Chương 15: Thị Trường Lao Động
John Kane
Trong chương này, chúng ta sẽ xem xét về thị trường lao động một cách chi tiết
hơn. Do chúng ta đã bàn về cầu tài nguyên một cách tương đối chi tiết trong
chương 14, hãy bắt đầu xem xét cung lao động.
Tổng quan
Các cá nhân có một lượng thời gian cố định được sử dụng cho các làm việc và
nghỉ ngơi. Nếu một giờ bổ sung được sử dụng cho công việc, khi đó các hình thức
sử dụng thay thế khác sẽ ít đi một giờ. Chi phí cơ hội của một giờ nghỉ ngơi là tiền
lương từ bỏ để sử dụng cho nghỉ ngơi. Vì vậy, một sự tăng lương làm tăng chi phí
cơ hội của thời gian nghỉ ngơi và dẫn tới
hiệu ứng thay thế (substitution effect)
làm giảm thời gian nghỉ ngơi và tăng thời gian làm việc. Tuy nhiên, tiền lương
tăng cũng tăng thu nhập thực tế của công nhân và dẫn tới tăng mong muốn nghỉ
ngơi của mỗi cá nhân (giả sử nghỉ ngơi là một hàng hoá thông thường). Hiệu ứng
thứ hai được gọi là
hiệu ứng thu nhập (income effect), có xu hướng làm tăng
lượng thời gian nghỉ ngơi và làm giảm thời gian cho công việc khi tiền lương tăng.
Các cá nhân sẽ làm việc nhiều hơn khi tỷ lệ tiền lương tăng nếu hiệu ứng thay thế
lớn hơn hiệu ứng thu nhập. Như biểu đồ dưới đây cho thấy, một đường cung lao
động của một người sẽ là đường có độ dốc đi lên do các tỷ lệ tiền lương trong đó
hiệu ứng thay thế lớn hơn hiệu ứng thu nhập. Mặc dù vậy, khi tiền lương đủ lớn,
nói chung mọi người cho rằng hiệu ứng thu nhập cuối cùng sẽ có tác động lớn hơn
hiệu ứng thay thế và đường cung lao động sẽ bị bẻ gập xuống dưới (như phần trên
cùng của biểu đồ dưới đây).
Đường cung lao động thị trường là tổng các đường cung lao động nằm ngang của
tất cả các cá nhân trên một thị trường lao động. Cho dù thậm chí các cá nhân có
thể có đường cung lao động bị bẻ xuống dưới, người ta cho rằng đường cung lao
động thị trường sẽ có độ dốc đi lên. Một lý do cho kết quả này là các cá nhân sẽ
không tham gia vào lực lượng lao động trừ phi tiền lương cao hơn giá trị ngưỡng
cá biệt("tiền lương đặt trước" của mỗi các nhân). Khi tỷ lệ tiền lương tăng, thêm
nhiều cá nhân tham gia thị trường, việc bù lại bất kỳ sự giảm lượng cung lao động
nào có thể dẫn tới kết quả đường cung lao động bị bẻ gập xuống về phần của một
số cá nhân.
Một điểm cân bằng trên thị trường lao động xảy ra tại mức lương mà ở đó lượng
cầu bằng lượng cung. Trong biểu đồ dưới đây, điều này xảy ra tại mức lương w*
và mức nhân công Q*.
Sự phân biệt tiền lương (Wage Differentials)
Hãy xem xét một số lý do dẫn tới sự phân biệt tiền lương với các cá nhân và với
các nghề nghiệp.
