VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM VĂN LỢI
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH TIỀN VAY
TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ GIÁM ĐỐC
THẨM, TÁI THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9.38.01.07
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2020
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội thuộc
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Văn Thanh
Phản biện 1: PGS.TS. Phạm Thị Quế Anh
Phản biện 2: PGS.TS. Dương Đăng Huệ
Phản biện 3: TS. Phạm Sỹ Chung
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp Học viện tại
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 477
Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi……giờ…….phút, ngày ……tháng……năm 2020
Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện:
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị nêu rõ,
“Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy
định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của
người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ”.
Thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp
năm 2013 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định TAND được tổ chức
theo mô hình 04 cấp, dẫn đến thẩm quyền thụ lý, giải quyết đơn đề nghị
theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các vụ án nói chung và các vụ
án tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD nói riêng có nhiều thay
đổi. Những thay đổi của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân
sự đã khắc phục được nhiều điểm hạn chế của BLTTDS cũ. Tuy nhiên, bên
cạnh những điểm tích cực, vẫn tồn tại nhiều điểm chồng chéo, mâu thuẫn,
bất hợp lý dẫn đến tình trạng tồn đọng đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm;
chất lượng giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm chưa cao. Do vậy, việc tiếp tục phải nghiên cứu kiến
nghị hoàn thiện là việc làm cần thiết.
Thực trạng hoạt động của các TCTD trong thời gian qua cho
thấy, nợ xấu của các TCTD được gọi bằng những cái tên như “khối u” của
nền kinh tế, “tảng băng”, “cục máu đông” làm ách tắc dòng vốn tín dụng
cung cấp ra nền kinh tế. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài giải quyết tranh chấp
hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
nhằm mục đích chỉ ra những vướng mắc trong thủ tục giải quyết loại tranh
chấp này tại Tòa án, từ đó kiến nghị các giải pháp để nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực
trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền
vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân
tối cao, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được những mục đích đặt ra nêu trên, Luận án tập trung
giải quyết các nhiệm vụ chính sau đây:
1
(1) Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về tranh chấp hợp
đồng bảo lãnh bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm;
(2) Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm;
(3) Tìm ra các giải pháp phù hợp nhằm xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các quan điểm, công trình nghiên cứu, học thuyết pháp lý, hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến giải quyết tranh
chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm.Thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo
lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu các tranh chấp hợp đồng bảo lãnh
giữa TCTD (không bao gồm các TCTD nước ngoài) với tổ chức, cá nhân
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Việc nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin. Các phương
pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, logic, phương pháp
phỏng vấn, hỏi đáp chuyên gia và phương pháp nghiên cứu tình huống, sự
việc thực tế “Case studies” cũng được sử dụng.
5. Những đóng góp mới của Luận án
Luận án đã đề xuất cần sửa đổi một số quy định của pháp luật liên
quan đến quan hệ bảo lãnh, sửa đổi những quy định của pháp luật tố tụng
liên quan đến giám đốc thẩm, tái thẩm; Luận án chỉ ra các dạng tranh chấp
phổ biến liên quan đến hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín
dụng, từ đó Luận án đưa ra khuyến nghị cho các bên khi giao kết hợp đồng
bảo lãnh. Luận án kiến nghị một số giải pháp mang tính đột phá trong công
tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
- Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần bổ sung, làm rõ một số vấn đề
lý luận cơ bản về quan hệ bảo lãnh, và tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay
tại TCTD
2
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu Luận án có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy, đặc
biệt có giá trị tham khảo đối với những người làm công tác Tư pháp.
7. Kết cấu Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
Luận án gồm 04 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan
đến đề tài Luận án
Chương 2: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng
bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Chương 3: Thực trạng pháp luật về xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm đối với tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD từ thực
tiễn của Tòa án nhân dân tối cao.
Chương 4: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng
cao hiểu quả giải quyết tranh chấp đối với hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại
tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân
dân tối cao.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Hợp đồng bảo lãnh bảo
đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng
1.1.1.Về khái niệm, đặc điểm của bảo lãnh:
Về mặt lý luận thì trên thế giới cũng đã có những trường phái luật
theo xu hướng xác định bảo lãnh có thể là biện pháp bảo đảm đối vật. Ở
Việt Nam, khi xây dựng BLDS năm 1995 đã đi theo hướng này, tuy nhiên
từ năm 2005 khi sửa đổi BLDS 1995 thì bảo lãnh lại được quy định theo
hướng là biện pháp bảo đảm đối nhân.
- Quan hệ bảo lãnh tồn tại dưới dạng hợp đồng giữa bên bảo
lãnh và bên nhận bảo lãnh: Trong bảo lãnh bảo đảm nghĩa vụ dân sự thì
nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam đồng tình với quan điểm của các tác giả
Phạm Văn Tuyết và Lê Thị Kim Giang “về bản chất thì quan hệ bảo lãnh
là một loại giao dịch dân sự, quan hệ giữa người bảo lãnh với người nhận
bảo lãnh là một hợp đồng”.
1.1.2. Những nội dung chính của quan hệ bảo lãnh tiền vay tại tổ
chức tín dụng
1.1.2.1. Chủ thể của quan hệ bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng
3
Như đã trình bày, quan hệ bảo lãnh được xác định là một hợp
đồng và đây là hợp đồng được giao kết giữa bên nhận bảo lãnh và bên
bảo lãnh. Đối với hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD thì bên
nhận bảo lãnh bao giờ cũng là TCTD, còn bên bảo lãnh có thể là tổ
chức, cá nhân khác.
1.1.2.2. Những nội dung chính của hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại
tổ chức tín dụng:
Luật không quy định cụ thể nội dung hợp đồng bảo lãnh mà hoàn
toàn do các bên thỏa thuận, với điều kiện những thỏa thuận đó không trái luật,
trái đạo đức xã hội. Về các nội dung không trái luật, đây là quy định mới so với
pháp luật dân sự trước đó, pháp luật dân sự trước khi có BLDS 2015 đều ghi
nhận các nội dung thỏa thuận trong hợp đồng không được trái “pháp luật”. Như
vậy, phạm vi cấm của Luật dân sự 2015 đã thu hẹp lại rất nhiều.
1.1.2.3. Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín
dụng:
- Về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh: Các tác giả
Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang cho rằng, “Để có hiệu lực, giao dịch bảo
đảm phải tuân thủ các điều kiện được BLDS quy định, ngoài ra cần xem xét
mối quan hệ giữa hiệu lực của giao dịch bảo đảm và hiệu lực của hợp đồng
tín dụng được bảo đảm bằng giao dịch bảo đảm đó”.
