Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực tây nam bộ tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.84 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM NGỌC TÂN

“THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ
NHU CẦU CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM CỦA
THANH NIÊN NÔNG THÔN KHU VỰC TÂY NAM BỘ”

Ngành: Xã hội học
Mã số: 9 31 03 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

Hà Nội – 2020


Công trình được hoàn thành tại:

Khoa Xã hội học
Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS. Đặng Nguyên Anh

Phản biện 1:

GS. TS. Đặng Cảnh Khanh

Phản biện 2:



PGS. TS. Lê Ngọc Văn

Phản biện 3:

PGS. TS. Nguyễn Thị Tố Quyên

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam,
477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi ……. giờ ….. ngày ….. tháng ….. năm 2020.

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam;
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của thanh niên, xây dựng
chiến lược, giáo dục, bồi dưỡng, tổ chức thanh niên thành lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng.
Ngày nay, thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân
lực. Chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cho sự ổn định đất nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy của Ban
Chấp hành Trung ương khóa X “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đã chỉ rõ nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng lao động trẻ,
giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên” [85].
Nghị quyết số 64/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22/7/2016 về việc Ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nêu rõ:

“Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động, tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động trong
nước gắn với hội nhập quốc tế; chú trọng giải quyết việc làm cho thanh niên và sinh viên mới tốt
nghiệp; hỗ trợ tạo việc làm, học nghề và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài cho nhóm lao động
yếu thế, nhất là lao động thuộc hộ nghèo, người khuyết tật, lao động là người dân tộc thiểu số, thanh
niên nông thôn”[11].
Vấn đề tạo việc làm cho thanh niên có vai trò then chốt và ý nghĩa rất quan trọng. Thiếu việc
làm, không có việc làm hoặc việc làm với năng suất và thu nhập thấp sẽ không thể giúp thanh niên
bảo đảm cuộc sống và phát triển ổn định. Đối với thanh niên nông thôn, việc làm liên quan đến yếu tố
đất đai, tư liệu lao động, công cụ sản xuất cùng với kỹ năng nghề và vốn khởi nghiệp. Các yếu tố trên
tác động mạnh đến nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên. Giải quyết việc làm cho thanh niên
nông thôn, vì vậy là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực này, tạo tiền đề cho sự
phát triển của thế hệ trẻ.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra nhanh chóng ở Việt Nam giai đoạn vừa qua
đã khiến cho diện tích đất nông thôn bị thu hẹp. Cùng với quá trình gia tăng dân số đô thị là quá trình
mở rộng nhanh chóng các khu đô thị, làm thay đổi đời sống, nghề nghiệp, việc làm, thu nhập của
người dân (trong đó có thanh niên nông thôn). Những tác động đó là rất lớn, từ vấn đề đất sản xuất
nông nghiệp bị thu hẹp dần, thay vào đó là đất sản xuất công nghiệp và dịch vụ gia tăng, mật độ dân
cư tập trung đông hơn, cơ cấu kinh tế và phương thức sản xuất thay đổi, nghề nghiệp/việc làm, thu
nhập, mức sống, cơ cấu dân cư, các quan hệ xã hội, cách nghĩ, cách làm, thói quen, các chuẩn mực giá
trị và văn hóa... Vấn đề việc giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn trong bối cảnh diện tích đất
nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do chuyển đổi mục đích sử dụng, lực lượng lao động thanh niên
nông thôn dôi dư cần được tạo nhiều việc làm và thu nhập nhằm ổn định đời sống đảm bảo thực hiện
tốt các mục tiêu phát triển xã hội.
Nghiên cứu thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên - nhóm dân số
mới bước chân vào thị trường lao động - sẽ giúp đánh giá được chất lượng lao động, việc làm hiện
nay, cững như nắm bắt được nhu cầu việc làm khi thực hiện các dự án giải quyết việc làm khi thực
hiện xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, cho đến nay, việc tìm hiểu hiện trạng và nhu cầu chuyển đổi
việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ còn ít được chú ý. Nhiều thanh niên phải
chấp nhận làm những việc không đúng với mong muốn, nguyện vọng của bản thân, không có điều
kiện phát triển kỹ năng và nâng cao tay nghề. Hậu quả là năng suất lao động thấp, thu nhập không ổn

định, kỹ năng và tay nghề chuyên môn yếu, dẫn đến thực trạng nhân lực thấp kém.
Quyết định số 245/QĐ-TTg ngày 12/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm vùng Đồng bằng Sông Cửu Long

1


đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã xác định: "Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động gắn
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Vùng. Chú trọng tạo việc làm, nâng cao chất lượng việc làm, tăng
thu nhập cho người lao động" [69].
Khu vực Tây Nam Bộ là nơi tập trung đông đảo lao động phổ thông dư thừa. Đây cũng là nơi
có số hộ nông dân đi làm thuê đông nhất nước, lao động từ khu vực nông nghiệp, nông thôn ra đô thị,
thành phố lớn tìm kiếm việc làm ngày càng gia tăng [53]. Thực tế cho thấy, thanh niên nông thôn khu
vực Tây Nam Bộ vẫn đang loay hoay trên con đường tìm việc làm. Nhiều trường hợp phải rời quê
hương ra thành phố và đến các khu công nghiệp tìm việc và sinh sống với những rủi ro, khó khăn tại
nơi đến. Nhu cầu việc làm và chuyển đổi việc làm nhằm thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế vùng
Tây Nam Bộ trở nên hết sức cần thiết. Vấn đề cấp thiết cần được xem xét trong giai đoạn hiện nay là
nhận diện rõ thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực
Tây Nam Bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Chính vì vậy, thực trạng việc làm và
nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn hiện nay là vấn đề cấp thiết rất cần được quan
tâm, nghiên cứu nhằm cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định các chiến lược chính sách
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Xuất phát từ những lý do trên đây, nghiên cứu sinh đề xuất nghiên cứu: “Thực trạng việc làm
và Nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ” làm đề tài nghiên
cứu luận án Tiến sĩ xã hội học, với mong muốn đóng góp thêm các luận cứ khoa học nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững của khu vực này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng việc làm, nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên
nông thôn vùng Tây Nam Bộ và các yếu tố tác động, đề tài nhằm góp phần làm sáng tỏ vấn đề này

trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục tiêu đề ra, luận án triển khai các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài luận án.
- Thu thập thông tin và xử lý số liệu theo nội dung nghiên cứu.
- Phân tích, làm rõ thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông
thôn khu vực Tây Nam Bộ và nhận diện các yếu tố tác động.
- Đề xuất một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy giải quyết và chuyển đổi việc làm cho thanh
niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ, phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.3. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ như thế nào? (Hiện
trạng việc làm của họ ra sao? Có hay không sự khác biệt về thực trạng việc làm giữa các nhóm
thanh niên?)
- Những yếu tố nào tác động đến thực trạng việc làm của niên nông thôn khu vực Tây Nam
Bộ hiện nay?
- Nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ hiện nay ra
sao? (Có hay không nhu cầu chuyển đổi việc làm trong thanh niên? Nếu có, nhu cầu chuyển đổi đó
như thế nào và có sự khác biệt giữa các nhóm thanh niên hay không?)

2


- Những yếu tố nào tác động đến thực tiễn và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên
nông thôn khu vực Tây Nam bộ hiện nay?
2.4. Giả thuyết nghiên cứu
- Việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ thiếu và không ổn định. Có sự
khác biệt về việc làm giữa các nhóm thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ.
- Thực trạng việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ chịu tác động của một
số yếu tố (cá nhân, gia đình và cộng đồng).
- Thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ hiện có nhu cầu chuyển đổi việc làm. Có sự

khác biệt về nhu cầu chuyển đổi việc làm giữa các nhóm thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ.
- Nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ chịu tác động
của một số yếu tố (cá nhân, gia đình và cộng đồng).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của
thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ, và các yếu tố ảnh hưởng.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Thanh niên trong độ tuổi 16-35 tuổi, sinh sống và làm việc ở khu vực nông thôn Tây Nam
Bộ, là những lao động liên quan trực tiếp đến thực trạng và nhu cầu chuyển đổi việc làm.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài luận án tập trung nghiên cứu về thực trạng việc làm và nhu cầu
chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ qua việc phân tích bộ số liệu
khảo sát của đề tài “Phát triển nguồn nhân lực và nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển bền
vững vùng Tây Nam Bộ” (Mã số: KHCN/14-19/X05 thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ
phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ). Cuộc khảo sát được thực hiện trên địa bàn 5 tỉnh
Tây Nam Bộ là Cần Thơ, Trà Vinh, An Giang, Long An và Tiền Giang. Phạm vi nghiên cứu của đề
tài luận án là các địa bàn nông thôn được khảo sát tại các tỉnh thành nói trên, bao gồm 7 xã (xã Vĩnh
Hanh, xã An Hòa, xã Bình Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang; xã Đa Lộc, xã Hòa Lợi, huyện
Châu Thành, tỉnh Trà Vinh; xã An Thạnh, Bến Lức, tỉnh Long An; và xã Mỹ Phong, Mỹ Tho, tỉnh
Tiền Giang).
- Phạm vi thời gian: Đề tài luận án được thực hiện từ năm 2016 đến năm 2020. Đây là thời
gian nghiên cứu sinh tập trung phân tích dữ liệu thứ cấp và bổ sung nghiên cứu định tính phục vụ
cho luận án. Dữ liệu nghiên cứu được sử dụng bao gồm bộ dữ liệu khảo sát năm 2016 của đề tài
KHCN/14-19/X05 và các dữ liệu phỏng vấn sâu được thực hiện trong quá trình nghiên cứu.
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm có sự
khác biệt rất nhiều giữa các nhóm thanh niên. Do những hạn chế về nguồn lực và độ dài của luận
án, công trình nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu và phác họa bức tranh việc làm và nhu
cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ thông qua việc phân tích số
liệu của 726 thanh niên (từ 16-35 tuổi và không bao gồm học sinh, sinh viên) sinh sống tại các địa

bàn nông thôn tại thời điểm khảo sát. Số liệu này được nghiên cứu sinh chiết xuất từ bộ số liệu gốc
của Đề tài KHCN/14-19/X05 nói trên.

