Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

tiểu luận kinh tế phát triển các tác động đến môi trường tự nhiên khu vực châu á thái bình dương từ chiến lược OBOR của trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Chiến lược” Một vành đai- Một con đường” (OBOR), sau này được biết đến với
tên gọi “Sáng kiến Vành đai và Con đường” (BRI) hay” Vành đai và Con đường” (BR),
được Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình công bố năm 2013. Bản chất của sáng
kiến này là các dự án cơ sở hạ tầng nhằm kết nối các nước với Trung Quốc, được chia
thành hai phần chính là Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa trên đất liền và Vành đai
kinh tế Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI, dự kiến sẽ kết nối khoảng một nửa dân
số thế giới và hơn 60 quốc gia. Song song với các mục tiêu về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, các cơ sở hạ tầng của OBOR trải dài theo không gian địa lý, liên kết các
quốc gia với nhau và với Trung Quốc đã để lại các tác động đến môi trường tự nhiên
của các khu vực có liên quan.
Trong đó khu vực châu Á- Thái Bình Dương bao gồm Trung Quốc và 36 nước hợp
tác BRI với Trung Quốc, là khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chiến lược này trên mọi
phương diện. Về tình trạng môi trường của khu vực này trong những năm gần đây,” sự
suy thoái môi trường trong khu vực đang ngày càng gia tăng và có những tác động tiêu
cực đến cuộc sống con người. Hiện tượng thời tiết cực đoan, ô nhiễm không khí, ô
nhiễm nước ngầm, chất thải vi nhựa và nhựa biển hiện đang là những vấn đề mới nổi,
có thể đảo ngược những tiến bộ gần đây của khu vực.” (Hồng Hà et al. 2018). Chiến
dịch OBOR của Trung Quốc càng xúc tiến cho sự suy thoái môi trường mà khu vực
châu Á- Thái Bình Dương đang phải đối mặt, thậm chí tạo ra những hệ lụy và hậu quả
mới, kể cả ở trên đất liền và trên biển.
Nghiên cứu về tác động môi trường của OBOR, đặc biệt là trong các tạp chí khoa
học quốc tế bằng tiếng Anh còn ít. Hiểu các tác động môi trường của OBOR là điều
kiện quan trọng, tiên quyết để hoạch định chính sách kinh tế- xã hội và bền vững cho
quốc gia và khu vực. Có rất ít tiền lệ nghiên cứu chi tiết các tác động môi trường của sự
phát triển cơ sở hạ tầng lớn ở quy mô BRI, hầu hết các nghiên cứu đều gặp các hạn chế
về việc thu thập dữ liệu, chỉ số đánh giá các tác động môi trường tự nhiên. Ngoài ra,

1



chưa có một nghiên cứu chính thức nào của Việt Nam về những ảnh hưởng môi trường
của OBOR đến các khu vực.
Nhóm chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là “Các tác động đến môi trường tự
nhiên của khu vực châu Á- Thái Bình Dương từ chiến lược OBOR của Trung
Quốc”. Trong bài viết này, chúng tôi xem xét bối cảnh, nội dung và quá trình thực hiện
chiến lược OBOR của Trung Quốc để mô tả bản chất và các loại tác động môi trường
của chúng lên môi trường tự nhiên của khu vực châu Á- Thái Bình Dương, sau đó đề
xuất các khuyến nghị, giải pháp cho Trung Quốc và các nước trong khu vực. Học hỏi từ
nội dung và rút kinh nghiệm từ những hạn chế của các nghiên cứu trước đây, mong rằng
bài viết sẽ mang đến cái nhìn khách quan và toàn diện về các tác động môi trường tự
nhiên từ OBOR lên khu vực châu Á- Thái Bình Dương, đồng thời tạo cơ sở, nguồn
tham khảo cho các nghiên cứu sau này cùng đề tài ở Việt Nam, cũng như trong khu vực
và quốc tế.
2. Tổng quan nghiên cứu
Chúng tôi đã tìm hiểu các nghiên cứu trước đây của các tác giả/ nhóm tác giả trên
nhiều nước và nêu ra một số nghiên cứu nổi bật nhất ở chương 2 của bài viết này, chia
thành hai nhóm:


Các nghiên cứu về tác động đến môi trường tự nhiên của OBOR lên các khu



Các nghiên cứu về khuyến nghị, giải pháp hạn chế hậu quả môi trường từ

vực.
OBOR.
Chương 2, chúng tôi làm rõ nội dung chính, kết quả và ý nghĩa của từng nghiên
cứu, từ đó so sánh các nghiên cứu với nhau, đồng thời chỉ ra một số hạn chế mà các

nghiên cứu chưa thực hiện được để làm tiền đề, kinh nghiệm cho bài viết này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Dựa trên các phương pháp thu thập, tổng hợp và phân tích dữ liệu, mục tiêu của
chúng tôi là: (1) Tìm hiểu rõ bối cảnh hình thành, nội dung chiến lược, quá trình thực
hiện và kết quả hiện có của OBOR; (2) Tổng hợp các nghiên cứu nổi bật đã có trước
2


đây về các tác động môi trường tự nhiên của chiến lược OBOR trên quy mô và phương
diện khác nhau, so sánh các nghiên cứu và học hỏi từ các hạn chế trong đó; (3) Đánh giá
các tác động của OBOR lên môi trường tự nhiên khu vực châu Á- Thái Bình Dương,
bao gồm các tác động: trên đất liền, trên biển và tác động tổng hợp; (4) Đề xuất các giải
pháp, hành động cho Trung Quốc và các nước trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương
để khắc phục, giảm thiểu và phòng ngừa các hậu quả môi trường từ chiến lược này.
4. Đối tượng nghiên cứu



Đối tượng nghiên cứu: các tác động đến môi trường tự nhiên.
Khách thể nghiên cứu: chiến lược” Một vành đai- Một con đường” của Trung

Quốc.
5. Phạm vi nghiên cứu
 Không gian: khu vực châu Á- Thái Bình Dương.
 Thời gian: từ khi chiến lược OBOR được công bố (năm 2013) đến nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp thu thập thông tin: đọc tài liệu.
 Phương pháp xử lý thông tin: tổng hợp, liệt kê và phân tích.
7. Cấu trúc đề tài:
Công trình nghiên cứu gồm 23 trang và 2 hình. Ngoài phần mở đầu và kết luận và

danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về chiến lược OBOR
Chương 2: Tổng quan các nghiên cứu trước đây
Chương 3: Các tác động từ chiến dịch OBOR đến môi trường tự nhiên của khu
vực châu Á- Thái Bình Dương
Chương 4: Đề xuất giải pháp cho Trung Quốc và các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương

3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHIẾN LƯỢC OBOR
1.1. Cơ sở và bối cảnh hình thành chiến lược OBOR
Chiến lược OBOR được Trung Quốc đưa ra vào năm 2013, cũng là năm mà kinh
tế thế giới bắt đầu có dấu hiệu hồi phục sau giai đoạn khủng hoảng kinh tế và tiền tệ giai
đoạn 2008-2012, nền kinh tế Trung Quốc vấn giữ được đà tăng trưởng. Do nền sản xuất
đã đạt quy mô lớn, Trung Quốc rơi vào tình trạng dư thừa sản phẩm công nghiệp; thêm
vào đó, bởi nguồn tài chính dồi dào, Trung Quốc có nhu cầu lớn về đầu tư nước ngoài.
Do đó, Trung Quốc đã đưa ra nhiều sáng kiến để tận dụng nguồn lực, trong đó nổi bật là
OBOR.
Ngoài ra, tình hình thế giới có nhiều thay đổi, điển hình là vào năm 2011, Mỹ đã
thực hiện chiến lược tái cân bằng Mỹ, “xoay trục” từ Đại Tây Dương sang Châu Á –
Thái Bình Dương. Mối quan hệ Trung – Mỹ được mô tả là “vừa hợp tác vừa cạnh
tranh”, bên cạnh đó, quan hệ giữa Trung Quốc và nhiều nước láng giềng trở nên căng
thẳng do tranh chấp chủ quyền. Trong tình hình đó, Trung Quốc đã thay đổi chính sách
đối ngoại, chuyển từ thế bị động sang chủ động đưa ra các sáng kiến tham gia vào hoạch
định luật chơi quốc tế; tăng cường tầm ảnh hưởng đến khu vực “sân nhà” Châu Á –
Thái Bình Dương và thúc đẩy lợi ích quốc gia lên các khu vực khác, đặc biệt là châu
Âu. Tất cả để phục vụ tham vọng trở thành cường quốc không chỉ trong khu vực mà là
toàn cầu của Trung Quốc.
1.2. Nội dung chiến lược