1.1.2.4. Thời điểm phát sinh quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh:
Tác giả Bùi Đức Giang so sánh, pháp luật Anh qui định theo
hướng nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ liên đới, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận là nghĩa vụ dự bị. Pháp luật của Pháp đi theo hướng ngược lại, từ
đó đưa ra nhận định, Luật của Việt Nam “« có lợi » rõ ràng cho bên nhận
bảo lãnh”. Về nghĩa vụ liên đới giữa những người đồng bảo lãnh: Pháp luật
dân sự Việt Nam quy định về vấn đề này có nét tương đồng với pháp luật
một số nước như Anh, Pháp.
1.2. Tình hình nghiên cứu về giải quyết tranh chấp hợp đồng
bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng.
1.2.1. Vấn đề tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh:
Tác giả Trương Thanh Đức lý giải tại sao trong một giai đoạn dài
các hợp đồng bảo lãnh đều được lập dưới hình thức thế chấp, cầm cố tài sản
của người thứ ba, vì nếu sử dụng hình thức hợp đồng bảo lãnh thì các Văn
phòng Công chứng sẽ từ chối công chứng hợp đồng, và hợp đồng bảo lãnh
cũng không thuộc diện phải đăng ký giao dịch bảo đảm.
1.2.2. Vô hiệu do nội dung hợp đồng vi phạm các điều kiện có hiệu lực:
4
- Ngƣời bảo lãnh không phải là chủ sở hữu tài sản dùng để bảo
lãnh, như nhà đất là của cha mẹ (đều đã chết), nhưng một trong số những
người con dùng tài sản này để bảo lãnh tiền vay tại ngân hàng, sau đó
những người đồng thừa kế phát hiện sự việc, nên yêu cầu Tòa án tuyên bố
hợp đồng bảo lãnh vô hiệu.
- Hợp đồng bảo lãnh không đƣợc sự đồng ý của đồng chủ sở
hữu tài sản dùng để bảo lãnh: Các tác giả Nguyễn Văn Cường, Nguyễn
Thị Bích phân tích những rủi ro khi nhận bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất của hộ gia đình, nhưng không có đủ các thành viên trong
hộ tham gia giao kết hợp đồng. Việc xác định chính xác thành viên của hộ
gia đình cũng là vấn đề không đơn giản. Những khó khăn này đã được Luật
Đất đai 2013 và BDS 2015 phần nào tháo gỡ, theo hướng hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình mà không đủ thành viên giao kết thì
chỉ bị vô hiệu một phần (phần đối với người không tham gia giao kết,
những phần còn lại vẫn có hiệu lực).
- Bên bảo lãnh yêu cầu tuyên bố hợp đồng bảo lãnh vô hiệu do
vi phạm pháp luật: Tác giả Đỗ Văn Đại đề cập đến trường hợp “người đại
diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình
hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó…” để
yêu cầu tuyên bố hợp đồng bảo lãnh vô hiệu. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân
tối cao xác định Chủ doanh nghiệp bảo lãnh bảo đảm cho doanh nghiệp vay
vốn không phải là giao dịch với chính mình, vì cá nhân chủ doanh nghiệp
với pháp nhân – doanh nghiệp là hoàn toàn độc lập.
1.2.3. Tranh chấp về các nội dung trong hợp đồng bảo lãnh tiền vay:
- Tác giả Duy Kiên, phân tích vụ án cụ thể liên quan đến việc khó xác
định chính xác phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh. Tác giả Nguyễn Anh Đức nêu
trường hợp “hợp đồng bảo lãnh kết thúc vì thời hạn bảo lãnh đã chấm dứt”.
- Ngƣời có tài sản nhờ ngƣời khác vay giúp tiền tại tổ chức tín
dụng và ngƣời vay giúp đã yêu cầu ngƣời có tài sản ký hợp đồng bảo
lãnh để vay số tiền lớn hơn (vay thêm): Nội dung này có rất nhiều tác giả
đề cập, phân tích, nội dung chính của quan hệ này là người có tài sản nhờ
người khác vay giúp một số tiền nhỏ tại TCTD, nhưng người được nhờ đã
lợi dụng việc này để vay số tiền lớn hơn, số tiền chênh lệch sẽ giữ lại.
- Về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: tác giả Đỗ Văn Đại
phân tích 04 bản án của Tòa án các cấp và chỉ ra thực tế, “các Tòa án vẫn
xác định quy chế dự bị của người bảo lãnh, mặc dù các bên không có thỏa
thuận vấn đề này trong hợp đồng bảo lãnh”. Như vậy phải xác định các
trường hợp này là nghĩa vụ liên đới đúng theo quy định của luật.
5
1.3. Tình hình nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
trong tố tụng dân sự:
1.3.1.Về khái niệm giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân sự:
Giáo trình của các trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư
pháp…và các tác giả Đào Xuân Tiến, Ngô Anh Dũng, Hà Thị Thúy Hà nêu
khái niệm về giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, hầu hết đều dẫn lại các
quy định của pháp luật TTDS. Trong khi đó, tác giả Mai Ngọc Dương lại
có các cách tiếp cận, nhìn nhận giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự là một
chế định pháp luật.
1.3.2.Về trình tự thủ tục gửi, tiếp nhận, thụ lý đơn đề nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm:
Trong đề tài khoa học của Tiến sỹ Nguyễn Huy Du (nghiên cứu
sinh cũng tham gia viết đề tài này) đã đề cập đến trình tự thủ tục gửi, tiếp
nhận, xử lý, thụ lý đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.3.3.Về căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm:
Các tác giả Đào Xuân Tiến, Hà Hoàng Hiệp và Hà Thị Thúy Hà
đều thống nhất, về cơ bản pháp luật tố tụng dân sự các thời kỳ đều quy
định các căn cứ chính để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là giống
nhau, không có sự khác biệt lớn. Điểu thay đổi chính của BTTDS 2015 là
các căn cứ kháng nghị đều gắn với việc dẫn đến hậu quả quyền, nghĩa vụ
của các bên bị ảnh hưởng.
1.3.4.Về người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm
Tác giả Ngô Anh Dũng, Đào Xuân Tiến, Trần Anh Tuấn, Chu Thị
Hồng Nhung nêu điểm chung của Tố tụng dân sự đều quy định Chánh án
TANDTC, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng
nghị đối với tất cả các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án, trừ quyết
định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Chánh án TANDCC, Viện
trưởng VKSNDCC có thẩm quyền kháng nghị các bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, cấp huyện thuộc phạm vi địa bàn.
