Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Thực trạng lạm phát ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.15 KB, 32 trang )

§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

PHẦN 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.Khái niệm lạm phát
Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu thông tiền giấy
.Điều này xuất phát từ chỗ tiền giấy chỉ là một loại dấu hiệu giá trị được phát hành vào lưu
thông để thay thế cho tiền đủ giá nhằm thực hiện vai trò trung gian trao đổi. Như vây, thực
chất tiền giáy không có giá trị nội lại mà chỉ mang giá trị danh nghĩa. Do đó khi có hiện tượng
thừa tiền giấy trong lưu thông thì người ta không có xu hướng giữ lại trong tay mình những
đồng tiền bị mất giá
và lượng tiền thừa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đén sản xuất và lưu thông hang hóa.
Có nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đứng cho thuật ngữ lạm phát, nhưng nói
chung chưa có một sự thông nhất hoàn toàn. Có quan điểm cho rằng lạm phát xảy ra khi số
tiền lưu hành vượt quá dự trữ vàng làm đảm bảo của ngân hàng phát hành. Cụ thể, người ta
dựa vào tỷ lệ đảm bảo tiền tệ để xem xét có lạm phát hay không. Chẳng hạn, nếu pháp luật ấn
định rằng tỷ lệ đảm bảo tối thiểu của tiền tệ 40%, khi tỷ lệ đó xuống dưới mức pháp định tức
là ngân hàng đã phát hành tiền quá mức. Quan điểm này quá coi trọng cơ sở đảm bảo của tiền
tệ. Trong thực tế, có những trường hợp tỷ lệ đảm bảo pháp định vẫn được tôn trọng nhưng giá
cả mọi thứ đều lên cao. Ngược lại, nước Đức năm 1934 đã có thể tránh được nạn lạm phát mặc
dù tỷ lệ đảm bảo của đồng Mark xuống dưới 2%. Quan điểm nay ngày nay đã lỗi thời.
Quan điểm khác cho rằng lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh
tế. Có thể tóm tắt trong phương trình Fesher: M.V= P.Y. Nếu tổng khối lượng tiền lưu hành
(M) tăng them trong khi tổng lượng hàng hoá - dịch vụ được trao đỏi (Y) giữ vững , tất nhiên
mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu thêm vào đó tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì P
lại tăng rất nhanh. Để khắc phục tình trạng nay, cần dung biện pháp thích hợp để thiết lập lại
cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế.
Quan điểm tĩnh về lạm phát nêu trên tuy giúp ta hiểu rõ về hiện tượng lạm phát, nhưng
không có biết nguyên nhân của lạm phát và khiến cho ta lầm tưởng lạm phát cao là kếy quả


của việc tăng trưởng mức cung tiền tệ cao. Thật ra trong nhiều trường hợp chưa hẳn là như
vậy, nhà nước có thể tăng cung ứng tiền tệ mà làm cho giá cả tăng, không giây ra lạm phát,
nếu như khối lượng tăng đó phù hợp với khối tiền cần thiết cho lưu thông, đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế.
Lại có quan điểm cho rằng lạm phát sự tăng giá của các loại hàng hoá tư liệu tiêu
dùng, tư liệu sản xuất và hàng hoá sức lao động). Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả
1


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng lên cho dù bất kỳ nguyên nhân nào đều là
lạm phát. Lạm phát và giá cả tăng đều một ý nghĩa. Thật ra giá cả đồng loạt tăng lên chỉ là một
trong những biểu hiện cơ bản của lạm phát mà thôi.
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền
kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của
đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại
tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường khi nói tới theo nghĩa đầu tiên thì người ta
hiểu nó là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn khi hiểu
theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu nó như là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị
trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa
các nhà kinh tế học vĩ mô
Vậy lạm phát là gì ? Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu
cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hoá tăng lên đồng
loạt.Hiện tượng gia tăng quá mức của lượng tiền có trong lưu thông dẫn đến đồng tiền bị mất
giá.
1.2 Đo lường lạm phát:
1.2.1 Chỉ số giá tiêu dùng:

(Consumer price index- CPI) đo giá cả của một sự lựa chọn các hàng hóa hay được mua
bởi "người tiêu dùng thông thường". Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi
theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc
tới. Các phép đo này thông thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người
lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng
của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động bao gồm cả các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý
là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ
lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
Chính vì vậy, khi tính mức độ lạm phát, các nhà kinh tế sử dụng chỉ số giá cả. Chỉ số
giá cả thường được sử dụng nhất là chỉ số đã tiêu dùng . Chỉ số này phản ánh mức thay đổi giá
cả của một giỏ hàng hoá tiêu dùng so với năm gốc cụ thể. Thông thường các nhóm chính trong
giỏ hang hoá là thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vận tải và y tế. Tuy nhiên, việc sử dụng
chỉ số CPI để đo lường lạm phát không phải là không có những hạn chế
+ CPI phản ánh tỷ lệ cố định của mỗi mặt hàng theo ý nghĩa kinh tế của nó. Nhiều
lúc, khi giá cả những nhóm mặt hàng tiêu dùng bị tăng giá quá cao thì người tiêu dùng có
khuynh hướng sử dụng những hàng hoá khác thay thế cho những hàng hoá có mức giá tương
đối đắt đỏ.
2


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

+ CPI không phản ánh một cách chính xác những thay đổi về chất lượng hàng hoá.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy nếu những thay đổi về chất lượng hàng hoá được tính
đến một cách thích đáng thì tốc độ tăng của CPI không tăng lên với tốc độ nhanh trong những
năm vừa qua.
1.2.2 Chỉ số giá cả sản xuất:
Ngoài chỉ số tiêu dùng được sử dụng rộng rãi nhất để tính chỉ số lạm phát, người ta còn

sử dụng các chỉ số giá khác nhu chỉ số giá cả sản xuất, chỉ số “giảm lạm phát GNP”. Chỉ số giá
cả sản xuất là chỉ số giá bán buôn, nó được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên và
được tính rất chi tiết vì nó bao gồm rất nhiều sản phẩm được lựa chọn. Nó khác với CPI là sự
trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là
không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển
hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người
tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày
mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau;
một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
1.2.3 Chỉ số giảm phát:
Chỉ số “ giảm lạm phát GNP” là chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP, nó chính là tỷ lệ của
GNP danh nghĩa so với GNP thực tế. Chỉ số “ giảm lạm phát GNP” bao gồm tất cả các loại
hàng hoá và địch vụ trong GNP, do đó nó phản ánh khá toàn diện hơn chỉ số giá tiêu dùng . Nó
dựa trên tỷ lệ của tổng giá trị tiền được tiêu vào GDP (GDP danh định) với phép đo GDP đã
điều chỉnh lạm phát (giá cố định hay GDP thực). . Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng
rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu
dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá
nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình.
1.3. Phân loại lạm phát:
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hoá , nên các nhà
kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá để làm căn cứ phân loại lạm phát ra thành ba mức độ
khác nhau :
- Lạm phát vừa phải.
- Lạm phát cao.
- Siêu lạm phát.
1.3.1 Lạm phát vừa phải:

