Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

VĂN bản CÔNG CHỨNG và GIÁ TRỊ PHÁP LÝ của văn bản CÔNG CHỨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.87 KB, 32 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ CÁC CHỨC DANH KHÁC
----------------------

BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN
CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ NGHỀ CÔNG CHỨNG

Chuyên đề: Văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 8 năm 2020


MỤC LỤC
Mở đầu........................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu......................................................................... 1
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu............................................................2
2.1. Mục đích nghiên cứu........................................................................................2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................... 3
2.3. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................3
3. Cơ cấu của bài báo cáo........................................................................................... 3
Chương I: Khái quát chung về công chứng, văn bản công chứng...................... 4
1. Khái niệm, đặc điểm của công chứng.....................................................................4
1.1. Khái niệm công chứng..................................................................................... 4
1.2. Đặc điểm của công chứng................................................................................ 5
2. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về công chứng ở Việt Nam.......7
2.1. Trước năm 1945............................................................................................... 7
2.1.1. Thời kỳ phong kiến................................................................................... 7
2.1.2. Thời kỳ Pháp thuộc................................................................................... 7
2.2. Từ năm 1945 đến trước khi có Luật Công chứng............................................8
2.2.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1991......................................................... 8
2.2.2. Thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2006......................................................... 8


2.3. Từ khi có Luật Công chứng đến nay............................................................. 10
2.3.1. Luật Công chứng năm 2006.................................................................... 10
2.3.2. Luật Công chứng năm 2014.................................................................... 10
3. Khái niệm, đặc điểm của văn bản công chứng.....................................................10
3.1. Khái niệm văn bản công chứng..................................................................... 10
3.2. Đặc điểm của văn bản công chứng................................................................ 12
Chương II: Quy định pháp luật về giá trị pháp lý của văn bản công chứng... 15
1. Một số quy định về hiệu lực và giá trị pháp lý của văn bản công chứng............ 15
1.1. Hiệu lực của văn bản công chứng..................................................................15
1.2. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng........................................................ 16
1.2.1. Giá trị thi hành của văn bản công chứng................................................ 17
1.2.2. Giá trị chứng cứ không phải chứng minh của văn bản công chứng.......18
i


2. Một số quy định pháp luật có ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của văn bản công
chứng......................................................................................................................... 20
2.1. Tiêu chuẩn của công chứng viên................................................................... 20
2.2. Trình tự, thủ tục công chứng..........................................................................21
2.3. Lưu trữ hồ sơ công chứng.............................................................................. 22
2.4. Trách nhiệm pháp lý của công chứng viên....................................................23
2.5. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong tổ chức và hoạt động công
chứng.…....................................................................................................................23
Chương III: Giải pháp, kiến nghị các quy định của pháp luật về văn bản công
chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng...............................................24
1. Nâng cao nhận thức về công chứng......................................................................24
2. Giải pháp, kiến nghị các quy định của pháp luật về giá trị văn bản công chứng 25
2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về giá trị chứng cứ không phải
chứng minh................................................................................................................25
2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về giá trị thi hành............................ 26

Kết luận.................................................................................................................... 28
Danh mục tài liệu tham khảo.................................................................................29

ii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Hiện nay cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội thì vai trò, vị trí của pháp
luật trong đời sống cũng ngày càng được nâng cao. Các giao dịch dân sự về mua
bán, tặng cho, chuyển nhượng, thế chấp ngày càng phổ biến. Các giao dịch này
mang lại lợi ích về kinh tế tuy nhiên cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro, dẫn đến
những hậu quả bất lợi, những tranh chấp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các
bên tham gia vào giao dịch. Công chứng chính là một giải pháp hiệu quả và được
nhiều người lựa chọn để giải quyết vấn đề này. Nhận thấy được hiện trạng này,
Nhà nước đã đưa ra các quy định để đảm bảo về giá trị pháp lý của văn bản, giấy
tờ được công chứng.
Việc tham gia vào quá trình giao kết hợp đồng của công chứng viên có thể
được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau và kết quả cuối cùng của quá
trình đó được thể hiện dưới một hình thức chung nhất là những hợp đồng, giao
dịch đã được công chứng hay còn gọi là văn bản công chứng.
Các văn bản công chứng có giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn hẳn các loại giấy
tờ không có chứng nhận xác thực hoặc chỉ trình bày bằng miệng. Các văn bản
công chứng bảo đảm sự an toàn của các giao dịch từ đó tạo nên sự yên tâm, tin
tưởng của khách hàng, hạn chế đến mức thấp nhất các tranh chấp có thể xảy ra. Từ
đó cũng góp phần làm giảm đáng kể việc giải quyết tranh chấp luôn là gánh nặng
của các cơ quan chức năng và giúp các cơ quan chức năng quản lý tốt hơn các hoạt
động giao dịch.
Theo thông lệ của các nước có hệ thống công chứng La tinh, văn bản công
chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành. Gía trị thi hành và giá trị chứng cứ

của văn bản công chứng thể hiện ở chỗ các hợp đồng, giao dịch đã được công
chứng thì có hiệu lực thi hành đối với các bên tham gia trong hợp đồng, giao dịch
đó và có hiệu lực với bên thứ ba. Nếu vì một lý do nào đó mà một bên không thực
hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy
định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa
thuận khác.
1