Theo quy định của BTTDS 2004 trở về trước thì Chánh án TAND tỉnh,
Viện trưởng VKSND tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện.
1.3.5.Về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm
Tác giả Ngô Anh Dũng, Hà Hoàng Hiệp và Hà Thị Thúy Hà
phân tích các quy định của Luật và chỉ ra, nguyên tắc chung thời hạn
kháng nghị giám đốc thẩm là 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật. Theo quy định của BTTDS 2015 thì thời hạn kháng nghị có
thể được kéo dài thêm 2 năm, tức là 05 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực
6
pháp luật, với điều kiện đương sự đã có đơn trong thời hạn 01 năm; sau 03
năm tiếp tục có đơn đề nghị.
1.3.6.Về thẩm quyền giám đốc thẩm
Các tác giả dẫn lại các quy định của pháp luật, quy định của Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để phân tích thẩm quyền kháng
nghị giám đốc thẩm, chỉ ra một số điểm khác nhau trong quy định của các
văn bản tố tụng.
1.3.7.Về thủ tục tái thẩm
Tác giả Ngô Anh Dũng, Đào Xuân Tiến phân tích luật thực định
về các căn cứ kháng nghị tái thẩm, bao gồm: mới phát hiện được tình tiết
quan trọng của vụ án mà đương sự không thể biết được khi giải quyết vụ
án; kết luận giám định hoặc lời dịch của người phiên dịch rõ ràng không
đúng sự thật; Thẩm phán, Kiểm sát viên cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án
hoặc cố tình kết luận trái pháp luật; Bản án hoặc quyết định có hiệu lực mà
Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy.
1.3.8.Về thời hạn kháng nghị tái thẩm
Các văn bản tố tụng đều quy định là một năm kể từ ngày người có
thẩm quyền kháng nghị tái thẩm phát hiện được những tình tiết là căn cứ tái
thẩm; Pháp lệnh có quy định thêm là việc kháng nghị không gây thiệt hại
cho đương sự nào thì không giới hạn về thời gian.
1.3.9. Về kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng nhƣ giải pháp
hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm:
Các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu ở phần trên, hầu hết
đều có những kiến nghị về sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật liên quan
đến giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
của Luận án:
Có thể nói, tình hình nghiên cứu trong, ngoài nước về chế định bảo
lãnh là rất sôi động, bằng chứng là có rất nhiều công trình khoa học nghiên
cứu về vấn đề này. Chưa có công trình nào tiến hành nghiên cứu thực trạng
giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh thông qua hoạt động giám đốc thẩm,
tái thẩm của Tòa án nhân dân tối cao
3. Những kết quả của các công trình nghiên cứu mà tác giả sẽ
kế thừa:
7
Tác giả kế thừa quan điểm, bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối
nhân, nhưng trong quá trình phát triển nhiều hệ thống đã chấp nhận bảo
lãnh đối vật; hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập không phải là hợp
đồng phụ của hợp đồng tín dụng.
Về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tác giả kế thừa quan điểm cho
rằng cần giao lại thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện cho Chánh
án TAND cấp tỉnh; cần phải rút ngắn thời hạn kháng nghị và không quy định
các trường hợp được kéo dài đến 05 năm; phải thu phí đối với yêu cầu giám
đốc thẩm, tái thẩm.
4. Những vấn đề mà Luận án tiếp tục nghiên cứu:
Cần phải nghiên cứu để làm thế nào bảo lãnh vẫn giữ bản chất đối
nhân, đồng thời vẫn có sức hấp dẫn đối với các TCTD; chỉ ra những bất cập
trong giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm tại TANDTC. Kiến nghị các giải pháp để hoàn thiện, nâng cao hiệu
quả việc giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại
TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC.
5. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu:
5.1. Lý thuyết nghiên cứu của đề tài:
- Lý thuyết về hợp đồng nói chung và lý thuyết về hợp đồng bảo
lãnh tiền vay tại các TCTD nói riêng; lý thuyết về bảo vệ quyền và lợi ích
của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại các TCTD; Lý
thuyết về phòng ngừa rủi ro trong bảo lãnh tín dụng ngân hàng; Lý thuyết
về quyền tự định đoạt của các đương sự, về bảo vệ quyền lợi chính đáng
của các đương sự trong vụ án; Lý thuyết về Tòa án xét xử đảm bảo công lý,
công bằng; Lý thuyết về đảm bảo độc lập xét xử của Tòa án.
5.2.Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu của đề tài
Câu hỏi thứ nhất, thực trạng hệ thống pháp luật về bảo lãnh tiền
vay tại TCTD đã hoàn chỉnh chưa, những vấn đề gì còn thiếu quy định của
pháp luật? Quy định nào không hợp lý?
Với giả thuyết, cơ sở lý luận của pháp luật bảo lãnh tiền vay tại các
TCTD ở Việt Nam chưa đầy đủ, toàn diện; Các quy định của pháp luật về
hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại các TCTD còn bất cập, thiếu sót, tản mạn,
chưa có tính hệ thống;
Câu hỏi thứ hai, những vấn đề thường xảy ra tranh chấp trong hợp
đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD? Nguyên nhân của những tranh chấp này?
8
Giả thuyết, các nội dung thường xảy ra tranh chấp liên quan đến
phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh; biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh; thời điểm
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Nguyên nhân do chưa có đầy đủ các quy định
của pháp luật; chưa thỏa thuận rõ trong quá trình giao kết hợp đồng.
Câu hỏi thứ ba, thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đã
hoàn thiện chưa, còn có điểm gì bất cập?
Giả thuyết, pháp luật tố tụng dân sự về giám đốc thẩm, tái thẩm còn
chưa hoàn thiện, đặc biệt là về thời hạn giám đốc thẩm, tái thẩm, về thẩm
quyền kháng nghị và về căn cứ để xem xét kháng nghị giám đốc thẩm, tái
thẩm.
Câu hỏi thứ tư, thực tiễn quy trình giải quyết tranh chấp hợp đồng
bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại
TANDTC đã phù hợp chưa, cần khắc phục những hạn chế nào?
Giả thuyết, thủ tục tiếp nhận, thụ lý đơn đề nghị còn chưa hợp lý;
các bước tiến hành nghiên cứu, báo cáo vụ án chưa thật sự khoa học.