Sáng kiến Một vành đai, Một con đường (OBOR) là một kế hoạch hành động cho
khái niệm “Con đường tơ lụa mới” nhằm tăng cường kết nối Trung Quốc với ba châu
lục Á – Âu – Phi và các vùng biển lân cận. OBOR tìm cách thúc đẩy và hỗ trợ phát triển
giao thông, năng lượng, thương mại và hạ tầng truyền thông cùng với những lĩnh vực
khác. Các nước tham sẽ tập trung xây dựng sáu hành lang kinh tế, bao gồm: cầu nối Âu
– Á mới, Trung Quốc – Mông Cổ - Nga, Trung Quốc – Tây Á – Trung Á, Trung Quốc –
bán đảo Đông Dương, Trung Quốc – Pakistan và Banglades – Trung Quốc - Ấn Độ Myanma. Trên tất cả, OBOR dự kiến sẽ bao phủ khu vực có tổng dân số 4,4 tỉ người,
với tổng GPD là 21 tỉ USD.
4


Sáng kiến Một Vành đai Một Con đường gồm có hai hợp phần chính: Vành đai
Kinh tế Con đường Tơ lụa trên đất liền, và Con đường Tơ lụa trên Biển Thế kỷ 21.
Vành đai Kinh tế Con đường Tơ lụa hướng tới kết nối Trung Quốc với châu Âu thông
qua Trung Á và Tây Á. Con đường Tơ lụa trên Biển sẽ kết nối Trung Quốc với châu Âu
thông qua đường biển giữa Đông Nam Á, Nam Á tới châu Phi. Một Vành đai Một Con
đường không đơn thuần là việc xây dựng hai con đường nêu trên, mà là việc phát triển
mạng lưới kết nối. Sáng kiến còn có thêm các con đường nối liền hai hành lang chính,
như mô tả trong Hình 1.1 dưới đây

Hình 1.1: Sơ đồ chiến lược Một vành đai- Một con đường (Nguồn: Xinhua
Finance Agency, 2015)
1.3. Quá trình và kết quả triển khai chiến lược
Tính đến nay, BRI đã nhận được tham gia sâu rộng hơn của hơn 100 quốc gia,
vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế, trong đó có các nước lớn như Nga và các nền kinh tế
phát triển của phương Tây như Pháp, Đức và Anh. Theo Bộ Thương mại Trung Quốc, từ
tháng 1 - 8/2016,Các công ty Trung Quốc đã ký 3.912 hợp đồng dự án khắp 61 quốc gia
dọc theo Vành đai và Con đường, giá trị của những dự án lên tới 69,82 tỷ USD.
Trung Quốc cũng đã đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hơn 50 tỷ USD vào 53 quốc gia
và vùng lãnh thổ. Chỉ tính riêng trong năm 2017, Trung Quốc đã nhập khẩu trên 666 tỷ

USD hàng hóa từ các nước tham gia BRI, chiếm 25% tổng giá trị nhập khẩu của Trung
Quốc, đồng thời, tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc với các nước này đã tăng
5


ở mức kỷ lục là 14,2%. Trung Quốc đã xây dựng trên 50 khu hợp tác kinh tế, thương
mại tại khoảng 20 nước tham gia BRI, giúp các nước tăng nguồn thu thuế, thu nhập
thêm 1,1 tỷ USD và tạo 180.000 việc làm mới.
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
2.1. Những nghiên cứu phân tích tác động của sáng kiến Một vành đai- Một
con đường lên các khu vực
2.1.1. Nghiên cứu:” Bản đồ khí hậu tiềm năng và phát triển ảnh hưởng của
sáng kiến Một vành đai- Một con đường”
Tác giả: Chen-Sheng Hong Oliver Johnson tại Viện môi trường Stockholm SEI
xuất bản tháng 10 năm 2018.
Nội dung chính:
Bài nghiên cứu tập trung xem xét những tác động của BRI đến khu vực Đông Nam
Á thông qua các dự án Trung Quốc đã lên kế hoạch và đang thực thi tại 7 quốc gia trong
khu vực này. Vì là khu vực có tài nguyên thiên nhiên rộng lớn và vị trí địa lý gần với
Trung Quốc, Đông Nam Á là khu vực quan trọng để thực hiện BRI. BRI cung cấp một
cơ hội cho đầu tư cơ sở hạ tầng rất cần thiết ở Đông Nam Á để xúc tác tăng trưởng kinh
tế và xóa đói giảm nghèo. Song song với đó, Đầu tư BRI làm tăng các rủi ro tiềm năng
khác, từ rủi ro kinh tế, chính trị đến tài nguyên, rủi ro môi trường và khí hậu.
Kết quả nghiên cứu:
Tác giả đã tìm ra những dẫn chứng cụ thể cho thấy BRI có những tác động tiêu
cực đến khu vực Đông Nam Á.
Các nước khu vực sông Mê Kông đã thừa nhận sự đánh đổi tiêu cực của việc xây
dựng đập. Vào tháng 2 năm 2018, Nghiên cứu của Hội đồng 7 năm của Ủy ban sông Mê
Kông đã chỉ ra rằng kế hoạch xây dựng 11 đập thủy điện lớn ở hạ lưu sông Mê Kông và
120 đập trên sông nhánh là mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe sinh thái và sức

sống kinh tế của khu vực. Ngoài ra, vào tháng 7 năm 2018, sự cố vỡ đập Xepian-Xe
Nam ở Lào đã giết chết ít nhất 34 người ở Lào và di dời hàng ngàn người dân Lào và
6


Campuchia. Vào tháng 8 năm đó, một vụ vỡ đập ở khu vực trung tâm Bago của
Myanmar đã giết chết ít nhất bốn người và làm ngập 85 ngôi làng. Sự sụp đổ của các
con đập đã gây ra những lo ngại cấp bách xung quanh chất lượng đập và đã nhấn mạnh
những rủi ro xuyên biên giới và sự đánh đổi liên quan đến việc phát triển các đập thủy
điện trong hệ thống sông Mê Kông.
Ngoài ra, một số đường ống dẫn dầu và khí đốt được xây dựng dưới sự bảo trợ của
BRI, bao gồm Dự án Đường ống Dầu thô ChinaMyanmar và Dự án Đường ống khí đốt
Trung Quốc-Myanmar. Đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng đường ống có ý định tăng khả năng
sử dụng nhiên liệu hóa thạch, tiếp tục khóa các quốc gia tiếp nhận vào các nền kinh tế
phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và khí thải nhà kính cao . Thật vậy, Cơ quan Năng
lượng Quốc tế ước tính rằng việc tiếp tục con đường năng lượng sử dụng nhiều nhiên
liệu hóa thạch sẽ khiến lượng phát thải CO2 liên quan đến năng lượng ở Đông Nam Á
tăng hơn gấp đôi vào năm 2040.
Ý nghĩa:
Bài nghiên cứu đã cho thấy cái nhìn lợi ích – chi phí mà sáng kiến Một vành đaiMột con đường đem lại, dưới những điều mà sáng kiến này đã làm được và gây ảnh
hưởng đến khu vực Đông Nam Á. Nó cho thấy ngoài việc Trung Quốc cam kết và vẽ
lên những cơ hội để phát triển tiềm lực kinh tế cho các nước đang phát triển trong khu
vực thì Trung Quốc vẫn chưa chịu trách nhiệm cho những tác động tiêu cực mà những
dự án trong Sáng kiến này đã gây ra.
Hạn chế:
Bài nghiên cứu chỉ ra những dẫn chứng cho thấy BRI có những tác động tiêu cực
đến con người, môi trường tự nhiên khu vực Đông Nam Á, nhưng chưa phân tích rõ
được mức độ ảnh hưởng của sáng kiến ở thời điểm hiện tại và dự báo mức ảnh hưởng
trong thời gian sắp tới. Nhóm tác giả cũng chưa hề đề cập đến thái độ của những người
trong khu này phản ứng như thế nào đến những dự án được thực hiện từ sáng kiến Một

vành đai- Một con đường. Bên cạnh đó chưa đưa ra kết luận chắc chắc Đông Nam Á có
hay không nên thực hiện các dự án và nếu có thì biện pháp để khắc phục những tác
động tiêu cực là gì.
7