3


4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp:
Nghiên cứu sinh tìm kiếm, tổng hợp và phân tích các tư liệu, báo cáo, các công trình nghiên
cứu đã công bố liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Việc thu thập, phân tích tài liệu sẵn có giúp cho
tác giả củng cố và hệ thống cơ sở lí luận, nhận diện những khoảng trống về mặt học thuật trong
nghiên cứu để từ đó có thể tìm ra được những hạn chế, bất cập về vấn đề việc làm và nhu cầu
chuyển đổi việc làm cho thanh niên mà các nghiên cứu đã đề cập. Đây là bước quan trọng trong quá
trình học tập, nghiên cứu và viết luận án mà nghiên cứu sinh sử dụng.
NCS sử dụng phương pháp phân tích nguồn số liệu thứ cấp chiết xuất từ đề tài nghiên cứu cấp
Nhà nước thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ
(Đề tài “Phát triển nguồn nhân lực và nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển bền vững vùng Tây
Nam Bộ”; Mã số: KHCN/14-19/X05). Nghiên cứu sinh là “sản phẩm đào tạo” của đề tài KHCN/1419/X05 và việc sử dụng bộ dữ liệu đã nhận được sự đồng ý của Giáo sư Chủ nhiệm đề tài (đồng thời là
giáo viên hướng dẫn luận án này).
Bộ số liệu gốc của Đề tài KHCN/14-19/X05 bao gồm những thông tin khảo sát năm 2016 tại
1.512 hộ gia đình, với 6.564 nhân khẩu. Tổng số các thành viên trong hộ là 3.304 người từ 15-65
tuổi trên địa bàn nghiên cứu thuộc nông thôn và đô thị của 5 tỉnh là An Giang, Trà Vinh, Long An,
Tiền Giang, Cần Thơ. Để phục vụ cho luận án nghiên cứu này nghiên cứu sinh đã sử sụng phần
mềm SPSS để tách, lọc và đã chiết xuất từ bộ số liệu nói trên ra các thông tin của 726 người trả lời
(là những thanh niên từ 16-35 tuổi đang sinh sống tại các địa bàn nông thôn thuộc địa bàn 07 xã, đó
là xã Vĩnh Hanh, xã An Hòa, xã Bình Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang; xã Đa Lộc, xã Hòa
Lợi, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh; xã An Thạnh, Thị xã Bến Lức, tỉnh Long An; và xã Mỹ
Phong, Thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Việc mã hóa lại các biến số cũng đã được thực hiện
nhằm phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu riêng của đề tài luận án). Đương nhiên, con số này không
bao gồm các trường hợp là học sinh, sinh viên theo nguyên tắc phân loại thống kê không được tính

là lao động có việc làm trong hộ gia đình.
Do vậy, mẫu nghiên cứu của đề tài luận án bao gồm 726 thanh niên nông thôn Tây Nam Bộ
trong các hộ gia đình nông thôn được khảo sát của Đề tài KHCN/14-19/X05. Qua việc phân tích sâu
về các thông tin thu thập được từ mẫu chiết xuất này, đề tài luận án tập trung phác họa bức tranh về
thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ
và các yếu tố tác động.
- Phương pháp nghiên cứu định tính:
Bên cạnh việc sử dụng các dữ liệu khảo sát của Đề tài KHCN/14-19/X05, nghiên cứu sinh
đã triển khai thực hiện phỏng vấn sâu một số cán bộ cấp huyện, cấp xã, cơ sở đào tạo, doanh nghiệp
và 25 thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ để cập nhật cụ thể hơn tình hình thực trạng việc
làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ và các yếu tố
tác động nhằm cung cấp thêm những thông tin cần thiết bổ sung cho các kết quả phân tích số liệu
định lượng.
5. Đóng góp mới và hạn chế của luận án
5.1. Đóng góp mới của luận án:
Xem xét các nghiên cứu có liên quan đến chủ đề luận án cho thấy có rất ít nghiên cứu về
nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên tại các khu vực, vùng miền ở Việt Nam. Cho đến nay
chưa có nhiều công trình nghiên cứu sâu và trực tiếp vào vấn đề này đối với thanh niên nông thôn ở
các tỉnh Tây Nam Bộ. Công trình luận án này tập trung nhận diện thực trạng việc làm và nhu cầu

4


chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ hiện nay thông qua việc phân
tích số liệu thứ cấp được chiết xuất từ bộ dữ liệu khảo sát năm 2016 của đề tài KHCN/14-19/X05 và
các dữ liệu phỏng vấn sâu được thực hiện trong quá trình nghiên cứu.
Các giả thuyết nghiên cứu đưa ra đã được minh chứng bằng những kết quả trình bày trong
nội dung của luận án. Kết hợp các dữ liệu định lượng và định tính, NCS cũng đã vận dụng các lý
thuyết nghiên cứu và những kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước (qua các công trình đã được
công bố) để lý giải, làm rõ sự khác biệt về thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm giữa

các nhóm thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ và các yếu tố tác động. Kết quả phân tích hồi
quy đa biến cho phép nhận diện những yếu tố tác động (có ý nghĩa thống kê) đến thực trạng việc
làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ (bao gồm: tuổi, giới tính, dân tộc, trình độ học
vấn, tình trạng hôn nhân, mức sống hộ gia đình và tôn giáo) và đến nhu cầu chuyển đổi việc làm
của họ (bao gồm: tuổi, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, số người trong hộ gia đình, số lao
động trọng hộ gia đình, mức sống hộ gia đình, theo dõi thông tin việc làm và địa bàn cư trú).
Tuy nhiên, do hạn chế của một nghiên cứu với quy mô không lớn nên chưa thể khái quát
chung cho toàn khu vực nông thôn Tây Nam Bộ. Kết quả nghiên cứu có giá trị như một kênh tham
khảo cho những nghiên cứu tiếp theo về nhu cầu giải quyết và chuyển đổi việc làm cho thanh niên
nông thôn trong trong những năm tới.
5.2. Hạn chế của luận án:
Do kiện hạn chế về nguồn lực và sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp nên ở một số chiều cạnh
nghiên cứu chưa lý giải hết vấn đề đặt ra. Hơn nữa, khách thể nghiên cứu của luận án là những
thanh niên đang sống và làm việc tại khu vực nông thôn Tây Nam Bộ nên không thể tiếp cận được
một số thanh niên đã rời quê hương, di cư ra thành phố với thực trạng và nhu cầu việc làm đa dạng
và phức tạp.
Nghiên cứu sinh chiết xuất và phân tích số liệu thứ cấp (file số liệu bao gồm 726 thanh niên
được chiết xuất từ bộ số liệu của Đề tài KHCN/14-19/X05) nên kết quả thu được chỉ có thể khái quát
cho địa bàn 7 xã được khảo sát mà thôi. Để có thể có kết luận chung cho toàn thể thanh niên nông
thôn khu vực Tây Nam Bộ thì đương nhiên cần có thêm những nghiên cứu tiếp theo đối với thanh
niên ở nhiều địa bàn nông thôn khác nữa và thậm chí là cả những thanh niên nông thôn đã di cư. Tuy
nhiên những phát hiện thu được có giá trị khoa học bởi đây là một nghiên cứu xã hội học về việc làm
và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Luận án góp phần bổ sung tư liệu về nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn
vốn còn ít được nghiên cứu trong xã hội học, thông qua đó, làm rõ hơn về lĩnh vực này, và có thể
đóng góp cho chuyên ngành xã hội học là một lĩnh vực quan trọng của khoa học xã hội Việt Nam
hiện nay. Ý nghĩa lý luận của luận án còn thể hiện ở chỗ nghiên cứu sinh đã hệ thống hóa một số
khái niệm có liên quan, và thao tác hóa các khái niệm này. Bên cạnh đó, việc vận dụng các quan

điểm lý thuyết trong luận án cũng góp phần áp dụng các quan điểm lý luận vào thực tiễn nghiên cứu
một nhóm xã hội - thanh niên nông thôn với những đặc điểm đa dạng. Thông qua đó, luận án góp phần
kiểm chứng cơ sở lý luận của nghiên cứu.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Nghiên cứu sinh mong muốn đóng góp một phần vào việc tìm hiểu thực trạng việc làm và
nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ. Từ việc nhận diện các
yếu tố ảnh hưởng, luận án có thể cung cấp cách nhìn sâu hơn và nhận thức đầy đủ hơn về thực tiễn,

5


mà cụ thể ở đây là thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn
khu vực Tây Nam Bộ. Kết quả nghiên cứu cung cấp các luận cứ khoa học cho các cơ quan quản lý
và hoạch định chính sách có cái nhìn tổng quát hơn trong các giải pháp nhằm giải quyết việc làm và
nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên, cân đối tốt hơn giữa đào tạo và sử dụng lao động, đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững khu vực Tây Nam Bộ.

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngoài nước
Vấn đề thanh niên và lao động, việc làm đã được nghiên cứu khá nhiều ở các nước trên thế
giới, đặc biệt là ở các nước phát triển. Giáo dục, đào tạo và phát triển thanh niên được quy tụ trong
nhân tố con người, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển, hưng thịnh của nhiều quốc gia trên
thế giới. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu nhu cầu của con người và đặc biệt là nhu cầu việc làm có vai
trò rất quan trọng đối với quá trình hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Các ấn phẩm
nước ngoài liên quan đến hướng nghiên cứu này rất phong phú, bao gồm cả các nghiên cứu sâu về
nhân lực và nhân lực chất lượng cao, nhu cầu nguồn nhân lực, lao động và việc làm… Tổng quan
tình hình nghiên cứu ở nước ngoài về chủ đề nghiên cứu liên quan giúp cho tác giả hiểu sâu sắc hơn
về những vấn đề lý luận, phương pháp luận nghiên cứu và tiếp thu đuợc những kinh nghiệm của các
nhà nghiên cứu về thanh niên, lao động, việc làm, tìm hiểu nhu cầu chuyển đổi việc làm và giải

quyết tốt những vấn đề liên quan đến việc làm của lao động thanh niên để vận dụng tiếp cận trong
việc nghiên cứu đề tài “Thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông
thôn khu vực Tây Nam Bộ”.
Nghiên cứu lí luận về vấn đề nhu cầu đã được đề cập đến từ rất lâu và còn có nhiều những
quan niệm về khái niệm nhu cầu theo những góc nhìn khác nhau. Theo các nhà tâm lý học, nhu cầu
là một trạng thái tâm lý tương đối bền vững của cá nhân, được đặc trưng bằng sự ham thích các vật
và hiện tượng được thể nghiệm như là điều kiện cần thiết của sự tồn tại của cá nhân [22]. Về mặt
kinh tế học, một số người đã định nghĩa giống Marx rằng “nhu cầu là khả năng tiêu thụ”, một số
khác lại coi “nhu cầu là quan hệ kinh tế giữa người với người, do việc sử dụng các lợi ích vật chất
và văn hóa mà lao động tạo ra nhằm thỏa mãn những yêu cầu của cá nhân và xã hội để đảm bảo
phát triển sản xuất vật chất và hoạt động sống của con người trong xã hội [22].
Theo Abraham Maslow, nhu cầu là một phần quan trọng tất yếu trong bản thân của mỗi con
người. Mọi giá trị, niềm tin và tập tục của con người là khác biệt tùy theo từng quốc gia hay từng
nhóm người tuy nhiên tất cả mọi người sẽ đều có những nhu cầu chung giống nhau.Lý thuyết nhu
cầu của ông đã chỉ ra rằng nhu cầu của con người có những mức độ khác nhau, được xếp thanh 5
nhóm từ thấp đến cao trong tháp nhu cầu và những nhu cầu ở phía dưới của tháp cần được đáp ứng
trước những nhu cầu ở mức cao hơn (bao gồm: 1- Nhu cầu cơ bản; 2- Nhu cầu về an toàn, an ninh;
3- Nhu cầu về xã hội; 4- Nhu cầu về được quý trọng; 5- Nhu cầu được thể hiện mình).
Trong nghiên cứu về “Mối tương quan giữa định hướng xã hội với định hướng nghề nghiệp”
của Pilippov P.R. (1975) thì việc định hướng nghề nghiệp của thanh niên, trước hết là của những
học sinh các trường phổ thông, là một trong những nhiệm vụ trung tâm đặt ra cho toàn bộ hệ thống
giáo dục quốc dân. Tầm quan trọng của nhiệm vụ đó đã được nhấn mạnh trong các nghị quyết của
Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 24. Các biện pháp cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ này đã
được vạch rõ trong Nghị quyết của Ban Châp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội
đồng Bộ trưởng Liên Xô về việc “hoàn thành công cuộc chuyển sang nền giáo dục trung học phổ

