Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

tiểu luận kinh tế phát triển thực trạng chỉ số giáo dục của việt nam giai đoạn 2010 2016 và giải pháp nâng cao chỉ số phát triển giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.32 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
*Lý do chọn đề tài:
Trong thời đại hiện nay, khi mà tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt đe dọa
đến sự phát triển bền vững của con người thì một chỉ số đã ra đời để lượng hóa khả năng
phát triển bền vững của một quốc gia, đó là “chỉ số phát triển con người” (Human
Development Index – HDI). Vì con người được cho là yếu tố trung tâm, chi phối các yếu
tố tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế, … khác nên do đó người ta cho rằng khi đo lường
được sự phát triển của con người cũng có thể đánh giá một cách tương đối được sự phát
triển của các yếu tố xung quanh. Trong các chỉ số cấu thành nên chỉ số phát triển con
người ta thấy rằng chỉ số giáo dục là một chỉ số vừa gắn liền sát nhất với thực tế phát triển
các nhân và dễ tác động hơn so với hai chỉ số còn lại.
Bên cạnh đó, đối với mỗi quốc gia hiện nay, đổi mới hay cải cách giáo dục luôn là
yêu cầu thường xuyên, bức thiết nếu không muốn bị tụt hậu trong cuộc chạy đua phát
triển đang ngày càng gay gắt hiện nay. Bởi thực tế, lịch sử đã chứng minh một quy luật là:
không có sự tiến bộ và thành đạt của quốc gia nào mà lại tách rời khỏi sự tiến bộ và thành
đạt của quốc gia đó trong lĩnh vực giáo dục. Đối với Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị
Trung Ương 8 khóa XI đã nêu rõ vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu định hướng Xã hội Chủ nghĩa và hội nhập quốc tế “Giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”. Trong đó,
Nghị quyết đã chỉ rõ thực tế, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu
cầu. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và
lạc hậu…Tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục hàng năm của Việt Nam ở mức xấp xỉ 20%,
tương đương 5% GDP nhưng Việt Nam còn thuộc các nước có chỉ số phát triển con người
trung bình.
Để khắc phục những hạn chế, tồn tại của vấn đề phát triển giáo dục Việt Nam trong
thời gian qua, đặc biệt là trong giai đoạn 2010 – 2016 gần đây (lần thay đổi luật giáo dục
gần nhất vào năm 2010), từ đó nhằm nâng cao chỉ số giáo dục để làm tăng chỉ số HDI
Việt Nam trong dài hạn, nhóm em đã tiến hành nghiên cứu và xây dựng tiểu luận “Thực

2



trạng về chỉ số giáo dục của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2016 và giải pháp nhằm nâng
cao chỉ số phát triển con người ở Việt Nam”
*Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở dữ liệu từ các tổ chức có uy tín, chỉ ra các thành tựu và hạn chế của giáo
dục Việt Nam giai đoạn 2010 – 2016. Từ đó đề ra những giải pháp nhằm cải thiện giáo
dục cũng như chỉ số giáo dục Việt Nam, lấy đó làm tiền đề để nâng cao chỉ số phát triển
con người ở Việt Nam trong dài hạn.

3


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
I. Lí luận chung về chỉ số phát triển con người (HDI)
1. Khái niệm phát triển con người:
Khái niệm phát triển con người được sử dụng là khái niệm do Chương trình Phát
triển Liên Hợp Quốc (United Nations Development Programme – UNDP) đề xướng trong
Báo cáo phát triển con người (Human Development Report – HDR), công bố lần đầu tiên
năm 1990: "Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và mục
đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con người được
hưởng cuộc sống dài lâu, mạnh khỏe và sáng tạo. Chân lý đơn giản nhưng đầy sức mạnh
này rất hay bị người ta quên mất trong lúc theo đuổi của cải vật chất và tài chính". Trong
Báo cáo phát triển con người năm 2001 của UNDP, khái niệm này được nhấn mạnh:
“Phát triển con người không chỉ là sự tăng giảm của thu nhập quốc dân, mà còn là tạo ra
một môi trường trong đó mọi người có thể phát triển mọi khả năng của mình và làm chủ
một cuộc sống sáng tạo, hữu ích, phù hợp với lợi ích và nhu cầu của họ. Do vậy, phát
triển có ý nghĩa là mở rộng những lựa chọn của con người để hướng tới cuộc sống mà họ
coi trọng”.
Khái niệm này đã được phân tích, diễn giải bằng các mệnh đề “Phát triển con người
là sự phát triển của con người, do con người và vì con người”, “Phát triển con người là

quá trình vừa nâng cao năng lực lựa chọn của con người, vừa mở rộng cơ hội lựa chọn
của con người”. Tuy nhiên, có thể thấy sau chặng đường 10 năm từ báo cáo đầu tiên năm
1990, Báo cáo năm 2001 đã làm rõ hơn nội hàm của khái niệm phát triển con người với ý
“làm chủ một cuộc sống sáng tạo, hữu ích, phù hợp với lợi ích và nhu cầu của họ” . Như
vậy, ngoài hai mệnh đề trên, cần thấy rõ vai trò chủ thể của con người trong phát triển,
đồng thời phải quan tâm tới lợi ích, nhu cầu của con người trong phát triển. Từ khái niệm
phát triển con người này, thời điểm năm 1990 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong
quá trình khẳng định vai trò chủ thể – động lực – mục tiêu của con người trong phát triển.
Bước ngoặt đó là ở chỗ trải qua một quá trình lịch sử lâu dài của nhân loại, lần đầu tiên
khái niệm phát triển con người đã chính thức được lượng hóa bằng việc tính toán và công

4


bố xếp hạng Chỉ số phát triển con người – HDI cho các quốc gia và vùng lãnh thổ. Tiếp
theo HDI, trong xu hướng cố gắng đo lường, lượng hóa các khía cạnh khác của phát triển
con người, UNDP đã đề xướng phương pháp luận và công thức tính toán một số chỉ tiêu
khác liên quan đến một số khía cạnh cơ bản của phát triển con người như bình đẳng giới,
nghèo khổ.
Từ Báo cáo phát triển con người toàn cầu đầu tiên do UNDP công bố năm 1990,
khái niệm phát triển con người đã hội tụ các nhà hoạch định chính sách, các nhà thực thi
chính sách và các nhà khoa học trong nhận thức đúng đắn hơn, đồng thuận cao hơn về
tầm quan trọng của mục tiêu phát triển con người trong phát triển kinh tế-xã hội. Báo cáo
phát triển con người năm 1996 của UNDP đã khẳng định “Phát triển con người là mục
đích cuối cùng, tăng trưởng kinh tế là phương tiện”. Mối quan hệ này được mô phỏng
như sau:

Phương tiện:
Tăng trưởng kinh
tế


Các điều kiện thúc đẩy phát triển
con người:
+Cơ hội việc làmđầy đủ
+Dịch vụ giáo dục tốt +Dịch vụ y tế
tốt...

