 trên thế giới.

- Năm 2009 cùng với sự tác động của khủng hoảng tài chính toán cầu, sự thắt chặt
của điều kiện tín dụng kèm theo đó là thất bại của Athens để giải quyết thâm hụt ngân
sách ngày càng nghiêm trọng gây ra do nguồn thu của nhà nước không kịp với nhu cầu
chi tiêu của chính phủ đã làm cho nền kinh tế Hy Lạp đi xuống trầm trọng . Nợ công,
thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát ngày càng ra tăng, tăng trưởng kinh tế năm 2009 còn -2,5%.

Hình 2.2:Biếu đồ tỷ lệ lạm phát của Hy Lạp từ năm 2000-2010
( nguồn tradingeconomics.com )

21


- Cả hai mức thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp đều
vượt quá trần quy định cho phép của Liên minh Tiền tệ và Kinh tế châu Âu (EMU ) .Để
bù đắp cho những khoản thâm hụt kép này, chính phủ Hy Lạp đã đi vay trên thị trường
quốc tế suốt một thập kỉ trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều
này biến Hy Lạp trở thành con nợ lớn với tổng số nợ nước ngoài đạt 115% GDP vào năm
2009
- Chính sự phụ thuộc quá lơn vào nguồn tài trợ nước ngoài đã khiến nền kinh tế
Hy Lạp trở nên dễ tổn thương hơn đối với sự thay đổi của thị trường cũng như niềm tin

của nhà đầu tư. Và cũng từ đó bi kịch về khủng hoảng nợ công Hy Lạp bắt đầu.
2.1.2. Diễn biến khủng hoảng nợ công Hy Lạp
Năm 2008 khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra, các ngành kinh tế chủ đạo của Hy
Lạp đều bị ảnh hưởng nặng nề, các ngành vận tải biển, du lịch trước đây là thế mạnh của
Hy Lạp có mức sụt giảm doanh thu đến 15%. Nguồn thu để tài trợ ngân sách bị hạn chế,
Chính phủ lại buộc phải tăng chỉ tiêu công nhằm kích thích tằng trưởng
Trong nhiều năm vừa qua chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm
tỷ USD và đầu tư dàn trải về cơ sở hạ tầng mà không có kế hoạch trả nợ

22


Hình 2.3:Biểu đồ so sánh thâm hụt ngân sách và nợ công của một số nướctrên Thế
Giới năm 2009
( Nguồn EC )
Từ biếu đồ ta có thể thấy thâm hụt ngân sách của Hy Lạp ( Đường màu đỏ ) trong
năm 2009 đạt 12,5% GDP cao gấp 4 lần mức giới hạn của các quốc gia trong Eurozone.
Tỷ lệ nợ công ( Đường màu vàng trong biểu đồ )cũng ở một con số rất cao đó là 112,6%
GDP .Tỷ lệ thâm hụt ngân sách và nợ công ở mức quá cao kèm theo vào đó là nhiều dự
báo chỉ ra rằng nợ công trong năm 2010 của Hy Lạp sẽ xấu đi, nó sẽ rơi vào khoảng 121125% GDP.
- Trước những diễn biến xấu như vậy, thủ tướng nước này đã tuyên bố thẳng tay
với nạn tham nhũng, thắt chặt chi tiêu hơn, trong đó đánh thuế lên tới 90% các khoản

thưởng của giới “ cá mập ” ngân hàng cũng như cấm toàn bộ tiền thưởng cho các quan
chức điều hành trong khu vực công.
- Những động thái vào cuối năm 2009 của chính phủ Hy Lạp đã không hề đem đến
một chút hiệu quả nào. Đến tháng 1/2010 nợ công của Hy Lạp ước đạt 216 tỷ euro, nợ
lũy kế bằng 130% GDP. Con số này còn tệ hợn rất nhiều so với những dự báo của chuyên
gia trước đó.
23



- Để có tiền trả nợ cho Ngân sách, chính phủ Hy Lạp liên tục bán trải phiếu trên thị
trường quốc tế. Lãi suất trái phiếu có kì hạn 2 năm liên tục tăng cao từ 3.47% vào tháng
1/2010 lên tới 9.73% vào tháng 7/2010 và nhảy vọt lên 26,65% vào tháng 7/2011.