Trong trường hợp muốn bác bỏ hiệu lực của văn bản công chứng thì phải khởi
kiện ra tòa án và khi đó thì các tình tiết, sự kiện đã ghi trong hợp đồng, giao dịch
đó sẽ trở thành chứng cứ hiển nhiên trước tòa, không cần phải xác minh, người
muốn bác bỏ nó phải xuất trình được chứng cứ ngược lại. Đặc điểm nêu trên của
văn bản công chứng có ý nghĩa rất lớn thể hiện vai trò phòng ngừa, bảo đảm an
toàn pháp lý cho các bên trong hợp đồng, giao dịch, đồng thời hạn chế được rất
nhiều các vụ kiện tụng ra Tòa án gây tốn kém, lãng phí. Luật Công chứng năm
2014 nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập về thể chế, tạo cơ sở pháp lý cho
bước phát triển mới của hoạt động công chứng theo chủ trương xã hội hóa, nâng
cao chất lượng và tính bền vững của hoạt động công chứng, từng bước phát triển
nghề công chứng ở Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế, đưa công chứng nước
ta tiến gần hơn với thông lệ của Công chứng La tinh trên thế giới, thể hiện vai trò
của công chứng với chức năng bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp
đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, đồng thời hạn chế nhiều vụ kiện tại Tòa
án. Bên cạnh Luật Công chứng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cũng
có những quy định liên quan đến giá trị pháp lý của văn bản công chứng như Bộ
luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Hộ tịch…
Tuy nhiên, hiện nay Luật Công chứng năm 2014 đang bộc lộ những hạn chế, bất
cập như văn bản công chứng không đạt được một sức mạnh chứng cứ và hiệu lực
cưỡng chế thi hành như một văn bản của cơ quan công quyền, một số quy định còn
chưa rõ hoặc có nội dung chồng chéo, thậm chí vô hiệu dẫn đến tình trạng nhiều cơ

quan, tổ chức và cá nhân chưa nhận thức đúng, đầy đủ về văn bản công chứng
cũng như giá trị pháp lý của loại văn bản này. Chính vì lý do đó, học viên lựa chọn
đề tài “Văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng” làm đề tài
báo cáo kết thúc học phần.
2. Mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần làm rõ các vấn đề về văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn
bản công chứng; đánh giá đúng thực trạng văn bản công chứng và giá trị pháp lý

2


của văn bản công chứng hiện nay; đề xuất các giải pháp giúp hoàn thiện văn bản
công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức chung về văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn
bản công chứng đưa ra khái niệm, đặc điểm. Đánh giá những kết quả đạt được, làm
rõ những tồn tại, hạn chế của văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản.
Đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện văn bản công chứng.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài báo cáo là văn bản công chứng và giá trị pháp lý
của văn bản công chứng, tập trung vào một số nội dung chủ yếu như: xác định rõ
khái niệm về công chứng và văn bản công chứng; hình thức, những nội dung cơ
bản của văn bản công chứng; làm rõ giá trị chứng cứ không phải chứng minh và
giá trị thi hành của văn bản công chứng; đề xuất quan điểm, định hướng nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật về văn bản công chứng và giá trị pháp lý của
văn bản công chứng, đồng thời xây dựng cơ chế bảo đảm quy định của pháp luật
về giá trị thi hành của văn bản công chứng.
3. Cơ cấu của bài báo cáo
Bài báo cáo gồm 3 chương:

Chương I: Khái quát chung về công chứng và văn bản công chứng.
Chương II: Thực tiễn pháp luật Việt Nam về giá trị pháp lý của văn bản công
chứng.
Chương III: Giải pháp, kiến nghị các quy định của pháp luật đối với văn bản công
chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng.

3


CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG VÀ VĂN BẢN CÔNG CHỨNG
1. Khái niệm, đặc điểm của công chứng
1.1. Khái niệm công chứng
Có thể nói cuộc sống của mỗi con người chính là sự tổng hòa của nhiều mối
quan hệ, trong đó những quan hệ về giao dịch dân sự được diễn ra ngày càng phổ
biến. Việc mua bán, trao đổi hàng hóa, tài sản nói chung không chỉ được thực hiện
thông qua giao dịch bằng miệng mà còn dưới hình thức giao dịch bằng văn bản.
Người có tài sản (theo quy định của Bộ luật Dân sự) có quyền định đoạt tài sản của
mình theo nhiều hình thức bằng văn bản như: mua bán, tặng cho, thế chấp, để lại
thừa kế bằng di chúc….. Các quan hệ giao dịch đó phải được xác lập và thực hiện
theo một trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Một số trường hợp hợp đồng,
giao dịch liên quan đến việc định đoạt tài sản như hợp đồng, giao dịch về chuyển
nhượng quyền sử dụng đất; chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất; hợp đồng thế chấp tài sản…. pháp luật quy định bắt buộc phải công chứng
hoặc chứng thực thì các bên tham gia giao dịch phải tuân thủ và không thể làm trái.
Mặt khác, theo quy định của pháp luật về dân sự nói chung và Luật Công
chứng nói riêng thì các hợp đồng, giao dịch dân sự được thực hiện theo nguyên tắc
chung là phải có sự thỏa thuận về ý chí, đảm bảo về năng lực hành vi dân sự của
các bên tham gia giao kết hợp đồng; đồng thời các hợp đồng, giao dịch phải có
mục đích và nội dung không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Ngoài các hợp đồng,

giao dịch mà pháp luật bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực thì các giao dịch
khác như hợp đồng thuê nhà, hợp đồng đặt cọc… nếu đáp ứng được các quy định
của pháp luật và các bên tham gia có yêu cầu công chứng thì vẫn được công chứng.
Một công việc khác cũng được quy định trong thẩm quyền công chứng đó là
việc công chứng bản dịch các giấy tờ, văn bản và được quy định chi tiết tại Điều
61, Luật công chứng năm 2014. Theo đó, việc dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt
sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt để công chứng phải
do người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức hành nghề công chứng thực hiện.
Cộng tác viên phải là người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ hoặc đại học khác mà
4