Các điều kiện thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế:
+Lao động có trình độ +Đổi mới công
nghệ +Quản lí tốt...

Mục tiêu phát
triển: Con người
So sánh mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế (phương tiện) và phát triển con người (mục
tiêu), chúng ta thấy rõ phát triển con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế-xã hội và nhiều vấn đề liên quan khác.

5


2. Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) và cách tính HDI:
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index – HDI):
Chỉ số phát triển con người (HDI) được cơ quan phát triển con người của Liên Hiệp Quốc
đưa ra để kiểm soát, đánh giá sự tiến bộ trong phát triển con người. HDI là chỉ số đo
lường thống nhất các mục tiêu kinh tế-xã hội cần đạt được và phản ánh toàn bộ các khía
cạnh của cuộc sống. HDI phản ánh mức độ trung bình đạt được của một nước về các năng
lực cơ bản của con người.
Trên thực tế, HDI chứa đựng ba yếu tố phản ánh tương ứng ba khía cạnh thuộc về
năng lực phát triển của con người, đó là: năng lực tài chính (thu nhập), năng lực trí lực

(giáo dục) và năng lực thể lực (y tế và chăm sóc sức khỏe). Ba yếu tố cấu thành HDI đã
được thống nhất từ năm 1990 bao gồm: y tế và chăm sóc sức khỏe (tính bằng tuổi thọ
bình quân), giáo dục (tính theo hai tiêu chí là tỷ lệ người lớn biết chữ và số năm đi học
trung bình); GNI/người tính theo PPP (sức mua) được đưa vào HDI phản ánh thu nhập.
Đã có ba lần thay đổi trong việc sử dụng các yếu tố đưa vào HDI để phản ánh khía cạnh
giáo dục. Trước năm 2007, kết quả giáo dục đưa vào tính HDI bao gồm tỷ lệ người lớn
biết chữ và số năm đi học trung bình. Năm 2007, trong báo cáo phát triển con người của
UNDP thì kết quả giáo dục tính vào HDI lại là: tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ đến
trường đúng độ tuổi. Báo cáo phát triển con người năm 2010 cải tiến hơn, con số tỷ lệ đến
trường đúng độ tuổi được thay bằng số năm đi học trung bình nhưng đầy đủ hơn, nó
không chỉ bao gồm số năm đi học trung bình của những người từ 25 tuổi trở lên mà còn
bao gồm số năm đi học trung bình kỳ vọng, tức là số năm đi học trung bình dự báo tính
cho những người trong độ tuổi đến trường.
 Cách tính HDI:
Về phương pháp tính, HDI thiết lập một giới hạn trên và giới hạn dưới cho từng khía
cạnh, gọi là những điểm đích, nó thể hiện mỗi quốc gia đang đứng ở điểm nào so với các
điểm mốc đó, được thể hiện từ giá trị từ 0 đến 1 (trong đó giá trị 1 là giá trị cao nhất).
Nhưng nếu phát triển con người là quá trình mở rộng sự lựa chọn thì có thể không có sự
giới hạn, không có điểm cao nhất. Phương pháp chỉ số chính là cách thức để quy đổi các
đơn vị đo lường của các tiêu chí bộ phận cấu thành chung.

6


Trước báo cáo phát triển con người năm 2010, UNDP đã sử dụng một phương pháp
tính khác mà theo đó HDI là trung bình cộng của ba chỉ số bộ phận. Tuy nhiên, trong Báo
cáo phát triển con người năm 2010, đi đôi với sự thay đổi một số yếu tố bộ phận trong
HDI, phương pháp tính cũng có sự thay đổi phù hợp và bảo đảm tính chính xác hơn của
chỉ số này.
HDI được tính theo công thức bình quân nhân giản đơn từ 3 chỉ số thành phần như sau:


Theo đó, các chỉ số được xác định cụ thể như sau:
- Chỉ số tuổi thọ:
- Chỉ số giáo dục:
Trong đó, chỉ số năm học trung bình () và chỉ số năm học kì vọng () được tính theo công
thức: Chỉ số =
- Chỉ số thu thập:
Kể từ năm 2010, UNDP có sự điều chỉnh trong cách tính toán chỉ số HDI. Vì vậy,
trong các Báo cáo cũng có sự thay đổi về việc công bố các chỉ số thành phần của HDI, cụ
thể là UNDP không công bố các chỉ số thành phần mà chỉ công bố tuổi thọ trung bình, số
năm đi học trung bình, số năm đi học kỳ vọng và GNI của mỗi quốc gia. Nếu muốn có
từng chỉ số cấu thành của HDI, chúng ta phải tự tính toán.
Bảng 1: Giá trị tối đa (max) và tối thiểu (min) của các chỉ tiêu liên quan để tính HDI
năm 2010

Sức khỏe

Giáo dục

Mức sống

Chỉ tiêu

Giá trị tối đa

Giá trị tối thiểu

Tuổi thọ (năm)

83.2


20

Số năm đi học
trung bình (năm)

13.2

0

20.6

0

108211

163

Số năm đi học kỳ
vọng (năm)
GNI bình quân đầu
người (USD PPP)

Nguồn: UNDP

7


Áp dụng cách tính này cùng với số liệu của UNDP công bố, chúng em có được các
chỉ số như sau:

Bảng 2: Chỉ số HDI của Việt Nam giai đoạn 2010-2016

Chỉ số tuổi thọ

Chỉ số giáo dục

Chỉ số thu
nhập

HDI

2010

0,84

0,48

0,38

0,572

2011

0,85

0,48

0,38

0,593


2013

0,85

0,51

0,38

0,617

2014

0,86

0,51

0,59

0,638

2015

0,86

0,58

0,67

0,666


2016

0,82

0,59

0,66

0,683

Nguồn: Báo cáo phát triển con người của UNDP các năm 2010-2016
Bảng số liệu trên cho thấy trong giai đoạn 7 năm (2010 – 2016), chỉ số tuổi thọ của
Việt Nam vẫn tăng dần đều một cách khá bền vững; chỉ số giáo dục cũng từng bước được
cải thiện, đặc biệt có sự tăng mạnh vào năm 2015 (do số năm đi học trung bình tăng lên
8.0 năm so với 7.8 năm vào năm 2014); chỉ số thu nhập có sự cải thiện rõ rệt trong hai
năm 2014 và 2015 so với những năm trước đó. Vì vậy, trong hai năm 2014 và 2015, sự
tăng trưởng của chỉ số HDI có sự đóng góp đáng kể từ chỉ số thu nhập và chỉ số giáo dục.
Nhìn chung, chỉ số HDI Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng nhưng tốc độ không cao, sự biến
đổi của các chỉ số thành phần trong chỉ số HDI là không đồng đều, có sự thay đổi trật tự
đóng góp vào HDI trong từng giai đoạn, thể hiện sự tiến bộ không đều giữa các lĩnh vực
kinh tế, giáo dục.
II. Đánh giá chung về chỉ số HDI của Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2016
1. Đánh giá chung về chỉ số HDI

8


Trong thời gian qua, cùng với quá trình đổi mới về kinh tế và những thành tựu
quan trọng đạt được trong lĩnh vực này, trình độ phát triển con người của Việt Nam cũng

đã có những tiến bộ nhất định.