3



§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hoá tăng chậm ở mức độ một con số hàng
năm ( dưới 10% một năm ) . Lạm phát vừa phải còn được gọi là lạm phát nước kiẹu hay lạm
phát một con số. Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như một chất xúc tác để thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
1.3.2 Lạm phát phi mã:
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hoá tăng ở mức độ hai con số hàng năm ( từ
10%-100% một năm). Lạm phát cao con được gọi là lạm phát phi mã. Thật ra , cũng có một số
nhà kinh tế quan điểm cho rằng thuộc loại lạm phát phi mã nao gồm cả lạm phát ở mức độ ba
con số ( như 100%,200%...) Lạm phát phi mã gây ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế- xã
hội.
1.3.3 Siêu lạm phát:
Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi
tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát.
Một định nghĩa đơn giản là chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 51 ngày thì
giá cả lại tăng gấp đôi). Theo Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu
lạm phát, đó là: (1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả hàng
hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; (3) các khoản
tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; và (4) lãi suất, tiền công
và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần
trăm
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hoá tăng ở mức độ ba con số hàng năm trở
lên. Siêu lạm phát còn được gọi là lạm phát siêu tốc. Không có điều gì là tốt khi nền kinh tế rơi
vào tình trạng siêu lạm phát. Người ta thường ví siêu lạm phát như căn bệnh ung thư gây chết
người , có những tác hại rất lớn đến kinh tế - xã hội. Lịch sử lạm phát của thế giói đã ghi nhận
tác hại của siêu lạm phát xảy ra ở Đức năm 1920-1923, ở Nga sau Cách mạng tháng 10 , ở
Trung Quốc sau thế chiến thứ hai…


Ngoài ra , người ta con phân loại lạm phát dựa vào việc so sánh hai chỉ tiêu là tỷ lệ
tăng giá và tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ . Theo cách này lạm phát sẽ ở trong hai giai đoạn sau :
- Giai đoạn 1
Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá nhỏ hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Một bộ phận của khối
tiền gia tăng về cơ bản đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ của nền kinh tế . Theo các nhà kinh

4


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

tế , lạm phát nhằm ở giai đoạn này có thể chấp nhận được và thậm chí còn cho rằng lạm phát
khi đó còn là liều thuốc để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Giai đoạn 2
Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá lớn hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ . Sở dĩ như vậy là do lạm
phát với tỷ lệ cao kéo dài đã làm cho kinh tế suy thoái. Hệ quả là khối lượng tiền phát hành
vượt mức khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Trong trường hợp này lạm phát gây nguy
hiểm trầm trọng cho nền kinh tế.

5


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

PHẦN 2

THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
2.1.Khái chung về nền kinh tế Việt Nam trước năm 2006:
Lạm phát đang trở thành một vấn đề bức xúc. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến tháng 3
năm 2006, chỉ số CPI đã tăng 33%, bào mòn mức lương thực tế. Năm ngoái, áp lực nhằm đạt
mục tiêu tăng trưởng của kế hoạch 5 năm đã khiến lạm phát vượt mức 6.5% chính phủ đề ra.
Năm nay, trọng tâm chính sách sẽ được đảo ngược, chính phủ sẽ tập trung vào ổn định giá cả
vì áp lực tăng trưởng đã giảm đáng kể trong năm đầu tiên của kế hoạch năm năm 2006-2010.
So sánh mức lạm phát của quý 1 với những năm trước, tình hình kiểm soát giá năm nay
có những dấu hiệu tốt đẹp. Giá nhóm lương thực - Thực phẩm, yếu tố ảnh hưởng đến CPI
mạnh nhất đã giảm đáng kể do việc thành công giải quyết ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm.
Giá lương thực và thực phẩm giảm 0,9% trong tháng 3 và chỉ tăng 4% kể từ tháng 12 năm
ngoái (so với mức tăng 6.1% cùng kỳ năm 2005).
Tỷ lệ lạm phát của quý 1 thường bằng một nửa mức cả năm, cụ thể là 51% năm 2004
và 44% năm 2005. Hiện tại lạm phát quý 1 mới chỉ ở mức 40% so với kế hoạch cả năm do đó
hoàn toàn có thể lạc quan mục tiêu kiềm chế giá cả năm nay sẽ thành công trong điều kiện
bình thường.
Tuy nhiên, trong những tháng tới vẫn có những yếu tố gây áp lực lên mặt bằng giá thị
trường.
* Trước hết là việc EVN có kế hoạch tăng giá điện lên trên 8% trong năm nay (và tiếp
tục tăng trong năm sau). Mặc dù có nhiều khả năng giá điện sản xuất sẽ không tăng nhưng việc
điều chỉnh này vẫn sẽ ảnh hưởng đáng kể đến mặt bằng giá chung.
* Tiếp đó là ảnh hưởng của việc tăng giá dầu trên thị trường quốc tế. Việt Nam hiện
đang phải nhập khẩu 100% các sản phẩm xăng dầu do đó mức giá trong nước sẽ bám sát tình
hình dao động giá thế giới. Năm ngoái, giá xăng trong nước đã phải điều chỉnh 6 lần, và sẽ
nhạy cảm hơn trong năm nay.
* Tình hình thời tiết bất thường, hạn hán, lũ lụt và nguy cơ trở lại của dịch cúm gia cầm
vào cuối năm sẽ là những nhân tố tiềm ẩn có thể gây nên cơn sốc giá, đặc biệt là mặt hàng
lương thực, thực phẩm (hiện chiếm hơn một nửa giá hàng hoá dùng để tính CPI).


6


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

Mặt khác, chương trình cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ AFTA sẽ giúp giá nhập
khẩu giảm mạnh đặc biệt là các mặt hàng tiêu dùng phần nào giúp giảm áp lực tăng giá trong
nước.
Nhìn chung, tuy mặt bằng giá phụ thuộc nhiều vào diễn biến trên thị trường quốc tế,
chính phủ trong năm nay có cam kết cao trong việc kiềm chế lạm phát, kể cả nếu phải kìm
hãm tốc độ tăng trưỏng. Do đó chính sách của NHNN sẽ điều chỉnh lãi suất linh hoạt và quản lý
chặt hoạt động cho vay tín dụng. Trong tuần đầu của tháng 4/2006, Thống đốc NHNN dự báo nếu
không có yếu tố bất ngờ, chỉ số CPI sẽ dừng lại ở mức 7% (phù hợp với dự báo của CIEM như
nêu ở trên).
Giá vàng trong tháng 3 tăng 1,8% đưa tổng mức tăng từ đầu năm lên 11,6%. Tỷ giá
VND/USD vẫn tiếp tục ổn định, giảm nhẹ ở mức 0,1% trong tháng 3 xuống bằng mức của
tháng 12 năm ngoái. Trong khoảng thời gian 12 tháng đến tháng 3/2006, tỷ giá chỉ tăng 0,8%.
2.2. Đánh giá tình hình lạm phát của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2007
Nhìn chung từ năm 2004 đến năm 2007 thì mức độ lạm phát tại Việt Nam trong bốn
năm qua lạm phát tăng 35%. Khuynh hướng trong thời gian đó là tăng mạnh hơn những lần
trước.
Lý do đầu tiên là in tiền thêm.
Lý do thứ hai là nhà nước muốn đạt tăng trưởng cao. Từ đó nhà nứơc bằng mọi cách
đẩy tích lũy tăng thật mạnh.
Theo thống kê học thì tích lũy đó sẽ tăng GDP; còn vấn đề tạo ra sản phẩm thì đòi hỏi
thời gian dài hơn. Tiền đẩy ra mạnh tạo ra lạm phát mạnh hơn. Thêm nữa là vốn đầu từ ở nước
ngoài vào thị trường chứng khoán; tiền đó vào VN thành tiền Việt tạo ra cung ứng nhiều hơn.
Vì sao lạm phát cao?