6


thông đối với thanh niên và phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông” (tháng 6 năm 1972). “Các

nguyên tắc pháp luật của Liên Xô và các nước cộng hòa liên Bang về giáo dục quốc dân” (điều 19)
do Xô Viết tối cao thông qua trong các kỳ họp thứ 6 (phiên họp thứ 8) đã ghi rõ rằng việc đào tạo
học sinh nhằm đưa họ “đến việc tích cực tham gia hoạt động lao động và hoạt động xã hội, đến việc
tự giác lựa chọn nghề nghiệp”…. Trong công trình này, tác giả đã nghiên cứu hiện tượng định
hướng xã hội tập trung vào nội dung chính là sự nhận thức của thanh niên đối với chỗ đứng của
mình trong cơ cấu xã hội, việc lựa chọn vị trí xã hội tương lai của mình, các biện pháp để thực hiện
sự lựa chọn ấy và những việc thay đổi có thể có về sau [26].
Trong công trình nghiên cứu “Mô hình hóa nhu cầu đối với lao động kỹ năng thấp/giá rẻ:
Khám phá việc cắt giảm việc làm của một Mức lương sống” (Modelling demand for low skill/low
paid labor: Exploring the employment trade-offs of aliving wage), tác giả Rebecca Riley (2013) đã
phân tích nhu cầu lao động kỹ năng thấp, lao động giá rẻ để tìm hiểu những việc làm liên quan đến
việc chuyển sang Mức lương sống. Sử dụng dữ liệu bảng ngành công nghiệp, tác giả đã phân loại
mô hình nhu cầu lao động thành 5 nhóm được xác định theo độ tuổi và trình độ học vấn cao nhất.
Mức lương thấp là phổ biến trong nhóm kỹ năng thấp và trẻ. Trong số 11 nhóm ngành công nghiệp
thị trường đã xem xét, có 3 nhóm ngành sẽ đối mặt với sự tăng lương lớn nhất để đạt Mức lương
sống là: (1)- Bán buôn và Bán lẻ, Khách sạn và Dịch vụ ăn uống; (2)- Các dịch vụ cộng đồng, xã
hội và cá nhân khác; (3)- Các ngành công nghiệp sản xuất kỹ năng thấp. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, có điều kiện về mức độ đầu ra và nỗ lực của người lao động, những chi phí tăng này sẽ làm
giảm nhu cầu của người sử dụng lao động trẻ có tay nghề thấp trong khu vực tư nhân khoảng
300.000. Phân tích nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cho phép thay thế lao động trong việc xem
xét các tác động nhu cầu việc làm của những thay đổi ngoại sinh về tiền lương. Và tổng giảm nhu
cầu lao động có điều kiện với Mức lương sống là khoảng 160.000; đây là khoảng một nửa sự giảm
nhu cầu về nhân viên trẻ có tay nghề thấp vì người sử dụng lao động thay thế trẻ hơn với nhiều công
nhân có kinh nghiệm hơn. Số lượng nhân viên sẽ thấy thu nhập của họ tăng lên với Mức lương sống
vượt xa mức giảm ước tính về nhu cầu lao động [102].
Bên cạnh đó, trong nghiên cứu “Làm thế nào để kết hợp việc nhập cảnh của những người
trẻ tuổi trong thị trường lao động với việc duy trì công nhân lớn tuổi hơn?” (How to Combine the
Entry of Young People in the Labour Market with the Retention of Older Workers?), tác giả Werner
Eichhorst (2013) đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về tình hình việc làm của các công nhân trẻ và
già ở các nước thành viên EU, đưa ra sự phát triển gần đây nhất trong cuộc khủng hoảng và đối phó

với các chính sách thực hiện để thúc đẩy việc làm của cả hai nhóm. Bằng chứng thu thập cho thấy
rằng không có sự cạnh tranh giữa công nhân trẻ và người già trên thị trường lao động. Các chính
sách cơ bản hoặc chung để tăng cường hoạt động của thị trường lao động EU là rất quan trọng để
cải thiện tình hình của cả hai nhóm. Tuy nhiên, trách nhiệm về chính sách việc làm vẫn chủ yếu
nằm trong các nước thành viên của Liên minh châu Âu, mặc dù các sáng kiến ở cấp EU có thể cung
cấp giá trị gia tăng, đặc biệt thông qua việc kích thích trao đổi kinh nghiệm và tạo điều kiện thuận
lợi cho khu vực và xuyên biên giới [104].
Công trình nghiên cứu “Nâng cao kỹ năng: Nhu cầu lao động có kỹ năng cao khi nguồn lao
động dồi dào?” (Upskilling: Do employers demand greater skill when workers plentiful?) của
Alicia Sasser Modestino và cộng sự đã chỉ ra rằng: Trong sự phục hồi của cuộc Đại suy thoái ở Hoa
Kỳ, các nhà hoạch định chính sách và các học giả đã bày tỏ lo ngại về các yêu cầu kỹ năng của nhà
tuyển dụng gia tăng. Sử dụng một cơ sở dữ liệu lớn về đăng tuyển dụng trực tuyến cho nghề nghiệp
trung cấp, các tác giả đã chứng minh rằng người sử dụng lao động có cơ hội nâng cao yêu cầu về
kinh nghiệm và giáo dục, trong ngành nghề, để đáp ứng với việc tăng nguồn cung ứng người tìm
việc có liên quan. Mối quan hệ này là mạnh mẽ đối với nhiều thử nghiệm cho các yếu tố có khả

7


năng gây nhiễu, hiện diện ngay cả trong các cặp tiêu đề công việc, và phù hợp với các dự đoán của
một mô hình tìm kiếm nhà tuyển dụng tiêu chuẩn. Họ tiếp tục xác định hiệu ứng này bằng cách khai
thác thí nghiệm tự nhiên phát sinh từ việc rút quân tại Iraq và Afghanistan như một cú sốc ngoại
sinh đối với nguồn cung lao động địa phương, nghề nghiệp cụ thể. Kết quả nghiên cứu ngụ ý rằng
số lượng người tìm kiếm việc làm tăng lên có thể chiếm khoảng 30% tổng số yêu cầu kỹ năng sử
dụng lao động được quan sát từ năm 2007 đến năm 2010. Và từ năm 2007 đến năm 2012, tỷ lệ thất
nghiệp tăng 6,4 điểm phần trăm đối với lao động ngoài đại học, tương ứng với mức tăng 2,3 điểm
phần trăm đối với lao động có trình độ đại học. Theo khảo sát của cộng đồng người Mỹ, những
người lao động được đào tạo đại học là 2 điểm phần trăm ít có khả năng bị thất nghiệp từ năm 2007
đến năm 2012 trong vòng mã số nghề nghiệp gồm sáu chữ số [93].
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước

1.2.1. Nghiên cứu về thanh niên và việc làm thanh niên
Trong công trình nghiên cứu về Thanh niên như một nhóm nhân khẩu - xã hội: Đặc trưng,
vấn đề và triển vọng (2004) Đặng Nguyên Anh và cộng sự đã chỉ ra rằng: tỷ trọng nhóm thanh niên
trong dân số Việt Nam đứng vào hàng cao so với các nước trong khu vực châu Á do mức sinh cao
diễn ra trong những năm sau chiến tranh. Năm 1979, tỷ trọng dân số thanh niên nhóm 15-24 tuổi
chiếm 20,7% tổng dân số thì năm 1999 là 19,9%, năm 2004 tỷ trọng này là 19,3% dân số, năm 2009
con số này là 18,3% dân số [17].
Trong bối cảnh “dân số vàng”, đã có nhiều cơ hội cho thanh niên Việt Nam tham gia các
hoạt động sản xuất, nghề nghiệp, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
[15], [82].
Bên cạnh đó, cơ cấu “dân số vàng” và những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu đã dẫn đến nhiều thách thức đối với giải quyết việc làm cho lao động thanh niên [15], [82]. Kết
quả khảo sát tình hình thanh niên của Viện Nghiên cứu Thanh niên năm 2009 cho thấy 69% số
thanh niên chịu sự tác động trực tiếp về việc làm, trong đó 43,4% ít việc làm hơn trước; 16,7% mất
việc hoặc bị sa thải và 8,7% phải làm những việc khác so với công việc trước đây. Có hơn 90% số
thanh niên trong các khu chế xuất tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương được hỏi đã
xác nhận nơi họ làm việc đang phải chịu tác động của suy thoái kinh tế [15]. Tình trạng thiếu việc
làm và thất nghiệp trong thanh niên đang gia tăng. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội, tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi lao động thiếu việc làm tăng từ 3% (năm 2008) lên 4,1%
(năm 2010), trong đó khu vực thành thị là 2%; khu vực nông thôn là 4,9%. Tỷ lệ thanh niên thất
nghiệp chiếm 4,2% (năm 2008), tăng lên 5,2% (năm 2010), trong đó ở khu vực đô thị là 7,8%, cao
gần gấp hai lần nông thôn (4,3%) [82].
Tỷ trọng dân số thanh niên 14-25 tuổi ở các khu vực phía Bắc và miền Trung thấp hơn và
tương đối đồng đều nhau (18-19% trong tổng dân số của từng vùng). Đáng lưu ý là khu vực Tây
Nam Bộ có quy mô và cơ cấu dân số thanh niên cao nhất nước (chiếm 21,5% tổng dân số cùa vùng
và 21,1% phân bố giữa các vùng). Đây là khu vực phát triển kinh tế nông nghiệp, nơi hàng triệu
thanh niên đang sinh sống cần thu nhập và việc làm [17].
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng lao động của lao động thanh niên tham gia hoạt
động kinh tế được nâng cao trong những năm gần đây. Theo Bộ LĐTB&XH, lực lượng lao động là
thanh niên có trình độ trung cấp chuyên nghiệp tăng từ 4,1% (năm 2008) lên 6,5% (năm 2010); có

trình độ cao đẳng, đại học tăng nhanh từ 5,5% (năm 2008) lên 8,7% (năm 2010) [15], [82]. Mỗi năm
có từ 70.000 - 80.000 sinh viên hệ cao đẳng và 143.000 - 160.000 sinh viên đại học tốt nghiệp, bổ
sung cho lực lượng lao động xã hội (trích theo Trịnh Duy Luân, 2012). Trong các năm 2009 và 2012,