2010
2011
2012
2013
2014

75.1
75.3
75.5
75.7
75.9

7.5
7.6
7.8
7.9
7.8

11.9
12.5
12.6
12.6
12.7

GNI bình
quân theo
đầu người
(theo 2011

PPP$)
4241
4433
4621
4803
5007

2015

76.1

8.0

12.7

5263

2016

76.3

8.1

12.7
5589
0,683
115/188
Nguồn: Báo cáo phát triển con người của UNDP

Năm


Tuổi thọ
Số năm đi
kỳ vọng
học trung
trung bình
bình (năm)
(năm)

Số năm đi
học kỳ
vọng
(năm)

HDI

Xếp
hạng

0,572
0,593
0,617
0,628
0,638

113/169
128/187
127/187
127/186
121/187


0,666

116/188

Qua bảng số liệu trên cho thấy, trong giai đoạn 2010-2016 chỉ số phát triển con
người của Việt Nam có xu hướng tăng nhưng không nhiều, thậm chí còn có lúc giảm và
tốc độ tăng cũng chậm hơn so với các nước trên thế giới.
 Về chỉ số tuổi thọ:
Tăng đều qua các năm, trung bình tăng 0.2 tuổi/ năm. Tuổi thọ bình quân ở nước ta
đạt mức cao nhất và có tầm quan trọng hàng đầu trong 3 chỉ số (thu nhập, tuổi thọ, giáo
dục), quyết định thứ bậc về HDI. Trong khu vực Đông Nam Á, năm 2016, tuổi thọ của
Việt Nam đang xếp thứ 2, Cụ thể, tuổi thọ bình quân của người Việt Nam năm 2016 đạt
76.3, đứng sau Singapore - 82,6 tuổi. Malaysia đứng thứ 3 với 74,7 tuổi, kế đó là Thái
Lan 74,4, Indonesia 68,9, Philippines 68,3, Campuchia 68,2, Lào 66,1... Ngoài các yếu tố
có tính tự nhiên, tuổi thọ cao của người Việt Nam còn là kết quả của việc cải thiện mức
sống, chăm lo sức khoẻ con người, được thể hiện trên nhiều mặt. Cụ thể: Tỷ lệ nghèo
giảm mạnh (9,45% năm 2010 xuống còn 3,47% năm 2016, Công tác bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe nhân dân được tăng cường. Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Tiếp tục

9


đầu tư xây mới và nâng cấp mở rộng nhiều bệnh viện; riêng tuyến. Trung ương tăng thêm
1.200 giường bệnh. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt khoảng 72%.
 Về chỉ số thu nhập:
(Tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương) Bình quân đầu người đã tăng từ
4241 USD năm 2010 lên 5589 USD năm 2016. Do chỉ số thu nhập còn thấp, nên cần phải
tập trung cho việc nâng cao chỉ tiêu này. Muốn tăng chỉ tiêu này, một mặt phải tăng tổng
GDP (tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương); phải tăng tỷ lệ GNI so với GDP

và tiếp tục giảm tốc độ tăng dân số.
 Về chỉ số giáo dục:
Đây là chỉ số được biểu hiện qua 2 chỉ số chi tiết, đó là số năm đi học kỳ vọng và số
năm đi học trung bình. Số năm đi học kỳ vọng tăng từ 11,9 năm vào năm 2010 lên 12,7
năm vào năm 2016, số năm đi học trung bình của Việt Nam đã tăng từ 7,5 năm năm 2010
lên 8.1 năm năm 2016. Nhìn chung, trình độ phát triển con người của Việt Nam chưa thực
sự bền vững. Hiện nay, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có trình độ phát triển con
người ở mức trung bình, thấp hơn so với phần lớn các nước trong khu vực Đông Nam Á
(chỉ cao hơn với Myanmar và Camphuchia). Theo báo cáo phát triển con người của
UNDP năm 2015 dựa trên cơ sở phân tích dữ liệu năm 2014, năm 2014 chỉ số HDI của
Việt Nam là 0,638 trong khi đó của Myanmar là 0,535, của Campuchia là 0,555. Trong
thời gian tới, để HDI tăng nhanh hơn, Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn nữa vào con người.
Nếu không đầu tư vào con người thì những lợi ích thu được từ thị trường quốc tế hoặc từ
đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ rất hạn chế. Đầu tư vào tiềm năng con người có ý nghĩa
sống còn giúp Việt Nam nâng cao lợi thế cạnh tranh và nhờ đó được hưởng.
2. Mối quan hệ giữa chỉ số giáo dục và chỉ số HDI ở Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, chỉ số giáo dục là một trong ba chỉ số thành phần được tính
vào chỉ số phát triển con người, thể hiện qua hai tiêu chí là số năm đi học trung bình của
người lớn (>25 tuổi) và số năm đi học kỳ vọng trung bình ở trẻ em. Thông qua đó, chỉ số
giáo dục phản ánh khả năng có được nền giáo dục và đào tạo căn bản, đảm bảo việc tiếp

10


cận với kiến thức khoa học, xã hội cần thiết, có được trình độ học vấn nhất định để phục
vụ cho quá trình lao động và phát triển đời sống cộng đồng. Do vậy, chỉ số giáo dục đã
tác động trực tiếp tới sự phát triển của con người ở góc độ tri thức, ảnh hướng tới thứ bậc
của HDI và là nhân tố quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình phát triển của xã hội nói
chung.
Trong những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng về giáo dục và đào tạo có

ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển bền vững trong dài hạn, nước ta đã quan tâm chú ý tới
đổi mới, tạo nhiều kết quả đột phá, đóng góp vào sự phát triển con người nói riêng và đất
nước nói chung, nhờ vậy, chỉ số HDI của Việt Nam cũng đã có những bước tiến bộ đáng
kể. Tuy nhiên, nếu so với nhiều nước trên thế giới và các nước trong khu vực Đông Nam
Á, tốc độ tăng HDI của Việt Nam còn khá chậm. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải giải quyết
được những bài toán hạn chế còn lại từ các yếu tố thành phần ảnh hưởng trực tiếp đến
HDI, và một trong số đó chính là giáo dục - lĩnh vực có vai trò quan trọng của mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc, không chỉ đem đến những cơ hội cho quá trình xây dựng nguồn lực con
người, mà còn đòi hỏi những thách thức cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH CHỈ SỐ GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN 2010 – 2016
I. Thành tựu về giáo dục Việt Nam cho việc tăng cao chỉ số phát triển giáo dục
Qua cách tính chỉ số giáo dục ở phần cơ sở lí luận, ta thấy yếu tố tác động chính đến
chỉ số giáo dục chính là số năm đi học kỳ vọng và số năm đi học bình quân. Theo đó, số
năm đi học bình quân được thể hiện qua 6 yếu tố: không được giáo dục chính thức, không
hoàn thành giáo dục tiểu học, hoàn thành giáo dục tiểu học, giáo dục cấp trung học cơ sở,
giáo dục cấp trung học phổ thông và giáo dục Cao đẳng và Đại học. Tuy nhiên trong phân
tích này, ta sẽ chỉ tập trung đi vào tìm hiểu ở cấp giáo dục phổ thông (Tiểu học, THCS &
THPT).
Theo số liệu của UNDP, từ năm 1980 – 2015, chỉ số phát triển của Việt Nam đã tăng
từ 0,381 lên 0,666. Sau đây, ta sẽ đi vào phân tích thành tựu hay những ưu điểm của chỉ
số giáo dục ở Việt Nam ở cấp Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông để tìm hiểu
nguyên nhân nào dẫn đến sự gia tăng chỉ số giáo dục trong giai đoạn 2010 –2016.

 Một số thành tựu lớn làm tăng chỉ số Giáo dục ở Việt Nam

11


Để giảm thiểu số người chưa được giáo dục chính thức. Chính phủ Việt Nam đã lập ra kế

hoạch EFA (Education for All) từ năm 2003 – 2015 về chất lượng, độ tiếp cận và triển
khai trên nhiều khu vực vùng miền và đạt được kết quả:
- Số năm đi học kỳ vọng năm 2010 là 11.9 năm, đến năm 2015 đạt 12.7 năm.
- Số năm đi học bình quân năm 2010 là 7.5 năm, đến năm 2015 đạt 8 năm.
- Tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 – 34 đạt 100% năm 2015.
Có thể thấy, chỉ trong khoảng 5 năm, Giáo dục Việt Nam đã đạt được những bước tiên
nhất định. Đằng sau đó là những tiến bộ, thành tựu mà giáo dục mỗi cấp đạt được, góp
phần làm tăng chỉ số giáo dục. Sau đây, ta sẽ phân tích thành tựu đạt trong 3 cấp học của
giáo dục phổ thông. Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông.

 Thành tựu cấp Tiểu học
- Tỷ lệ nhập học của học sinh cấp Tiểu học (trong độ tuổi tương ứng) tăng qua các
năm 104.96% vào năm 2010 lên 109.97% vào năm 2016, chỉ giảm nhẹ vào năm 2015: từ
109.27% năm 2014 xuống 108.715% năm 2015. Ngoài ra tỷ lệ này còn có khá đồng đều
theo giới tính, năm 2010: tỷ lên nhập học cấp tiểu học ở nữ là 102.184%, ở nam là
107.579%; đến năm 2016: tỷ lệ này ở nữ là 110.125%, ở nam là 109.828%.
Bảng 3: Bảng tổng tỷ lệ nhập học Tiểu học năm học 2010 – 2016
Năm

2010

2011

2012

2013

2014

2015


2016

Tỷ lệ nhập
học Tiểu
học

104.96

106.374

106.831

207.834

109.207

108.715

109.97

Tỷ lệ nhập
học TH
(nam)

107.57
9

108.794


106.677

108.745

109.893

109.131

109.828

Tỷ lệ nhập
học TH
(nữ)

102.18
4

103.808

109.994

105.932

108.472

108.266

110.125

12



-

Tỷ lệ học sinh hoàn thành cấp Tiểu học (trong độ tuổi tương ứng) trong giai đoạn
2010 –2013 có xu hướng tăng.

Ty lê hoc sinh hoan thanh câp Tiêu hoc (trong đ ô tuôi tương ưng)
90.8

90.71

90.72

2012

2013

90.6
90.4
90.26
90.2
90

89.8

89.8
89.6
89.4
89.2

2010

2011

Nguồn: UNDP
Qua hình vẽ, ta có thể thấy tỷ lệ học sinh toàn cấp Tiểu học tăng từ 90.256% năm 2010
đến 90.715% năm 2013. Đây là một con số khá cao, bởi nó có ý nghĩa rằng tính đến năm
2013, cứ 10 trẻ nhập học cấp Tiểu học thì có đến 9 trẻ hoàn thành cấp Tiểu học. Con số
này cũng gián tiếp chỉ ra rằng tỷ lệ bỏ học cấp Tiểu học đang giảm dần trong giai đoạn
2010 – 2013.
-

Tỷ lệ giáo viên cấp Tiểu học đã qua đào tạo (% trên tổng số giáo viên Tiểu học) cũng
tăng.

Năm
Số giáo viên
đã qua đào
tạo

2010

2011

2012

2013

2014


2015

2016

98.33
5

99.303

99.588

99.678

100

99.476

99.774

13


Sự gia tăng này chính nhờ các chính sách đẩy mạnh, nâng cao trình cho giáo viên các cấp
bằng cách tổ chức các khóa học, huấn luyện đẻ giúp giáo viên năm chắc chuyên môn và
cung cấp dịch vụ tốt hơn cho học sinh. Vào năm 2010, tỷ lệ giáo viên Tiểu học đã qua đào
tạo đạt 98.335% trên tổng số giáo viên cùng cấp, tỷ lệ này có xu hướng tăng đều, đỉnh
điểm đạt 100% năm 2014, sau đó giảm dần do có sự cắt giảm biên chế cũng như các quy
định chặt chẽ hơn trong việc thi cử đã khiến tỷ lệ này giảm xuống nhưng vẫn duy trì ở
mức cao, đạt 99.774% năm 2016.


 Thành tựu ở cấp Trung học cơ sở (THCS)
- Tỷ lệ hoàn thành THCS của người trong độ tuổi tương ứng tăng
Năm 2011 là 77.816% đến năm 2016 đạt 87.5585%. Ngoài ra, tỷ lệ này không những tăng
mà còn tăng đồng đều cho phân bổ theo giới tính. Đến năm 2016, tỷ lệ hoàn thiện giáo
dục cấp THCS của nữ là 89.979% của nam còn 85.269%. Đây được xem là một thành tựu
to lớn đối với một đất nước Đông Nam Á từng mang nặng màu sắc phong kiến với quan
điểm “trọng nam khinh nữ” như Việt Nam.
Số học sinh học lại ở các cấp THCS giảm:

Tổng số học sinh học lại cấp THCS
90918

67813

2011

2012

54652

54514

2013

2014

14


Nguồn: UNDP

Theo thống kê của UNDP, từ năm 2011 – 2014, số học sinh học lại ở cấp thuộc khối
THCS giảm nhiều. Năm 2011 có 90.918 học sinh đi học lại, đến năm 2014 chỉ còn 54.514
học sinh học lại, chỉ chiếm 1.1% số học sinh nhập học cùng năm.
-

Tỷ lệ giáo viên đã qua đào tạo ở cấp THCS (% trên tổng số giáo viên cấp THCS) tăng:

Tỷ lệ giáo viên đã qua đào tạo ở cấp THCS (% trên tổng số giáo viên cấp THCS)
99.06

99.23

100

99.08

91.45

2011

2012

2013

2014

2015

Nguồn: UNDP
Từ mốc thời điểm ta xét là năm 2011, tỷ lệ này đã rất cao, đạt 99.06% và tiếp tục tăng đến

năm 2011, sau đó giảm liền 2 năm 2012 và 2013. Tuy nhiên, đến năm 2015, tỷ lệ này đạt
100% . Điều đó chứng tỏ giáo dục Việt Nam đã có những chính sách, kế hoạch nhất định
để đẩy cao chất lượng giảng dạy.