Thấy rõ nguyên nhân thực của lạm phát cao (9,5%) của VN, việc tìm ra phương thuốc
ngăn chặn nó đã xuất hiện: đó là cần sửa ngay cách tính chỉ số giá cả bằng cách lọai trừ giá
dầu và giá nông sản nhạy cảm với thiên tai ra khỏi chỉ số giá cả. Nếu VN sửa ngay từ cách tính
chỉ số giá như các nước này thì chỉ số giá cả năm 2004 đã chỉ còn 5% như Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước đã phát biểu. Đặc biệt, sẽ không một cửa hàng đầu cơ nào dám nâng giá tới
10% như năm 2004 và mức lạm phát của ta sẽ không cao hẳn lên so với các nước này.
Các chỉ số quan trọng:

7


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

- Tăng trưởng GDP đạt 8,4%, cao nhất trong vòng 8 năm qua, nhờ thu hút đầu tư đạt
mức kỷ lục (chiếm 38,9% GDP) và chỉ số tiêu dùng trong nước tăng mạnh. Tuy nhiên lạm
phát vẫn cao ở mức 8,4%.
- Dịch cúm gia cầm tiếp tục là mối đe dọa trong năm thứ 3 liên tiếp. Tuy nhiên virus
cúm cho đến nay đã được ngăn chặn và đợt dịch năm nay có ảnh hưởng không lớn đến nền
kinh tế và xã hội.
- Ngành ngân hàng đã có một năm kinh doanh thuận lợi với hầu hết các ngân hàng
thương mại đều đạt mức lợi nhuận cao. Các ngân hàng nước ngoài cũng đẩy mạnh các hoạt
động của mình, trong đó 3 ngân hàng đã giành được 10% cổ phần của các ngân hàng trong
nước.
- Thị trường bất động sản ảm đạm gây lo ngại cho các nhà đầu tư và hệ thống ngân
hàng.
- Việc tỷ lệ nghèo tiếp tục giảm giúp củng cố, ổn định chính trị-xã hội, làm nền tảng
cho việc thu hút đầu tư nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.
Các số liệu, hình ảnh, biểu đồ, minh hoạ tình hình lạm phát từ 2005-2007 :


8


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

Tốc độ tăng trưởng:

GDP Vốn FDI:

Lạm phát :

9


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

Cán cân Thương Mại:

10


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn


Thâm hụt ngân sách và Doanh Thu:

Tỷ lệ đầu tư trên GDP:

Cho dù giá tiêu dùng của nước ta đã tăng đại nhảy vọt 24,87% trong ba năm rưỡi vừa
qua, nhưng vẫn có thể khẳng định chắc chắn rằng, nền kinh tế nước ta tuy “nhiễm căn bệnh
chung của các nước kém phát triển”, nhưng chỉ ở “thể nhẹ” -nếu như không muốn nói là “sức
khỏe” của nền kinh tế vẫn tốt và không có gì đáng phải lo lắng.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, lạm phát là căn bệnh chung của các nước có xuất phát
điểm thấp. Tuy nhiên, với VN lạm phát không hẳn là xấu.

11


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

Các chỉ số quan trọng:
- Tăng trưởng GDP đạt 8,4%, cao nhất trong vòng 8 năm qua, nhờ thu hút đầu tư đạt
mức kỷ lục (chiếm 38,9% GDP) và chỉ số tiêu dùng trong nước tăng mạnh. Tuy nhiên lạm
phát vẫn cao ở mức 8,4%.
- Dịch cúm gia cầm tiếp tục là mối đe dọa trong năm thứ 3 liên tiếp. Tuy nhiên virus
cúm cho đến nay đã được ngăn chặn và đợt dịch năm nay có ảnh hưởng không lớn đến nền
kinh tế và xã hội.
- Ngành ngân hàng đã có một năm kinh doanh thuận lợi với hầu hết các ngân hàng
thương mại đều đạt mức lợi nhuận cao. Các ngân hàng nước ngoài cũng đẩy mạnh các hoạt
động của mình, trong đó 3 ngân hàng đã giành được 10% cổ phần của các ngân hàng trong
nước.
- Thị trường bất động sản ảm đạm gây lo ngại cho các nhà đầu tư và hệ thống ngân

hàng.
- Việc tỷ lệ nghèo tiếp tục giảm giúp củng cố, ổn định chính trị-xã hội, làm nền tảng cho
việc thu hút đầu tư nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.
Các số liệu, hình ảnh, biểu đồ, minh hoạ tình hình lạm phát từ 2004-2006
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, lạm phát là căn bệnh chung của các nước có xuất phát
điểm thấp. Tuy nhiên, với VN lạm phát không hẳn là xấu.
“Thông lệ” của thế giới
Trước hết, xét trên bình diện tổng thể, thực tiễn kinh tế thế giới cho thấy, càng ở trình
độ phát triển cao, tỷ lệ lạm phát càng thấp, và ngược lại, càng ở trình độ phát triển thấp, tỷ lệ
lạm phát càng cao.
Cộng đồng các quốc gia độc lập liên tục phải sống trong cảnh “bão giá” với mức tăng
bình quân kỷ lục 17,9%/năm.
Sở dĩ như vậy là do mặt bằng giá cả của các nước đang phát triển càng ở trình độ thấp
thì càng thấp, trong khi của các nước phát triển càng ở trình độ cao thì càng cao, cho nên các
nước đang phát triển càng mở cửa nền kinh tế mạnh để hội nhập vào đời sống kinh tế thế giới,
thì việc giá tiêu dùng tăng càng mạnh để hội nhập với giá cả thế giới là điều tất yếu.
Cụ thể, các kết quả tính toán mới nhất của WB cho thấy, trong khi “rổ GNI” toàn cầu
năm 2006 theo giá thực tế là 7.439 tỷ USD, nhưng nếu tính trên cơ sở đồng giá sức mua (PPP)
hoặc đôla quốc tế sẽ được khuếch đại lên 10.180 tỷ đôla quốc tế, tức là tăng thêm 2.741 tỷ, hay
tăng đại nhảy vọt 36,85%. Trong đó, cùng tính theo PPP, nếu như “chiếc bánh” GNI của

12


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

những nước giàu đều bị “co lại” với những mức độ khác nhau, thì của những nước nghèo nói
chung đều “nở ra” rất nhiều và tổng mức “nở ra” này đương nhiên lớn hơn 36,85%.