thông thạo thứ tiếng nước ngoài đó. Cộng tác viên phải chịu trách nhiệm đối với tổ
chức hành nghề công chứng về tính chính xác, phù hợp của nội dung bản dịch do
mình thực hiện. Công chứng viên tiếp nhận bản chính giấy tờ, văn bản cần dịch,
kiểm tra và giao cho người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình thực hiện.
Người phiên dịch phải ký vào từng trang của bản dịch trước khi công chứng viên
ghi lời chứng và ký vào từng trang của bản dịch. Từng trang của bản dịch phải
được đóng dấu chữ “Bản dịch” vào chỗ trống phía trên bên phải; bản dịch phải
được đính kèm với bản sao của bản chính và được đóng dấu giáp lai. Lời chứng
của công chứng viên đối với bản dịch phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công chứng,
họ tên công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng; họ tên người phiên
dịch; chứng nhận chữ ký trong bản dịch đúng là chữ ký của người phiên dịch;
chứng nhận nội dung bản dịch là chính xác, không vi phạm pháp luật, không trái
đạo đức xã hội; có chữ ký của công chứng viên và đóng dấu của tổ chức hành nghề
công chứng. Công chứng viên không được nhận và công chứng bản dịch trong các
trường hợp như công chứng viên biết hoặc phải biết bản chính được cấp sai thẩm
quyền hoặc không hợp lệ; bản chính giả; giấy tờ, văn bản được yêu cầu dịch đã bị
tẩy xoá, sửa chữa, thêm, bớt hoặc bị hư hỏng, cũ nát không thể xác định rõ nội
dung; giấy tờ, văn bản được yêu cầu dịch thuộc bí mật nhà nước; giấy tờ, văn bản

bị cấm phổ biến theo quy định của pháp luật.
Việc công chứng các hợp đồng, giao dịch và công chứng bản dịch phải do công
chứng viên làm việc tại một tổ chức hành nghề công chứng thực hiện.
Do vậy, theo Khoản 1, Điều 2, Luật Công chứng năm 2014 thì: “Công chứng
là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính
xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây
gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội
của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng
nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp
luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.
1.2. Đặc điểm của công chứng
Hoạt động công chứng vừa mang tính công quyền vừa mang tính chất dịch vụ
công. Tính công quyền được thể hiện ở chổ đó là công chứng viên của Phòng công
5


chứng hay Văn phòng công chứng đều do Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm. Công
chứng viên nhân danh Nhà nước trong quá trình thực hiện hoạt động công chứng,
chứng thực. Nếu như thời điểm trước chỉ có Phòng công chứng (công chứng Nhà
nước) thì bây giờ nhằm đáp ứng nhu cầu về công chứng, chứng thực của người dân
Nhà nước đã cho phép được thành lập các Văn phòng công chứng (công chứng tư
nhân). Các Văn phòng công chứng được nhà nước trao quyền để thực hiện các dịch
vụ mang tính chất công với mục đích nhằm giảm bớt gánh nặng về công chứng,
chứng thực cho các Phòng công chứng, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Khi hành
nghề công chứng, bên cạnh việc tuân thủ các quy định của pháp luật về công
chứng, công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng còn phải tuân thủ theo
các nguyên tắc được quy định trong pháp luật nội dung như Hiến pháp, Bộ luật
Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Hôn nhân và gia đình…. Hoạt động công
chứng được xác định là một nghề, do vậy ngoài phải tuân thủ theo các quy định tại
Luật Công chứng và các văn bản pháp luật hướng dẫn liên quan thì còn phải tuân

thủ theo các nguyên tắc hành nghề công chứng. Đây chính là quy định có ý nghĩa
xuyên suốt trong quá trình hành nghề của công chứng viên. Theo quy định tại Điều
4, Luật Công chứng năm 2014 thì nguyên tắc hành nghề công chứng của công
chứng viên gồm 4 nguyên tắc đó là “(1) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; (2)
Khách quan, trung thực; (3) Tuân theo quy tắc đạo đức hành nghề công chứng; (4)
Chịu trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công
chứng”. Do vậy, để đảm bảo được giá trị pháp lý của văn bản công chứng cũng
như an toàn cho công chứng viên thì hoạt động công chứng có những đặc điểm sau
đây:
Thứ nhất, hoạt động công chứng phải do công chứng viên thực hiện. Công
chứng viên là người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, kiểm tra các giấy tờ, xác
định năng lực hành vi dân sự, giải thích cho các bên hiểu rõ về quyền lợi, nghĩa vụ
và hậu quả pháp lý sau khi ký kết hợp đồng, giao dịch.
Thứ hai, nội dung công chứng là xác định tính xác thực, tính hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã
được công chứng viên xác nhận.
6


Thứ ba, có hai loại hợp đồng giao dịch thực hiện hoạt động công chứng, đó là
các loại hợp đồng giao dịch theo yêu cầu của pháp luật bắt buộc phải công chứng
và các hợp đồng giao dịch do cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Thứ tư, ý nghĩa pháp lý của hoạt động công chứng là bảo đảm giá trị thực hiện
cho các hợp đồng giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và cung cấp chứng cứ nếu có
tranh chấp xảy ra.
2. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về công chứng ở Việt
Nam
Sự hình thành và phát triển công chứng Việt Nam gắn liền với các giai đoạn
lịch sử của nước ta và được chia thành các giai đoạn sau:
2.1. Trước năm 1945