8


lực lượng thanh niên có trình độ cao đẳng, đại học tăng nhanh từ 7,8% lên xấp xỉ 10%. Tuy nhiên,
không phải ai trong số này cũng có việc làm ổn định và làm đũng nghề được học hay đào tạo [15].
Bên cạnh đó, trong công trình nghiên cứu Một số vấn đề xã hội trong lĩnh vực lao động việc
làm ở nước ta hiện nay, tác giả Trịnh Duy Luân cũng đã tập trung phân tích và làm rõ những khó
khăn từ bất ổn kinh tế vĩ mô và cùng những hệ lụy đối với lĩnh vực lao động việc làm. Vấn đề chất
lượng lao động, việc làm và nhu cầu nâng cao chất lượng; tận dụng cơ hội “dân số vàng” trong lĩnh
vực lao động, việc làm; một số vần đề về lao động, việc làm khu vực nông thôn và việc thực hiện Đề
án 1956: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” của Chính phủ. Báo cáo cũng đã
phân tích rất kỹ các kết quả và số liệu của 2 cuộc “Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên
Việt Nam” (SAVY 1 và SAVY 2). Từ đó, Báo cáo đã đề xuất một số khuyến nghị chính sách cần
được quan tâm thực hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tiếp theo, đặc biệt là vấn đề đề
nâng cáo chất lượng nguồn nhân lực nông thôn, vấn đề lao động, việc làm khu vực nông thôn và việc
thực hiện Đề án 1956.
Công trình nghiên cứu Suy thoái kinh tế và những thách thức đối với giải quyết việc làm
thanh niên hiện nay của Đặng Nguyên Anh (2014) đã xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận
về việc làm thanh niên (chương 1), và phân tích sâu tình hình kinh tế - xã hội trong bối cảnh suy
thoái kinh tế toàn cầu (chương 2), từ đó đưa ra những thách thức việc làm và giải quyết việc làm
cho thanh niên ở nước ta [15]. Theo đó, trong khoảng 10 năm qua, quy mô và tỷ lệ thanh niên tham
gia hoạt động kinh tế đều tăng lên đáng kể theo thời gian, và lực lượng thanh niên đã có mặt ở hầu
khắp các ngành nghề trong lĩnh vực kinh tế quốc dân (từ nông lâm, ngư nghiệp đến công nghiệp và
xây dựng, từ thương mại đến dịch vụ, kể cả ở những lĩnh vực công nghệ cao). Tuy nhiên, tình trạng
thất nghiệp, thiếu việc làm hay việc làm không ổn định và kéo theo đó là tiền lương, thu nhập
không đủ sống của thanh niên (kể cả chưa từng đi học và đã tốt nghiệp dạy nghề, cao đẳng, đại học)

là một thách thức lớn. Một trong những vấn đề đặt ra là chương trình dạy nghề dàn trải, đại trà ở tất
cả các địa phương, không chú ý đến sự khác biệt vùng miền, và chưa cung cấp kiến thức, kỹ năng
cần thiết cho người học, không gẵn với thế mạnh và thị trường của từng địa phương, không đáp ứng
được nhu cầu người học và yêu cầu của nơi tiếp nhận lao động, ở cả trong nước lẫn nước ngoài
[15].
Nguyễn Đức Vinh (2007) trong đề tài nghiên cứu Tác động của biến động dân số đến quá
trình biến đổi nguồn lao động và cơ cấu việc làm ở nông thôn đã chỉ ra mối liên hệ giữa cơ cấu việc
làm của dân số 15-59 tuổi ở nông thôn năm 2003 và 2006 với trình độ chuyên môn của họ. Đề tài
sử dụng số liệu từ hai cuộc điều tra Biến động dân số và nguồn lao động do Tổng cục Thống kê
thực hiện vào năm 2003 và 2006, kích thước mẫu của hai cuộc điều tra trên khá lớn khoảng 2% dân
số (1,6 triệu người) trên 3500 địa bàn. Theo đó, cơ cấu việc làm có mối liên hệ mật thiết đến trình
độ chuyên môn, năm 2003 “tỷ lệ làm nông nghiệp cao ở những nhóm có trình độ chuyên môn thấp
và ngược lại. Tỷ lệ làm việc trong khu vực phi nông nghiệp thấp nhất ở nhóm không có tay nghề
chuyên môn (16,8%), nhưng lại cao nhất ở nhóm “công nhân kỹ thuật không có bằng” (85,4%) và
sau đó mới đến nhóm “trung cấp, đại học trở lên” (75,8%) và “công nhân kỹ thuật không có bằng”
(65,1%)”. Đến năm 2006, những nhóm có trình độ học vấn cao thì tỷ lệ làm phi nông nghiệp cao và
tỷ lệ làm nông nghiệp thấp. Nhóm trên trung học phổ thông không làm việc chiếm tỷ lệ 12,6% cao
hơn các nhóm có học vấn thấp hơn. Tổng quan vấn đề trên để thấy mặc dù có thể có trình độ cao,
được đào tạo tay nghề nhưng có một thực tế là những người đó thường không muốn làm ở khu vực
nông nghiệp ngay cả khi đang không có việc làm [33].

9


1.2.2. Nghiên cứu về nhu cầu việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm
Trong nghiên cứu “Bàn về nhu cầu thành đạt nghề nghiệp” của Lã Thu Thủy (2005), nhu
cầu của con người luôn gắn với hoạt động. Nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu là sức mạnh nội tại, là
động lực thúc đẩy con người hoạt động, điều chỉnh hành vi, tạo nên tính tích cực bên trong của mỗi
cá nhân nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Trong hoạt động nghề nghiệp, nhu cầu thành đạt là một
trong những yếu tố quan trọng để đánh giá mức độ vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Những người có

nhu cầu thành đạt cao có xu hướng hoàn thành tốt các công việc được giao. Ngược lại, những người
có nhu cầu thành đạt thấp lại có xu hướng làm việc cầm chừng, sự nỗ lực vươn lên trong hoạt động
nghề nghiệp có nhiều hạn chế [29].
Nhu cầu phát triển nghề nghiệp được thể hiện cụ thể ở các chiều cạnh: 1- Mong muốn phát
triển trình độ chuyên môn nghiệp vụ; 2- Mong muốn có được vị thế xã hội trong tổ chức, đặc biệt vị
thế xã hội mà cá nhân khẳng định được quyền lực; 3- Mong muốn tạo dựng mối quan hệ thân thiết
với đồng nghiệp, từ đó có được sự tôn trọng của người khác; 4- Mong muốn đảm bảo và nâng cao
đời sống kinh tế của cá nhân; 5- Mong muốn giảm bớt và tránh thất bại trong hoạt động nghề
nghiệp. Nhu cầu này nảy sinh, thỏa mãn và phát triển trong chính hoạt động nghề nghiệp của chủ
thể. Hoạt động nghề nghiệp là phương thức thỏa mãn nhu cầu thành đạt nghề nghiệp. Bà quá trình
tìm kiếm phương thức thỏa mãn nhu cầu thành đạt nghề nghiệp chính là nguồn gốc của tính tích cực
trong việc hoàn thành mục tiêu của mỗi cá nhân [29].
Bên cạnh đó, công trình “Nghiên cứu điều chỉnh cơ cấu ngành nghề đào tạo theo nhu cầu
việc làm tại huyện Phong Điền, Thành phố Cần Thơ” của Nguyễn Thị Kim Chung (2014) đã chỉ ra
một số hạn chế về thực trạng lao động - việc làm và công tác đào tạo nghề ở địa phương: 1- Tình
trạng thiếu việc làm đang rất gay gắt; 2- Trình độ dân trí chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của
địa phương; 3- Cơ cấu ngành nghề chưa phù hợp nhu cầu phát triển của địa phương [42]. Theo đó,
thời gian nông nhàn chưa được tận dụng (khoảng 35% thời gian lao động nông nghiệp), nhiều thanh
niên hàng năm đến tuổi lao động không có việc làm; một số xã đất đai được chuyển đổi mục đích sử
dụng, người lao động được hưởng tiền đền bù, song việc họ không còn đất và không có tay nghề đã
trở thành một trở ngại lớn trong mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng. Giảm lao động sản xuất
nông nghiệp, tăng lao động phục vụ trong ngành công nghiệp, dịch vụ là một vấn đề nan giải. Giải
pháp dài hạn được thực hiện là đào tạo nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn tại huyện Phong
Điền dựa trên cơ sở Đề án 1956 nhằm chuyển dịch kỹ năng từ nông dân sản xuất truyền thống sang
nông dân sản xuất hiện đại. Chuyển dịch nghề nghiệp từ lao động nông nghiệp (nông dân) sang lao
động phi nông nghiệp, dịch vụ ở nông thôn; chuyển dịch nghề nghiệp và nơi làm việc từ lao động
nông nghiệp hoặc lao động phi nông nghiệp ở nông thôn trở thành lao động công nghiệp tại các khu
công nghiệp, doanh nghiệp, khu du lịch sinh thái… [42].
Qua nghiên cứu, tác giả cũng đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo
nghề cho lao động nông thôn tại huyện Phong Điền. Và một trong những giải pháp quan trọng được

đưa ra là nâng cao chất lượng đào tạo nghề nhằm chuyển dịch thành công cơ cấu kinh tế, giải quyết
việc làm sau đào tạo. Theo đó, việc khảo sát nhu cầu sử dụng nhân lực của lao động qua đào tạo
trong các ngành kinh tế, vùng kinh tế của địa phương và khảo sát nhu cầu học nghề của đối tượng
và phân nhóm để tổ chức các khóa đào tạo là rất quan trọng. Và xác định rõ vấn đề cốt lõi đối với
đào tạo nghề cho lao động nông thôn là phải gắn với giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là
nhóm lao động cần phải chuyển sang làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ
du lịch đáp ứng nhu cầu phát triển của địa phương trong thời gian tới [42].

10


1.2.3. Nghiên cứu về các yếu tố tác động đến việc làm
Trong công trình nghiên cứu về “Sự lựa chọn nghề nghiệp quân sự của học viên sĩ quan
quân đội hiện nay”, tác giả Thân Trung Dũng đã vận dụng quan điểm lý thuyết hệ thống về hướng
nghiệp khi cho rằng, mỗi người là một cá thể sống trong một hệ thống phức tạp, đa dạng và chịu
ảnh hưởng từ nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Sự phát triển nghề nghiệp của mỗi người là một
quá trình và là kết quả của sự tương tác giữa các yếu tố cá nhân như tuổi, giới tính, các tính, sức
khỏe… với các yếu tố bên ngoài như gia đình, cộng đồng, quốc gia, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, hệ
thống giáo dục…. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra sự khác biệt trong mối tương quan giữa những lý do
lựa chọn nghề nghiệp quan sự với đặc điểm nhân khẩu học của học viên và sự lựa chọn nghề nghiệp
của học viên cũng chịu ảnh hưởng bới các yếu tố kinh tê - xã hội như ngành học, nơi cư trú và mức
sống gia đình, nghề nghiệp chính của cha.
Đáng chú ý là công trình nghiên cứu “Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tìm việc
làm của người lao động nông thôn trên địa bàn Thành phố Cần Thơ” của các tác giả Phạm Đức Thuần
và Dương Ngọc Thành với mục tiêu (i) làm rõ thực trạng việc làm của lao động nông thôn, (ii) đánh
giá các yếu tố ảnh hưởng đến tìm việc làm của lao động nông thôn và (iii) đề xuất một số giải pháp
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn Thành phố Cần Thơ. Nhóm nghiên cứu đã sử
dụng phương pháp thống kê mô tả (làm rõ hiện trạng việc làm và thu nhập của lao động nông thôn,
khả năng/điều kiện hỗ trợ tìm việc làm và hiện trạng cầu lao động nông thôn); sử dụng Mô hình
Binary Logistic (xác định các yếu tố tác động đến khả năng tìm việc làm); sử dụng Mô hình hồi quy