Chẳng hạn, vẫn theo các kết quả tính toán của WB trong khi GNI bình quân đầu người
theo giá thực tế của quốc gia Luxembourg giàu nhất năm 2006 là 76.040 USD, còn tính theo
PPP thì giảm 26,39%, cho nên chỉ còn 55.970 đôla quốc tế, hoặc cặp số liệu này của Mỹ là
44.970 USD (xếp thứ 10 thế giới) và 44.260 đôla, tức giảm 1,58% và xếp thứ 4 thế giới, tức là
thăng hạng 6 bậc... nhưng ngược lại, của nước ta là 690 USD (xếp 169 thế giới) và 3.300 đô la,
tức là tăng đại nhảy vọt 378,26% và đại nhảy vọt 19 bậc để xếp thứ 150 thế giới, hay của
Trung Quốc là 2.010 USD (xếp thứ 129 thế giới) và 7.730 đôla, tức là cũng tăng đại nhảy vọt
284,58% và đại nhảy vọt 27 bậc để xếp thứ 102 thế giới...
Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh một thực tế khác là, không phải hễ cứ ở trình độ phát
triển thấp như nhau thì các quốc gia đều có mặt bằng giá cả như nhau, mà điều này còn tùy thuộc
vào những điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia.
Chẳng hạn, vẫn theo các kết qủa tính toán của WB, Mauritani có GNI thực tế bình quân
đầu người 740 USD năm 2006 vừa qua và cao hơn chúng ta 1 bậc trong bảng xếp hạng giàu
nghèo (xếp thứ 168 thế giới), nhưng nếu quy ra đôla quốc tế thì đạt 2.600 đôla, tức là tăng
251,35%, cho nên thua chúng ta 8 bậc trong bảng xếp hạng GNI bình quân đầu người tính theo
PPP (xếp thứ 158 thế giới); hoặc Salomon là quốc gia có GNI bình quân đầu người theo giá
thực tế 680 USD, chỉ xếp sau chúng ta 1 bậc (xếp thứ 170 thế giới), nhưng khi tính theo PPP
đạt 2.170 đôla, tức là tăng 219,12% và vẫn xếp thứ 170 thế giới, cho nên tụt hạng so với chúng
ta tới 20 bậc.
Những điều nói trên có nghĩa là, cho dù khác nhau, nhưng các nước nghèo nói chung
đều có những “khoản dự trữ” không nhỏ để đẩy giá tiêu dùng của mình lên trong quá trình
phát triển và hội nhập đời sống kinh tế thế giới và VN chúng ta cũng không phải là trường hợp
ngoại lệ.
“Sức khỏe” của nền kinh tế vẫn tốt
Sở dĩ như vậy là do, bên cạnh những yếu tố khác, kinh tế càng phát triển nhanh chính là
cái “cớ” để lạm phát tăng càng cao, bởi điều đó đồng nghĩa với cầu các loại của nền kinh tế tất
yếu đều tăng mạnh, kéo theo giá tăng nhanh. Các kết quả tính toán cho thấy, tuy lạm phát của
nước ta trong 3 năm sốt nóng giá cả thế giới vừa qua đã trở nên nghiêm trọng hơn trước đó rất
nhiều, nhưng xét trên tổng thể, có thể khẳng định rằng, tình hình vẫn khả quan so với những
nước ở trình độ phát triển tương đương nước ta, chúng ta vẫn thuộc “tốp đầu”.

Cụ thể, nếu như trong 3 năm 2001-2003, bình quân nhịp độ lạm phát của nước ta chỉ là
2,60%/năm và với nhịp độ tăng GDP 7,10%/năm, hệ số giữa lạm phát và tăng trưởng chỉ là

13


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

0,37 lần, thì 3 năm vừa qua, “bộ ba” con số này là 8,15%/năm, 8,13%/năm và 1,00 lần, còn
tính chung cho cả giai đoạn 2001-2006 là 5,33%/năm, 7,62%/năm và 0,70 lần.

Với các chỉ số này, so với của 4 nước khác trên thế giới có GNI bình quân đầu người
tính theo PPP năm 2005 cao hơn liền kề với nước ta gồm Nicaragoa, Ấn Độ, Georgia và
Hondurad, còn của 5 nước thấp hơn liền kề là Bolivia, Campuchia, Gahna, Moldova và
Pakistan (dao động trong khoảng 2.320 - 3.580 đôla quốc tế), thì chúng ta chỉ kém Campuchia
với ba chỉ số này trong giai đoạn 2001-2006 với 4,83%/năm, 9,21%/năm và 0,35 lần, trong đó
3 năm 2001-2003 là 1,56%/năm, 7,50%/năm và 0,21 lần; 3 năm vừa qua là 4,83%/năm,
10,95%/năm và 0,44 lần và Ấn độ với 4,32%/năm, 6,97%/năm và 0,62 lần, còn hai giai đoạn 3
năm lần lượt là 3,97%/năm, 5,22%/năm và 0,76 lần; 4,70%/năm, 8,73%/năm và 0,54 lần.
Trong khi đó, 3 nước xếp ở cuối bảng gồm: Gahna liên tục bất ổn với lạm phát phi mã
18,57%/năm, còn nhịp độ tăng GDP chỉ đạt 5,26%/năm và hệ số cao kỷ lục 3,53 lần; Moldova
cũng lạm phát phi mã 10,62%/năm (chủ yếu rơi vào 3 năm sốt nóng giá cả thế giới), GDP tăng
6,56%/năm và hệ số 1,62 lần, còn Nicaragoa lạm phát “ngấp nghé ngưỡng phi mã” trong 3
năm sốt nóng giá cả thế giới (9,3-9,6%), nhưng 3 năm trước đó tăng thấp nên bình quân chỉ là
7,22%/năm, nhưng GDP chỉ tăng 3,17%/năm, cho nên hệ số là 2,28 lần. Những kết quả tính
toán nói trên cho thấy, chẳng ít thì nhiều, lạm phát của đa số các quốc gia ở trình độ phát triển
tương đương nước ta đều chịu những tác động tiêu cực của sốt nóng giá cả nguyên liệu thế
giới.

Cụ thể, trong 3 năm 2001-2003 giá nguyên liệu thế giới bình ổn, hệ số giữa lạm phát và
tăng trưởng của nước ta chỉ là 0,37 lần, chỉ cao hơn của Campuchia (0,21 lần) và còn thấp hơn
của Georgia (0,53 lần), nhưng trong 3 năm giá nguyên liệu thế giới bất ổn 2004 - 2006, trong
khi chỉ số này của Campuchia tăng lên 0,44 lần, của Georgia tăng lên 0,95 lần, còn của nước ta
tăng vọt lên 1,00 lần và chính vì sự tăng vọt này mà chúng ta bị “tụt hạng” xuống vị trí thứ ba,
sau Ấn Độ.
Thực tế này chắc chắn liên quan đến độ mở của nền kinh tế ở đầu vào NK cũng như ở
đầu ra XK (tính theo tỷ lệ % giữa kim ngạch xuất NK và GDP). Điều này xuất phát từ chỗ, với

14


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

độ mở của nền kinh tế càng lớn, nhất là ở đầu vào NK, đặc biệt là NK nguyên liệu, quy mô
NK sốt nóng giá cả thế giới vào thị trường trong nước càng lớn. Bởi lẽ, chính sốt nóng giá
nguyên liệu thế giới đóng vai trò “thấu kính lồi” làm khuếch đại kim ngạch thương mại quốc
tế và đẩy giá tiêu dùng tăng.
Còn trên thực tế, trong 10 quốc giá có trình độ phát triển tương đương, các chỉ số này
của hai quốc gia có chỉ số lạm phát “đẹp” hơn nước ta đều rất nhỏ, trong khi của những quốc
gia có chỉ số lạm phát “xấu” hơn nước ta đều ở mức cao. Đó là, trong khi độ mở của nền kinh
tế ở đầu vào NK của Ấn Độ thấp kỷ lục chỉ với 19,62%, còn ở đầu ra XK chỉ với 13,53% (số
liệu 2006) và cặp số liệu này của Campuchia cũng chỉ là 23,52% và 25,39% (số liệu 2005),
trong khi của nước ta là 74,13% và 65,77%, chỉ thua kém kỷ lục 78,91% ở đầu vào của
Moldova, nhưng độ mở ở đầu ra của quốc gia này cũng chỉ là 37,54%...
Tuy không thể phủ nhận những tác nhân thúc đẩy giá tiêu dùng tăng tiềm ẩn ngay bên
trong nền kinh tế nước ta và công tác quản lý nhà nước cũng còn bất cập, nhưng cũng không
thể phủ nhận rằng, do phụ thuộc ngày càng nặng nề vào nguyên liệu NK, trong điều kiện giá

nguyên vật liệu thế giới sốt nóng liên tục, với quy mô NK sốt nóng giá cả thế giới vào thị
trường trong nước rất lớn như vậy, việc giá tiêu dùng của nước ta tăng vọt là tất yếu.
Tuy nhiên, cho dù giá tiêu dùng đã tăng đại nhảy vọt trong ba năm rưỡi vừa qua, nhưng
xét trên tổng thể, nền kinh tế nước ta vẫn phát triển lành mạnh. Hoặc nói ngược lại, với những
đặc thù của nền kinh tế nước ta, việc đồng thời đòi hỏi cả tăng trưởng cao lẫn lạm phát thấp là
điều không thể.