Hình 2.4:Biểu đồ lãi suất trái phiếu có kì hạn 10 năm ở một số nước
từ tháng 1/2008 – 7/2011
( Nguồn ECB)
- Từ biểu đồ ta có thể thấy, lãi suất có kì hạn 10 năm của trái phiếu chính phủ Hy
Lạp tăng rất mạnh từ tháng 1/2010. Và đến tháng 7/2011 đã đạt đỉnh ở mức trên 17%.
Đây cũng là mức lại suất cao nhất của Hy Lạp kể từ khi ra nhập Eurozone. Chủ tịch
nhóm đồng tiền chung Châu Âu, ông Jean Claude Junker tuyên bố không loại trừ nguy
cơ nhà nước Hy Lạp bị phá sản, theo đánh giá của cơ quan thẩm định mức độ rủi ro

24


FITGH , khả năng thanh toán nợ của Athena đã xuống mức thấp nhất trong 10 năm trở lại
đây.
- Những ngày cuối tháng 12/2010 chính phủ Hy Lạp thông qua dự thảo ngân sách
với dự báo thâm hụt 9,1%. Định mức tín dụng của quốc gia này tiếp tục bị đánh tụt về mức
BBB- của Standard and Poor. Một lần nữa quốc hội nước này điểu chỉnh mức thâm hụt
ngân sách về 8,7% và cắt giảm quỹ lương khoảng 4%. Từ đây Hy Lạp rơi vào

tình trạng bất ổn về kinh tế và xã hội do sự phản đối của người dân.
2.1.3. Nỗ lực giải cứu vỡ nợ và chính sách thắt lưng buộc bụng:
Nội lực không thể vực dậy nền kinh tế lớn thứ 27 Thế Giới, Hy Lạp trở thành mắt xích
yếu nhất Eurozone. Châu Âu không thể nào để Hy Lạp vỡ nợ bởi những hệ lụy đỗ vỡ hệ
thông Ngân hàng,mất khu vực đồng tiền chung và kéo theo nhiều quốc gia khác rơi vào

hiệu ứng domino.Vì vậy hàng loạt các gói cứu trợ từ ngân hàng trung ương Châu Âu
cũng như IMF được đưa ra kèm theo đó là những điều khoản thắt lưng buộc bụng mà
các chủ nợ đặt ra cho Hy Lạp.
- Khoản trợ cấp lần 1 từ ECB và IMF
 Tháng 4/2010 các lãnh đạo Châu Âu đã hứa cho Hy Lạp vay 30 tỷ USD
cũng với khoản vay 15 tỷ USD từ IMF, với mức lãi suất thấp 5% ( Mức lãi suất thấp hơn
so với mức lãi suất mà hiện tại Hy Lạp vay là 7.5% )


Tháng 5/2010 các nhà lãnh đạo Eurozone và Quỹ tiền tệ quốc tệ IMF đã

công bố gói cứu trợ đầu tiền có kì hạn 3 năm trị giá 110 tỷ EURO dành cho Hy Lạp. Sau
đó vào tháng 10/2010 IMF cho Hy Lạp vay thêm 2,5 tỷ EURO nâng tổng số các khoản
vay khẩn cấp mà IMF để dành ngăn chặn khả năng vỡ nợ của Hy Lạp lên 10.58 tỷ
EURO. Khoản dải ngân này đã giúp Hy Lạp trả được món nợ trị giá 8.5 tỷ EURO đáo
hạn vào ngày hôm sau.
 Từ tháng 5/2010 đến tháng 6/2011 Ngân hàng trung ương châu Âu đã mua
khoảng 45 tỷ EURO trái phiếu chính phủ Hy Lạp, ngoài ra các khoản hỗ trợ thanh khoản