2.1.2. Nghiên cứu “Những tác động đến môi trường của chiến lược phát triển
cơ sở hạ tầng theo Sáng kiến Vành đai và Con đường”
Tác giả: Nghiên cứu được thực hiện bởi nhóm tác giả Hoong Chen Teo, Alex
Mark Lechner, Grant W. Walton, Faith Ka Shun Chan, Ali Cheshmehzangi, May TanMullins, Hing Kai Chan, Troy Sternberg và Ahimsa Campos-Arceiz, được MDPI 1 chính
thức xuất bản vào ngày 19/6/2019.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích từng thành phần môi trường của
Trái đất, phương pháp tiếp cận liên ngành, đa phương diện và đa quy mô, đường cong
môi trường Kuznets, phương pháp thu thập và tổng hợp dữ liệu.
Nội dung chính:
Sử dụng phương pháp tiếp cận từng thành phần môi trường của Trái đất, nhóm tác
giả đã chỉ ra quá trình phát triển các loại cơ sở hạ tầng khác nhau gây ra các ảnh hưởng
khác nhau đến các thành phần môi trường của Trái đất, bao gồm: khí quyển, thủy quyển,
thạch quyển (địa quyển) và sinh quyển. Cách tiếp cận các thành phần tự nhiên của Trái
đất giúp ta đi sâu vào các tác động môi trường của BRI trong nhiều quy mô khác nhau.
Tiếp theo đó, nghiên cứu làm rõ tác động đến môi trường của các kiểu cơ sở hạ tầng
BRI khác nhau, nhóm tác giả đã dựa theo các yếu tố: chức năng, quan hệ nhân quả, mức
độ, quy mô của không gian và thời gian của cơ sở hạ tầng BRI để xem các dự án này
tương tác với môi trường như thế nào và phạm vi của các tác động đó. Cuối cùng, nhóm
tác giả xem xét các tác nhân kinh tế, tác nhân chính trị- xã hội của chiến lược BRI
mang lại các lợi ích ra sao và mối quan hệ của chúng với môi trường tự nhiên của Trung
Quốc và các nước sở tại.
Kết quả nghiên cứu:
Tác động của các dự án cơ sở hạ tầng BRI lên các thành phần môi trường khác
nhau của Trái đất: Cơ sở hạ tầng BRI có nguy cơ mở rộng các tác động của con người

vào các khu vực nguyên sơ và làm trầm trọng thêm các hậu quả hiện có, làm mất ổn
định các thành phần môi trường ở các quy mô khác nhau. Khi các quy trình tự nhiên bị
phá vỡ đến mức khả năng tự khôi phục trạng thái cân bằng của chúng bị mất đi, các
1 MDPI là từ viết tắt của 2 nhà xuất bản lớn liên kết với nhau Molecular Diversity Preservation
International và Multidisciplinary Digital Publishing Institute của Switzerland

8


quyển Trái đất có nguy cơ bị mất ổn định nghiêm trọng và không thể phục hồi được.
Nhiều tác động trực tiếp và hoặc gián tiếp có thể tổng hợp lại và tương tác với nhau để
tạo ra các tác động tích lũy. BRI có cơ sở hạ tầng và các hoạt động kinh tế dọc theo
tuyến đường của nó, điều này phân tán các tác động của con người đến các địa điểm
mới hoặc những nơi khó tiếp cận hơn. Những thay đổi do hoạt động của con người
trong BRI mang lại sẽ gây ra tác động lên khí hậu khu vực và mở rộng ra trên phạm vi
toàn cầu. Ví dụ, ở Biển Aral Trung Á, các tác động tích lũy từ sự tương tác giữa môi
trường và xã hội, giữa quản lý sai quy cách, tưới tiêu quá mức và ô nhiễm nghiêm trọng
gây ra tình trạng khan hiếm nước, sau đó trở thành sự hỗn loạn xuyên biên giới đặc biệt
nghiêm trọng, có khả năng dẫn đến xung đột vũ trang.
Các tác động đến môi trường của các kiểu cơ sở hạ tầng BRI khác nhau: Về chức
năng, chức năng của cơ sở hạ tầng BRI quy định các đặc tính của nó, đặc biệt là hệ quả
không gian của nó lên các cảnh quan. Cơ sở hạ tầng vật lý tuyến tính (như đường giao
thông) mở rộng khoảng cách dài qua không gian để kết nối hai nơi, trong khi cơ sở hạ
tầng điểm(như sân bay và cảng biển) chiếm một khu vực tập trung hơn. Cơ sở hạ tầng
kinh tế như khu thương mại tự do được xây dựng để phục vụ hoạt động kinh tế tập
trung, trong khi các sáng kiến phát triển nhất định có thể phục vụ hoạt động kinh tế
phân tán. Về quan hệ nhân quả, phạm vi rộng của các dự án BRI, đặc biệt là khi tập
trung không gian dọc theo các hành lang, mang lại mối quan hệ nhân quả và tương tác
phức tạp giữa các loại cơ sở hạ tầng khác nhau. Những tương tác và mối quan hệ nhân
quả này có thể được sử dụng để mô hình hóa các hoạt động BRI khả thi và các tác động

tích lũy của chúng. Về quy mô và mức độ của các tác động BRI, quy mô và mức độ tác
động của các loại cơ sở hạ tầng BRI khác nhau theo cách chúng thay đổi cảnh quan và
tạo ra các hệ quả trực tiếp. Các tác động là kết quả của tổng diện tích tác động và tổng
cường độ tác động của nó. Cơ sở hạ tầng điểm có xu hướng nhỏ gọn hơn về mặt không
gian so với cơ sở hạ tầng tuyến tính và có xu hướng có tổng diện tích tác động nhỏ hơn.
Các tác động đến môi trường của các tác nhân kinh tế: Lợi ích kinh tế của cơ sở hạ
tầng BRI được phát triển chủ yếu dựa trên sự gia tăng trao đổi hàng hóa, dịch vụ và tài
nguyên, được tạo thuận lợi bởi sự giảm đi của chi phí vận chuyển và các rào cản thương
mại khác. BRI được dự kiến sẽ tăng tổng xuất khẩu của 46 quốc gia BRI khoảng 5 tỷ đô
la đến 135 tỷ đô la và GDP khoảng 0,3 đến 1,4%. Tuy nhiên, khi các rào cản thương mại
được hạ xuống, Trung Quốc thắt chặt các quy định về môi trường nội địa có thể khiến
9