5.3. Hƣớng tiếp cận nghiên cứu:
Hướng tiếp cận nghiên cứu của Luận án này được thực hiện từ các
quan điểm của pháp luật Tố tụng dân sự về giám đốc thẩm, tái thẩm và
pháp luật dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng biện pháp bảo lãnh.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Trong chương này, tác giả tiến hành tổng quan các công trình nghiên
cứu trên các sách, báo, Tạp chí, Đề tài khoa học cấp Bộ, các Luận án Tiến sĩ,
Luận văn Thạc sĩ, Giáo trình, sách tham khảo, các Hội thảo khoa học, bài viết
của các tác giả trong và ngoài nước về những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến đề tài, kết luận sơ bộ sau:
Đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về các biện pháp bảo đảm nghĩa
vụ, nhưng số lượng công trình nghiên cứu riêng biệt về biện pháp bảo đảm
này là chưa nhiều. Chỉ có hai công trình nghiên cứu chuyên sâu là Luận văn
Thạc sĩ của chính tác giả và Luận án Tiến sĩ của tác giả Phạm Văn Đàm.
Những công trình nghiên cứu về giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố
tụng dân sự đều bám sát các quy định của luật thực định. Quá trình sửa đổi
luật thực định, các quy định về giám đốc thẩm, tái thẩm ít nhiều có thay đổi.
Chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về giải quyết tranh chấp
hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại
TANDTC.
9
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH TIỀN VAY TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG
THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
2.1. Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp hợp đồng bảo lãnh
tiền vay tại tổ chức tín dụng
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ
chức tín dụng
Có thể hiểu bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD là người thứ ba có
thể là cá nhân, tổ chức (gọi là bên bảo lãnh) cam kết với TCTD cho vay tiền
(gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho cá nhân, tổ chức
vay tiền (gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến hạn trả nợ bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ
trả tiền. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện
nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ trả
tiền. Bên bảo lãnh cũng có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ
nghĩa vụ trả nợ vay cho bên được bảo lãnh.
Đặc điểm của bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng:
Thứ nhất, bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ thay cho người khác, nếu người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Thứ hai, Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân:
Theo cách phân chia của pháp luật thời La Mã cổ đại, hiện nay
pháp luật dân sự ở một số quốc gia phân chia quyền tài sản thành hai loại cơ
bản: Một là, quyền cho phép chủ thể chi phối trực tiếp đối với vật mà không
cần thông qua hành vi của người khác (vật quyền hay còn gọi là quyền đối
vật); hai là quyền yêu cầu chủ thể khác thực hiện một công việc (trái quyền
hay còn gọi là quyền đối nhân).
Thứ ba, quan hệ bảo lãnh tồn tại dưới dạng hợp đồng: Đại đa số
các nhà khoa học và hệ thống luật thực định cơ bản đã thống nhất được luận
điểm, bảo lãnh tồn tại dưới dạng hợp đồng.
Thứ tư, hợp đồng bảo lãnh có tính độc lập tương đối: Mặc dù đối
tượng của hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD chính là nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, hợp đồng bảo lãnh không phải là
hợp đồng phụ mà độc lập với hợp đồng tín dụng.
10
Các đặc điểm của bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín
dụng: Ngoài những đặc điểm chung của biện pháp bảo lãnh như nêu trên,
bảo lãnh tiền vay tại TCTD còn có một số đặc điểm riêng biệt sau:
- Thứ nhất, bên nhận bảo lãnh luôn là tổ chức tín dụng: trong
mối quan hệ làm phát sinh nghĩa vụ (khoản tiền) được bảo đảm, bên cho
vay tiền là TCTD, nên TCTD sẽ đồng thời là bên nhận bảo đảm và đối với
quan hệ bảo lãnh thì tổ chức này sẽ là bên nhận bảo lãnh.
- Thứ hai, nghĩa vụ được bảo lãnh là khoản tiền vay trên cơ sở
hợp đồng tín dụng: Nghĩa vụ cần bảo lãnh trong mối quan hệ này là
khoản tiền vay của các cá nhân, tổ chức tại TCTD thông qua hợp đồng tín
dụng.
- Thứ ba, bên bảo lãnh là tổ chức, cá nhân không chuyên trong
hoạt động bảo lãnh: Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả không xem xét
đối với nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Do vậy, bên bảo lãnh là tổ chức, cá
nhân không chuyên nghiệp.
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp đồng bảo lãnh tiền
vay tại tổ chức tín dụng:
Từ những khái niệm nêu trên, ta có thể khái niệm tranh chấp hợp
đồng bảo lãnh như sau, “Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD
là những mâu thuẫn, bất đồng giữa bên bảo lãnh với TCTD, phát sinh trong
quá trình giao kết, thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
này”.
- Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ
chức tín dụng:
- Về chủ thể trong quan hệ tranh chấp hợp đồng này: tranh chấp
hợp đồng bảo lãnh chỉ là tranh chấp giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo
lãnh; đối với hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD, điểm đặc biệt là bên
nhận bảo lãnh luôn là TCTD (bên cho vay).
- Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng
phát sinh sau khi phát sinh vụ trả nợ của ngƣời đƣợc bảo lãnh: chỉ khi
xảy ra một trong các điều kiện làm phát sinh nghĩa vụ được bảo lãnh thì
nghĩa vụ bảo lãnh mới phát sinh, khi đó mới xảy ra tranh chấp.
- Về căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm: Căn cứ để người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm loại tranh chấp này đều có nguyên nhân từ những sai phạm
về nội dung mà không phải là vi phạm tố tụng.
11
- Chƣa có vụ án nào liên quan đến hợp đồng bảo lãnh đƣợc giải
quyết theo thủ tục rút gọn: Tính đến hết năm 2019 hệ thống Tòa án chưa
thụ lý, giải quyết bất kỳ vụ án tranh chấp nào loại này theo thủ tục rút gọn.
2.2. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng
bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm:
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm của giải quyết tranh chấp hợp đồng
bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng.
“Giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD là
hoạt động của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm giải quyết
các bất đồng, mâu thuẫn giữa TCTD nhận bảo lãnh và cá nhân, tổ chức
(bảo lãnh) để tìm ra giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm xác
định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ bảo lãnh”.
Đặc điểm của giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay
tại tổ chức tín dụng:
- Tùy theo điều kiện chủ thể và mục đích của các bên tham gia hợp
đồng bảo lãnh mà tranh chấp này có thể được xác định là quan hệ dân sự
hoặc kinh doanh, thương mại.