tuyến tính đa biến (để đánh giá và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lượng thu nhập của lao động
nông thôn) và Phân tích nhân tố (xác định các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tìm việc làm
của lao động nông thôn) để xử lý và phân tích các thông tin thu thập được từ các cuộc thảo luận
nhóm, phỏng vấn người am hiểu và phỏng vấn trực tiếp người lao động nông thôn với tổng số mẫu là
480 hộ. Kết quả nghiên cứu đã xác định được 03 nhóm biến số ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tìm
việc làm của người lao động ở nông thôn (môi trường làm việc phù hợp; khả năng đáp ứng công việc
và năng lực của người lao động). Trong đó, khả năng đáp ứng của người lao động là yếu tố quyết định
lớn đến khả năng tìm việc làm của người lao động [54].
Bên cạnh đó, trong công trình nghiên cứu về “Các yếu tố tác động đến khả năng tham gia việc
làm phi nông nghiệp của lao động nông thôn trên địa bàn thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định”, tác giả
Nguyễn Đình Phúc đã sử dụng mô hình hồi quy xác suất Probit xác định được 9 yếu tố giải thích cho
sự tham gia việc làm phi nông nghiệp của người lao động nông thôn (tuổi, giới tính, trình độ giáo dục,
học nghề, quy mô hộ gia đình, thu nhập nông nghiệp, nông nhàn, tổ hợp sản xuất và dự án tạo việc
làm) và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này đến việc làm phi nông nghiệp đối với lao động nông
thôn là khác nhau. Trong đó, nông nhàn, tổ hợp sản xuất và học nghề là 3 yếu tố tác động lớn nhất đến
khả năng tham gia việc làm phi nông nghiệp của lao động trong vùng [34].
Nghiên cứu của các tác giả Trần Thị Minh Phương và Nguyễn Thị Minh Hiền (2014) về
“Các yếu tố ảnh hưởng khả năng có việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn thành phố Hà Nội” đã sử
dụng ước lượng mô hình hồi quy xác suất Probit với số liệu điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS)
lặp lại giưa hai năm 2010 và 2012. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: tuổi, giới tính, số năm đi học,
chương trình tạo việc làm, tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ và dự án phát triển là những nhân tố có
ảnh hưởng đến việc làm phi nông nghiệp của lao động nông thôn ở địa phương này. Trong đó, nếu
các yếu tố khác không đổi thì 1 năm đi học gia tăng khả năng có việc làm phi nông nghiệp thêm
0,3% [74].
Ngoài ra, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu thực nghiệm đã đề xuất và kiểm định
các mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động/ảnh hưởng đến việc làm phi nông nghiệp ở khu vực

11



nông thôn như: Trong báo cáo nghiên cứu của dự án IAE-MISPA (Lê Xuân Bá và cs, 2006), các
yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang lao động phi nông
nghiệp ở nông thôn Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố: tuổi, giáo dục, giới tính, đất sản xuất,
thành viên, tài sản, dự án tạo việc làm, số nhà máy, giao thông, nông nhàn, thu nhập nông nghiệp,
vùng sinh thái... Công trình nghiên cứu của các tác giả Đoàn Thị Cẩm Vân, Lê Long Hậu và Vương
Quốc Duy (2010) đã cho rằng các nhân tố có ảnh hưởng đáng kể đến việc làm từ các hoạt động kinh
tế phi nông nghiệp ở Trà Vinh bao gồm: tuổi, số thành viên, trình độ giáo dục, thu nhập nông
nghiệp, giá trị tài sản, diện tích đất sản xuất và chương trình tạo việc làm… Và nhóm tác giả Trần
Thanh Phúc và Huỳnh Thanh Phương (2011) cho rằng: đặc điểm của chủ hộ (tuổi, giới tính, trình
độ giáo dục, học nghề); đặc điểm gia đình (quy mô, tuổi trung bình, số năm đi học, số người có việc
làm, tài sản) và đặc điểm cộng đồng (thông tin việc làm, giao thông, tín dụng) là các nhân tố có tác
động đến việc làm và thu nhập phi nông nghiệp của lao động nông thôn ở tỉnh Long An [34].
1.2.4. Nghiên cứu về khu vực Tây Nam Bộ
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2013, lực lượng lao động của vùng khoảng 10,3
triệu người, đứng thứ hai trong cả nước. Hơn 65% số hộ gia đình vùng Tây Nam Bộ sản xuất nông
lâm nghiệp, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản, và gần 90% trong số hộ này tham gia sản xuất lúa và
cây ăn trái [77]. Tây Nam Bộ có hơn 1,4 triệu người dân tộc, chiếm hơn 8% dân số toàn vùng, mà
chủ yếu là người Khmer, Chăm và Hoa. Đặc điểm các dân tộc này cho thấy, người Hoa quen vớí
hoạt động buôn bán, thương mại nhỏ, người Chăm thì có thói quen làm thuê, còn người Khmer thì
gắn bó với ruộng đất từ lâu nay. Người dân ít chú trọng việc đầu tư cho học hành, nhất là với phụ
nữ. Trong hơn 15 năm qua, phong trào phụ nữ đi lấy chồng nước ngoài (Đài Loan, Hàn Quốc,
Singapore…) phát triển mạnh và lan rộng đến toàn thể 13 tỉnh thành vùng Tây Nam Bộ. Tâm lý
chung của một bộ phận dân cư nông thôn gốc Nam bộ là không lo xa và không chủ trương thoát
nghèo bằng con đường học vấn. Khuôn mẫu và lối sống này đã ảnh hưởng không nhỏ đến định
hướng giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của khu vực Tây Nam Bộ.
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của toàn vùng Tây Nam Bộ là 10,5%, tỷ lệ lao động có trình độ
từ đại học trở lên chiếm 4,4%, cao đẳng chiếm 1,1%, trung cấp 2,3% và dạy nghề 2,4%. Bên cạnh đó,
vùng Tây Nam Bộ hiện có 24,5% thanh niên không làm việc và chưa bao giờ đến trường. Bình quân
tiền lương lao động ở khu vực này cũng thuộc loại thấp nhất nước với hơn 3,3 triệu đồng mỗi người
trong tháng. Cũng vì thu nhập thấp nên các gia đình không có khả năng trả các khoản phí ngày càng

cao cho con em theo học tại các trường cao đẳng, đại học, nhất là các trường tư mới được thành lập
[77].
Các cuộc Tổng Điều tra Dân số năm 1999 và 2009 cũng cho thấy tỷ lệ lao động qua đào tạo
của các tỉnh miền Tây là thấp nhất. Tây Nam Bộ được biết đến là vựa lúa lớn nhất, thủy hải sản
phong phú, trái cây phong phú nhất, nhưng đồng thời cũng là nơi cơ sở hạ tầng cũng yếu kém nhất,
điều kiện nhà ở nghèo nàn, tỷ lệ học sinh bỏ học cao. Toàn vùng có 62 cơ sở đào tạo trung cấp
chuyên nghiệp, 13 trường đại học, 26 trường cao đẳng nhưng đa số mới thành lập, chất lượng còn
hạn chế, trang thiết bị dạy học thiếu, lạc hậu, chưa tạo được uy tín trong đào tạo nên chưa thu hút
người học [80]. Để nắm rõ tình hình và triển khai thực hiện các chiến lược phát triển trong vùng cần
có những nghiên cứu cụ thể đi sâu tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của người dân, nhu cầu việc làm
của thanh niên nông thôn (lực lượng đông đảo và có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển
của vùng).
Trình độ của lao động vùng Tây Nam Bộ còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước và
còn xa so với tiềm năng và yêu cầu phát triển bền vững của khu vực này. Giải quyết bài toán về
chất lượng nguồn nhân lực cho Tây Nam Bộ chính là giải quyết mâu thuẫn giữa nguồn cung lao

12


động dồi dào nhưng lại thiếu chuyên môn kỹ thuật, tay nghề và hạn chế trong quản trị nhân lực.
Mặc dù đã có nhiều chính sách của nhà nước về hỗ trợ, khuyến khích phát triển giáo dục, đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn Tây Nam Bộ, song vẫn chưa có chính sách đặc thù toàn diện
và đủ mạnh để thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, phục vụ yêu cầu phát triển của
khu vực [3].
Nhìn chung, có khá nhiều tư liệu nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề lao động - việc
làm của thanh niên, vấn đề nhân lực và phát triển nguồn nhân lực với những cách tiếp cận, phương
pháp để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu khác nhau. Các công trình đã phân tích thực trạng nguồn
nhân lực và đặc biệt là lực lượng lao động thanh niên ở các góc độ khác nhau như số lượng, cơ cấu
và khả năng đáp ứng yêu cầu của vị trí công việc. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chưa đánh giá
trực tiếp đến vấn đề nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn và nhận diện rõ các yếu

tố ảnh hưởng. Vì vậy, qua công trình luận án này, nghiên cứu sinh mong muốn hệ thống hóa cơ sở
lý luận về vấn đề việc làm của thanh niên nông thôn; tìm hiểu thực trạng việc làm và nhu cầu
chuyển đổi việc làm của thanh niên khu vực Tây Nam Bộ, xác định các yếu tố tác động để có thể
đưa ra những kết luận và khuyến nghị giải pháp góp phần ổn định và phát triển bền vững khu vực
Tây Nam Bộ.
Trong luận án này, tác giả tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi
việc làm cũng như các yếu tố tác động đến nhu cầu này của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam
Bộ. Nghiên cứu sử dụng số liệu được chiết xuất từ bộ số liệu thứ cấp của Đề tài KHCN/14-19/X05
(thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ),
đồng thời kết hợp thực hiện phỏng vấn sâu cá nhân 25 trường hợp để làm rõ bức tranh về thực trạng
việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ. Qua đó,
nghiên cứu sinh hy vọng có thể có những đóng góp mới vào kho kiến thức chung về lao động, việc
làm thanh niên và những luận cứ khoa học cho việc hoạch định các chiến lược phát triển nguồn
nhân lực, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội khu vực Tây Nam Bộ trên cơ sở nhu cầu chuyển đổi
việc làm của lực lượng lao động thanh niên trong vùng.

13


Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Các khái niệm cơ bản sử dụng trong luận án
Đề tài luận án đã tập trung làm rõ một số khái niệm có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đó là các
khái niệm “Việc làm”, “Thất nghiệp”, “Thiếu việc làm”, “Nông thôn”, “Thanh niên”, “Thanh
niên nông thôn”, “Nhu cầu việc làm” và “nhu cầu chuyển đổi việc làm”.
2.2. Lý thuyết nghiên cứu
Trong đề tài luận án này, nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành giữa cách nhìn
xã hội học, tâm lý học và kinh tế học để nhận diện và giải thích một số vấn đề về thực trạng việc
làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ. Các lý thuyết
nghiên cứu được vận dụng bao gồm: lý thuyết lựa chọn hợp lý (của James Coleman), lý thuyết nhu
cầu và lý thuyết cung cầu.

2.3. Khung phân tích
Điều kiện kinh tế - xã hội

Đặc điểm cá nhân thanh niên
nông thôn khu vực Tây Nam Bộ:
Tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo,
tình trạng hôn nhân và trình độ
học vấn

Thực trạng việc làm và
nhu cầu chuyển đổi
việc làm của thanh niên
nông thôn khu vực Tây
Nam Bộ
- Hiện trạng việc làm;

Đặc điểm gia đình thanh niên
nông thôn khu vực Tây Nam Bộ:
Quy mô hộ, số lao động trong hộ,
mức sống hộ gia đình.

- Tần suất làm việc;
- Nhu cầu chuyển đổi
việc làm;
- Việc làm mới cần tìm
(nếu có chuyển đổi);

Yếu tố cộng đồng nông thôn khu
vực Tây Nam Bộ:


- Nhu cầu tham gia đào
tạo nâng cao tay nghề,
chuyên môn kỹ thuật.