2.1.1. Thời kỳ phong kiến
Cấu trúc bộ máy Nhà nước của chế độ phong kiến đó là tập trung quyền lực
vào một người - vua. Việc tổ chức các cơ quan hành pháp, tư pháp theo bổ nhiệm,
không qua dân chủ bầu cử. Việc thực hiện các quan hệ, giao dịch dân sự của cá
nhân mang tính tự phát. Hình thức văn bản giao dịch dân sự chủ yếu là được lập
dưới dạng văn tự, nội dung còn đơn giản. Trong trường hợp nếu có tranh chấp xảy
ra thì việc giải quyết tranh chấp được thực hiện tại cấp làng, xã hoặc cao hơn là
kéo nhau lên quan phủ, quan huyện để phân giải.
2.1.2. Thời kỳ Pháp thuộc
Công chứng đã có ở Việt Nam kể từ khi thực dân Pháp xâm lược và coi Việt
Nam là một nước thuộc địa. Hoạt động công chứng lúc này chủ yếu phục vụ cho
chính sách cai trị của Pháp tại Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Tiêu
biểu là sắc lệnh ngày 24 tháng 8 năm 1931 của Tổng thống Cộng hòa Pháp về tổ
chức công chứng (được áp dụng ở Đông Dương theo quyết định ngày 7 tháng 10
năm 1931 của Toàn quyền Đông Dương P.Pasquies). Theo đó, người thực hiện
công chứng là công chứng viên mang quốc tịch Pháp do Tổng thống Pháp bổ
nhiệm và giữ chức vụ suốt đời. Khi đó Việt Nam chỉ có một văn phòng công chứng
ở Hà Nội, ba văn phòng công chứng ở Sài Gòn. Ngoài ra ở các thành phố Hải
Phòng, Nam Định, Đà Nẵng thì việc công chứng do Chánh lục sự Tòa án sơ thẩm
kiêm nhiệm.
7


2.2. Từ năm 1945 đến trước khi có Luật Công chứng
2.2.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1991
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, ngày 01 tháng 10 năm 1945 Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Vũ Trọng
Khánh đã ký quyết định về một số vấn đề liên quan đến hoạt động công chứng như:
bãi chức công chứng viên người Pháp tên là Deroche tại văn phòng công chứng; bổ
nhiệm một công chứng viên người Việt Nam là ông Vũ Quý Vỹ để tiếp tục duy trì

hoạt động công chứng. Các quy định về công chứng của Pháp vẫn được áp dụng,
trừ những quy định không phù hợp với chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Để đáp ứng các nhu cầu giao dịch dân sự của nhân dân, ngày 15 tháng 11 năm
1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 59/SL quy định về thể lệ thị thực các
giấy tờ trong đó có chứng thực các giao dịch về bất động sản. Xét về nội dung đây
chỉ là một thủ tục hành chính càng về sau việc áp dụng Sắc lệnh 59/SL càng mang
tính hình thức, chủ yếu xác nhận ngày tháng năm, chữ ký và địa chỉ thường trú của
đương sự. Sau đó, vào ngày 29 tháng 2 năm 1952 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban
hành Sắc lệnh số 85/SL quy định về thể lệ trước bạ về các việc mua, bán, cho, đổi
nhà cửa, ruộng đất. Do hoàn cảnh lịch sử bấy giờ Sắc lệnh số 85/SL chỉ áp dụng
đối với những vùng thuộc Ủy ban kháng chiến. Cũng theo sắc lệnh này, Ủy ban
kháng chiến cấp xã hoặc thị xã được nhận thực vào văn tự theo hai nội dung: nhận
thực chữ ký của các bên mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất; nhận thực người
đứng ra bán, cho, đổi là chủ của những nhà cửa, ruộng đất, đem bán, cho hay đổi.
Theo quy định của Nghị định số 143/HĐBT ngày 22 tháng 11 năm 1981 do
Hội đồng Bộ trưởng ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức
của Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp đã ra Thông tư số 574/QLTPK ngày 10 tháng 10 năm
1987 về hướng dẫn thực hiện công tác công chứng Nhà nước để Ủy ban nhân dân
các cấp thực hiện; đồng thời có sự chỉ đạo để Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh thí điểm thành lập Phòng công chứng Nhà nước. Sau đó, để tạo điều kiện
cho các địa phương tiếp cận gần hơn với hoạt động công chứng, Bộ Tư pháp đã
ban hành tiếp Thông tư số 858/QLTPK ngày 15 tháng 10 năm 1987 hướng dẫn
thực hiện các việc làm công chứng. Tại thời điểm này, chủ thể thực hiện công
chứng duy nhất là Phòng công chứng.
8


Tại miền Nam Việt Nam sau khi pháp rút khỏi Việt Nam vào năm 1954, công
chứng dưới thời chính quyền Ngụy- Sài Gòn được điều chỉnh bằng văn bản Dụ số
43 ngày 29 tháng 11 năm 1954 quy định về ngạch chưởng khế (chưởng khế là

người Việt Nam) do Bảo Đại ký với tư cách là Quốc trưởng. Mục đích ban hành
chưởng khế là nhằm thiết lập trong quản hạt của mỗi Tóa án cấp sơ thẩm thuộc Bộ
Tư pháp có một phòng công chứng, song trên thực tế chỉ thiết lập được duy nhất
một văn phòng chưởng khế tại Sài Gòn và văn phòng đó đã hoạt động cho đến năm
1975.
2.2.2. Thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2006
Trước những yêu cầu về giao dịch dân sự ngày càng phát triển để tăng cường
vai trò quản lý của Nhà nước và đảm bảo cho các giao dịch dân sự an toàn về pháp
lý, tránh sự tranh chấp, rủi ro cho các cá nhân, tổ chức khi họ tham gia ký kết các
hợp đồng giao dịch, Chính phủ đã ban hành một số nghị định về công chứng gồm:
Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 về tổ chức và hoạt động công chứng
nhà nước gồm 4 chương, 36 điều. Lần đầu tiên trong văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam khái niệm về công chứng được đưa ra: “Công chứng Nhà nước là
việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp
luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan Nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phòng
ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Trong Nghị định
đã quy định các nguyên tắc chung, các điều kiện để công chứng và các việc công
chứng. Nghị định này có hiệu lực đến hết ngày 17/5/1996.
Ngày 18/5/1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/CP về tổ chức và hoạt
động công chứng Nhà nước. Nghị định này gồm có 6 chương, 36 điều. Nghị định
này có hiệu lực đến ngày 31/3/2001.
Ngày 08/12/2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công
chứng chứng thực có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2001, gồm có 10 chương,
75 điều. Đây là Nghị định quy định ghép về công chứng và chứng thực trong một
văn bản quy phạm. Tại Điều 2, Nghị định này quy định về công chứng như sau:
“Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng
được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế,
9



thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực
hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này”. Nghị định này chấm dứt hiệu
lực thi hành vào ngày 01/7/2007.
2.3. Từ khi có Luật Công chứng đến nay
2.3.1. Luật Công chứng năm 2006
Từ ngày 17/10 đến ngày 29/11/2006, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã ra Nghị quyết thông qua Luật Công
chứng năm 2006, Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2007. Lần đầu tiên
trong Luật Công chứng năm 2006 đưa ra khái nệm mới về công chứng: “Công
chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo
quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu
công chứng”. Trong Luật Công chứng năm 2006 đã xác định công chứng là một
nghề, công chứng viên là người hành nghề công chứng. Với kết cấu 8 chương, 67
điều, bao gồm các chế định về phần chung, về tổ chức và hoạt động công chứng,
về quản lý Nhà nước về công chứng. Luật Công chứng năm 2006 là bước đột phá
mới về công chứng, đưa hoạt động công chứng ở Việt Nam đi vào chuyên nghiệp
hóa, chuyển dần xã hội hóa hoạt động công chứng.
2.3.2. Luật Công chứng năm 2014
Trước yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước thì Luật Công chứng năm
2014 được ban hành thay thế Luật Công chứng năm 2006 và có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01/01/2015. Với kết cấu 10 chương, 81 điều. Sau khi Luật Công chứng
năm 2014 có hiệu lực thi hành, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/2015/NĐ-CP
ngày 15/3/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công
chứng. Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng.
3. Khái niệm, đặc điểm của văn bản công chứng
3.1. Khái niệm văn bản công chứng
Theo hệ thống pháp luật của các nước theo trường phái công chứng La tinh thì

văn bản công chứng chính là sản phẩm của công chứng viên do công chứng viên
soạn thảo hoặc xác nhận đáp ứng được những yêu cầu chính xác về mặt nội dung,
10


hình thức và có giá trị pháp lý cao. Ở những nước theo hệ thống luật thành văn,
những nhà lập pháp tin tưởng coi công chứng viên như những công chức Nhà nước
và văn bản do họ soạn thảo, chứng nhận có giá trị như văn bản của cơ quan công
quyền. Theo Điều 7, Nghị định 45-HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1992 về tổ chức và
hoạt động công chứng nhà nước thì “Văn bản công chứng phải được thể hiện rõ
ràng và theo đúng mẫu thống nhất do Bộ Tư pháp quy định. Hồ sơ, văn bản công
chứng và sổ công chứng phải được lưu trữ, bảo quản đầy đủ, chặt chẽ, lâu dài tại
phòng công chứng Nhà nước”. Như vậy, vào năm 1992 thuật ngữ văn bản công
chứng đã được sử dụng nhưng các nhà làm luật vẫn chưa đưa ra khái niệm một
cách cụ thể và chính xác. Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 về tổ
chức và hoạt động công chứng nhà nước thay thế nghị định 45/HĐBT cụ thể là bên
cạnh thuật ngữ công chứng còn có nội dung công chứng quy định “Nội dung công
chứng phải được thể hiện rõ ràng và theo đúng mẫu thống nhất do Bộ Tư pháp quy
định. Các văn bản công chứng phải được công chứng viên ký, đóng dấu và ghi vào
sổ công chứng.” Với sự hoàn thiện và phát triển của các chế định công chứng qua
các thời kỳ, có thể thấy rằng đến thời điểm này các quy định mang tính nền tảng;
nội dung, hình thức của văn bản công chứng đã dần hình thành một cách rõ nét.
Đến năm 2006, Luật Công chứng ra đời thì khái niệm và nhiều quy định của văn
bản công chứng đã dần hoàn thiện hơn. Theo quy định tại Điều 4, Luật Công
chứng năm 2006 thì: “Hợp đồng, giao dịch bằng văn bản đã được công chứng theo
quy định của Luật này gọi là văn bản công chứng.Văn bản công chứng bao gồm
các nội dung sau đây: Hợp đồng, giao dịch; Lời chứng của công chứng viên. Văn
bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và có đóng dấu
của tổ chức hành nghề công chứng.” Qua đó khẳng định văn bản công chứng gồm
hai bộ phận là hợp đồng, giao dịch và phần lời chứng của công chứng viên. Tuy

nhiên theo quy định tại Khoản 4, Điều 2, Luật Công chứng năm 2014 thì: “Văn bản
công chứng là hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã được công chứng viên chứng nhận
theo quy định của Luật này”. Như vậy, văn bản công chứng được chia thành hai
nhóm chính đó là:
- Hợp đồng, giao dịch đã được công chứng viên chứng nhận theo quy định của
Luật Công chứng.
11