- Chứng cứ trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền
vay tại tổ chức tín dụng được cung cấp đầy đủ, nội dung rõ ràng: Do đặc
thù của quan hệ này, bên nhận bảo lãnh luôn là TCTD, nên chứng cứ được
chuẩn bị đầy đủ, rõ ràng.
- Được giải quyết đồng thời với tranh chấp hợp đồng tín dụng:
Hợp đồng bảo lãnh được giải quyết chung trong vụ án yêu cầu thực
hiện hợp đồng tín dụng, khi đó bên bảo lãnh tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
2.2.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của giải quyết tranh chấp hợp
đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm
2.2.2.1. Khái niệm, đặc điểm của giải quyết tranh chấp hợp đồng
bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm:
Từ các góc độ tiếp cận, có nhiều quan điểm khác nhau về giám đốc
thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân sự nói chung và đối với các tranh chấp hợp
đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD nói riêng. Tuy nhiên, để nhận diện đầy đủ
bản chất của giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các tranh chấp hợp đồng bảo
lãnh tiền vay tại TCTD, cần làm rõ về đặc điểm của giám đốc thẩm, tái
thẩm trong tố tụng dân sự.
12
Đặc điểm của giám đốc thẩm, tái thẩm
Đặc điểm thứ nhất, đối tượng của giám đốc thẩm, tái thẩm là
những bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật:
Các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đó có thể là: Quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; Bản án, quyết định sơ
thẩm, phúc thẩm của Tòa án nhân dân các cấp; Quyết định giám đốc thẩm,
tái thẩm của các Tòa án nhân dân cấp cao.
Đặc điểm thứ hai, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm xác định
những sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án; đánh giá
những căn cứ có chứa đựng tình tiết mới làm thay đổi căn bản nội dung
quyết định của Tòa án
Những sai lầm, vi phạm nghiêm trọng trong bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực có thể là những sai lầm về nội dung hoặc về thủ
tục tố tụng.
Đặc điểm thứ ba, việc xét lại bản án, quyết định phải dựa trên
kháng nghị của người có thẩm quyền.
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự được tiến hành trên cơ sở
có kháng nghị của người có thẩm quyền trong thời hạn pháp luật quy định
đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có
sai lầm nghiêm trọng.
2.2.2.2. Nội dung của giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các tranh
chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng:
- Về quyền đề nghị giám đốc thẩm: (1) Cơ chế thứ nhất là trong hệ
thống Tòa án phải tự phát hiện những sai sót để kịp thời giải quyết lại. (2)
Cơ chế thứ, ngoài việc tự phát hiện của hệ thống Tòa án, các cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác cũng có quyền phát hiện, kiến nghị xem xét lại theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Về các căn cứ giám đốc thẩm, tái thẩm: Căn cứ giám đốc thẩm,
tái thẩm là những căn cứ làm cơ sở xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm. Tùy theo hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia trong việc có phân chia
thành giám đốc thẩm và tái thẩm hay gộp chung trong một thủ tục mà
những căn cứ này có khác nhau.
- Về thời hạn yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định:
Thời hạn yêu cầu xem xét lại bản án quyết định có hiệu lực pháp
luật là khoảng thời gian người có quyền yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm có
quyền làm đơn yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Về thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm:
13
Thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm là quyền hạn xem xét,
quyết định của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm về vụ án có kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm:
Luật tố tụng của Việt Nam đang quy định theo hướng Hội đồng xét
xử giám đốc thẩm có các quyền: Không chấp nhận kháng nghị và giữ
nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; Hủy bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết
định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; Hủy một
phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm;
Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ
án; Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật.
- Những vấn đề đặc thù trong giải quyết tranh chấp hợp đồng
bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm so với các
thủ tục khác:
- Không cần phải xác minh, thu thập thêm chứng cứ mà có thể
đánh giá, quyết định luôn tại Hội đồng xét xử giám đốc thẩm (có thể sửa
án, không cần hủy để giải quyết lại).
- Do đặc thù của hoạt động kinh doanh tiền của TCTD, các bên
sẵn sàng hòa giải để nhanh chóng kết thúc vụ án.
- Công tác nghiên cứu, thẩm định hồ sơ của TTV, Lãnh đạo Vụ
giám đốc kiểm tra và những người có thẩm quyền tiếp theo không mất
nhiều thời gian.
- Rất nhiều hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay có liên quan đến
tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Khái niệm bảo lãnh cơ bản được thống nhất ở các điểm chính
như bản chất của bảo lãnh, hình thức tồn tại. Tuy nhiên, vẫn còn có những
điểm khác biệt, như nghĩa vụ bảo lãnh là liên đới theo luật hay ngược lại.
Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD là một dạng
tranh chấp đặc biệt và rất quan trọng, thậm chí còn quan trong hơn việc
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục đặc biệt, nhằm phát hiện sửa
chữa những sai sót của bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ
thẩm, phúc thẩm trong việc áp dụng pháp luật, cũng như những tình tiết
14
mới được phát hiện mà trong quá trình giải quyết các cơ quan tiến hành tố
tụng không thể biết.
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM,
TÁI THẨM ĐỐI VỚI TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH TIỀN
VAY TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG TỪ THỰC TIỄN CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỐI CAO
3.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp
hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam:
Bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD đều dựa trên các quy định về
bảo lãnh trong các BLDS 1995, 2005, 2015 và Nghị định 163/2006/NĐ-CP
ngày 29/12/2006.
3.1.1. Về hình thức của hợp đồng bảo lãnh:
Đối với TCTD, cam kết bảo lãnh luôn phải được lập thành văn bản,
có thể được lập riêng hoặc lập chung trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp
đồng cầm cố, thế chấp tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh (khoản 1 Điều
10).
Các nội dung thường có xảy ra tranh chấp là, hợp đồng không được
lập đúng với bản chất của quan hệ bảo đảm (quan hệ bảo đảm là bảo lãnh,
nhưng các bên lại lập hợp đồng thế chấp tài sản của người thứ ba); cam kết
bảo lãnh không được lập dưới dạng hợp đồng; hợp đồng bảo lãnh có điều
khoản thỏa thuận biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh bằng tài sản cụ thể,
nhưng hợp đồng này không được công chứng, chứng thực, không đăng ký,
đăng ký giao dịch bảo đảm....
3.1.2. Về phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh:
Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thoả
thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thoả thuận và pháp
luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm
toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại.