Các công việc khác nhau về mức độ nguy hiểm, căng thẳng, yêu cầu giáo dục, nỗ
lực cơ thể…Khi các công nhân chọn công việc, họ dựa trên cơ sở tất cả các đặc
tính của công việc, không chỉ dựa vào tiền lương. Giả sử hai công việc ban đầu
được coi là tương đương nhau về tất cả các đặc tính, bao gồm cả tiền lương. Nếu
có bằng chứng mới được khám phá cho thấy một công việc có mức độ nguy hiểm
cao hơn về tỷ lệ thương tật liên quan tới công việc, khi đó cung lao động sẽ giảm
với công việc có nguy hiểm và tăng với công việc an toàn hơn do các công nhân sẽ
chuyển từ công việc nguy hiểm sang công việc an toàn hơn. Khi có sự dịch chuyển
lao động này xảy ra, tiền lương sẽ giảm với công việc an toàn hơn và sẽ tăng với
công việc nguy hiểm hơn. Sự dịch chuyển này sẽ tiếp tục cho tới khi sự phân biệt
tiền lương giữa hai công việc chỉ đủ lớn để đền bù cho sự khác biệt về mức độ
nguy hiểm. Điểm cân bằng sự khác biệt tiền lương giữa công việc nguy hiểm và
công việc an toàn hơn được gọi là
đền bù khác biệt tiền lương (compensating
wage differentials)
do nó đền bù cho các cá nhân có mức độ nguy hiểm trong
công việc khác nhau
. Sự đền bù khác biệt tiền lương này bằng với tiền lương trả
thêm được sử dụng để thuê người công nhân cuối cùng trong công việc nguy hiểm
nhằm thuyết phục anh ta hoặc cô ta chấp nhận mức nguy hiểm thêm.
Biểu đồ dưới đây minh hoạ cho sự đền bù khác biệt tiền lương đi cùng với mức
nguy hiểm của công việc.Trong ví dụ này, khác biệt tiền lương đền bù bằng Wr -
Ws (sự khác biệt tiền lương giữa công việc nguy hiểm và công việc an toàn hơn).
Đền bù khác biệt tiền lương có thể tồn tại với bất kỳ đặc tính công việc nào được
các công nhân đánh giá có giá trị âm hoặc dương.
Với các điều kiện khác không
đổi (ceteris paribus)
, tiền lương sẽ cao hơn trong những công việc ít thoải mái hơn
và sẽ thấp hơn trong những công việc dễ chịu hơn.
Như lưu ý trước đó, nguồn nhân lực của một cá nhân là một cách tính năng suất
lao động của anh ta hoặc cô ta. Các cá nhân có năng suất lao động cao hơn sẽ nhận
được tiền lương nhiều hơn. Đầu tư vào giáo dục, đào tạo hoặc y tế sẽ được cho là
tăng vốn nhân lực của mỗi cá nhân.
Có hai loại nguồn nhân lực:
nguồn nhân lực nói chung (general human capital)
và nguồn nhân lực của
một công ty cụ thể (firm-specific). Nguồn nhân lực nói
chung tăng năng suất của một cá nhân hơn trong bất cứ công ty nào. Nguồn nhân
lực cụ thể của một công ty tăng năng suất lao động của một cá nhân chỉ với công
việc hiện tại của anh ta hoặc cô ta. Giáo dục mà mỗi cá nhân nhận được ở bậc tiểu
học, trung học và đại học tăng vốn nhân lực nói chung của mỗi cá nhân. Đào tạo
về quy trình sản xuất cụ thể, chính sách hoặc các thủ tục được sử dụng tại một
công ty cụ thể làm tăng nguồn nhân lực công ty cụ thể của mỗi cá nhân. Do nguồn
nhân lực trong một công ty cụ thể tăng năng suất lao động của một công nhân chỉ
trong công ty hiện thời, nó chỉ mang lại lợi nhuận khi mà chỉ khi người công nhân
này còn làm việc cho công ty đó. Để giúp khuyến khích tăng sự gắn kết dài hạn
với công ty, tiền lương có xu huớng tăng liên tục với thời gian làm việc của người
công nhân trong công ty.
Tiền lương của Tổng Giám Đốc
Các tổng giám đốc trong các công ty lớn tại Hoa Kỳ nhận được tiền lương cao hơn
đáng kể với những người quản lý khác trong công ty. Điều này có thể là kết quả
của sự thất bại thị trường gây ra do sự phân biệt giữa quyền sở hữu và sự kiểm
soát trong các tập đoàn lớn. Nó cũng có thể là kết quả của một "vòng thi đấu"
trong đó lời hứa về một phần thưởng rất lớn cho những nhà quản lý thành công
nhất mang lại động cơ cho những nhà quả lý ở cấp thấp hơn làm việc cật lực để
đạt được vị trí này. Sự tái phân bổ thường xuyên của các nhà quản lý có thể là là
dấu hiệu của quy trình "vòng thi đấu" này do các công ty muốn kiểm tra xem các
nhà quản lý thực hiện chức năng như thế nào trong các hoàn cảnh thị trường khác