 Thành tựu ở cấp Trung học phổ thông (THPT)

15


Tổng số học sinh nhập học cấp THPT
3500000
3000000
2500000
2000000
1500000
1000000
500000
0

2010
2011
2012
2013
2014
Số học
nhập học cấp THPT tuy giảm nhưng phân bổ đồng đều theo giới tính 2011 – 2014.

sinh

Nguồn: UNDP

Từ năm 2010 – 2014, số học sinh nhập học cấp THPT có giảm về số lượng do ở giai
đoạn này tốc độ gia tăng dân số ở Việt Nam cao hơn hẳn mọi năm trước. Tốc độ gia tăng
dân số đạt 1.1% (2010 – 2015) mà tốc độ phát triển kinh tế cũng như các nguồn lực không
đáp ứng kịp đã khiến tỷ lệ nhập học ở THPT giảm. Tuy nhiên chỉ số này vẫn giữ được sự
phân bố đồng đều về giới tính, gần đạt ngưỡng 50%. Hơn nữa, tuy giảm về số lượng
nhưng theo thống kê của UNDP, trong giai đoạn 2008 – 2011, tổng tỷ lệ nhập học cấp
THPT đạt 65%, chỉ kém 3% so với tỷ lệ này của các nước Đông Á và Thái Bình Dương.
Ngoài ra, các chỉ số học sinh/ lớp, học sinh/ giáo viên, giáo viên/ lớp cũng được chú
trọng xem xét. Tính đến năm 2016, tỷ lệ học sinh/ lớp là 37,83, học sinh/ giáo viên là
16,07, giáo viên/ lớp là 2.35, và vẫn duy trì được tỷ lệ này ở mức thấp tại một số trường
dân lập hoặc trường chuyên, trường đạt tiêu chuẩn quốc gia.

 Nguyên nhân dẫn đến những thành tựu trong giáo dục phổ thông

16


-

Các hình thức chính sách khuyến học, trợ cấp học sinh nghèo vượt khó, dân tộc thiểu
số,… của Bộ GD&ĐT và Chính phủ.
Phần trăm GDP giành để đầu tư cho giáo dục tăng lên: 4.604% năm 2010 – 4.888%
năm 2014.
Việc đổi mới trong chương trình giảng dạy cũng như hình thức kiểm tra với từng cấp.
Hợp tác với các trường ngoại quốc để học tập mô hình, giảng dạy của họ cũng như đeể
có những chương trình liên kết với các nước phát triển, đưa học sinh Việt Nam sang
giao lưu, học hỏi.

II. Các hạn chế trong việc nâng cao chỉ số giáo dục ở Việt Nam



Về chính sách

Tuy cuộc đổi mới về giáo dục của chúng ta có chậm hơn những đổi mới về kinh tế;
nhưng chủ trương về đổi mới nền giáo dục đến nay cũng đã được trên 20 năm mà kết quả
mang lại chưa là bao. Nền giáo dục nước nhà xét một cách toàn diện vẫn là nền giáo dục
theo tư duy của xã hội truyền thống nên chất lượng của giáo dục nói chung và đào tạo
nguồn nhân lực nói riêng chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội phát triển ngày một
nhanh và đa dạng
Cơ chế chính sách chưa phù hợp với vùng miền và chưa đủ mạnh; đầu tư cho giáo
dục, đặc biệt đầu tư cho giáo dục các vùng khó khăn còn hạn hẹp. Đầu tư chưa phù hợp
với điều kiện thực tế của các vùng miền; hỗ trợ cho các địa phương khó khăn còn chậm,
hạn chế và chưa đủ mạnh để phát triển giáo dục.
 Về phía cung cấp dịch vụ giáo dục
Mạng lưới trường lớp: Nhiều trường ở vùng sâu, vùng xa có rất nhiều điểm lẻ. Việc
liên lạc giữa các điểm trường lẻ và điểm trường chính rất khó khăn, không kịp thời. Ở
điểm trường lẻ; điều kiện học tập rất khó khăn; hoạt động dạy và học của giáo viên và học
sinh thường bị biệt lập, giáo viên và học sinh ít có cơ hội tham gia các hoạt động chung
của nhà trường; khó khăn trong việc phân phối, sử dụng và bảo quản thiết bị dạy học. Đây
là những nguyên nhân tạo nên sự chênh lệch về chất lượng dạy – học giữa các lớp trong
một trường, giữa các trường và giữa các vùng với nhau.
Cơ sở vật chất trường lớp, thiết bị dạy học: Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn
thiếu thốn, hầu như không có, phòng học chủ yếu là nhà cấp 4, nhà tạm. Thư viện của
trường nghèo nàn, chỉ có sách giáo khoa và sách tham khảo cho giáo viên, một vài cuốn
truyện và một số cuốn sách phổ biến kiến thức, nhìn chung các sách này cũng rất lạc hậu
và ít tác dụng.
Đội ngũ giáo viên, ngày càng được nâng cao trình độ để đạt chuẩn và trên chuẩn. Tuy
nhiên vẫn còn một số giáo viên dưới chuẩn, nhiều địa phương khó khăn vẫn còn thiếu
giáo viên. Trình độ giáo viên còn yếu, kỹ năng tổ chức các hoạt động dạy học của giáo
viên còn yếu nên chưa hướng cho học sinh tham gia tích cực và chủ động vào các hoạt