3.1.2.1. Tranh chấp trong trường hợp phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh
xác định về số lượng:
Mặc dù trong hợp đồng bảo lãnh các bên thỏa thuận rõ phạm vi
nghĩa vụ bảo lãnh là một số tiền cụ thể, nhưng lại không nói rõ số tiền này
là tổng số nghĩa vụ được bảo lãnh hay chỉ là số tiền gốc được bảo lãnh.
3.1.2.2. Đối với các trường hợp phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh không
xác định về số lượng:
15
Hết thời hạn giải ngân theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh,
Ngân hàng và bên vay ký phụ lục hợp đồng gia hạn thời hạn vay thêm 01
năm để nhận thêm số tiền vay, nhưng không được sự đồng ý của người bảo
lãnh, nên số tiền phát sinh trong khoảng thời gian của phụ lục hợp đồng
không nằm trong phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh.
Dạng tranh chấp khác là mặc dù trong hợp đồng bảo lãnh các bên
đã giới hạn thời gian làm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng đồng thời có
thỏa thuận thêm, “các điều kiện chi tiết về việc vay và cho vay số tiền nêu
trên (con số cụ thể) sẽ được ghi cụ thể trong giấy tờ về nghiệp vụ Ngân
hàng mà bên vay, bên bảo lãnh và Ngân hàng sẽ ký tại trụ sở Ngân hàng”.
3.1.2.3. Về vấn đề lãi suất:
Về lãi chồng lãi: lãi chồng lãi được hiểu là tính lãi trên khoản tiền
lãi chưa trả. Trong giai đoạn BLDS 2005 có hiệu lực, rất nhiều Tòa án khi
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng chấp nhận yêu cầu của TCTD để
tính lãi hoặc phạt đối với số tiền lãi trong hạn mà khách hàng chưa trả.
Về trách nhiệm phải chia sẻ lãi suất nợ quá hạn do có lỗi trong việc
không thực hiện nghĩa vụ phát mại tài sản để thu hồi nợ của Ngân hàng:
bên vay yêu cầu TCTD phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đối với tài sản
bảo đảm bị hư hỏng, thiệt hại và khoản tiền lãi suất nợ quá hạn do bên nhận
bảo lãnh không xử lý tài sản để thu hồi nợ, khi nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh.
3.1.3. Các vấn đề pháp lý của tài sản thế chấp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh:
Có nhiều dạng tranh chấp khác nhau liên quan đến tình trạng pháp
lý của tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng bản chất là người bảo lãnh
dùng tài sản chung để thế chấp bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh của mình mà
không được sự đồng ý của đồng sở hữu hoặc tài sản bảo đảm không còn
thuộc quyền sở hữu của người bảo lãnh; tài sản là nhà và quyền sử dụng đất
mà người bảo lãnh được hưởng theo quyết định của bản án đã có hiệu lực
pháp luật, chưa đứng tên đối với tài sản đó nhưng lại dùng để thế chấp bảo
đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh. Quyền sử dụng đất được cấp cho hộ gia đình,
nhưng khi thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh không được sự đồng ý
của toàn bộ thành viên trong Hộ gia đình. Tài sản chung của vợ chồng,
nhưng chỉ một bên ký hợp đồng thế chấp toàn bộ tài sản bảo đảm nghĩa vụ
bảo lãnh.
3.1.3.1. Tranh chấp liên quan đến quan hệ vay thêm : Nội dung
cơ bản của quan hệ này là người chủ sở hữu tài sản có nhu cầu vay tiền, nên
nhờ cá nhân, tổ chức khác vay giúp, đồng thời dùng tài sản của mình để bảo
đảm cho khoản vay đó. Người được nhờ vay số tiền lớn hơn so với số tiền
người chủ sở hữu tài sản cần vay và giữ lại số tiền chênh lệch.
16
3.1.4. Các tranh chấp khác:
- Ngân hàng thẩm định nhầm tài sản để thế chấp bảo đảm nghĩa vụ
bảo lãnh: tài sản các bên thỏa thuận dùng để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh là
khối tài sản A, nhưng khi tiến hành định giá các bên lại định giá nhầm khối
tài sản B.
- Bảo lãnh cho nghĩa vụ hình thành trong tương lai:
- Bảo lãnh có điều kiện:
Trong một vụ án cụ thể, bên bảo lãnh thế chấp tài sản để bảo đảm
cho nghĩa vụ bảo lãnh đối với khoản vay tại Ngân hàng, với điều kiện cho
phép người vay vay bổ sung sau khi tất toán khoản vay trước.
3.2. Thực trạng pháp luật về xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng
- Về việc phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm:
Theo số liệu thống kê của Vụ Giám đốc kiểm tra II Tòa án nhân
dân tối cao từ 2015-2019, 100% các vụ án tranh chấp hợp đồng bảo lãnh
bảo đảm tiền vay tại TCTD bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm đều do đương sự có yêu cầu (có thể gửi đơn trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua các tổ chức, cá nhân khác).
- Các quy định về người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc
thẩm
So với BLTTDS 2004 sửa đổi năm 2011, BTTDS 2015 có một số
điểm mới sau: Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh
không còn thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
đối với bản án, quyết định có hiệu lực của TAND cấp huyện; thay vào đó
là thẩm quyền thuộc Chánh án TAND cấp cao và Viện trưởng VKSND cấp
cao theo lãnh thổ có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp
huyện và Tòa án cấp tỉnh trong phạm vi lãnh thổ.
- Về các căn cứ giám đốc thẩm:
Một là, kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với
những tình tiết khách quan của vụ án, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Hai là, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự
không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích
hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật.
Ba là, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra
bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp
17
của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước, quyền
lợi ích của người thứ ba.
Về thời hạn yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định:
Theo số liệu thống kê thể hiện, các vụ án do Viện trưởng
VKSNDTC kháng nghị thường có thời hạn kháng nghị ngắn hơn so với
Chánh án TANDTC. Đại đa số các vụ án do Chánh án TANDTC kháng
nghị đều có thời hạn trên 02 năm (chiếm 89,4%), và phần nhiều là gần đủ
03 năm (chiếm 57,6%).
- Về thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
Theo quy định của BLTTDS hiện hành, Ủy ban Thẩm phán
TANDCC có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản
án, quyết định của Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh trong phạm vi lãnh thổ bị
kháng nghị; Hội đồng Thẩm phán TANDTC xét xử các bản án, quyết định
của các TANDCC bị kháng nghị.
Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm:
Trong tổng số 66 Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao xét xử các vụ án tranh chấp liên quan đến hợp đồng bảo
lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD được khảo sát, có 45 vụ hủy bản án phúc
thẩm, bản án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại (68,2%); 17 vụ hủy bản án
phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại (25,75%); có 04 vụ Hội đồng Thẩm
phán không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án phúc thẩm (đều do
Viện trưởng VKSNDTC kháng nghị); Có 03 trường hợp hủy Quyết định
đình chỉ xét xử phúc thẩm, bản án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại, mặc dù
quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm không có sai sót, nhưng do bản án sơ
thẩm có hiệu lực pháp luật theo quyết định phúc thẩm, nên phải hủy cả
quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm; chưa ghi nhận trường hợp nào Hội
đồng Thẩm phán sửa một phần hoặc toàn bộ bản án của cấp dưới; và không
có vụ án nào Hội đồng Thẩm phán hủy bản án phúc thẩm giữ nguyên bản
án sơ thẩm [nguồn dữ liệu Vụ II].
3.3. Thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với tranh chấp
hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng tại Tòa án nhân dân tối cao:
3.3.1. Thực trạng đơn đề nghị, kết quả thụ lý, giải quyết theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền
vay tại tổ chức tín dụng tại Tòa án nhân dân tối cao:
Theo số liệu thống kê của Vụ giám đốc kiểm tra II TANDTC, từ
ngày 01/6/2015 đến ngày 01/4/2019, tổng số đơn đề nghị, công văn kiến
nghị các đơn vị của TANDTC nhận được là 661 đơn (trong đó 04 tháng
18
năm 2015 nhận được 149 đơn; năm 2016 nhận 139 đơn; năm 2017 nhận
148 đơn, năm 2018 nhận 151 đơn; 06 tháng năm 2019 nhận 74 đơn).
3.3.2.Những vi phạm phổ biến của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm
trong các vụ án tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng:
3.3.2.1.Các vi phạm về tố tụng:
Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng: Việc xác định
không chính xác người đại diện tham gia tố tụng sẽ được coi là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Nghiêm trọng hơn, trong một số trường hợp
do xác định không đúng quan hệ tranh chấp, nên Tòa án đã tước bỏ yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
3.3.2.2. Không phân biệt giữa quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế
chấp tài sản của người thứ ba: việc các bên sử dụng tên gọi giao dịch bảo
đảm không thống nhất, khi thì gọi tên là “thế chấp tài sản của người thứ
ba”, vẫn quan hệ đó, nơi khác lại gọi là “bảo lãnh”, và mặc dù được xác
định là quan hệ bảo lãnh, nhưng các bên chỉ lập hợp đồng thế chấp tài sản
để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh mà không lập hợp đồng bảo lãnh riêng.
3.3.2.3. Có dấu hiệu hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh doanh
thương mại: Hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự luôn là vấn đề thời sự
trong giới luật học. Trong khoảng thời gian gần đây tình trạng này đã giảm,
nhưng vẫn còn tồn tại. Trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, vẫn còn một số
trường hợp có thể xảy ra việc hình sự hóa.
3.3.2.4. Tuyên án không chính xác về xử lý tài sản bảo đảm: Với
cách tuyên trong một số bản án, Tòa án các cấp đã mặc định nghĩa vụ bảo
lãnh là nghĩa vụ dự bị. Tuy nhiên, nếu theo quan niệm nghĩa vụ bảo lãnh là
nghĩa vụ dự bị thì tuyên như vậy cũng chưa chính xác.
3.3.2.5.Các sai sót khác: Xác định quan hệ tín dụng là dân sự hay
kinh doanh thương mại trong các trường hợp vay tiêu dùng.
3.3.3. Những vướng mắc trong thủ tục giải quyết tranh chấp hợp
đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm:
Thứ nhất, về cán bộ làm công tác giám đốc thẩm, tái thẩm.
Hầu hết các TTV tại Vụ Giám đốc kiểm tra II đều được tuyển trực
tiếp từ các cơ sở đào tạo Luật, tức là sinh viên tốt nghiệp các Trường đại
học Luật ngay sau khi tốt nghiệp đều có thể được xem xét tuyển vào Vụ
Giám đốc kiểm tra II, hiện tại chỉ có 02/40 cán bộ đã từng làm Thẩm phán
Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh.
Thứ hai, về quy trình thụ lý, giải quyết đơn đề nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao:
19
Một vụ việc có thể phải báo cáo tới 08 lần mới có quyết định cuối
cùng là trả lời đơn đề nghị hay kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm. Quy trình này là quá dài và quá nhiều người tham gia ý kiến đối với
một vụ việc.
Thứ ba, về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho đội ngũ Thẩm tra
viên nghiên cứu hồ sơ vụ án.
Hiện tại việc trang bị các phương tiện thiết yếu như máy vi tính,
máy Photocopy, máy Scale, máy chiếu và hệ thống mạng kết nối thông
suốt…chưa đáp ứng đầy đủ điều kiện làm việc cho TTV.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp
hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
và các quyết định giám đốc thẩm trong thời gian từ 2013-2018, tác giả nhận
thấy có cả các tranh chấp về tố tụng, nhưng phần nhiều vẫn là những tranh
chấp liên quan đến nội dung của quan hệ bảo lãnh, đặc biệt là các tranh
chấp liên quan đến tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh.
Chƣơng 4
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG
CAO HIỂU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐỐI VỚI HỢP ĐỒNG
BẢO LÃNH TIỀN VAY TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG THEO THỦ TỤC
GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
4.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm.
- Giải quyết kịp thời những hạn chế, bất cập và những yêu cầu mới
phát sinh:
- Bảo đảm tính thống nhất đồng bộ của pháp luật:
- Bảo đảm tính hiệu quả của hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín
dụng bảo đảm tính an toàn cho quan hệ tín dụng, lưu thông vốn hiệu quả:
- Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự:
- Bảo đảm hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp:
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm
4.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật
20
4.2.1.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng bảo lãnh
tiền vay tại tổ chức tín dụng:
- Thứ nhất, về việc thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh: xuất phát từ
quan điểm nghĩa vụ trả nợ trước hết thuộc về bên có nghĩa vụ chính. Do
vậy, tác giả cho rằng các quy định về bảo lãnh cũng nên quy định theo
hướng nghĩa vụ trả nợ TCTD trước tiên thuộc về bên vay, chỉ khi nào bên
vay không còn khả năng trả nợ thì bên bảo lãnh mới phải thực hiện nghĩa
vụ trả nợ thay trong phạm vi cam kết.