- Bản dịch đã được công chứng viên chứng nhận theo quy định của Luật Công
chứng.
3.2. Đặc điểm của văn bản công chứng
Hoạt động công chứng góp phần tích cực và quan trọng trong việc phòng ngừa
tranh chấp và vi phạm pháp luật, cung cấp các tài liệu có giá trị chứng cứ phục vụ
cho việc giải quyết tranh chấp. Do đó để đảm bảo được những giá trị trên thì văn
bản công chứng phải đáp ứng được những đặc điểm sau:
Thứ nhất đó là tính chính xác.
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 45, Luật Công chứng năm 2014 thì văn bản
công chứng phải chính xác về thời điểm công chứng. Ngày, tháng, năm phải chính
xác vì đó là ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng, giao dịch; ngày, tháng, năm công
chứng viên ký là ngày văn bản công chứng có hiệu lực thi hành; ngày, tháng, năm
trong lời chứng của công chứng viên phải được thể hiện bằng số và bằng chữ.
Trong một số trường hợp như công chứng di chúc, theo yêu cầu của người yêu cầu
công chứng hoặc công chứng viên thấy cần thiết thời gian công chứng còn phải
chính xác cả giờ, phút. Các số liệu sau phần ghi bằng số phải ghi bằng chữ để tránh
sửa chữa, sai lệch.
Có thể nói chủ thể yêu cầu công chứng là yếu tố quyết định đến tính chính xác
của văn bản công chứng. Việc chính xác về chủ thể yêu cầu công chứng có vai trò
rất quan trọng trong việc đảm bảo được giá trị pháp lý của văn bản công chứng.
Chủ thể yêu cầu công chứng là cá nhân hoặc pháp nhân phải có đủ năng lực hành

vi dân sự theo quy định của pháp luật; thông tin về chủ thể phải đầy đủ, đúng với
những giấy tờ mà họ đã cung cấp vì nếu có sai sót sẽ có thể dẫn đến sự nhầm lẫn,
tranh chấp, gây mất hiệu lực của văn bản công chứng.
Chính xác về địa điểm công chứng: Trong văn bản công chứng phải ghi rõ địa
điểm công chứng. Việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở, tuy nhiên tại
Khoản 2, Điều 44, Luật Công chứng năm 2014 có quy định: “Việc công chứng có
thể được thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng trong trường
hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu, không thể đi lại được, người đang
bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác
không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng”.
12


Ý chí của các bên phải được thể hiện rõ ràng trong văn bản công chứng vì đây
sẽ là cơ sở cho việc thực hiện hoạt động công chứng. Về mặt bản chất, công chứng
viên chỉ là người trung gian ở giữa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp giữa các
bên. Do vậy, công chứng viên không được tác động, can thiệp vào việc thỏa thuận
giữa các bên với bất kỳ lý do nào trừ trường hợp những thỏa thuận đó trái pháp luật
và trái đạo đức xã hội.
Thứ hai, được tuân thủ về mặt hình thức.
Văn bản công chứng phải đáp ứng các điều kiện của pháp luật về hình thức để
đảm bảo tính chính xác và giá trị pháp lý của văn bản công chứng.
Ví dụ: Ông A chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà B thì hình thức văn
bản bắt buộc phải là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không phải là
một văn bản chuyển nhượng nào khác; hoặc các bên yêu cầu công chứng, chứng
nhận hợp đồng cầm cố tài sản thì công chứng viên không thể soạn thảo và công
chứng hợp đồng thế chấp được.
Ngoài ra, văn bản công chứng cũng cần tuân thủ các quy định về chữ viết, sửa
lỗi kỹ thuật, ghi số tờ, số trang trong văn bản, ký tên hoặc điểm chỉ, lời chứng của
công chứng viên… Mọi chi tiết trong văn bản công chứng phải được thể hiện rõ

ràng, chính xác, không viết tắt, không viết xen hoặc đè dòng; việc sửa lỗi kỹ thuật
cũng phải thực hiện đúng quy định để người nhận hoặc thực hiện các băn bản đó
có thể nhận biết đúng các nội dung đã được chỉnh sửa, tránh nhẫm lẫn hoặc gây
khó hiểu cho họ.
Thứ ba, tính phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội của văn bản công chứng.
Sự phù hợp của nội dung văn bản công chứng với pháp luật, đạo đức xã hội là
điều kiện cơ bản, quan trọng để văn bản công chứng đó có giá trị pháp lý căn cứ
theo Khoản 1, Điều 2, Luật Công chứng năm 2014 “Công chứng là việc công
chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp
pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp,
không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng
nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp
luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Do
vậy khi thực hiện việc công chứng, công chứng viên phải có trách nhiệm xem xét
13


các nội dung của hợp đồng, giao dịch có phù hợp với các quy định của pháp luật
hiện hành và đạo đức xã hội hay không.
Ví dụ: Công chứng viên không thể chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nếu bên bán chỉ có một mình người vợ mà tài sản chuyển
nhượng là tài sản có trong thời kỳ hôn nhân nhưng người vợ không chứng minh
được đó là tài sản riêng của mình như được tặng cho hoặc có văn bản thỏa thuận
tài sản riêng vợ chồng. Cũng như công chứng viên không thể chứng nhận hợp đồng
mua bán nhà ở, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngoài phạm vi tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở.
Thứ tư, tuân thủ các nguyên tắc và thủ tục công chứng.
Công chứng viên là người chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công
chứng của mình chứng nhận, do đó công chứng viên phải bảo đảm thực hiện theo
đúng những nguyên tắc và thủ tục công chứng. Việc tuân thủ nghiêm túc các

nguyên tắc, thủ tục này đem lại sự an toàn cho công chứng viên đồng thời bảo đảm
tính pháp lý cho văn bản mà công chứng viên chứng nhận tránh được các tranh
chấp có thể xảy ra.