nhiều quốc gia BRI trở thành các” bến cảng ô nhiễm”. Ví dụ, các nhà máy xi măng
Trung Quốc gây ô nhiễm nặng nề di dời đến Tajikistan. Theo đường cong Kuznets môi
trường, đường cong có dạng hình chữ U ngược trong mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế và ô nhiễm môi trường: ô nhiễm ban đầu tăng khi thu nhập tăng, nhưng đến một mức
nhất định, ô nhiễm giảm khi thu nhập cao hơn mang lại cải tiến công nghệ và nhu cầu
về các tiện nghi có tính thân thiện với môi trường. Các chính sách môi trường, công
nghệ sạch và tự do hóa kinh tế có thể giúp cải thiện đường cong Kuznets
Các tác động đến môi trường của các tác nhân chính trị- xã hội: Các tác nhân xã
hội xác định các yếu tố góp phần và gián tiếp gây ra tác động môi trường. Các mối quan
tâm về môi trường, cộng đồng và sinh kế có thể thúc đẩy người dân hành động. Ví dụ, ở
Kyrgyzstan, người dân địa phương đã đốt cháy một nhà máy chế biến vàng của Trung
Quốc được BRI hỗ trợ sau khi nỗi sợ ô nhiễm của họ không được giải quyết một cách
thỏa đáng. Những lo ngại về phản ứng dữ dội của địa phương và áp lực chính trị trong
nước có thể thúc đẩy các tập đoàn Trung Quốc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp (CSR), nghiêm túc hơn trong việc giải quyết các mối quan ngại của cộng đồng.
Kể từ khi đưa khái niệm” văn minh sinh thái” được thêm vào Hiến pháp năm 2012,

Trung Quốc cũng đã tìm cách cải thiện khung quản trị môi trường và tham gia vào các
bên giải quyết các tranh chấp và xung đột về môi trường. Tuy nhiên, một số học giả và
nhà bình luận lo ngại rằng các chính sách này sẽ không thể chuyển thành thực tiễn. Các
vấn đề tiềm ẩn bao gồm: Thứ nhất, các quy định và tiêu chuẩn địa phương có thể thấp
hơn các quy định tại Trung Quốc. Thứ hai, hầu hết các chỉ dẫn về bảo vệ môi trường
trong đầu tư và hợp tác nước ngoài đều nhắm vào các doanh nghiệp nhà nước (SOE) lớn
của Trung Quốc, bỏ qua tác động của các công ty tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SME). Tuy nhiên, chính những công ty này thường chịu trách nhiệm cho
suy thoái môi trường nghiêm trọng vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ không được quản lý
nghiêm ngặt. Thứ ba, vẫn còn các câu hỏi về các chính sách môi trường của Trung Quốc
đối chiếu với các tiêu chuẩn quốc tế. Một liên minh của các tổ chức do Sáng kiến Tài
chính xanh dẫn đầu cho rằng các dự án được coi là” xanh” theo các tiêu chuẩn danh
mục Trung Quốc có thể không được coi là xanh theo quy định quốc tế.
Ý nghĩa:

10


Nghiên cứu chỉ rõ các đặc tính chi tiết, nổi bật của các kiểu cơ sở hạ tầng BRI
khác nhau, cũng như phạm vi và mức độ tác động của chúng đến từng thành phần môi
trường của Trái đất. So sánh với bài nghiên cứu trước đó thì nghiên cứu này mở rộng
phạm vi và phương diện tiếp cận hơn hơn, thay vì tập trung tiếp cận một phía lên từng
khu vực cụ thể như nghiên cứu đã nêu trên, nhóm tác giả đã cung cấp một khuôn mẫu
kinh tế xã hội - chính trị và môi trường đa quy mô, để lập kế hoạch và giải quyết các tác
động của BRI trên toàn cầu. Một cách tiếp cận đa quy mô là cần thiết để đảm bảo rằng
BRI được xem xét ở quy mô dự án thông qua đánh giá tác động môi trường, ở quy mô
khu vực, sau đó ở quy mô sinh thái và cuối cùng ở quy mô toàn cầu. Các nhà hoạch
định chính sách ở Trung Quốc và các quốc gia tiếp nhận nên phân tích đa quy mô liên
ngành được trình bày trong bài viết hữu ích này trong các cuộc tranh luận về các tác
động môi trường sinh thái và xã hội của BRI. Điều quan trọng là nhóm tác giả đã nhấn

mạnh BRI cung cấp một mô hình để xử lý các tác động môi trường và đảm bảo rằng các
tiêu chuẩn môi trường thực tế là một phần không thể thiếu hàng đầu của bất kỳ kế hoạch
cơ sở hạ tầng toàn cầu nào, nhấn mạnh sự cần thiết của các nghiên cứu liên ngành kết
hợp quan điểm kinh tế vĩ mô với không gian và ngữ cảnh của nghiên cứu học môi
trường.
Hạn chế:
Tính khả thi của việc áp dụng các phân tích liên ngành và đa quy mô này bị hạn
chế trong thực tế. Bởi điều này yêu cầu sự hợp tác quốc tế của nhiều quốc gia khác
nhau, nhiều khu vực khác nhau, trong mối quan hệ với Trung Quốc. Ngoài ra, giống
nghiên cứu đã nếu trước đó, nghiên cứu này mới chỉ dừng ở việc chỉ ra các tác động
môi trường trên các khu vực, từ đó cảnh báo, kêu gọi Trung Quốc và các nước sở tại cần
nhận thức được những hậu quả và nguy cơ các dự án cơ sở hạ tầng BRI mang lại, nhưng
chưa chỉ ra hay đề xuất được các biện pháp, hành động cụ thể để các quốc gia thực hiện.
2.2. Các nghiên cứu về khuyến nghị và giải pháp
2.2.1. Nghiên cứu “Sáng kiến vành đai và con đường” của WWF - Tổ chức Bảo
tồn thiên nhiên Thế Giới
Thời gian: Tháng 5/2017
11


Phương pháp và nội dung nghiên cứu:
Trong nghiên cứu này, WWF đã thực hiện một sự phân tích không gian sơ bộ về
những tác động có thể xảy ra đến môi trường dọc theo 6 hành lang kinh tế trên đất liền
được Trung Quốc đề xuất ban đầu. Từ đó, đưa ra những đánh giá về sự tác động đến
thiên nhiên, khu vực sinh thái quan trọng và những động vật quý từ chiến lược này (còn
được biết là OBOR hay BRI). Nhóm tác giả nêu lên những khuyến nghị giúp sáng kiến
này có thể được dự kiến và triển khai thực hiện để tối đa hóa lợi ích tiềm năng của phát
triển bền vững và giảm thiểu các tác động tiêu cực tiềm năng; cũng như hỗ trợ Trung
Quốc hiện thực hóa sáng kiến vành đai và con đường xanh.
Nghiên cứu xác định mục tiêu cốt lõi của OBOR là nhằm củng cố liên kết thương

mại giữa Trung Quốc và các nước còn lại, giúp định hình chính sách thương mại của
Trung Quốc trong vài thập kỷ tới. Theo WWF, sáng kiến này tập trung nhiều vào phát
triển cơ sở hạ tầng khu vực với phạm vi địa lý rộng lớn, đáng chú ý là các khu vực này
đi qua nhiều khu vực quan trọng khác nhau về môi trường như: các khu vực cần bảo vệ,
các cảnh quan quan trọng, các điểm nóng đa dạng sinh học,... do đó có thể tác động đến
đa dạng sinh học và tài nguyên thiên nhiên các khu vực này. Để làm rõ điều này, WWF
đã sử dụng bộ dữ liệu hệ thống thông tin địa lý (GIS) để phân tích và xác định các tác
động mà 6 hành lang BRI trên đất liền được đề xuất ban đầu có thể có đối với môi
trường nước trên cạn và nội địa. Trong đó, các yếu tố chính của phân tích gồm: kiểm tra
sự chồng chéo của đa dạng sinh học và tài nguyên thiên nhiên với các hành lang BRI
theo kế hoạch; kiểm tra và lập bản đồ về: các loài bị đe dọa, các khu vực quan trọng của
môi trường, khu vực cần được bảo vệ, các hệ sinh thái liên quan đến nước, đặc điểm
sinh thái khu vực và các tác động tổng thể.
Kết quả nghiên cứu:
Kết quả phân tích cho thấy, hành lang của OBOR nằm trong phạm vi của 265 loài
bị đe dọa bao gồm 39 các loài cực kỳ nguy cấp và 81 loài có nguy cơ tuyệt chủng; hành
làng BRI trùng với 1.739 khu vực của các loài chim quan trọng hoặc khu vực đa dạng
sinh học quan trọng và 46 các điểm nóng đa dạng sinh học; tất cả các khu vực cần bảo
vệ 6 trong hành lang BRI đều có khả năng bị ảnh hưởng, ngoài ra, 32% tổng diện tích
của tất cả các khu vực cần bảo vệ ở các quốc gia được BRI đi qua hành lang có khả
12