15


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

PHẦN 3 : CÁC GIẢI PHÁP
Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ ngành và các địa phương thực hiện mọi biện
pháp ổn định thị trưởng, ổn định giá cả, không được để các mặt hàng tăng giá. Bộ Công
nghiệp chỉ đạo Tổng công ty Ŀiện lực Việt Nam (EVN) bàn với các ngành tiêu thụ điện lớn,
như: xi măng, hoá chất, thép..., sắp xếp sản xuất hợp lý, không để mất điện trong dịp Tết.
Về mặt tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trương điều hành chính sách tiền tệ
thận trọng, có kiểm soát chặt chẽ. Từ ngày 15/1/2005, lãi suất cho vay tái cấp vốn tăng từ
5,0%/năm lên 5,5%/năm; lãi suất chiết khấu tăng từ 3,0%/năm lên 3,5%/năm, nhằm hạn chế
kênh cung ứng vốn cho ngân hàng thương mại từ Ngân hàng Nhà nước, buộc các ngân hàng
thương mại phải đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường, thu hút tiền trong xã hội về để cho
vay và kiểm soát chặt chẽ việc gia tăng tín dụng. Lãi suất cơ bản dự kiến cũng sẽ được linh
hoạt hơn theo sát tín hiệu thị trường
Về mặt tài chính, Thủ tướng đang chỉ đạo đẩy mạnh chống tham nhũng, thất thoát từ
kênh ngân sách, tình trạng đầu tư dàn trải, tình trạng nợ đang xây dựng cơ bản, tình trạng dự
án, công trình chưa được duyệt bố trí kế hoạch vốn đầu tư nhưng đã cho đơn vị thi công triển
khai..., thắt chặt tình trạng chi tiêu và đầu tư thiếu hiệu quả, tăng cường thực hành tiết kiệm chi

tiêu từ ngân sách, chống lãng phí.
Bên cạnh đó, cần đổi mới cơ chế điều hành giá xăng dầu, giá mặt hàng sắt thép, phân
bón nhập khẩu,... để tăng thu, giảm chi cho ngân sách. Ŀây cũng là biện pháp tích cực để kiềm
chế lạm phát phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ngoài các giải pháp nói trên, Nhà nước ta một mặt cũng cần có biện pháp tích cực kiềm
chế mức độ tăng giá từ các yếu tố độc quyền, lũng đoạn thị trường, mặt khác cần có giải pháp
tích cực về tài chính tiền tệ, bảo đảm tăng thu, giảm chi, nâng cao khả năng đáp ứng vốn tín
dụng ngân hàng cho nhu cầu hợp lý của doanh nghiệp, hộ gia đình, thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển, nhất là xuất khẩu, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao và tạo số đông việc
làm mới cho người lao động.
Đó là giải pháp tích cực để kiềm chế lạm phát, chứ không chỉ tính đến thắt chặt tín
dụng, quá thiên về kênh bao cấp qua ngân sách Nhà nước đối với nhiều lĩnh vực, giảm cơ chế
xin cho. Từ việc tăng thu, hạn chế chi trợ cấp cho doanh nghiệp, sẽ có thêm nguồn để trợ cấp
cho người hưởng lương hưu và hưởng trợ cấp xã hội.
3.1 Chính sách, giải pháp và cơ chế quản lý:
3.1.1 Các giải pháp quản lý giá cả.

16


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

- Tăng cường công tác quản lý thị trường, có các biện pháp cụ thể (hành chính, kinh tế),
không thể xảy ra hiện tượng lợi dụng việc điều chỉnh giá xăng dầu để tăng giá các sản phẩm
một cách không hợp lý;
- Kiểm soát chặt chẽ việc đánh giá,chi phí giá thành đối với các sản phẩm độc quyền và các
ngành sản xuất cung ứng vật tư nguyên liệu quan trọng.
- Rà soát toàn bộ quy trình sản xuất và quản lý đổi mới công nghệ, tiết kiệm định mức

tiêu hao nguyên vật liệu, nhất là nhiên liệu để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm,
khắc phục tác động của việc tăng giá xăng dầu, nâng cao chất lượng, hiệu quả và lợi nhuận,
nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm của các doanh nghiệp, cố gắn ổn định giá bán r thị
trường;
- Bổ sung hoàn thiện các quy chế pháp luật về quản lý thị trường giá cả, để hướng dẫn
thực hiện nghiêm chỉnh pháp lệnh giá ban hành; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra giá; tổ
chức hệ thống đại lý tốt, có khả năng kiểm soát đối với một số sản phẩm quan trọng, trước hết
là mặc hàng sắt thép, một số loại tân dược,….
- Tổ chức xuất khẩu lương thực gắn với đảm bảo ồn định thị trường giá cả trong nước.
- Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, thường xuyên rà soát lại hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật về giá, sữa đổi, bổ sung phù hợp với cơ chế quản lý mới.
3.1.2 Ngân sách và tiền tệ:
- Tăng cường các biện pháp thực hiện đạt và vượt kết hoạch NSNN
- Kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu NSNN. Tăng cường kiểm tra, thanh tra XDCB. Khắc
phục tình trạng chi NSNN không có hiệu quả.
Thực hiện chính sách tiền tệ thẩntong, sử dụng ác biện pháp itền tệ hợp lý: xem xét lại
tốc độ phát hành, điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn, tái chiết kháu của Ngân hàng nhà nước
đối với ngân hàng thương mại, sử dụng các công cụ lãi suất dương và công cụ thị trường mở
để giảm bớt cung về tiền tệ trên thị trường, hạn chế tối đa các tác động xấu gây biến động mặt
bằng giá; Tăng dự trữ bắt buộc làm cho giảm tổng phương tiện thanh toán đưa vào nền kinh tế;
Chi thêm tiền để mua dự trữ ngoại tệ trong chừng mực hợp lý để không tăng tiền trong lưu
thông; Điều hoà ổn định tủ giá và cân đối ngoại tệ; Bảo đảm cung ứng đủ ngoại tệ để nhập
khẩu các vật tư nguyên liệu quan trọng, nhất là xăng dầu, sắt thép và một số vật chất chủ yếu
khác.
3.1.3. Đối với một số mặt hàng thiết yếu
3.1.3.1. Lương thực, thực phẩm