14


CHƯƠNG II
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG
CHỨNG
1. Một số quy định về hiệu lực và giá trị pháp lý của văn bản công chứng
1.1. Hiệu lực của văn bản công chứng
Theo Khoản 1, Điều 5, Luật Công chứng năm 2014 xác định: “Văn bản công
chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức
hành nghề công chứng”. Việc xác định ngày có hiệu lực của văn bản công chứng
có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì chỉ khi văn bản công chứng có hiệu lực thì mới
làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ của các bên trong văn bản công chứng cũng như
trách nhiệm của công chứng viên đối việc công chứng đã thực hiện.
Tuy nhiên cần phân biệt ngày có hiệu lực của văn bản công chứng với thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng, giao dịch. Theo quy định của pháp luật về dân sự,
tương ứng với mỗi loại hình thức hợp đồng thì thời điểm giao kết hợp đồng được
xác định một cách phù hợp trên cơ sở công nhận hiệu lực của cam kết, thoả thuận
giữa các bên. Theo nguyên tắc chung, đó là hợp đồng được giao kết vào thời điểm
bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Đối với hợp đồng bằng văn bản,
thời điểm giao kết là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản và thời điểm có hiệu
lực của loại hợp đồng này được tính từ thời điểm giao kết nêu trên hoặc cũng có
thể có hiệu lực vào thời điểm khác do các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy
định. Đối với hợp đồng văn bản được công chứng, trong một số trường hợp theo
quy định của pháp luật, hợp đồng sẽ phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm được công
chứng nghĩa là kể từ ngày được công chứng viên ký và có đóng dấu của tổ chức

hành nghề công chứng. Tuy nhiên, cũng giống như đối với các hợp đồng bằng văn
bản khác, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được công chứng cũng có thể không
trùng với ngày có hiệu lực của văn bản công chứng mà có thể sẽ có hiệu lực vào
một thời điểm khác sau đó do các bên thoả thuận (ví dụ: các bên tham gia hợp
đồng, giao dịch thoả thuận về ngày có hiệu lực của hợp đồng giao dịch là một ngày
cụ thể hoặc khi xảy ra một sự kiện nào đó trong tương lai sau thời điểm công
chứng hoặc có thể là khi một bên đáp ứng một điều kiện nào đó) hoặc do pháp luật
chuyên ngành có quy định (ví dụ: theo quy định của Luật Đất đai thì hợp đồng
15


chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn
bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền
sử dụng đất có hiệu lực từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng Đăng ký quyền sử
dụng đất).
1.2. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng
Theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3, Điều 5, Luật Công chứng năm 2014 thì
văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành. Giá trị thi hành và giá
trị chứng cứ của văn bản công chứng thể hiện ở chỗ các hợp đồng, giao dịch đã
được công chứng thì có hiệu lực thi hành đối với các bên trong hợp đồng, giao dịch
đó và có giá trị với bên thứ ba. Nếu vì một lý do nào đó mà một bên không thực
hiện nghĩa vụ của mình thì bên còn lại có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo
quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có
thỏa thuận khác. Trong trường hợp muốn bác bỏ hiệu lực của văn bản công chứng
thì phải khởi kiện ra tòa án. Khi đó các tình tiết, sự kiện đã ghi nhận trong hợp
đồng, giao dịch đó sẽ trở thành chứng cứ trước tòa mà không cần phải xác minh,
người muốn bác bỏ nó phải xuất trình được chứng cứ ngược lại. Đặc điểm nêu trên
của văn bản công chứng có ý nghĩa rất lớn thể hiện vai trò phòng ngừa, bảo đảm an
toàn pháp lý cho các bên trong hợp đồng, giao dịch; đồng thời hạn chế được các
tranh chấp xảy ra sau này tránh gây tốn kém, lãng phí.

Hoạt động công chứng là việc các tổ chức hành nghề công chứng xác nhận tính
hợp pháp của hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật hoặc khi có yêu cầu
của người yêu cầu công chứng. Công chứng viên phải kiểm tra các thông tin liên
quan đến hồ sơ công chứng mà mình thực hiện. Sau khi đã đối chiếu các thông tin
với bản chính công chứng viên phải ghi lời làm chứng của mình; ký, ghi rõ họ tên
và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng lên văn bản công chứng. Về mặt
nguyên tắc thì văn bản công chứng có giá trị kể từ ngày được công chứng viên ký
và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng. Tuy nhiên, việc công chứng các
hợp đồng, giao dịch nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, phòng
ngừa rủi ro và tranh chấp, tạo ra sự ổn định của quan hệ giữa các bên trong giao
dịch dân sự đây chính là cơ sở để thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên. Do đó,
khi phát sinh mâu thuẫn giữa các bên mà không tự giải quyết được dựa trên các
16


thỏa thuận ghi nhận trong hợp đồng, giao dịch công chứng thì có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Như vậy những hợp đồng, giao dịch đã được công chứng sẽ có hai giá trị pháp
lý cơ bản sau đây:
Một là, văn bản công chứng có giá trị thi hành.
Hai là, văn bản công chứng có giá trị chứng cứ không phải chứng minh trước
Tòa án.
1.2.1. Giá trị thi hành của văn bản công chứng
Pháp luật Việt Nam thừa nhận chức năng của công chứng viên về xác nhận tính
xác thực của các văn bản đã công chứng. Về bản chất khi hợp đồng, giao dịch được
công chứng nó sẽ có giá trị chứng cứ không phải chứng minh, trừ trường hợp bị
Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Có nghĩa là khi bị Tòa án tuyên bố vô hiệu, văn bản
công chứng sẽ không có giá trị thực hiện, không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên. Tuy nhiên một người muốn yêu cầu Tòa án
tuyên bố một văn bản công chứng là vô hiệu thì phải chứng minh được văn bản

công chứng đó được lập trái với các quy định của pháp luật. Nếu không chứng
minh được thì văn bản công chứng sẽ được công nhận và có giá chứng cứ không
phải chứng minh trước Tòa án.
Vai trò phòng ngừa của Công chứng viên thể hiện ở chổ là ngay khi lập hợp
đồng, các bên giao kết hợp đồng đã củng cố chứng cứ về việc ký kết hợp đồng đó
để đề phòng các tranh chấp. Theo Khoản 2, Điều 5, Luật Công chứng năm 2014 thì:
“Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên
quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì
bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ
trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác”. Nghĩa là
những gì đã thoả thuận trong văn bản công chứng thì có hiệu lực bắt buộc thi hành
đối với các bên tham gia hợp đồng, giao dịch đồng thời đối với cả bên thứ ba.
Trước hết, xét trong mối quan hệ giữa các bên tham gia hợp đồng thì đương nhiên
là những gì họ đã cam kết trong hợp đồng, giao dịch thì họ có nghĩa vụ phải thực
hiện và không được bội ước.
17