năng bị ảnh hưởng,... Nhóm tác giả đã đưa ra hai điểm quan trọng thông qua phân tích
không gian. Thứ nhất, có sự chồng chéo một cách đáng kể giữa các hành lang BRI trên
mặt đất và các khu vực quan trọng đối với bảo tồn đa dạng sinh học và cung cấp các lợi
ích kinh tế và xã hội cho người dân. Những sự chồng chéo này cho thấy các khu vực rủi
ro cho các tác động tiêu cực tiềm ẩn của phát triển cơ sở hạ tầng. Thứ hai, do tính cơ
bản và sơ bộ của phân tích này nên WWF kêu gọi cần có những phân tích tiếp theo chi
tiết hơn nữa để ghi lại đầy đủ sự chồng chéo tiềm năng, để xác định các giải pháp tiềm

năng và phát triển các cơ hội đầu tư vào cơ sở hạ tầng sinh thái trước khi có ngày càng
nhiều những dự án của OBOR được lên kế hoạch và thực hiện. Nghiên cứu đưa ra một
số ví dụ về sự đe dọa đến môi trường của OBOR: Các hành lang BRI sẽ cắt ngang Viễn
Đông Nga - nơi chứa nhiều diện tích rừng nguyên vẹn, cảnh quan và hệ sinh thái đất
ngập nước có giá trị, và là nơi sinh sống của nhiều loài bị đe dọa, tất cả sẽ bị ảnh hưởng
bởi BRI. Phân tích không gian của nhóm tác giả xác định chính xác các khu vực rủi ro
cao của các hành lang BRI ở tỉnh Primorsky và Khabarovsky, nơi có rừng lá rộng Hàn
Quốc, môi trường sống của hổ Amur. Hành lang BRI có khả năng ảnh hưởng nghiêm
trọng đến đồng bằng Zeysko, Bureyskaya (tỉnh Amursky), mặc dù thực tế rằng đây là
một khu vực rất quan trọng để bảo tồn một số loài bị đe dọa: bao gồm Cò trắng phương
Đông, và sếu Daurian.
WWF lo ngại rằng các khoản đầu tư liên quan đến BRI, bao gồm phát triển cơ sở
hạ tầng, có thể dẫn đến một loạt các thách thức đối với sự phát triển bền vững. Tuy vậy
WWF không phủ nhận những lợi ích mà OBOR mang lại, đồng thời hoan nghênh
“Hướng dẫn về xây dựng Vành đai và Con đường xanh” được Bộ Bảo vệ Môi trường
Trung Quốc (MEP) phát hành trong Diễn đàn Vành đai và Con đường. Để hỗ trợ hiện
thực hóa điều này, WWF đã đưa ra 9 khuyến nghị trong nghiên cứu, bao gồm: các
khuyến nghị cấp hệ thống, các khuyến nghị quy hoạch cấp ngành, các khuyến nghị về
lập kế hoạch và thực hiện cấp dự án, các khuyến nghị về quản trị và minh bạch. Trong
đó, một số khuyến nghị nổi bật là: WWF khuyên chính phủ Trung Quốc nên áp dụng
chặt chẽ hai công cụ chính sách quan trọng gồm khái niệm “Văn minh sinh thái” được
đưa ra bởi chính phủ Trung Quốc và “Các mục tiêu phát triển bền vững” (SDGs) của
Liên hợp quốc; có các biện pháp để đảm bảo các hướng dẫn do MEP ban hành được
thực hiện đầy đủ. WWF khuyến nghị các người tham gia đầu tư cần dành các khoản đầu
13


tư đáng kể vào: cơ sở hạ tầng sinh thái và cơ sở hạ tầng năng lượng tái tạo. Ngoài ra,
chính phủ Trung Quốc cần quan tâm phát triển bền vững và bảo vệ môi trường trong
việc ra quyết định và đầu tư cơ sở hạ tầng, trong đó, nhóm tác giả khuyến nghị Trung

Quốc áp dụng phương pháp tiếp cận vốn tự nhiên. "Vốn tự nhiên" là thuật ngữ được sử
dụng cho những tài sản tự nhiên mang lại hiệu quả kinh tế và lợi ích xã hội. Phân tích và
tính toán giá trị của chúng, sẽ giúp đánh giá tác động của những phát triển mới sẽ có đối
với những tài sản này và lợi ích của chúng cung cấp. Nó cũng giúp các nhà hoạch định
hiểu rõ hơn về lợi ích hoặc chi phí liên quan của lựa chọn phát triển cơ sở hạ tầng thay
thế về mặt tiền tệ. Đặc biệt, WWF khuyên Trung Quốc xác định và lập bản đồ các khu
vực quan trọng và nhạy cảm về mặt sinh thái; cơ hội cho cơ sở hạ tầng sinh thái cũng
phải được xác định.
Ý nghĩa:
WWF đã nghiên cứu về một vấn đề ít được phân tích và không có nhiều tài liệu
liên quan nên bài nghiên cứu này đã đặt một số tiền đề và dữ liệu quan trọng cho những
nghiên cứu tiếp theo. Bài này đã đưa ra những con số cụ thể là kết quả của phương pháp
nghiên cứu không gian, giúp cụ thể hóa và dễ đánh giá những tác động đến đa dạng sinh
học và thiên nhiên từ OBOR của Trung Quốc.
Hạn chế:
Vì WWF đã phân tích từ bộ dữ liệu quốc tế được công bố (GIS) thay vì bộ dữ liệu
quốc gia hoặc địa phương nên rất có thể đã bỏ lỡ một số đặc điểm sinh thái và đa dạng
sinh học quan trọng. Trong bài nghiên cứu này, WWF chưa kiểm tra các hành lang và
trung tâm BRI trên biển, hoặc các tác động đến các đặc điểm biển nên chưa xem xét
một cách bao quát toàn bộ tác động của OBOR lên môi trường. Ngoài ra, những khuyến
nghị mà WWF đưa ra mới chỉ mang tính khái quát, chưa đi vào cụ thể nên rất có thể có
tính khả thi thấp.
2.2.2. Nghiên cứu” Xanh hóa Vành đai và Con đường của Trung Quốc: Những
thách thức đối với Luật môi trường”
Tác giả: Ben Boer (Đại học Luật Sydney)
Thời gian: Tháng 7/2019
Phương pháp và nội dung nghiên cứu:
14