17



§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

Đẩy mạnh sản xuất lương thực thực phẩm và xuất khẩu ở mức hợp lý về lương thực,
không gây ra khan hiếm lương thực để tránh đẩy giá lương thực lên quá cao, đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia và hạn chế tốt độ tăng giá lương thực.
Bên cạnh đẩy mạnh sản suất thực phẩm thì cần có chính sách thay đổi khẩu phần ăn
uống, giảm bớt khẩu phẩn thịt trong bữa ăn, tăng khẩu phẩn rau quản để diảm bớt sự khan
hiếm thực phẩm không gây ra sức ép tăng giá.
3.1.3.2. Các mặt hàng công nghiệp.
- Giao Bộ thương mại và các địa phương kiêm tra chặt chẽ hệ thống đại lý, chống nạn
găm hàng chờ giá tăng, chống hàng giả, hàng kém chất lượng.
- Tăng cường công tác dự báo của ngành để có cơ chế điều hành kinh doanh phù hợp,
tránh tình trạng chênh lệch giá quá cao giữa các vùng trong cả nước.
- Cần có quy chế kinh doanh các sản phẩm phù hợp với tinh hình cụ thể giữa Tổng
công ty, các liên doanh, các đơn vị thành viên trong toàn hệ thống, cần thiết lập đồng bộ hệ
thống đại lý bán lẻ, tăng cường kiểm soát giá cả, tiếp thị và phương thức mua bán.
- Nghiêm cấm tất cả (nhà máy, công ty và đại lý không được để xãy ra các hành vi đầu
cơ nâng giá, gây khó dễ cho khách hàng.
- Các Bộ chỉ đạo ngành sản xuát kiểm tra tình hình sản xuất và cung ứng hàng hoá
trong thàng theo tình hình cung cầu nguyên liệu trong cả nước.
Mặc dù, trong 4 tháng đầu năm tình hình giá cả thấp hơn cùng kỳ năm trước nhung
tiềm ẩn nguy có tăng giá vẫn còn cao, do giá các mặt hàng nhập khẩu (mặt hàng công nghiệp)
trên thị trường thế giới vẫn còn xu hướng tăng làm cho các doanh nghiệp muốn có lãi phải
tăng giá mặt hàng trong nước. Điều này đòi hỏi phải điều hành nhanh nhạy không để thiệt hại
cho các doanh nghiệp nhưng cũng không để biến động tăng giá diễn ra.
Qua tình hình biến động giá cả trong giai đoạn 2004-2007, có thể rút ra một số nhận xét
như sau:
- Giá cả trong nước tăng lên một phần là do tác động của giá trên thị trường thế giới

tăng lên làm cho chi phí đối với những mặt hàng nhập khẩu (đặc biệt là nguyên liệu)
- Bên cạnh chi phí đầu vào tăng lên là sự giảm sút tổng cung hàng hoá trong nước đặc
biệt ;à thực phẩm do dịch cúm gia cầm diễn ra làm cho giá mặt hàng này tăng đột biến. Sự
giảm về số lượng do bị dịch, thì phải tính thêm cả việc phải tăng phí tổn cho xử lý hậu quả,
tiêu diệt dịch và ăng chi phí của chính phủ và của dân vào khắc phục hậu quả này.

18


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

- Ngoài việc khan hiếm thực phẩm do dịch cúm gia cầm gây ra thì giá lương thực tăng
lên còn do sự đẩy mạnh việc mua gôm để xuất khẩu gạo cũng tạo ra sự khan hiếm tương đối của lương thực đã đẩy giá của mặt hàng này lên cao. Như chúng ta đã biết,lương thực và thực
phẩm chiếm tỷ lệ lớn trong tính toán chỉ số giá tiêu dùng (47,9 %) nên tăng giá của nhóm hàng
này quyết định đến tăng giá chung của tất cả các hàng hoá có trên thị trường.
- Tổng cung tiền tệ cao hơn tổng cầu tiền tệ do chính sách kích cầu không chỉ xuất phát
từ hệ thống ngânh hàng mà còn xuất phát từ NSNN ( mà nếu tính theo vốn đầu tư thì nguồn
này có khi lớn hơn) các năm trước đó đã để lại dư chấn đẩy giá lên như trạng thái quả lắc
đánuh sang bên khác trước khi cân bằng.
- Ngoài ra còn phải kể đến những bất cập trong sản xuất, quản lý và điều hành kinh tế
từ vĩ mô đến vi mô. Sự dàn trải kém hiệu quả trong xây dưngj cơ bản, những thất thoát, thiệt
hại hay tham nhũng cũng làm tăng chi phí hay tăng lượng tiền không cần thiết ra thị trường
đưa đến giá cả khó kiểm soát được.
- Tiếp nữa là phải kể đến những nguồn tiền ngoài NSNN, ngoài sự điều hành của hệ
thống ngân hàng như nguồn tiền chuyển từ bên ngoài vào nước ta tăng lên bằng con đường
chính thức và phi chính thức, lượng tiền từ các hệ thống tài chính phi ngân hàng như quỹ hỗ
trợ phát triển, các công ty tài chính, Kho bạc nhà nước vvv … đều có thể làm lạm phát tăng
lên.

- Như vậy để chống lạm phát không chỉ có một số giải pháp riêng lẽ nào đó mà cần có
các nhóm giải pháp tổng thể và đồng bộ, từ sản xuất, quản lý thị trường, đầu tư, chi tiêu Ngân
Sách Nhà Nước đến chính sách tiền tệ, các công cụ tiền tệ, các biện pháp điều hành và quản lý.
Đồng thời phải tạo ra tâm lý an tâm trong dân, không để xảy ra các cuộc sót giá giả tạo do tâm
lý gây nên.
3.2. Chinh sách tiền tệ và chính sách tài khoá
Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ
Về cơ bản, chính sách tài khoá là chính sách thu chi của Chính phủ hay còn gọi là chính
sách ngân sách.
Còn chính sách tiền tệ là việc thực hiện tổng thể các biện pháp, sử dụng các công cụ
của Ngân hàng Trung ương nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ
mô thông qua việc chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền.
Trên thực tế, người ta thường hiểu rằng chính sách tài khoá do Bộ Tài chính chịu trách
nhiệm thực hiện còn chính sách tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước điều hành.

19


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

Một vấn đề quan trọng là cơ chế phối hợp giữa hai chính sách mà cụ thể là hai cơ quan
điều hành với nhau như thế nào để góp phần ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế.
3.2.1. Chính sách tiền tệ
Từ đầu năm đến nay, những chính sách tiền tệ linh hoạt do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam ban hành đã góp phần duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
và kiềm chế lạm phát.
Ngay trong những tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện bước cuối cùng
trong lộ trình tự do hoá lãi suất bằng việc bỏ quy định mức trần lãi suất tiền gửi USD của pháp

nhân tại tổ chức tín dụng từ ngày 1/3.
Nhằm hỗ trợ hoạt động xuất khẩu, Ngân hàng Nhà nước đã mở rộng biên độ giao dịch
ngoại tệ từ + 0,25% lên + 0,5% để tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng không giảm
xuống mức quá thấp.
Trước xu thế tăng trưởng tín dụng nửa đầu năm nay cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái,
Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các tổ chức tín dụng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp đôi để
giảm độ tăng trưởng “nóng". Khi áp dụng quy định này, một lượng tiền mặt khá lớn được rút
khỏi thị trường cũng góp phần đáng kể vào kiềm chế lạm phát.
Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng cũng được yêu cầu kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín
dụng, khống chế cho vay đầu tư chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ. Các chuyên gia tài
chính đánh giá biện pháp này thực sự cần thiết để ngăn chặn rủi ro tiềm ẩn cho cả ngân hàng,
nhà đầu tư và thị trường chứng khoán, bởi nhiều ngân hàng thương mại cổ phần đã cho vay
vượt quá tỷ lệ được coi là an toàn nói trên.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng hoan nghênh, coi đây là bước đi giúp các ngân hàng
giảm rủi ro từ thị trường chứng khoán, chủ động dự phòng trước chu kỳ bùng nổ-suy thoái về
giá chứng khoán.
Bởi vậy, việc hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý cho các hoạt động ngân hàng tiếp
tục được coi trọng, đồng thời với điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, kiểm soát
tăng trưởng tín dụng ở mức phù hợp và tăng cường thực hiện các giải pháp kiểm soát quy mô,
chất lượng tín dụng, đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu và nâng cao năng lực hoạt động và năng
lực cạnh tranh cho các tổ chức tín dụng./
Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát, thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển, bảo đảm nền kinh tế tăng
trưởng cao và bền vững. Đổi mới chính sách tiền tệ theo hướng vận dụng các công cụ chính
sách gián tiếp. Từng bước hoàn thiện chính sách tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở...,
20