25


mà ECB dành cho các ngân hàng Hy Lạp tăng từ 47 tỷ EURO vào tháng 1/2010 lên 98 tỷ
EURO vào tháng 5/2011.
 Để có được những gói cứu trợ đó từ chủ nợ. Hy Lạp đã lập tức thắt chặt chi
tiêu công bao gồm tăng thuế, cắt giảm ngân sách cho y tế, quốc phòng, sa thải 30000
công chức., Cắt giảm lương cho khu vực công và cắt giảm lương hưu. Nhằm mục đích
cắt giảm 4% quỹ lương .
- Khoản trợ cấp lần 2
 Sau khi nhận được gói cứu trợ đầu tiên, tình hình nợ công của Hy Lạp vẫn

không tốt lên. Các nhà đầu tư vẫn nghi ngại khả năng trả nợ của quốc gia này, đẩy lãi
suất trái phiếu chính phủ lên cao khiến Hy Lạp phải cầu cứu đến gói cứu trợ lần 2,
Tháng 2/2012 Quốc hội Hy Lạp đã thông qua kế hoạch thắt chặt chi tiêu nhằm đổi lại
130 tỷ EURO từ EU và IMF để giải quyết khoản nợ đáo hạn vào tháng 3 tới.
 Gói giải pháp này sẽ bao gôm việc cắt giảm tiếp 15000 việc làm từ khu vực
công,lới nỏng luật lao động, đồng thời giảm 20% lương tối thiểu. từ 751 EURO xuống

600 EURO 1 tháng. Đồng thời chính phủ Hy Lạp phải cam kết giảm nợ công đến năm
2020 là 121 % GDP.
- Gói cứu trợ lần 3 trị giá 86 tỷ EURO
Sau 2 gói cứu trợ lần trước, chính quyền Athena vẫn không đáp ứng được thời hạn
chót trả nợ cho IMF. Chính vì vậy đến tháng 8/2015 NDĐT – Cơ chế bình ổn Châu Âu
( ESM ) đã thông qua gói cứu trợ trị giá 86 tỷ Euro cho Hy Lạp. Quyết định này được
đưa tra trước ngày mà đất nước này phải trả khoản nợ 3,2 tỷ EURO cho Ngân hàng trung
ương Chấu Âu ( ECB).
Theo thỏa thuận này, đợt đầu tiên đợt đâu tiên của chương trình cứu trợ sẽ lên đến
26 tỷ Euro Trong gói giải ngân lần đầu ESM sẽ dảnh 10 tỷ Euro để tái cấu trúc hệ thống
Ngân Hàng Hy Lạp. Khoản tiền này sẽ không đổ trực tiếp vào Ngân hàng Hy Lạp mà do
1 tài khoản của ESM quản lý. 16 tỷ Euro còn lại sẽ giúp Hy Lạp trang trải khoản nợ .
26


Về phần mình Athens cũng sẽ hoàn thành 95 cam kết trong tháng 12. Trong đó có
các lĩnh vực nhạy cảm như cải các dịch vụ công và phúc lợi xã hội , cũng như các biện
pháp nhằm tự do hóa thị trường năng lượng và thúc đấy tư nhân hóa.
-

Những thứ được và mất của các khoản cứu trợ và chính sách thắt lưng buộc
bụng



Những gói cứu trợ trị giá hàng trăm tỷ Euro đã giúp Hy Lạp trả được
những khoản nợ gần đến ngày đáo hạn. Điều đó làm giảm nguy cơ trước mắt về việc vỡ
nợ của chính phủ

Nhưng kèm theo đó là chính sách thắt chặt chi tiêu, cắt giảm lao đông, tăng
thuế, giảm phúc lợi xã hội đã vấp phải làn sóng phản đối dữ dội của người dân nươc này.
Khu vực chi tiêu công giảm mạnh, các nhà đầu tư nước ngoài không mặn mà đến nền
kinh tế nước này đã làm mất động lực để phát triển kinh tế của Hy Lạp.

27


2.1.4. Tác động của khủng hoảng nợ công Hy Lạp
- Tác động trực tiếp đối với nền kinh tế Hy Lạp
 Nền kinh tế Hy Lạp đã phải trải qua gần một thập kỉ suy thoái với những
khoản nợ khổng lồ. Việc thắt chặt chi tiêu công và việc giảm sức hút đối với các nhà đầu
tư nươc ngoài đã làm cho nền kinh tế nước này mất đi động lực phát triển.

28


×