Bài viết này tập trung vào sự phát triển của các chính sách và pháp luật liên quan
đến hoạt động đầu tư ở nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư
nhân của Trung Quốc trong bối cảnh Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI). Trong
đó, Ben Boer chủ yếu giải quyết câu hỏi về luật pháp và tiêu chuẩn môi trường nên áp
dụng cho các sáng kiến đầu tư và hoạt động phát triển ở các nước sở tại đã ký kết với
Trung Quốc, và những tiêu chuẩn đó có thể được thực thi như thế nào, đặc biệt là theo
quan niệm “nền văn minh sinh thái” mới nổi của Trung Quốc chính thức yêu cầu phải
được tính đến và thực hiện trong các sáng kiến Vành đai và Con đường. Theo tác giả,
những cân nhắc này đặc biệt quan trọng khi các tiêu chuẩn môi trường ở các nước sở tại
thấp hơn so với Trung Quốc. Ben Boer lập luận rằng, trên nền tảng bản chất chủ động
hợp tác được nêu ra trong BRI cũng như sự cần thiết phải tôn trọng chủ quyền của các
nước sở tại, trách nhiệm đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường cao nhất là của cả các
doanh nghiệp Trung Quốc cũng như các đối tác của họ trong nước chủ nhà. Từ trước
đến nay, kinh nghiệm cho thấy Trung Quốc có nhiều mâu thuẫn trong việc áp dụng các
quy định và chính sách về môi trường có liên quan. Do đó, cần phải cải thiện trên mọi
phương diện nội dung các cam kết được đồng thuận ký kết giữa Trung Quốc và các
nước sở tại, cũng như các yêu cầu của luật môi trường cần được đưa vào hợp đồng
thương mại và đầu tư của BRI. Ngoài ra, mỗi quốc gia sở tại có luật môi trường khác
nhau và các tiêu chuẩn pháp lý khác nhau để lập kế hoạch cơ sở hạ tầng, đánh giá tác
động môi trường, ô nhiễm và bảo tồn đa dạng sinh học. Hơn hết, với sự bắt buộc của sự
phát triển kinh tế thường được ưu tiên ở các nước nghèo, việc họ khăng khăng thực hiện
các tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt sẽ ít xảy ra. Do vậy, để cố gắng hài hòa luật
pháp, tiêu chuẩn và nhu cầu ở các nước sở tại nên được thông qua bởi các chương trình
nâng cao năng lực trong soạn thảo lập pháp và đào tạo liên kết của các quan chức chính
phủ, để áp dụng các cách tiếp cận tốt hơn và phát triển theo BRI.
Kết quả nghiên cứu:
Bài viết chỉ ra các công cụ và chính sách hướng dẫn của Trung Quốc bao gồm việc
xác định và phòng ngừa rủi ro môi trường, hướng dẫn doanh nghiệp tích cực thực hiện
'trách nhiệm xã hội' cho bảo vệ môi trường, thiết lập một "hình ảnh bên ngoài tốt" cho
các doanh nghiệp Trung Quốc và hỗ trợ sự phát triển bền vững của nước chủ nhà. Bài

15


viết cũng chỉ ra rằng, mặc dù có nhiều hướng dẫn rất quan trọng được đưa ra, chúng
không được viết bằng ngôn ngữ bắt buộc về mặt pháp lý; nếu nhà đầu tư và doanh
nghiệp không tuân theo hướng dẫn, không có chế tài hay hình phạt pháp lý cụ thể nào
quy định. Do vậy, một vấn đề đặt ra là cần phải làm rõ hơn liên quan đến các tiêu chuẩn
pháp lý được áp dụng cho các dự án BRI để đánh giá, lập kế hoạch và quản lý tác động
môi trường. Ben Boer nêu lên một mâu thuẫn là: các hướng dẫn của Trung Quốc quy
định rằng luật pháp và tiêu chuẩn của các quốc gia sở tại sẽ được áp dụng. Tuy nhiên,
với khái niệm văn minh sinh thái mà Trung Quốc tán thành liên quan đến các vấn đề
môi trường, các câu hỏi sau đây được đặt ra: Nếu luật pháp Trung Quốc có liên quan có
các tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn về bảo vệ và bảo tồn môi trường so với luật pháp của
nước sở tại, các doanh nghiệp Trung Quốc hoạt động tại nước sở tại có nghĩa vụ phải áp
dụng các luật nghiêm ngặt hơn của Trung Quốc không? Câu trả lời là: Không có nghĩa
vụ pháp lý để làm như vậy. Do đó, Ben Boer đề xuất Trung Quốc nên áp dụng luật pháp
tối ưu nhất (của nước sở tại hoặc Trung Quốc) cho môi trường, nếu như không có luật
pháp liên quan thì nên tham khảo các luật pháp quốc tế hoặc các tổ chức đa phương.
Điều quan trọng là trước đó, TRung Quốc nên sử dụng các công cụ phân tích rủi ro môi
trường để xác định và đánh giá đầy đủ các tác động tiềm năng có thể xảy ra. Bài viết
cũng đề cập đến một số lỗ hổng trong luật pháp liên quan đến bảo vệ môi trường của
Trung Quốc, tiêu biểu là Điều 27,28 của Bộ quy tắc ứng xử đầu tư nước ngoài của tư
nhân Các doanh nghiệp, do Ủy ban cải cách phát triển quốc gia Trung Quốc ban hành
vào tháng 12 năm 2017. Ngoài yêu cầu về sự cụ thể, minh bạch và chặt chẽ hơn của luật
định và hướng dẫn, tác giả còn đề xuất một cơ chế giám sát được hỗ trợ về mặt pháp lý
sẽ đảm bảo rằng các luật và tiêu chuẩn đó được áp dụng đầy đủ.
Bài viết khẳng định tầm quan trọng của các hợp tác quốc tế, các chương trình nghị
sự đến việc bảo vệ môi trường liên quan đến BRI. Tác giả cho rằng Trung Quốc nên mở
rộng hợp tác với các tổ chức và cơ quan quốc gia có liên quan, khởi xướng Liên minh
quốc tế về phát triển vành đai và con đường xanh, và thiết lập các nền tảng hợp tác với

nhiều chính phủ, bao gồm các chính phủ, doanh nghiệp; trong đó, tổ chức Môi trường
Liên Hợp Quốc còn là công cụ thành lập Liên minh quốc tế về phát triển xanh trên vành
đai và con đường, phối hợp với Bộ Sinh thái và Môi trường Trung Quốc. Trong đề xuất
hợp tác quốc gia trong vấn đề Vành đai con đường xanh, Ben Boer cho rằng nên để
16


trách nghiệm cao nhất cho chính các doanh nghiệp trực tiếp đầu tư. Liên quan đến các
quy định về môi trường trong các hiệp định thương mại và đầu tư, tác giả thảo luận về
cả các hiệp định song phương và đa phương trên khắp thế giới. Trong đó, Ben Boer đưa
ra các dẫn chứng như: Hiệp định hợp tác môi trường Bắc Mỹ giữa Canada, Mexico và
Hoa Kỳ, Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 1992, Hiệp định
Paris 2015, Công ước về Đa dạng sinh học 1992,... Qua đó, tác giả khuyến khích các
bên tham gia sẽ chia sẻ ý tưởng về phát triển xanh và tích cực thúc đẩy việc thực hiện
Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững và Thỏa thuận Paris về biến đổi
khí hậu.
Ý nghĩa:
Giống như nghiên cứu “Sáng kiến vành đai và con đường” của WWF - Tổ chức
Bảo tồn thiên nhiên Thế Giới, nghiên cứu này của Ben Boer cũng là một trong những
nghiên cứu đầu nghiên cứu chuyên sâu về các tác động của OBOR (hay BRI) đến môi
trường và đưa ra khuyến nghị. Khác với “Sáng kiến vành đai và con đường” của WWF
chỉ đưa ra những khuyến nghị chưa thực sự rõ ràng thì nghiên cứu của Ben Boer phân
tích cụ thể và kỹ hơn, đặc biệt đã chỉ ra một số lỗ hổng trong chính sách và luật pháp về
môi trường liên quan đến OBOR của Trung Quốc cũng như đưa ra các đề xuất chủ yếu
về luật pháp mang tính cụ thể và khả thi. Ngoài ra, nghiên cứu này có một cách phân
tích đa chiều, cho người đọc và người phân tích tiếp theo cái nhìn tổng quát từ phía
Trung Quốc, các bên liên quan đến cả các tổ chức quốc tế. Bài viết là một trong những
tài liệu đáng giá để Trung Quốc và các bên liên quan tham khảo và xem xét để điều
chỉnh những quy định liên quan đến môi trường của mình
Hạn chế:

Tuy đạt được một số ý nghĩa quan trọng, bài viết chưa đưa ra được các tác động cụ
thể đến môi trường nào từ chiến dịch OBOR, mà chỉ nghiên cứu đến luật pháp liên quan
đến môi trường. Ngoài ra, nghiên cứu vẫn chưa đưa ra chế pháp lý đầy đủ và có thể thi
hành được liên quan đến bảo vệ và bảo tồn môi trường để đưa vào các hiệp ước, thỏa
thuận và hợp đồng phát triển BRI có liên quan mà chỉ đưa ra một cái nhìn khá tổng quan
về chính sách và pháp luật.