Thông tin việc làm, thị trường lao
động, chính sách hỗ trợ giải quyết
việc làm; Địa bàn nơi cư trú

Bối cảnh CNH-HĐH

14


Chương 3
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA THANH NIÊN NÔNG THÔN
KHU VỰC TÂY NAM BỘ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG

3.1. Thực trạng việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ
- Trong quá trình tìm hiểu thực trạng việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ
từ bộ số liệu của Đề tài KHCN/14-19/X05, NCS đã tập trung phân tích việc làm chính của 726 người
trả lời (việc làm chính được phân tách thành 8 nhóm, bao gồm: 1-nông nghiệp; 2-công nhân; 3-buôn
bán; 4-công/viên chức; 5-làm thuê; 6-nội trợ; 7-phi nông nghiệp khác và 8-thất nghiệp, không làm
việc) trong các mối tương quan với các đặc điểm nhân khẩu xã hội nhằm nhận diện sự khác biệt về
việc làm chính trong các nhóm thanh niên. Bên cạnh đó, các khía cạnh về vị thế làm việc và khu vực
làm việc của các nhóm thanh niên cũng sẽ được xem xét.
Khi xem xét việc làm chính của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ chia theo nhóm
tuổi, dễ dàng nhận thấy sự khác biệt ở các nhóm việc làm chính là nông nghiệp, công nhân và
công/viên chức: Trong khi nông nghiệp và công/viên chức có tỷ lệ tập trung chủ yếu ở nhóm 31-35
tuổi (với tỷ lệ tương ứng lần lượt là 21,3% so với 13% ở nhóm 26-30 tuổi và 12,1% ở nhóm 16-25
tuổi; và 7,1% so với 5,7% ở nhóm 26-30 tuổi và 2,9% ở nhóm 16-25 tuổi) thì công nhân lại có tỷ lệ

tập trung chủ yếu ở nhóm 26-30 tuổi và 16-25 tuổi (với tỷ lệ lần lượt là 33,3% và 33,7% so với 19,6%
ở nhóm 31-35 tuổi). Điều này có thể được lý giải bởi nhu cầu thoát ly nông nghiệp mạnh mẽ của
thanh niên nông thôn, đặc biệt là ở các nhóm thanh niên trẻ hơn (16-25 tuổi và 25-30 tuổi) và việc làm
công nhân là sự lựa chọn nhiều nhất của họ. Nhóm thanh niên gắn bó với nông nghiệp cho thấy tâm lý
muốn ổn định việc làm và phát triển sinh kế từ ruộng đất để đảm bảo cho cuộc sống của họ và gia
đình (phần lớn nhóm này từ 31-35 tuổi). Đối với việc làm là công/viên chức có tỷ lệ tập trung ít ở
nhóm 16-25 tuổi cũng là điều dễ hiểu bởi ở lứa tuổi này họ cần tập trung nhiều hơn vào việc học tập,
rèn luyện để nâng cao trình độ, kỹ năng đáp ứng yêu cầu công việc và những tâm lý thích khám phá,
trải nghiệm cuộc sống đã trở thành những rào cản đối với họ trong quá trình lựa chọn việc làm này.
Bên cạnh đó, thất nghiệp, không làm việc có tỷ lệ tập trung chủ yêu ở nhóm 16-25 tuổi (5,4% so với
1,6% ở nhóm 26-30 tuổi và 0,8% ở nhóm 31-35 tuổi) đã cho thấy kinh nghiệm, khả năng tiếp cận việc
làm thấp của nhóm thanh niên này và rất cần được quan tâm hỗ trợ, trong chiến lược lao động, việc
làm trong giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh đó, khi xem xét vị thế việc làm chính của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam
bộ (N=602) thì thấy tỷ lệ tập trung chủ yếu ở Làm công ăn lương (55,1%) và Tự làm tự doanh
(30,4%), trong khi tỷ lệ Xã viên hợp tác xã là rất ít (0,2%). Và khi chia vị thế làm việc theo nhóm
tuổi thì: phần lớn tỷ lệ Làm công ăn lương tập trung ở 26-30 tuổi (59,3%; N=214) và 16-25 tuổi
(58,9%; N=190); trong khi đó, tỷ lệ Tự làm tự doanh tập trung chủ yếu ở 31-35 tuổi (40,4%;
N=198). Và chỉ có 0,5% (N=198) thanh niên 31-35 tuổi là Xã viên hợp tác xã. Điều này có thể được
lý giải bởi thực tế các lao động thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ khi bắt đầu tham gia thị
trường lao động, phần lớn trong số họ (ở độ tuổi 16-25 và 26-30) đã Làm công ăn lương ở các
nhóm Công nhân và Phi nông nghiệp khác trong các khu vực Tư nhân và Vốn nước ngoài. Và khi ở
độ tuổi lớn hơn (31-35), cần có cả thời gian làm việc kiếm thu nhập và thời gian chăm sóc gia đình,
phần lớn thanh niên đã tìm đến các công việc Tự làm tự doanh ở các nhóm Nông nghiệp, Buôn bán
và Công/viên chức.
Mặt khác, khi xem xét về khu vực làm việc của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ
(N=602): Nhìn chung, phần lớn trong số họ làm việc ở các khu vực tư nhân (37%), Cá nhân tự làm

15



một mình (32,1%) và có tỷ lệ rất ít người làm trong khu vực tập thể (2,8%). Và khi phân chia khu
vực làm việc theo nhóm tuổi ta thấy trong khi phần lớn tỷ lệ tập trung ở khu vực Tư nhân và Vốn
nước ngoài là thanh niên 16-24 tuổi (43,3% và 10,6%; N=141) và 25-30 tuổi (37,6% và 10,7%;
N=234) thì phần lớn tỷ lệ tập trung ở khu vực Tự làm một mình và Hộ sản xuất kinh doanh cá thể là
thanh niên 31-35 tuổi (42,4% và 16,2%; N=191). Những kết quả nghiên cứu này là phù hợp với
những phân tích trên đây khi phần lớn những thanh niên trẻ tuổi tập trung chủ yếu ở việc làm Công
nhân và Phi nông nghiệp khác trong khi nhóm thanh niên lớn tuổi hơn thì tập trung chủ yếu ở các
việc làm Nông nghiệp, Buôn bán và Công/viên chức.
Kết quả nghiên cứu định tính cũng đã cho thấy những nhu cầu việc làm của thanh niên nông
thôn Tây Nam Bộ đã phần nào được thỏa mãn (có thể đó mới chỉ là những nhu cầu trước mắt, nhu
cầu tạm thời khi họ “chấp nhận” điểm gặp nhau trên thị trường lao động. Bởi vì, vẫn còn có những
nhu cầu, nguyện vọng về việc làm của những lao động thanh niên chưa được đáp ứng).
Nhìn chung, tần suất làm việc trong 12 tháng trước thời điểm khảo sát của các thanh niên
nông thôn khu vực Tây Nam bộ trong mẫu nghiên cứu ở mức khá cao với tỷ lệ 81,9% có việc làm
thường xuyên và 18,1% có việc làm không thường xuyên (N=603).
Ngoài ra, vẫn còn nhiều những khó khăn, trở ngại về việc làm ở địa phương. Trong 702 người
trả lời câu hỏi thì có 172 người không gặp khó khăn (chiếm 24,5%) và còn lại các ý kiến cho rằng
những khó khăn, trở ngại chính tập trung ở 5 nhóm: trình độ học vấn thấp (20,8%), không có kỹ năng,
tay nghề (13,82%); thiếu việc làm (16,81%); việc làm không ổn định (14,1%); thu nhập thấp, bấp
bênh (9,97%).
Bên cạnh đó, khi được hỏi về cách khắc phục của người dân trước những khó khăn về việc
làm ở địa phương thì có 531 thanh niên đã đưa ra câu trả lời và qua lăng kính của họ thì người dân địa
phương thường chọn 1 trong 4 phương án để khắc phục những khó khăn đó là: tiếp tục học lên hoặc
học nghề; vẫn ở lại làm việc tại địa phương; di cư nông thôn - nông thôn; và di cư nông thôn - đô thị.
3.2. Các yếu tố tác động đến thực trạng việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ
Để nhận diện các yếu tố tác động đến thực trạng việc làm của thanh niên nông thôn khu vực
Tây Nam Bộ, NCS đã thực hiện phân tích ba mô hình sử dụng các biến số phụ thuộc là “việc làm
chính”, “mức độ thích việc làm chính” và “tần suất làm việc”; các biến số độc lập là những đặc
điểm cá nhân, gia đình và cộng đồng của thanh niên nông thôn trong mẫu nghiên cứu.

- Trong mô hình thứ nhất, với kết quả khảo sát “như là một lát cắt ngang” về hiện trạng việc
làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ, NCS muốn tìm hiểu sự lựa chọn việc làm
chính của họ và các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn đó thông qua việc làm chính của người trả
lời tại thời điểm tham chiếu. Bởi vì, có thể hiểu rằng đó là sự lựa chọn của họ trong điều kiện cụ thể
về nguồn lực sẵn có (điều này là phù hợp với cả những thanh niên đã lựa chọn việc làm chính hiện
tại nhiều năm và đến thời điểm tham chiếu vẫn lựa chọn tiếp tục công việc đó chứ không chuyển
sang việc khác). Câu hỏi đặt ra là “Thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ đã lựa chọn việc
làm chính của họ như thế nào?” và “Những yếu tố nào tác động đến sự lựa chọn đó?”
Trong phần này, nghiên cứu sinh tập trung nhận diện sự lựa chọn việc làm chính của thanh
niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ (thông qua việc làm của họ tại thời điểm tham chiếu) và
những tác động bởi các đặc trưng của họ. Nghiên cứu sinh sử dụng phần mềm SPSS để phân tích
hồi quy đa thức (Multinomial Logistic Regression) với biến số phụ thuộc là việc làm chính của
người trả lời và các biến số độc lập (biến liên tục là tuổi và các biến khác bao gồm: giới tính, dân
tộc, tôn giáo, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, mức sống hộ gia đình, số người trong hộ gia
đình, số lao động trong hộ giâ đình, mức độ thích việc làm chính và địa bàn cư trú - được đo bằng

16


biến “xã”) nhằm xác định các yếu tố tác động đến sự lựa chọn việc làm chính của họ đồng thời so
sánh sự lựa chọn việc làm chính là nông nghiệp của họ đối với các nhóm việc làm chính khác. Dựa
vào thông tin từ 591 người trả lời, nhóm nghiên cứu xây dựng mô hình hồi quy để xác định các yếu
tố tác động đến sự lựa chọn việc làm của họ.
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy sự lựa chọn việc làm chính của thanh niên nông thôn khu
vực Tây Nam Bộ chịu tác động đáng kể bởi các yếu tố (có ý nghĩa thống kê): tuổi, học vấn, giới
tính, dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, mức sống hộ gia đình, mức độ thích việc làm chính và
địa bàn cư trú. Và những kết quả này đã khẳng định phần lớn những nhận định về sự khác biệt trong
phân tích tương quan hai biến trước đó.
- Trong mô hình thứ hai có biến phụ thuộc là “mức độ thích việc làm chính” để tìm hiểu về
sự thỏa mãn về nhu cầu việc làm của thanh niên nông thôn Tây Nam Bộ đối với công việc mà họ