động học tập

17


 Chương trình giáo dục:
Chú trọng vào việc truyền đạt kiến thức, mang nặng tính nhồi nhét; quá coi trọng bằng
cấp và kết quả thi cử mà chưa chú trọng đến năng lực và phẩm chất của người học. Cách
tổ chức thi hiện nay phần lớn mới chỉ dừng lại việc đánh giá nhận thức sách vở của người
học.
Nền giáo dục bị khép kín trong nhà trường và chủ yếu dựa trên sự tương tác giữa thầy và
trò trong phạm vi của sách giáo khoa, thiếu sự tương tác với xã hội. Vai trò của gia đình,
đoàn thể và xã hội ngày một mờ nhạt trong giáo dục thế hệ trẻ.
Việc sử dụng nguồn lực đầu tư của Nhà nước và xã hội thiếu hiệu quả. Nguồn lực tài
chính đầu tư của Nhà nước tuy có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu nâng
cao chất lượng đào tạo do quản lý manh mún và phân tán, chạy theo việc mở trường và
nâng cấp các trường đại học cao đẳng làm cho giữa quy mô đào tạo và chất lượng đào tạo
không tương xứng. Bản thân các trường chạy theo mục tiêu trước mắt, thường tranh thủ
mở rộng qui mô mà quên đi chất lượng dẫn đến bộ máy quản lý cồng kềnh gây lãng phí,
hiệu quả đầu tư kém.
 Nguyên nhân về phía người tiếp nhận giáo dục
Đa số người dân nghèo sinh sống ở các vùng sâu, xa đều là người dân tộc, điều kiện
sản xuất còn rất khó khăn, thiếu thốn, sản xuất mang tính tự nhiên, lao động chủ yếu là
thủ công, người dân chưa thấy rõ được lợi ích của việc đi học nên chưa quan tâm nhiều
đến việc học tập của con em.
Chi phí trực tiếp mà phụ huynh phải trả cho giáo dục vượt quá khả năng tài chính của
những gia đình nghèo và gây cản trở cho việc đi học. Học sinh, đặc biệt là học sinh trung
học là lực lượng lao động chính của nhiều gia đình. Các em phải bỏ họ để đi kiếm sống,
giúp đỡ gia đình.
Bên cạnh đó, do hủ tục lạc hậu, một số bộ phận không nhỏ các em ở độ tuổi 17-18 đã

phải lập gia đình. Bên cạnh các nguyên nhân trên, điều kiện địa lý, kinh tế, văn hóa xã hội
là một trong những nguyên nhân cản trở việc tiếp cận dịch vụ giáo dục của học sinh
nghèo.
Như vậy, để HDI Việt Nam tăng nhanh trong thời gian tới, cùng với việc giữ vững mức
tăng tuổi thọ thì các chỉ số về giáo dục phải có sự tăng trưởng đột biến. Điều đó đòi hỏi
Chính phủ cần tập trung các nỗ lực phát triển kinh tế, giáo dục, sức khỏe để nâng cao đời
sống nhân dân.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHỈ SỐ GIÁO DỤC TỪ ĐÓ NÂNG
CAO CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CỦA VIỆT NAM TRONG DÀI HẠN
Từ tất cả những phân tích ở trên ta đã làm rõ được rằng chỉ số giáo dục không chỉ
đơn thuần là một chỉ số góp phần trong chỉ số phát triển con người mà còn là chỉ số liên

18


quan trực tiếp tới vấn đề nhân lực quốc gia, cũng là chỉ số có tác động gián tiếp nhưng
mạnh mẽ và tự nhiên tới hai chỉ số còn lại là tuổi thọ và thu nhập. Vì vậy, để cải thiện chỉ
số HDI ở Việt Nam trong thời gian tới, chúng ta cần những biện pháp nhằm nâng cao chỉ
số giáo dục từ đó hướng tới sự phát triển bền vững của quốc gia.
I. Quy định bắt buộc việc phổ cập giáo dục trên cả nước.
Năm 2000, Việt Nam đạt được tiêu chuẩn quốc gia về tỷ lệ biết chữ: với 94% dân
số từ 15 đến 35 tuổi biết chữ, so với con số hơn 95% dân số không biết đọc biết viết năm
1945, khi đất nước mới giành độc lập. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm học
2015-2016, tỷ lệ biết chữ nước ta đã đạt 98,1 % trong nhóm tuổi từ 15 đến 35 và 96,83 %
trong nhóm tuổi từ 15 đến 60. Nhìn một cách tổng thể, các số liệu trên đã thể hiện một
bước tiến lớn trong chính sách cải thiện giáo dục của nước ta.
Tuy nhiên, tỷ lệ xóa mù chữ còn chênh lệch nhiều giữa các khu vực, vùng miền, đặc
biệt là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới 44,8 % số người mù chữ trên cả nước. Các
thành phố trực thuộc trung ương, các tỉnh ven sông Hồng và khu vực trung tâm miền Bắc
là những địa phương đạt kết quả tốt nhất trong công tác xoá mù chữ. Bên cạnh đó, vẫn

còn những người thậm chí không biết viết tên mình, chủ yếu là ở khu vực miền núi phía
Bắc, Tây Nguyên và các tỉnh lưu vực sông MeKong, chiếm đến: 17,29 % dân số tỉnh Lai
Châu, 17,79 % dân số tỉnh Hà Giang, 6,38% dân số tỉnh Gia Lai, 5,17% dân số tỉnh Đak
Lak, 8,44 % dân số tỉnh Trà Vinh và 4,7 % dân số tỉnh Long An.
Do đó biện pháp đề ra là nhà nước cần tăng cường công tác tuyên truyền và lập
quy định bắt buộc đi học ở các cấp tại tất cả các khu vực trong cả nước để đạt mục tiêu
phổ cập giáo dục hết cấp trung học cơ sở mới được công nhận xóa mù chữ. Có thể lấy
Nhật Bản là một ví dụ điển hình trong việc quy định bắt buộc đi học với công dân. Với
chính sách “Không để một trẻ em nào trong gia đình và không để một gia đình nào trong
cộng đồng không được giáo dục”, Nhật Bản hướng đến sự bảo đảm phát triển hài hòa của
trẻ em về mọi mặt từ trái tim, trí tuệ, tình cảm, tinh thần, thái độ, hệ thống giá trị, nhân
văn, … và trở thành triết lý giáo dục cơ bản của nước Nhật. Chế độ giáo dục bắt buộc ở
Nhật Bản từ cấp tiểu học tới cấp trung học, do đó mọi trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 15

19


đều phải đến trường. Bậc tiểu học và trung học thuộc quy định giáo dục bắt buộc nên
những gia đình có con em mang quốc tịch Nhật bản, đủ tuổi đi học sẽ nhận được thông
báo từ cơ quan nhà nước quản lý trên địa bàn sinh sống và tiến hành các thủ tục để chuẩn
bị cho việc nhập học. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học ở Nhật là 90%, Do đó, Nhật Bản là một
trong những nuớc có trình độ dân trí cao nhất thế giới, tỉ lệ người không biết đọc biết viết
gần như 0 và 72,5% số học sinh theo học lên đến bậc đại học, cao đẳng và trung cấp, một
con số ngang hàng với Mỹ và vượt trội một số nước châu Âu. Điều này đã tạo cơ sở cho
sự phát triển kinh tế và công nghiệp của đất nước Nhật Bản trong thời kỳ hiện đại.
So sánh sự tương đồng của Việt Nam và Nhật Bản. Ta có thể nhận thấy Việt Nam và
Nhật Bản đều là hai nước thuộc top 20 quốc gia đầu tư cho lĩnh vực giáo dục nhiều nhất.
So với các nước, trong khu vực, tỷ lệ chi tiêu công cho giáo dục trên GDP của Việt Nam
cao hơn hẳn nhiều nước, thậm chí so với các nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn,
chẳng hạn như Singapore (3,2% năm 2010), Malaysia (5,1%), Thái Lan (3,8%), Hàn