17


CHƯƠNG 3: CÁC TÁC ĐỘNG TỪ CHIẾN DỊCH OBOR ĐẾN MÔI
TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA KHU VỰC CHÂU Á-THÁI BÌNH DƯƠNG
Mặc dù, đường mới và cơ sở hạ tầng của OBOR có thể thúc đẩy phát triển kinh tế
xã hội, tuy vậy, với mạng lưới cơ sở hạ tầng cao, OBOR có thể có những tác động tiêu
cực lớn đến môi trường, tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học. Đặc biệt, tại khu
vực châu Á - Thái Bình Dương đang đối diện với vấn đề suy thoái môi trường, những
cơ sở hạ tầng của OBOR được xây dựng tại khu vực này có thể có những tác động rất
lớn đến môi trường.
3.1. Tác động đến môi trường trên đất liền
Các tác động tiêu cực của đường đến đa dạng sinh học đã được biết đến và bao
gồm tăng tỷ lệ tử vong của động vật hoang dã, hạn chế di chuyển động vật, ô nhiễm
(hóa chất, tiếng ồn, ánh sáng) và sự lây lan của các loài xâm lấn. Ngoài ra còn có thể sẽ
làm tăng nạn khai thác, săn trộm và hỏa hoạn bất hợp pháp, bằng cách tạo điều kiện tiếp
cận các vùng xa xôi hẻo lánh. Năm 2017, Quỹ Động vật hoang dã Thế giới (WWF) đã
tiến hành phân tích không gian ban đầu về sự chồng chéo giữa hành lang trên mặt đất
của BRI được đề xuất và các khu vực quan trọng cho đa dạng sinh học và tài nguyên
thiên nhiên. Phân tích đã chỉ ra rằng có sự chồng chéo một cách đáng kể giữa các hành
lang BRI trên mặt đất và các khu vực quan trọng đối với bảo tồn đa dạng sinh học. Điều
này cho thấy các khu vực rủi ro cho các tác động tiêu cực tiềm ẩn của phát triển cơ sở
hạ tầng, đặc biệt là khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, là khu vực bị ảnh hưởng cao

(tham khảo Hình 3.1).

18


Hình 3.2: Tác động tổng thể đến sinh thái từ sáng kiến BRI (Nguồn: Quỹ động vật
hoang dã Thế giới (WWF), 2017)
Về phần đầu tư cơ sở hạ tầng năng lượng, các dự án OBOR tập trung vào than đốt
các nhà máy điện, đập thủy điện và đường dây tải điện. Tính riêng Đông Nam Á chiếm
khoảng 23% tổng số dự án điện đốt than do Trung Quốc tài trợ. Các nhà máy đốt than
có thể mang lại lợi ích cho nền kinh tế và tăng khả năng tiếp cận năng lượng trong ngắn
hạn, nhưng nó sẽ kiến một quốc gia rơi con đường năng lượng phát thải cao, đặc biệt là
xả khí thải carbon - ảnh hưởng đến sức khỏe và môi trường. Liên quan đến các đập thủy
điện được OBOR hỗ trợ, chủ yếu được xây dựng tại khu vực sông Mê-Kong. Với số
lượng lớn các đập thủy điện này có thể một số rủi ro liên quan đến tổn thương khí hậu
và thiệt hại tiềm tàng cho cộng đồng địa phương và hệ sinh thái bao gồm cả khí thải
mêtan dài hạn và thay đổi mực nước, phân bố trầm tích và quần thể cá. Ngoài ra, lượng
lớn đường ống dẫn dầu và khí đốt được xây dựng dưới sự bảo trợ của BRI tại Châu ÁThái Bình Dương tiếp tục kiến các quốc gia chủ nhà rơi vào các nền kinh tế phụ thuộc
vào nhiên liệu hóa thạch và khí thải nhà kính cao. Thật vậy, Cơ quan Năng lượng Quốc
tế ước tính rằng việc tiếp tục sử dụng nhiều nhiên liệu hóa thạch con đường năng lượng
sẽ dẫn đến phát thải CO2 liên quan đến năng lượng ở Đông Nam Á tới hơn gấp đôi vào
năm 2040 (IEA 2017).

19


3.2. Tác động đối với môi trường trên biển.
Trong cuộc Hội thảo thường niên tại tại Viện Walker, ĐH South Carolina, Mỹ,
tháng 11/2016, các học giả đã phân tích, đánh giá, dẫn chứng chứng minh thông qua
hoạt động nạo vét đáy biển một cách có chủ ý và xây dựng đảo nhân tạo, Trung Quốc đã

hủy hoại môi trường sinh thái và các rạn san hô một cách nghiêm trọng. Điển hình là
các hoạt động tôn tạo, xây dựng trái phép của Trung Quốc tại đá Chữ Thập (trên quần
đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam). Theo ước tính, các hoạt động của Trung
Quốc tại Biển Đông đã gây thiệt hại cho khoảng 159/162 km2 san hô tại vùng biển này.
3.3. Các tác động tổng hợp
Nghiên cứu “Những tác động đến môi trường của chiến lược phát triển cơ sở hạ
tầng theo Sáng kiến Vành đai và Con đường” của nhóm tác giả: Hoong Chen Teo, Alex
Mark Lechner, Grant W. Walton, Faith Ka Shun Chan, Ali Cheshmehzangi, TanMullins, Hing Kai Chan, Troy Sternberg và Ahimsa Campos-Arceiz đã chỉ ra rằng
những tác động đến môi trường từ chiến dịch OBOR không chỉ gồm tác động trực tiếp
mà còn có những tác động gián tiếp, tác động chồng chéo và tác động tích lũy. Những
tác động từ OBOR còn dựa trên sự tiếp nhận và phản ứng của môi trường khu vực nên
với từng đặc điểm khác nhau, những tác động ấy sẽ gây nên những tổn thất đến môi
trường theo quy mô và mức độ nghiêm trọng khác nhau. Chính vì thế, những tác động
tiêu cực đến môi trường từ chiến dịch OBOR càng khó đánh giá, nghiêm trọng và nguy
hiểm hơn đối với môi trường toàn cầu.
CHƯƠNG 4: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHO TRUNG QUỐC VÀ CÁC NƯỚC
TRONG KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG
4.1. Đề xuất giải pháp cho Trung Quốc
Trước khi triển khai các dự án liên quan OBOR, Trung Quốc cần đưa ra các giải
pháp để cải thiện chất lượng môi trường tự nhiên. Trung Quốc cần đánh giá mức độ ô
nhiễm và thiệt hại của từng dự án để có biện pháp hợp lí hoặc đền bù thiệt hại xứng
đáng cho các khu vực bị ảnh hưởng. Ngoài ra các nhà hoạch định chính sách nên so
sánh cân nhắc giữa chi phí môi trường, của cải và con người với lợi ích kinh tế đạt được
để đưa ra quyết định có nên hay không đưa các dự án vào thực thi. Chính phủ nên đề ra
các sáng kiến bảo vệ môi trường, bảo vệ hệ sinh thái, đặc biệt là luật pháp phù hợp song
20


song với phát triển bền vững. Ngoài ra, Trung Quốc nên hợp tác với các tôt chức quốc tế
để hiện thực hóa “Một vành đai, một con đường xanh”