§Ò ¸n m«n häc


GVHD:Nguyễn Văn Sơn

nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ, từng bước nâng cao khả năng chuyển đổi
của đồng tiền Việt Nam và có lợi cho người nghèo. Nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước
trong lĩnh vực điều hành, quản lý tiền tệ, giám sát các hoạt động tín dụng, tăng cường năng lực
của Ngân hàng Nhà nước về tổ chức, thể chế và cán bộ. Phát triển thị trường tiền tệ thứ cấp,
đặc biệt là thị trường liên ngân hàng về nội tệ và ngoại tệ. Phát triển các công cụ tài chính của
thị trường này đặc biệt là các công cụ, các giao dịch phòng tránh rủi ro về tỷ giá hối đoái.
Phát triển thị trường vốn và tiền tệ với các hình thức đa dạng thích hợp, bao gồm hệ
thống ngân hàng và các thể chế tài chính phi ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư và
bảo lãnh đầu tư... nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư trong xã hội, mở rộng nguồn vốn dài hạn
và trung hạn. Giảm mạnh các hình thức bao cấp về vốn, tín dụng.
Thực hiện hệ thống kế toán Việt Nam áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong các ngân hàng
thương mại, trong công tác điều hành và giám sát ngân hàng.
Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng vừa linh hoạt trong ngắn hạn,
vừa ổn định trong dài hạn, khuyến khích xuất khẩu, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đặc
biệt là thị trường vốn. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa
các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, đồng thời xây dựng hệ thống các biện pháp kiểm tra
chu chuyển vốn quốc tế, đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát nợ nước ngoài, kiểm soát và hạn
chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở nâng cao vị thế của đồng
Việt Nam.
Hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ thị trường mở. Có biện pháp phát triển thị trường công
trái bằng việc giới thiệu thêm hàng hóa cho thị trường mở, tạo điều kiện thu hút thành viên
tham gia thị trường nhằm từng bước hoàn thiện công cụ thị trường mở theo hướng trở thành
công cụ điều tiết tiền tệ chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước. Có sự phối hợp nhịp nhàng hơn
nữa giữa chính sách tiền tệ và quản lý nợ của Chính phủ (phát hành trái phiếu Chính phủ).
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm trên cơ sở biến thu nhập doanh nghiệp và phân tích
các thông tin để đưa ra những khuyến nghị hợp lý cho các tổ chức tín dụng nhằm giúp cho các
tổ chức tín dụng phòng chống được những rủi ro (lãi suất, tỷ giá, nợ, khả năng thanh toán...),
đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng và ổn định kinh tế vĩ mô.

Thành lập các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để xử lý các vấn đề nợ, xây dựng
các biện pháp xử lý các khoản nợ quá hạn có tài sản thế chấp theo cơ chế thị trường.
Chuyển dần cơ chế cho vay dựa trên thế chấp tài sản sang cho vay theo dự án kinh
doanh, hợp đồng kinh tế và trên cơ cở quan hệ cung - cầu của thị trường tiền tệ. Nâng cao
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng thương mại trong kinh doanh tiền tệ,
chấp nhận cạnh tranh, chủ động tìm kiếm khách hàng và dự án đầu tư để cho vay.
21


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

Cải cách hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam đang thực hiện một chiến lược cải cách hệ thống ngân hàng thương mại
nhằm khôi phục lại sự lành mạnh của cả hệ thống ngân hàng nhằm cải thiện tính an toàn, hiệu
quả của chức năng trung gian tài chính cho nền kinh tế. Chính phủ đã thông qua một chương
trình cải cách hệ thống ngân hàng với mục tiêu duy trì sự phát triển và ổn định hệ thống phù
hợp với khuôn khổ kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Trọng tâm của chương trình cải cách là các nỗ
lực mạnh mẽ nhằm ngăn ngừa sự phát sinh các khoản nợ khó đòi và thực hiện hoạt động ngân
hàng trên cơ sở thương mại một cách an toàn, hiệu quả. Để giảm những rủi ro mang tính hệ
thống trong ngành tài chính, khuyến khích phát triển lĩnh vực tài chính phi ngân hàng, củng
cố, đa dạng hóa các kênh huy động tiết kiệm và các phương thức cung cấp tài chính cho đầu tư
trung và dài hạn.
Chương trình cải cách này sẽ được thực hiện kết hợp với chương trình cải cách doanh
nghiệp nhà nước. Việc thực hiện cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước sẽ làm tăng
trách nhiệm quản lý, nâng cao tính độc lập, khả năng sinh lời và thương mại hóa hoạt động của
các ngân hàng này. Trong chương trình cải cách, các Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
(AMC) sẽ được thành lập để xử lý các khoản vay xấu. Quá trình xử lý nợ sẽ bao gồm giảm
cho vay, xóa nợ cho các doanh nghiệp nhà nước được giải thể, bán khoán cho thuê và cổ phần

hóa theo chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Cũng theo chương trình cải cách này việc cấp vốn bổ sung dần cho mỗi ngân hàng
thương mại nhà nước theo lịch trình 3 năm sẽ được thực hiện tùy theo tiến độ đáp ứng được
các điều kiện quy định của mỗi ngân hàng thương mại nhà nước về kết quả cơ cấu lại toàn
diện tổ chức hoạt động và về kết quả thu hồi các khoản nợ khê đọng hàng năm. Ngân hàng
Nhà nước sẽ tiếp tục các nỗ lực tăng cường khuôn khổ quy chế và thanh tra giám sát tất cả các
ngân hàng và sẽ tăng cường khuôn khổ quy chế đối với quyền của bên cho vay, đặc biệt là việc
tịch biên tài sản thế chấp, phát mại tài sản trên cơ sở thị trường và việc chuyển đổi quyền sử
dụng đất. Ngân hàng Nhà nước sẽ soạn thảo chính sách và thủ tục thực hiện cần thiết để áp
dụng thanh tra, giám sát ngân hàng trên cơ sở rủi ro.
Việt Nam cũng sẽ tiếp tục cơ cấu lại và tăng cường khu vực ngân hàng thương mại cổ
phần. Ngân hàng Nhà nước đã hoàn tất việc đánh giá tài chính ngân hàng thương mại cổ phần
và đã phê duyệt kế hoạch cơ cấu lại toàn bộ khu vực này. Các ngân hàng thương mại cổ phần
hoạt động yếu kém sẽ bị rút giấy phép và (hoặc) sát nhập với các ngân hàng khác. Ngân hàng
Nhà nước sẽ ngày càng hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
các ngân hàng thương mại cổ phần mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh của mình trên
cơ sở cạnh tranh bình đẳng và đúng pháp luật, hoàn tất được việc chấn chỉnh, củng cố theo đề