Quốc (5,2% năm 2011), Hồng Kông (3,5%). Năm 2015, tổng nguồn ngân sách nhà nước
(NSNN) dành cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo là 224.826 tỷ đồng, chiếm khoảng 20% tổng
chi NSNN. Chi thường xuyên lĩnh vực giáo dục đào tạo năm 2015 là 184.070 tỷ đồng.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được của Việt Nam lại thấp hơn rất nhiều so với Nhật
Bản, thậm chí thấp hơn cả những nước có mức đầu tư ít hơn cho giáo dục. Vậy nguyên
nhân là do đâu? Nguyên nhân chính ở đây là do việc quy định chấp hành nghĩa vụ học tập
là chưa rõ ràng, quyết liệt. Các địa phương khó khăn không phải không được nhà nước
quan tâm đầu tư nhưng trách nhiệm các địa phương thực hiện nhiệm vụ của mình như thế
nào để xứng đáng với mức đầu tư được hưởng đó thì lại chưa được quản lí đúng mức, còn
lỏng lẻo, hời hợt. Cần phải có chế tài xử lý mạnh tay đi kèm thì mới có thể mang lại hiệu
quả tốt nhất. Ban hành quy định phải đi học, coi đó là quyền hạn và nghĩa vụ bắt buộc đối
với công dân của đất nước. Nhưng song song với đó là sự hỗ trợ, giúp đỡ những hoàn
cảnh khó khăn để chính sách đạt được hiệu quả tốt nhất.
II. Nâng cao chất lượng giảng dạy
Ngành giáo dục và đào tạo đã xác định công tác: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ
quản lý đồng bộ, chất lượng; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đi đôi với đẩy

20


mạnh giáo dục mũi nhọn” là nội dung đột phá của ngành giai đoạn 2017-2020. Hiện
tại, Sở Giáo dục và Đào tạo đã và đang thực hiện nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên trong toàn ngành, cụ thể như:
- Chỉ đạo, quán triệt thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của trung ương và
địa phương về GD&ĐT, đạo đức nhà giáo, nâng cao tinh thần, trách nhiệm của đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nhất là người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu
trong nâng cao chất lượng giáo dục.
- Tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên
và cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục. Thành lập Hội đồng bộ môn cấp THPT với các
thành viên là những cán bộ quản lý chuyên môn và giáo viên cốt cán của các đơn vị, thực

hiện nhiệm vụ tư vấn hỗ trợ các trường trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ. Tăng
cường công tác kiểm tra chuyên môn các cơ sở giáo dục để có giải pháp khắc phục, điều
chỉnh kịp thời những tồn tại của các đơn vị.
- Tổ chức khảo sát, đánh giá năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đội ngũ giáo viên bậc
phổ thông (năm 2016 đối với giáo viên THCS, THPT; năm 2017 đối với giáo viên Tiểu
học). Căn cứ vào kết quả khảo sát, Sở GD&ĐT ban hành văn bản chỉ đạo các đơn vị tăng
cường bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên, chỉ đạo giáo
viên tăng cường công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ.
- Chỉ đạo các đơn vị xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp với tình hình thực tế của
đơn vị; chỉ đạo giáo viên rà soát, điều chỉnh nội dung dạy học trong chương trình giáo dục
phổ thông hiện hành theo hướng tinh giản, tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới;
thực hiện thường xuyên, hiệu quả các phương pháp, hình thức tổ chức và kỹ thuật dạy học
tích cực; đổi mới phương pháp đánh giá học sinh.
- Chỉ đạo thực hiện tốt các hoạt động chuyên môn trong nhà trường như sinh hoạt
chuyên môn theo cụm trường, sử dụng trang mạng “truonghocketnoi” để trao đổi chuyên
môn; thực hiện nghiêm túc và có chất lượng các buổi sinh hoạt chuyên môn theo chuyên
đề; tổ chức dự giờ rút kinh nghiệm giờ dạy, ...

21


- Chỉ đạo thực hiện tốt công tác ôn thi THPT quốc gia cho học sinh lớp 12; rà soát,
bổ sung biên soạn tài liệu và tổ chức tập huấn cho giáo viên tham gia ôn thi THPT quốc
gia. Tổ chức kiểm tra học kỳ lớp 9 THCS, lớp 12 THPT theo đề chung của Sở GD&ĐT,
qua đó đánh giá mặt bằng chung của học sinh trong toàn tỉnh để điều chỉnh quá trình dạy
học của giáo viên ở các nhà trường.
- Đổi mới phương thức tuyển dụng, bố trí đội ngũ cán bộ, giáo viên nhằm đảm bảo
khách quan, công bằng, đánh giá đúng thực chất người dự tuyển, thu hút người có năng
lực, trình độ cao. Tổ chức khảo sát chuyên môn giáo viên xét điều động thuyên chuyển về

công tác tại trường THPT Chuyên năm học 2017-2018, đảm bảo khách quan, công bằng,
đúng quy định; tiếp tục đổi mới công tác đánh giá, phân loại cán bộ quản lý, giáo viên,
nhân viên theo hướng lấy chất lượng, hiệu quả công việc làm thước đo chính, nêu cao
trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị trong thực hiện đánh giá hằng năm.
- Quan tâm chỉ đạo thực hiện kịp thời các chế độ chính sách đối với nhà giáo và cán
bộ quản lý các cơ sở giáo dục; triển khai thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng nhằm
kịp thời động viên khuyến khích nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục vượt khó vươn lên,
không ngừng đổi mới sáng tạo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
III. Giải pháp nâng cao cơ sở vật chất
Chất lượng học tập của học sinh từng cấp nói riêng và chất lượng của toàn nền giáo
dục nói chung không chỉ phụ thuộc vào nội dung chương trình đào tạo, hệ thống giáo
trình, sách tham khảo hay đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên giảng dạy mà yếu tố cơ sở
vật chất cũng có vai trò hết sức quan trọng. Một nhà trường có đầy đủ các yếu tố nêu trên
nhưng cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, không theo kịp sự phát triển của xã hội thì sẽ
không thể có được một chất lượng đào tạo tốt nhất. Do đó, việc tăng cường và nâng cao
hiệu quả sử dụng sử dụng cơ sở vật chất cũng như các trang bị các phương tiện giảng
dạy và học tập hiện đại trong trường học sẽ góp phần đào tạo nên đội ngũ lao động có
chất lượng, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong xu thế hội nhập hiện
nay.