4.2. Đề xuất các giải pháp cho các nước khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
Các nước trong khu vực triển khai dự án theo OBOR cần xác định rõ lợi ích
đạt được từ sáng kiến này và đánh giá rủi ro tiềm ẩn trong tương lai. Trong đó, tổn thất
về mặt hệ sinh thái, tài nguyên bị khai thác cạn kiệt là vấn đề cần cân nhắc hàng đầu vì
sẽ ảnh hưởng đến tiềm lực kinh tế cho tương lai. Các quốc gia trong khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương không nên khoan nhượng cho bất kỳ hành động nào của Trung Quốc
có thể đe dọa đến môi trường tự nhiên và môi trường sống của quốc gia mình. Khi lên
dự án mọi vấn đề có thể được giải quyết dễ dàng trên lí thuyết nhưng thực tế khi triển
khai dự án sẽ phát sinh rất nhiều vấn đề, do vậy cần có ban quan lý giám sát tiến độ thi
công các dự án để đảm bảo dự án đi đúng tiến độ và không vượt ngoài tầm kiểm soát
của các quốc gia. Cuối cùng là nhờ vào các luật Bảo vệ môi trường các tổ chức quốc tế
can thiệp vào khi có bất kỳ biểu hiện nào xấu ảnh hưởng đến môi trường khu vực để
đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các quốc gia khi tham gia vào sáng kiến Một vành đaiMột con đường.
KẾT LUẬN
Trong bài viết, chúng tôi đã tổng hợp các thông tin và dữ liệu về những hậu quả từ
chiến lược OBOR lên môi trường tự nhiên khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Đối với
đất liền, các hành lang BRI trải trên phạm vi rộng và chồng chéo lên nhau, chiếm chỗ,
chia cắt cảnh quan và sự đa dạng sinh học, đồng thời gây ra các rủi ro, tàn phá môi
trường sống cũng như sinh mạng của các loài sinh vật. Hơn thế nữa, các nước trong khu
vực châu Á- Thái Bình Dương còn phải đối mặt với sự ô nhiễm từ các cơ sở hạ tầng
năng lượng, các loại khí thải độc hại như carbon, metan, và rủi ro liên quan đến tổn
thương khí hậu và thiệt hại tiềm tàng cho cộng đồng địa phương. Đối với môi trường
biển, OBOR gây ô nhiễm nguồn nước, tàn phá cảnh quan và nguy hiểm cho các loài
sinh vật từ hoạt động nạo vét, xây dựng, khai thác hoặc xả thài trực tiếp ra biển. Những
tác động đến môi trường từ chiến dịch OBOR không chỉ gồm tác động

trực tiếp mà

còn có những tác động gián tiếp, tác động chồng chéo và tác động tích lũy. Cơ sở hạ
tầng và các hoạt động kinh tế dọc theo các hành lang của chiến dịch làm phân tán các

21


tác động của con người đến các địa điểm mới, mở rộng phạm vi ảnh hưởng từ khu vực
châu Á- Thái Bình Dương tràn đến các khu vực lân cận và cuối cùng trên phạm vi toàn
cầu.
Từ những thực trạng và hậu quả đã nêu trên từ chiến lược OBOR lên môi trường
tự nhiên khu vực châu Á- Thái Bình Dương, nhóm chúng tôi đề xuất ra những giải
pháp, hành động cho Trung Quốc và các nước sở tại. Nhưng để khắc phục, hạn chế và
phòng ngừa các tác động tiêu cực của chiến lược OBOR lên môi trường tự nhiên, không
chỉ cần có sự hợp tác giữa Trung Quốc và các nước châu Á - Thái Bình Dương, mà còn
cần sự chung tay của các quốc gia trên toàn thế giới. Các biện pháp cần phải được thực
thi mạnh mẽ và kịp thời, trước khi môi trường tự nhiên bị tàn phá đến mức các chức
năng tự phục hồi của nó không thể điều tiết môi trường trở lại trạng thái cân bằng.
Tuy đã có nhiều cố gắng trong công tác nghiên cứu, nhưng bài viết vẫn không
tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Vì vậy, chúng tôi mong nhận được ý kiến
đóng góp của độc giả để những nghiên cứu sau được hoàn chỉnh hơn. Xin cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Boer, B, 2019, ‘Greening China’s Belt and Road: Challenges for
Environmental Law’, The University of Sydney Law School.
2. Hong, S & Johnson, O, 2018, Mapping potential climate and development
impacts of China’s Belt and Road Initiative: a participatory approach, 1st ed,
Stockholm Environment Institute, Sweden.
3. Li, N & Shvarts, E, 2017, The Belt and Road Initiative- WWF
Recommendations and Spatial Analysis, 1st ed, World Wide Fund For Nature (Formerly
World Wildlife Fund), Russia.
4. Teo, H, Lechner, A, Walton, G, Chan, F, Cheshmehzangi, A, Tan, M ,Chan, H,
Sternberg, T & Campos, A, 2019, Environmental Impacts of Infrastructure
Development under the Belt and Road Initiative, 1st ed, Molecular Diversity

22


Preservation

International and

Multidisciplinary

Digital

Publishing

Institute,

Switzerland.
5. Belt and Road Initiative in five year, 2018, China Daily, China, Accessed 20
Sep 2019.
< />fbclid=IwAR3OxweY402m0CHB_0aN4IXkp6qgANFctC8BuNLGp45Z0T3tMot3QVKcYs >.

6. Ascensão, F. Fahrig, L. Clevenger, A. Corlett, R. Jaeger, J. Laurance, W., and
Pereira, H. (2018). Environmental challenges to the Belt and Road Initiative.
Sustainability of nature, 1. 206-209. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2019,
< />he_Belt_and_Road_Initiative. >

7. Piman, T. and Shrestha, M. (2017). Case study of sediments in the Mekong
River basin: current status and future trends. SEI.Stockholm project report, Stockholm
En Enionionment Institute; truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2019
< />_Mekong_River_Basin_Current_state_and_future_trends_Case_study_on_sediment_in
_the_Mekong_River_Basin_Current_state_and_future_trends >

8. Räsänen, TA, Varis, O., Scherer, L. and Kummu, M. (2018). Greenhouse gas
emissions from hydroelectricity in the Mekong basin. Environmental research letter, 13
(3) 034030; truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2019
< >
9. Altenburg, T. and Rodrik, D. (2017). Green industry policy: accelerate
structural changes towards a rich green economy. in green Industrial policy: Concept,
policy, national experience. Generve. Bon: UN Environment; German Institute of
Development Ent Entungungspolitk Research Institute (DIE); truy cập ngày 19 tháng 9
năm 2019
< >

23


10. Đỗ Tường Vân, Nguyễn Mai Trang & Đỗ Ngọc Kiên, 2006, Giới thiệu và
hướng dẫn chỉ dẫn tham khảo theo phong cách Harvard, Đại học RMIT, truy cập ngày
20 tháng 9 năm 2019, < />%20huong%20dan%20chi%20dan%20tham%20khao%20theo%20phong%20cach
%20Harvard.pdf >.
11. Hoàng Hồng Hạnh, Dương Thị Phương Anh, Nguyễn Ngọc Tú & Vũ Thị
Thanh Nga, 2018, Xu hướng môi trường tại Châu Á- Thái Bình Dương và một số định
hướng chính sách trong thời gian tới, Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi
trường,

Việt

Nam,

truy

cập


ngày

20

tháng

9

năm

2019,

<

>.
12. Quy định về điều kiện tốt nghiệp, thực tập và khoá luận tốt nghiệp đối với hệ
đào tạo đại học chính quy theo hệ thống tín chỉ, 2011, Phòng Quản lý đào tạo- Trường
Đại học Ngoại thương, Hà Nội, truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2019, <
>.

24



×