đang làm tại thời điểm tham chiếu và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ thích việc làm
chính đó.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt (có ý nghĩa thống kê thông qua các kiểm định
T-test và kiểm định Oneway-ANOVA) và các yếu tố tác động đến mức độ thích việc làm chính của
thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ.
- Bên cạnh đó, mô hình thứ ba có biến số phụ thuộc là “tần suất làm việc” (bao gồm hai
nhóm “việc làm thường xuyên” và nhóm “việc làm không thường xuyên” của người trả lời trong 12
tháng trước thời điểm khảo sát) và các biến độc lập là những đặc điểm cá nhân, gia đình và cộng
đồng của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ sẽ giúp cho việc nhận diện các yếu tố tác động
đến mức độ làm việc thường xuyên hay không thường xuyên của họ.
Để xác định các yếu tố tác động đến tần suất làm việc của thanh niên nông thôn Tây Nam
Bộ trong 12 tháng trước thời điểm khảo sát với hai nhóm là “việc làm thường xuyên” và “việc làm
không thường xuyên”, nghiên cứu sinh đã sử dụng mô hình hồi quy Binary Logistic để phân tích
thông tin trả lời của 586 thanh niên trong mẫu nghiên cứu.
Kết quả chạy Mô hình hồi quy Binary Logistic bằng phần mềm SPSS đối với biến phụ thuộc
nhị phân là “Tần suất làm việc” của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ trong 12 tháng
trước khảo sát (“việc làm thường xuyên = 1” và “việc làm không thường xuyên = 0”) và các biến số
độc lập là tuổi, giới tính, học vấn, dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, số người trong hộ, số lao
động trong hộ, mức sống hộ gia đình, việc làm chính, mức độ thích việc làm chính và theo dõi
thông tin việc làm.
Khi kiểm tra độ phù hợp của mô hình hồi quy Binary Logistic, ta thấy giá trị “-2 Log
likelihood” là 457,388 thể hiện mức độ phù hợp khá tốt.
Mức độ chính xác cũng đã được đo lường: trong 479 trường hợp có việc làm thường xuyên
trong 12 tháng trước thời điểm tham chiếu, mô hình đã đoán đúng 464 trường hợp, với tỷ lệ đoán
đúng là 96,9%; trong 107 trường hợp không có việc làm thường xuyên trong 12 tháng trước thời
điểm tham chiếu, mô hình đã đoán đúng 21 trường hợp, với tỷ lệ đoán đúng là 19,6%; và tỷ lệ dự
đoán đúng của toàn bộ mô hình là 82,8%.
Kết quả phân tích mô hình hồi quy cũng đã chỉ ra 7 yếu tố tác động trực tiếp (có ý nghĩa
thống kê) đến tình trạng “có việc làm thường xuyên” hay “không có việc làm thường xuyên” của
thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ trong 12 tháng trước khảo sát là: giới tính, dân tộc, tôn

giáo, mức sống hộ gia đình, việc làm chính, mức độ thích việc làm chính và theo dõi thông tin việc
làm.

17


Tiểu kết chương 3
Cũng giống như tên gọi, chương này đã tập trung phân tích thực trạng việc làm của thanh niên
nông thôn khu vực Tây Nam bộ và các yếu tố tác động.
Kết quả nghiên cứu về thực trạng việc làm cho thấy những sự khác biệt về việc làm chính,
mức độ thích việc làm chính, vị thế việc làm, khu vực làm việc và tần suất làm việc giữa các nhóm
thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ.
Trong đó, sự lựa chọn việc làm chính của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ cũng có
những khác biệt đáng kể khi phân chia theo các nhóm xã hội. Trong đó, đáng chú ý là những sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê như: nông nghiệp có sự lựa chọn nhiều hơn đáng kể của các nhóm 31-35
tuổi, nam giới, hiện có vợ/chồng, có tôn giáo, THCS và hơn trung bình; công nhân có sự lựa chọn
nhiều hơn đáng kể của các nhóm Kinh, không tôn giáo, hiện có vợ/chồng, 16-25 tuổi và 26-30 tuổi;
buôn bán có sự lựa chọn nhiều hơn đáng kể của các nhóm nữ, hiện có vợ/chồng, THCS và dân tộc
khác; làm thuê có sự lựa chọn nhiều hơn đáng kể của các nhóm chưa từng đi học, có tôn giáo; phi
nông nghiệp khác có sự lựa chọn nhiều hơn đáng kể của các nhóm nữ, kém trung bình và hiện không
có vợ/chồng.
Kết quả phân tích hồi quy cũng đã cho thấy sự lựa chọn việc làm chính của thanh niên nông
thôn khu vực Tây Ban Bộ chịu tác động đáng kể của các yếu tố (có ý nghĩa thống kê): tuổi, giới tính,
dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, mức sống hộ gia đình và tôn giáo.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng đã cho thấy có sự khác biệt đáng kể (có ý nghĩa thống
kê) về mức độ thích việc làm chính của thanh niên nông thôn vùng Tây Nam bộ trong mẫu nghiên
cứu khi phân chia theo các nhóm học vấn, việc làm chính và mức sống hộ gia đình.

18



Chương 4
NHU CẦU CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM CỦA THANH NIÊN
NÔNG THÔN KHU VỰC TÂY NAM BỘ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG

4.1. Thực tiễn và các yếu tố tác động đến chuyển đổi việc làm
- Kết quả chuyển đổi việc làm của các thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ trong 12
tháng trước thời điểm khảo sát (N=682) với tỷ lệ 92,7% không chuyển và 7,3% có chuyển. Điều đó
cho thấy việc làm hiện đã phần nào đáp ứng được nhu cầu việc làm của thanh niên trong mẫu khảo
sát.Với những điều kiện cụ thể về nguồn lực (trình độ, khả năng tiếp cận và đáp ứng yêu cầu của thị
trường lao động) thanh niên này đã lựa chọn việc làm hiện tại của họ mà phần lớn trong số họ đã được
thỏa mãn những nhu cầu việc làm nhất định và không thực hiện chuyển đổi việc làm trong 12 tháng
trước thời điểm khảo sát.
- Để xác định các yếu tố tác động đến sự chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn Tây
Nam Bộ trong 12 tháng trước thời điểm khảo sát với hai nhóm là “có chuyển” và “không chuyển”,
nghiên cứu sinh đã sử dụng mô hình hồi quy Binary Logistic để phân tích thông tin trả lời của 543
thanh niên trong mẫu nghiên cứu.
Kết quả phân tích Mô hình hồi quy Binary Logistic bằng phần mềm SPSS đối với biến phụ
thuộc nhị phân là “Sự chuyển đổi việc làm” (trong 12 tháng trước khảo sát) của thanh niên nông
thôn khu vực Tây Nam Bộ (“có chuyển = 1” và “không chuyển = 0”) và các biến số độc lập là tuổi,
giới tính, học vấn, dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, số người trong hộ, số lao động trong hộ,
mức sống hộ gia đình, việc làm chính, mức độ thích việc làm và thông tin việc làm.
Khi kiểm tra độ phù hợp của mô hình hồi quy Binary Logistic, ta thấy giá trị “-2 Log
likelihood” là 267,769 thể hiện mức độ phù hợp khá tốt.
Mức độ chính xác cũng đã được đo lường: trong 501 trường hợp không chuyển đổi việc làm
trong 12 tháng trước khảo sát, mô hình đã đoán đúng 500 trường hợp, với tỷ lệ đoán đúng là 99,8%;
trong 42 trường hợp có chuyển đổi việc làm trong 12 tháng trước khảo sát, mô hình đã không đoán
đúng trường hợp nào, vậy tỷ lệ đoán đúng là 0%; và tỷ lệ dự đoán đúng của toàn bộ mô hình là
92,1%.
Kết quả phân tích mô hình hồi quy cũng đã chỉ ra 6 yếu tố tác động trực tiếp (có ý nghĩa

thống kê) đến “Sự chuyển đổi việc làm” của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ trong 12
tháng trước khảo sát là: tuổi, học vấn, tình trạng hôn nhân, số người trong hộ, dân tộc và việc làm
chính.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu định tính cũng đã chỉ ra vai trò và những tác động của trình
độ học vấn, ứng dụng khoa học kỹ thuật đến sự chuyển đổi việc làm ở khu vực nông thôn Tây Nam
Bộ.
Điều đó cho thấy, “có chuyển đổi việc làm” hay “không có chuyển đổi việc làm” của thanh
niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ đã chịu sự tác động (có ý nghĩa thống kê) của các đặc điểm
nhân khẩu học xã hội (tuổi, học vấn, dân tộc và việc làm chính) và đặc điểm gia đình (tình trạng
hôn nhân và số người trong hộ gia đình). Sự phát triển kinh tế - xã hội và những chính sách phát
triển nông nghiệp, nông thôn cũng đã đem lại những cơ hội phát thị trường lao động nông thôn khu
vực Tây Nam Bộ. Nhiều cơ hội việc làm cũng đã được tạo ra (cung của thị trường lao động) và một
bộ phận thanh niên có nhu cầu làm việc và nhu cầu chuyển đổi việc làm đã tận dụng tốt được những

19


cơ hội đó để lựa chọn việc làm hoặc chuyển đổi phù hợp với họ (đó chính là điểm gặp nhau giữa
cung và cầu về việc làm trên thị trường lao động ở khu vực nông thôn Tây Nam Bộ).
Ngoài ra, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và các chính sách của địa phương cũng đã
có những tác động đến sự chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ.
Việc hình thành các khu công nghiệp đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới; quá trình ứng dụng,
chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp cũng đã tạo nhiều cơ hội
việc làm và chuyển đổi việc làm cho thanh niên nông thôn.
4.2. Nhu cầu chuyển đổi việc làm và các yếu tố tác động
4.2.1. Nhu cầu chuyển đổi việc làm
- Kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu chuyển việc làm của các thanh niên nông thôn
khu vực Tây Nam bộ tại thời điểm khảo sát (N=719) chia theo nhóm tuổi với tỷ lệ 71,9%
không có chuyển nhu cầu chuyển đổi và 28,1% có nhu cầu chuyển đổi.
- Để xác định các yếu tố tác động đến nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn

Tây Nam Bộ tại thời điểm khảo sát với hai nhóm là “có nhu cầu chuyển đổi” và “không có nhu cầu
chuyển đổi”, nghiên cứu sinh đã sử dụng mô hình hồi quy Binary Logistic để phân tích thông tin trả
lời của 538 thanh niên trong mẫu nghiên cứu.
Kết quả phân tích Mô hình hồi quy Binary Logistic bằng phần mềm SPSS đối với biến phụ
thuộc nhị phân là “Nhu cầu chuyển đổi việc làm” của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ
(“có nhu cầu chuyển đổi = 1” và “không có nhu cầu chuyển đổi = 0”) và các biến số độc lập là tuổi,
giới tính, học vấn, dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, số người trong hộ, số lao động trong hộ,
mức sống hộ gia đình, việc làm chính, mức độ thích việc làm, thông tin việc làm, tần suất làm việc
và sự chuyển đổi việc làm 12 tháng trước khảo sát.
Khi kiểm tra độ phù hợp của mô hình hồi quy Binary Logistic, ta thấy giá trị “-2 Log
likelihood” là 485,142 thể hiện mức độ phù hợp khá tốt.
Mức độ chính xác cũng đã được đo lường: trong 409 trường hợp không có việc nhu cầu
tìm/thay đổi việc làm tại thời điểm tham chiếu, mô hình đã đoán đúng 382 trường hợp, với tỷ lệ
đoán đúng là 93,4%; trong 129 trường hợp có nhu cầu tìm/thay đổi việc làm tại thời điểm tham
chiếu, mô hình đã đoán đúng 36 trường hợp, với tỷ lệ đoán đúng là 27,9%; và tỷ lệ dự đoán đúng
của toàn bộ mô hình là 77,7%.
Kết quả phân tích mô hình hồi quy cũng đã chỉ ra 6 yếu tố tác động trực tiếp (có ý nghĩa thống
kê) đến “Nhu cầu chuyển đổi việc làm” của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ tại thời điểm
khảo sát là: số lao động trong hộ, mức sống của hộ gia đình, việc làm chính, mức độ thích việc làm
chính, theo dõi thông tin việc làm và tần suất làm việc trong 12 tháng trước thời điểm khảo sát.
Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy các chính sách hỗ trợ giả quyết việc làm cho thanh niên
nông thôn khu vực Tây Nam Bộ đã được triển khai và cũng có những tác động nhất định. Trên cơ
sở đó, những lao động thanh niên theo dõi thông tin việc làm đã có được cơ hội tốt hơn trong tiếp
cận thông tin việc làm để có thể thỏa mãn được nhu cầu tìm việc làm hoặc chuyển việc làm của họ.
4.3. Nhu cầu tìm việc làm mới và các yếu tố tác động
- Dựa vào thông tin thu thập được của 202 người trả lời có nhu cầu tìm việc làm mới tại thời
điểm khảo sát, nghiên cứu sinh đã phân chia thành 5 nhóm việc làm mới cần tìm theo nhu cầu của họ
tại thời điểm khảo sát. Theo đó, phần lớn nhu cầu tìm việc làm mới của thanh niên nông thôn khu vực