22


Đối với các nước có nền giáo dục tiên tiến, hàng đầu như Singapore, Nhật Bản, Mỹ,
Anh, ... không chỉ có phương pháp học tập tư duy mới, chất lượng đội ngũ giáo viên giỏi
mà họ còn đầu tư nghiêm túc cho môi trường học tập của học sinh. Từ khuôn viên trường
học đến phòng học, ký túc xá, nhà ăn hay các trang thiết bị, dụng cụ: máy chiếu, đồ thí
nghiệm, ... tất cả đều cố gắng tốt nhất, đầy đủ, hiện đại để mang lại cho học sinh hiệu quả
học tập cao nhất.
Vì vậy, việc định hướng thực hiện nâng cao cơ sở vật chất là thực sự cần thiết. Qua

đó, nó giúp tăng tỷ lệ học sinh đi học trung bình và học sinh đi học dự kiến dẫn đến tăng
chỉ số giáo dục và góp phần vào sự thay đổi tích cực của chỉ số phát triển con người
(HDI). Cụ thể:
1. Tăng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học, tăng mua sắm thiết bị, đồ dùng
phục vụ công tác giảng dạy, học tập
Hiện nay có một thực trạng đáng buồn rằng, cơ sở vật chất chưa đáp ứng đủ nhu
cầu giảng dạy và học tập của thầy cô, học sinh. Cụ thể:
- Cả nước có 28.177 cơ sở giáo dục phổ thông công lập, trong đó có 15.050 trường
tiểu học, 10.697 trường trung học cơ sở, 2.430 trường trung học phổ thông với gần 15
triệu học sinh. Tuy nhiên, số phòng học bộ môn, trang thiết bị dạy học, thư viện hiện chưa
đáp ứng được nhu cầu. Các cơ sở giáo dục (đặc biệt ở các vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ) còn nhiều phòng học bán kiên cố, phòng học tạm thời và phải đi
thuê, mượn các cơ sở bên ngoài.
- Cả nước hiện có 419.903 phòng học, trong đó, số phòng học kiên cố khoảng
323.551 phòng, đạt tỷ lệ 77,1% (Tiểu học 68,7%, Trung học cơ sở 85,7%, Trung học phổ
thông 93,9%). Về phòng học bộ môn, cấp Trung học cơ sở có tỷ lệ 2,88 phòng/trường
(trong đó, số phòng đáp ứng quy định đạt tỷ lệ 66,8%); cấp Trung học phổ thông có tỷ lệ
5 phòng/trường (số phòng đáp ứng quy định đạt tỷ lệ 72,8%). Số lượng thiết bị phòng học
bộ môn mới chỉ đáp ứng được khoảng 68% nhu cầu giảng dạy.
- Về thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin, trung bình ở cấp tiểu học 2,1 trường có 1
phòng máy; cấp trung học cơ sở 1,3 trường có 1 phòng máy và cấp trung học phổ thông,

23


mỗi trường có 1,9 phòng máy. Trong khi đó, để đáp ứng được nhu cầu giảng dạy tối thiểu,
tại cấp tiểu học và trung học cơ sở, mỗi trường cần ít nhất 1 phòng máy; đối với cấp trung
học phổ thông, mỗi trường cần ít nhất 2 phòng máy.
- Về thiết bị dạy học ngoại ngữ, trung bình tại cấp tiểu học có gần 1 bộ/trường, cấp
trung học cơ sở có khoảng 4 bộ/trường và cấp trung học phổ thông có khoảng 14

bộ/trường. Các thiết bị này chủ yếu là thiết bị cầm tay, đơn chiếc, phục vụ việc giảng dạy
của giáo viên, hệ thống thiết bị dạy ngoại ngữ chuyên dùng còn ít.
- Đặc biệt, với nhiều tỉnh miền núi và các vùng nông thôn, do hoàn cảnh kinh tế xã
hội chưa phát triển hay hạn chế giao thông, ngân sách có hạn nên việc đầu tư cơ sở vật
chất trường, lớp còn đầy bộn bề, chông gai. Những năm gần đây, nguồn ngân sách để chi
cho xây dựng cơ bản bị cắt giảm, ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống cơ sở hạ tầng các trường học. Bên cạnh đó, các chương trình như đầu tư kiên cố
hóa trường học, chương trình mục tiêu cho giáo dục ngày càng thu hẹp lại. Có thể thấy,
vấn đề cơ sở vật chất như phòng học, bàn ghế, ký túc xá không ổn định thì rất đáng lo
ngại, làm ảnh hưởng đến tâm lý học sinh và phụ huynh. Hơn nữa, nếu tình trạng này
không được khắc phục sớm sẽ dẫn đến rất nhiều những hệ lụy mà nhất là gia tăng tình
trạng học sinh bỏ học.
 Biện pháp đề ra:
Nhà nước nên tập trung nguồn lực để củng cố và tăng cường cơ sở vật chất cho các
cơ sở giáo dục, trang bị đầy đủ thiết bị, dụng cụ phục vụ tốt nhất cho việc học và giảng
dạy của thầy cô, học sinh, tiếp tục đầu tư xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia gắn với
các tiêu chí xây dựng nông thôn mới nhằm tạo điều kiện chuyển biến mạnh chất lượng
giáo dục toàn diện, tăng hiệu quả giáo dục. Đặc biệt chú trọng đầu tư cho các trường học
vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn.
2. Điều chỉnh phân bổ đầu tư cho giáo dục một cách hiệu quả
Trong những năm gần đây, Việt Nam tích cực chi tiêu công cho giáo dục, đào tạo và
so với một số nước trong khu vực thì tỉ trọng chi tiêu công cho giáo dục trên GDP khá
cao.

24


Chi tiêu cho công giáo dục, đao tạo/GDP của Việt Nam so với một số nước trong khu vực (%)
7
6

4.8

5
4

3.8

4.6
3.3

3.8

3.8

4.2

4.1
3.4

3
2

6.3

6.1

2.9

2


1
0

Nguồn: Ngân hàng thế giới Worldbank
Tuy nhiên, việc phân bổ đầu tư cho giáo dục chưa thực sự hiệu quả.

Bảng trên cho thấy, tỷ lệ chi thường xuyên chiếm trên dưới 82% tổng chi NSNN cho
giáo dục, đào tạo. Trong chi thường xuyên, chi cho con người chiếm 80% tổng chi, còn lại
chi cho hoạt động dạy học, nâng cao chất lượng giáo trình, SGK. Chi đầu tư xây dựng cơ
bản còn thấp so với nhu cầu nâng cao cơ sở trường học, mua sắm thiết bị dạy học, phòng
thí nghiệm...

25


Do vậy, giải pháp đề ra là nhà nước cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho giáo dục, đào
tạo theo hướng tăng chi đầu tư phát triển, giảm chi thường xuyên, đầu tư phân bổ nhiều
hơn vào chi phí xây dưng cơ bản.

26


×