- Thứ hai, cần quy định về người nhận bảo đảm ngay tình: Đối với
Hội đồng Thẩm phán TANDTC, trước mắt cần có quan điểm chính thức về
việc bảo vệ TCTD nhận bảo đảm ngay tình (có thể ban hành dưới dạng Án
lệ). Về lâu dài phải nghiên cứu, sửa đổi khoản 2 Điều 133 BLDS.
- Thứ ba, cần quy định rõ thêm về trường hợp bảo đảm nghĩa vụ
bảo lãnh:
Tác giả kiến nghị, lần sửa đổi BLDS tiếp theo cần bổ sung thêm
quy định về hậu quả của việc cầm cố, thế chấp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh,
theo hướng, người bảo lãnh dùng tài sản của mình để cầm cố, thế chấp cho
người nhận bảo lãnh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, tức là tài sản
cầm cố, thế chấp không trực tiếp bảo đảm cho nghĩa vụ của người được bảo
lãnh mà để đảm bảo cho nghĩa vụ của người bảo lãnh.
- Thứ tư, sửa đổi các quy định về xử lý tài sản bảo đảm:
Về lâu dài, cần nghiên cứu, tiếp thu lý thuyết về vật quyền bảo đảm
trong lần sửa đổi BLDS tiếp theo.
- Thứ năm, bổ sung thêm quy định về điều kiện của bên bảo lãnh:
Tác giả cho rằng, Luật dân sự của Việt Nam cũng cần phải xem xét quy định
điều kiện riêng về người bảo lãnh sao cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
(nếu có phát sinh) được thuận lợi.
- Thứ sáu, về nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh:
Thực tiễn giải quyết tranh chấp các loại án này cho thấy, trong
nhiều trường hợp bên nhận bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện chiếu
lệ một số công việc mang tính chất nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh.
- Thứ bảy, sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật có liên
quan đến thế chấp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh:
- Đối với Luật Đất đai: cần có hướng dẫn, sửa đối đối với các quy
định sau:
- Quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 175 Luật Đất đai 2013.
- Khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai 2013 có thể hiểu, người sử dụng
đất không có quyền thế chấp quyền sử dụng đất hình thành trong tương lai.
21
- Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất.
- Đối với Luật Tố tụng dân sự:
TANDTC cần có Án lệ để định hướng, theo hướng trường hợp này
phải đưa tất cả những người thuê nhà, đang thực tế sử dụng nhà đất thế chấp
vào tham gia tố tụng, nhưng nếu họ vắng mặt, hoặc không tìm được địa chỉ
của họ thì Tòa án vẫn giải quyết theo quy định chung.
- Đối với Luật Thi hành án dân sự: điểm d khoản 1 Điều 48 quy định
về trường hợp hoãn thi hành án nếu tài sản để thi hành án đang bị tranh chấp
tại Tòa án. Quy định này có thể bị lạm dụng.
- Đối với Luật nhà ở: Điều 118 quy định, điều kiện của nhà ở tham
gia giao dịch thế chấp là nhà ở phải có Giấy chứng nhận. Thực tế rất ít nhà
có Giấy chứng nhận, đặc biệt là các vùng nông thôn.
- Đối với Bộ luật Hình sự:
Để tránh tình trạng hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế, BLHS
cần sửa đổi Điều 175 về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, theo
hướng quy định rõ hơn nội hàm của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản trong quan hệ tín dụng có biện pháp bảo đảm.
Đối với việc đăng ký tài sản và đăng ký giao dịch bảo đảm:
Cần sớm xây dựng Luật đăng ký tài sản và đăng ký giao dịch bảo
đảm trong đó quy định các loại tài sản bắt buộc phải đăng ký, trình tự thủ
tục đăng ký và nghĩa vụ cung cấp thông tin về tài sản.
4.2.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh
chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm
Thứ nhất, về điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Thứ hai, về việc phân công nghiên cứu tài liệu, hồ sơ giám đốc
thẩm:
Thứ ba, rút ngắn thời hạn khiếu nại giám đốc thẩm và thời hạn
kháng nghị giám đốc thẩm.
Thứ tư, nên bỏ quy định về triệu tập người tham gia tố tụng và những
người khác có liên quan đến kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm.
Thứ năm, về sự cần thiết quy định việc người có đơn đề nghị xem
xét theo thủ tục giám đốc thẩm phải nộp lệ phí giám đốc thẩm.
Thứ sáu, nên bổ sung quy định về người ký Quyết định giám đốc thẩm
trong trường hợp Chủ tọa phiên tòa không đồng ý với quyết định kháng nghị
22
Thứ bảy, cần quy định về việc lập Hội đồng xét đơn đề nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm để xử lý bước đầu đặc biệt là đối với các loại đơn đề
nghị xem xét lại công văn trả lời của TANDCC và đơn đề nghị tái thẩm.
Thứ tám, về căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Thứ chín, về thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm:
Thời hạn 01 năm được tính từ ngày Tòa án có thẩm quyền tiếp nhận
đơn đề nghị tái thẩm và các tài liệu chứng cứ có chứa đựng tình tiết mới của
đương sự.
Thứ mười, cần sửa quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm.
Nghiên cứu sinh kiến nghị:
- Đối Hội đồng xét xử giám đốc thẩm cần bổ sung thêm theo hướng
có quyền “Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám
đốc thẩm”.
- Đối với Hội đồng xét xử tái thẩm cần phải sửa đổi lại quy định
này trong BLTTDS theo hướng Hội đồng xét xử tái thẩm có thẩm quyền
hủy một phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để giải quyết lại
phần này.
Thứ mười một, cần quy định về số lần hoãn thi hành bản án đã có
hiệu lực pháp luật:
Cần phải quy định rõ hơn theo hướng, bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án chỉ có thể bị hoãn thi hành án một lần bởi một
trong số những người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm.
4.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp
đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao.
Thứ nhất, tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ làm công
tác giám đốc thẩm, tái thẩm.
Thứ hai, có văn bản rõ ràng, ổn định về quy trình thụ lý, giải quyết
đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về việc phân công Thẩm tra viên nghiên cứu, giải quyết đơn:
Cần cắt giảm quy trình báo cáo đối với việc giải quyết vụ án theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Thứ ba, tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho đội ngũ
Thẩm tra viên nghiên cứu hồ sơ vụ án.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
23