20



Tây Nam bộ tập trung chủ yếu ở các nhóm Buôn bán (37,6%) và Công nhân (26,2%). Trong khi đó,
nhu cầu tìm việc làm mới ở nhóm Nông nghiệp là ít nhất (5,4%). Điều này có thể được lý giải bởi sự
chuyển dịch cơ cấu việc làm ở nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng trong ngành nông nghiệp và tăng
lên ở các ngành dịch vụ và công nghiệp. Do đó, dẫn đến nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên
nông thôn khu vực Tây Nam bộ cũng sẽ tập trung ít hơn ở nhóm việc làm Nông nghiệp và nhiều hơn
ở các nhóm việc làm Buôn bán và Công nhân.
- Để nhận diện các yếu tố tác động đến nhu cầu và so sánh các nhóm nhu cầu việc làm mới
cần tìm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ, nghiên cứu sinh sử dụng phân tích mô hình
hồi quy đa thức (Multinomial Logistic Regression) bằng phần mềm SPSS với biến số phụ thuộc là
nhu cầu tìm việc làm mới của người trả lời và các biến số độc lập (biến liên tục là tuổi và các biến
khác bao gồm: giới tính, học vấn, dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, mức sống hộ gia đình, số
người trong hộ gia đình, số lao động trong hộ gia đình, theo dõi thông tin việc làm và địa bàn cư trú
- được đo bằng biến “xã”) nhằm xác định các yếu tố tác động đến nhu cầu tìm việc làm mới của họ
đồng thời so sánh nhu cầu tìm việc làm mới là công nhân của họ đối với các nhóm việc làm khác.
Mô hình hồi quy đã được xây dựng dựa vào thông tin từ 199 người trả lời có nhu cầu tìm việc làm
mới tại thời điểm tham chiếu.
Kết quả phân tích hồi quy đã cho thấy nhu cầu tìm việc làm mới của thanh niên nông thôn
khu vực Tây Nam Bộ chịu tác động đáng kể bởi các yếu tố (có ý nghĩa thống kê): tuổi, học vấn, tình
trạng hôn nhân, số người trong hộ gia đình, số lao động trọng hộ gia đình, mức sống hộ gia đình,
theo dõi thông tin việc làm và địa bàn cư trú. Và những kết quả này đã khẳng định phần lớn những
nhận định về sự khác biệt trong phân tích tương quan hai biến.
4.4. Nhu cầu nâng cao tay nghề chuyên môn kỹ thuật
- Kết quả nghiên cứu đã cho thấy trình độ đào tạo của các thanh niên nông thôn khu vực Tây
Nam bộ tại thời điểm khảo sát (N=726) với tỷ lệ 17,9% chưa từng đi học; 31,4% tiểu học; 19,6%
THCS; 12,8% THPT và 18,3% học nghề và trung cấp trở lên. Đáng chú ý là tỷ lệ lớn các thanh niên có
trình độ tiểu học trở xuống (49,3%).
- Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng đã cho thấy nhu cầu tham gia đào tạo nâng cao
tay nghề, chuyên môn, kỹ thuật của các thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ tại thời

điểm khảo sát (N=716) với tỷ lệ 36,9% muốn học; 19,6 % tùy và 43,6% không muốn học.

Tiểu kết chương 4
Chương 4 đã trình bày khá đầy đủ các khía cạnh về nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông
thôn khu vực Tây Nam bộ và các yếu tố tác động.
Nhìn chung, tỷ lệ thanh niên không có nhu cầu chuyển đổi việc làm vẫn nhiều hơn đáng kể so với tỷ
lệ thanh niên có nhu cầu chuyển đổi việc làm (điều này đúng trong cả các trường hợp: việc chuyển
trong 12 tháng trước thời điểm khảo sát, nhu cầu chuyển việc tại thời điểm khảo sát và nhu cầu học
tập nâng cao tay nghề, chuyên môn kỹ thuật).
Các nhóm thanh niên có nhu cầu chuyển đổi việc làm nhiều hơn chủ yếu tập trung vào: chưa từng đi
học, mức sống hộ gia đình kém trung bình, 16-25 tuổi, hiện không có vợ/chồng. (những sự khác biệt
giữa các nhóm trong phân tích đều có ý nghĩa thống kê trong kiểm định Chi-square hoặc kiểm định
Fisher).

21


Bên cạnh đó, các kết quả phân tích hồi quy Binary Logistic cũng đã chỉ ra các kết quả: có 4 yếu tố
tác động trực tiếp đến “có chuyển đổi việc làm” hay “không chuyển đổi việc làm” của thanh niên
nông thôn khu vực Tây Nam Bộ trong 12 tháng trước khảo sát (tuổi, học vấn, tình trạng hôn nhân
và số người trong hộ) và 5 yếu tố tác động trực tiếp đến “có nhu cầu chuyển đổi việc làm” hay
“không có nhu cầu chuyển đổi việc làm” của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ tại thời
điểm khảo sát (số lao động trong hộ, mức sống của hộ gia đình, mức độ thích việc làm chính, thông
tin việc làm và tần suất làm việc trong 12 tháng trước thời điểm khảo sát).
Ngoài ra, trong thực tế đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa vô cùng phong phú và phức tạp ở khu
vực Tây Nam Bộ, cũng có thể còn nhiều yếu tố khác nữa tác động đến nhu cầu chuyển đổi việc làm
của thanh niên nông thôn mà trong nghiên cứu này chưa thể làm rõ. Do đó, chủ đề nghiên cứu này
cần tiếp tục được quan tâm và triển khai thực hiện quy mô và bài bản hơn để có thể cung cấp những
luận cứ khoa học hữu ích nhất cho việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung
và chiến lược lao động - việc làm cho thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ nói riêng trong

giai đoạn tiếp theo.

22


KẾT LUẬN
Kết luận
Qua nghiên cứu những bài học kinh nghiệm của những tác giả đi trước (chương 1), kết hợp
với những cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài (chương 2), nghiên cứu sinh đã bước đầu nhận diện
và phân tích thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực
Tây Nam bộ. Từ kết quả nghiên cứu thu được, xin rút ra một số nhận định có tính kết luận như sau:
Nghiên cứu về thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn
khu vực Tây Nam Bộ có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong
tương lai của khu vực này. Từ việc nhận diện thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm của
lực lượng thanh niên này, các nhà hoạch định chính sách sẽ có cơ sở khoa học để xây dựng những dự
án tạo việc làm hiệu quả cho lao động thanh niên trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
thôn. Đó là tiền đề vững chắc cho việc hoạch định các chính sách hỗ trợ, phát triển thanh niên nói
riêng và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của khu vực nói chung. Chính vì vậy, nghiên
cứu về thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi việc làm khu vực Tây Nam Bộ cần tiếp tục được
triển triển khai ở cấp độ sâu và rộng hơn nữa cả trên các phương diện lý luận và thực nghiệm với các
phương pháp tiếp cận chuyên ngành, đa ngành, liên ngành và xuyên ngành trong thời gian tới.
Qua phân tích dữ liệu thứ cấp được chiết xuất từ bộ số liệu điều tra của Đề tài KHCN/1419/X05, Luận án nghiên cứu đã phác họa được bức tranh thực trạng việc làm và nhu cầu chuyển đổi
việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ và chứng minh các giả thuyết nghiên cứu
được đặt ra ban đầu:
+ Giả thuyết thứ nhất: “Việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ còn thiếu và
không ổn định. Có sự khác biệt về việc làm giữa các nhóm thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam
Bộ”. Kết quả nghiên cứu trình bày ở Chương 3 đã cho thấy rõ thực trạng thiếu việc làm của thanh
niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ và tỷ lệ thất nghiệp, không làm việc còn cao trong một số nhóm
thanh niên (16-25 tuổi; thanh niên hiện chưa có vợ/chồng và thanh niên trong các hộ gia đình có mức
sống dưới trung bình). Kết quả luận án cũng đã chỉ ra sự khác biệt về thực trạng việc làm giữa các

nhóm thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ.
+ Giả thuyết thứ hai: “Có một số yếu tố (cá nhân, gia đình và cộng đồng) tác động đến thực
trạng việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ”. Giả thuyết này cũng đã được minh
chứng bằng những kết quả trình bày trong Chương 3. Kết hợp các dữ liệu định lượng và định tính,
NCS cũng đã vận dụng các lý thuyết nghiên cứu và những kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước
(qua các công trình đã được công bố) để lý giải, làm rõ các yếu tố tác động đến thực trạng việc làm
của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ. Kết quả phân tích hồi quy đa biến cho phép nhận diện
những yếu tố tác động (có ý nghĩa thống kê) đến thực trạng việc làm của thanh niên nông thôn khu
vực Tây Nam Bộ (bao gồm: tuổi, giới tính, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, mức sống
hộ gia đình và tôn giáo).
+ Giả thuyết thứ ba: “Thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ có nhu cầu chuyển đổi việc
làm. Có sự khác biệt về nhu cầu chuyển đổi việc làm giữa các nhóm thanh niên nông thôn khu vực
Tây Nam Bộ”. Kết quả nghiên cứu trình bày trong Chương 4 đã cho thấy khá rõ nét nhu cầu chuyển
đổi việc làm của thanh niên. Tuy nhiên, cơ hội thay đổi việc làm và nghề nghiệp của thanh niên nông
thôn khu vực Tây Nam Bộ hiện rất hạn chế. Đáng chú ý là nhu cầu chuyển đổi việc làm khác nhau
đáng kể giữa các nhóm thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam Bộ (các nhóm có nhu cầu chuyển đổi
việc làm chủ yếu là: trình độ học vấn thấp, mức sống hộ gia đình dưới trung bình, từ 16-25 tuổi, hiện
chưa kết hôn).
+ Giả thuyết thứ tư: “Có một số yếu tố (cá nhân, gia đình, cộng đồng) có tác động đến thực tiễn
và nhu cầu chuyển đổi việc làm của thanh niên nông thôn khu vực Tây Nam bộ”. Kết quả nghiên cứu

23


×