22


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

án đã được phê duyệt, đồng thời cũng kiên quyết xử lý đối với những ngân hàng yếu kém và vi
phạm pháp luật.
Tạo dựng môi trường thuận lợi, ổn định cho hoạt động tín dụng và tiết kiệm vi mô để
hệ thống tài chính nông thôn hoạt động linh hoạt và đáp ứng nhu cầu của người nghèo. Cải
cách và đổi mới hệ thống tài chính và tín dụng nông thôn, đa dạng hóa các hình thức tín dụng,

tạo điều kiện đầu tư vốn thuận lợi, thu hút đầu tư tư nhân vào sản xuất và chế biến nông sản.
3.2.2. Chính sách tài khoá
Việt Nam đã xác định cần sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển vào trước năm 2010,
tạo đà phát triển để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được
mục tiêu này thì một trong những nhiệm vụ quan trọng là Việt Nam cần phải xây dựng được
một nền tài chính quốc gia đủ mạnh để điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh về
bền vững, giải quyết các vấn đề xã hội.
Như vậy, điều này cũng đồng nghĩa với chính sách tài chính - ngân sách cần được đổi
mới, phù hợp hơn với cơ chế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; có khả năng
động viên tối đa, nâng cao hiệu quả quản lý, phân phối và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các
nguồn nội lực và ngoại lực.
Để thực hiện được mục tiêu đến năm 2010 như đã nêu trên, thì tỷ lệ huy động vào ngân
sách Nhà nước cần ở khoảng 21-22% GDP; kiểm soát và duy trì tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà
nước ở mức không quá 5% GDP; kiểm soát nợ Chính phủ, nợ ngoài nước của quốc gia đều ở
mức không quá 50% GDP; hình thành đồng bộ các loại thị trường, trong đó có thị trường vốn
và dịch vụ tài chính, thị trường bất động sản; hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
nhà nước, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp; đồng thời tăng
cường tính công khai, minh bạch trong hệ thống tài chính.
Để một nền tài chính quốc gia đủ mạnh đạt được mục tiêu trên, trong khuôn khổ Hội
nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam vừa được tổ chức tại Hà Nội, đại diện Bộ Tài
chính cho biết một số nhiệm vụ và giải pháp tài chính - ngân sách trong giai đoạn 2006 –
2010, đó là:
Về chính sách tài khoá, tập trung cải cách cơ chế xây dựng dự toán ngân sách Nhà
nước, trong đó chú trọng đến kế hoạch ngân sách trung và ngắn hạn mang tính khả thi gắn với
việc quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, nhằm phục vụ tốt cho việc thực hiện các chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập. Đồng thời, tiến hành rà soát tổng thể
các cơ chế, chính sách hiện hành để bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc của WTO và yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế, bao gồm cơ chế chính sách tài chính liên quan trợ cấp.

23



§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

Nâng cao vai trò định hướng phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nước trong
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, trong đó vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước tập trung chủ
yếu cho xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, và bảo đảm vốn cho các công
trình trọng điểm quốc gia và các mục tiêu, nhiệm vụ ưu tiên của chiến lược như đầu tư phát
triển con người nhằm tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, điều chỉnh cơ cấu đầu tư để đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách tài chính cho tăng trưởng bền
vững, xoá đói, giảm nghèo.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp, vừa bảo đảm tập trung thống nhất, vai trò chủ đạo
và điều phối của ngân sách trung ương, vừa phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm và
tính chủ động trong quản lý ngân sách của các bộ, ngành địa phương và đơn vị thụ hưởng kinh phí
ngân sách.
Về cải cách hệ thống chính sách thuế và hải quan, triển khai có hiệu quả chương trình
cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 với mục tiêu xây dựng một hệ thống chính sách thuế
đồng bộ, công bằng, hiệu quả, minh bạch và công khai nhằm khuyến khích các thành phần
kinh tế phát triển, bảo đảm nguồn lực tài chính lâu dài và bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể, ban hành Luật Thuế thu nhập cá nhân; sửa
đổi Luật thuế giá trị gia tăng nhằm bảo đảm công bằng và đơn giản, hoàn thiện phương pháp
tính thuế, khấu trừ phù hợp với thông lệ quốc tế; sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt theo
hướng mở rộng đối tượng chịu thuế và không phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước,
hàng nhập khẩu; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm giảm mức thuế suất, diện miễn giảm
và hướng tới thống nhất mức ưu đãi giữa các thành phần kinh tế; hoàn thiện chính sách thuế về
sử dụng đất, thuế tài nguyên như ban hành Luật Thuế bảo vệ môi trường, Luật Thuế tài sản.
Xây dựng và triển khai Luật Quản lý thuế; áp dụng rộng rãi cơ chế tự khai, tự nộp thuế trong
quản lý thuế kết hợp với hiện đại hoá công tác quản lý thuế, hiện đại hoá hệ thống hải quan;

chuẩn bị các điều kiện cần thiết về hệ thống pháp lý để nhanh chóng gia nhập Nghị định thư
sửa đổi Công ước Kyoto của Hải quan Thế giới.
Về thị trường vốn, tiếp tục phát triển thị trường vốn thành một kênh huy động vốn dài
hạn, an toàn, có hiệu quả cao cho đầu tư phát triển và từng bước hội nhập với thị trường vốn
khu vực và thế giới. Đa dạng hoá các loại trái phiếu Chính phủ làm chuẩn mực cho các công
cụ nợ; khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn dưới hình thức phát
hành cổ phần, trái phiếu; đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là gắn cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm tăng
cường khả năng huy động vốn và tạo tiền đề phát triển thị trường chứng khoán. Hoàn thiện thể
chế hoạt động của thị trường chứng khoán, phát triển hệ thống các định chế tài chính trung
gian, mở rộng thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức (qua Sở Giao dịch chứng khoán,
24


§Ò ¸n m«n häc

GVHD:Nguyễn Văn Sơn

Trung tâm giao dịch chứng khoán) và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán phi tập
trung.
Tăng cường tính công khai, minh bạch của thị trường; thực hiện giám sát và cưỡng chế
thực thi nghiêm ngặt; áp dụng nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ quốc tế đối với các
công ty niêm yết, công ty đại chúng. Từng bước mở rộng sự tham gia của các nhà đầu tư nước
ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam theo cam kết hội nhập; tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp Việt Nam, trước mắt là các doanh nghiệp lớn, tham gia vào thị trường vốn quốc
tế.
Về cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, đồng bộ hoá hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật và cải cách thủ tục hành chính về tài chính; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ,
củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý tài chính - ngân sách; tiêu chuẩn hoá cán bộ tài
chính, xây dựng đội ngũ công chức tài chính đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý và có trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cao. Hiện đại hoá quản lý tài chính - ngân sách, áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý trước hết là lĩnh vực thuế, hải
quan, kho bạc; tiến tới thực hiện thống nhất các quy trình nghiệp vụ quản lý, điều hành công
tác tài chính theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế.
3.2.3. Tác động của Chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá
Chính sách tiền tệ vẫn thắt chặt trong khi chính sách tài khoá lại nới lỏng khiến
áp lực lạm phát và lãi suất dâng cao. Đó là lý do chính khiến các chuyên gia cho rằng,
Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính lệch pha nhau trong việc điều hành chính sách tài
chính - tiền tệ.
Tại cuộc hội thảo khoa học về Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa ở Việt Nam vừa được tổ chức tại Hà Nội, nhiều ý kiến đã cho rằng, hai
chính sách quan trọng này của Việt Nam vẫn chưa được nhịp nhàng với nhau. Thậm chí, có
chuyên gia còn cho rằng, trong tình hình nguy cơ lạm phát như hiện nay, hai chính sách này
cũng không đồng nhất trong mục tiêu hướng tới. Chính sách tiền tệ vẫn bị thắt chặt trong khi
chính sách tài khoá lại nới lỏng khiến áp lực lạm phát vẫn cao và lãi suất cũng cao.
Tuy nhiên, chính sách tiền tệ lại được thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát như tăng dự
trữ bắt buộc, tăng lãi suất tái chiết khấu, tăng các lãi suất chỉ đạo khác... Việc sử dụng chính
sách tiền tệ thận trọng đã góp phần kiềm chế lạm phát ở mức một con số.
Đề đạt được mục tiêu huy động vốn phục vụ cho các mục đích của Chính phủ (trong đó
có bù đắp thâm hụt ngân sách), thông thường lãi suất trái phiếu thường cao hơn lãi suất huy
động của các ngân hàng thương mại. Điều này đã làm cho luồng tiền vốn dịch chuyển từ khu

25


×