Ví dụ: Một hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được các bên ký kết
và đã được công chứng thì các cá nhân, cơ quan có liên quan cũng phải công nhận
và làm các thủ tục liên quan như nộp các khoản thuế, lệ phí, cập nhật những thay
đổi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Điều này cũng xuất phát từ nguyên
tắc tôn trọng quyền tự do giao kết hợp đồng của chủ thể.
1.2.2. Giá trị chứng cứ không phải chứng minh của văn bản công chứng
Trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam quy định việc cung cấp chứng cứ và
chứng minh vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của các bên đương sự. Trong tố tụng
dân sự người đưa ra yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh trước, họ phải xuất trình
các chứng cứ, đưa ra lý lẽ để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ đồng thời
họ phải chỉ ra quy định của pháp luật cho phép chấp nhận yêu cầu của họ đó là tính
hợp pháp của yêu cầu. Giá trị chứng cứ không phải chứng minh của văn bản công

chứng quy định tại Khoản 3, Điều 5, Luật Công chứng năm 2014. “Hợp đồng, giao
dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng,
giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án
tuyên bố là vô hiệu”. Theo từ điển tiếng Việt thì chứng cứ là cái cụ thể ( như lời
nói hoặc việc làm, vật làm chứng, tài liệu, hình ảnh, nhân chứng…) để chỉ rõ điều
gì đó có thật. Trong hoạt động tố tụng, chứng cứ đóng vai trò quyết định trong việc
làm sáng tỏ các quan hệ cần giải quyết và làm cơ sở để Tòa án phân xử. Vấn đề giá
trị chứng cứ của văn bản công chứng không phải chứng minh cũng đã được quy
định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Cụ thể tại Khoản 1, Điều 95, Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 đã quy định: “Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng
cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận”. Ngoài ra tại điểm c, Khoản 1,
Điều 92, Bộ luật này cũng đã ghi nhận tình tiết, sự kiện sau không phải chứng
minh: “Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng,
chứng thực hợp pháp; trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của
những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan của văn bản công chứng, chứng
thực thì Thẩm phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công chứng, chứng
thực xuất trình bản gốc, bản chính”. Cơ sở của quy định này là xuất phát từ việc
18


thừa nhận chức năng của công chứng viên về chứng nhận tính xác thực của các
hợp đồng, giao dịch về cả thời gian, địa điểm, tư cách chủ thể của người tham gia
ký kết hợp đồng, giao dịch cũng như tính hợp pháp của các điều khoản hợp đồng,
sự tự do ý chí của các bên tham gia. Tính xác thực do công chứng viên chứng nhận
biến các tình tiết, sự kiện có trong hợp đồng, giao dịch trở thành chứng cứ đương
nhiên trước Tòa án. So với các hợp đồng, giao dịch khác không được công chứng
như hợp đồng do luật sư tư vấn, soạn thảo và làm chứng thì khi có tranh chấp xảy
ra các hợp đồng, giao dịch này không có giá trị chứng cứ mà vẫn phải chứng minh,
nó chỉ trở thành chứng cứ sau khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định.

Tuy nhiên, văn bản công chứng không có giá trị chứng cứ nếu văn bản đó không
hợp pháp, thực hiện không đúng thẩm quyền hoặc không tuân theo quy định của
pháp luật về công chứng hoặc bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Hay nói cách khác,
văn bản công chứng có giá trị chứng cứ cho đến khi có ý kiến phản bác đưa ra
được chứng cứ ngược lại và phải tiến hành theo thủ tục tố tụng. Tại Khoản 3, Điều
5, Luật Công chứng năm 2014 có quy định: “Hợp đồng, giao dịch được công
chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được
công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô
hiệu”.
Công chứng viên dù là công chức Nhà nước làm việc tại các Phòng công chứng
hay công chức viên làm việc tại các Văn phòng công chứng đều là một chức danh
tư pháp được Nhà nước trao quyền thực hiện việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch
và chỉ có công chứng viên mới nhân danh Nhà nước chứng nhận các hợp đồng,
giao dịch đó. Do đó, khi công chứng viên thực hiện hoạt động công chứng phải
tuân thủ theo các quy định của pháp luật về công chứng và các quy định khác có
liên quan; phải luôn khách quan, trung thực. Trong trường hợp biết hoặc pháp luật
quy định buộc phải biết việc hoặc nội dung công chứng là trái pháp luật, đạo đức
xã hội thì công chứng viên sẽ từ chối không được thực hiện công chứng. Như vậy,
vai trò phòng ngừa của công chứng viên thể hiện ở chỗ ngay khi lập hợp đồng, các
bên giao kết hợp đồng đã tự củng cố chứng cứ về việc ký kết hợp đồng đó, đề
phòng các tranh chấp về sau.
19


2. Một số quy định pháp luật có ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của văn bản
công chứng
2.1. Tiêu chuẩn của công chứng viên
Để được hành nghề với tư cách là một công chứng viên họ cần đáp ứng được
các tiêu chuẩn mà pháp luật quy định. Theo quy định tại Điều 8, Luật Công chứng
năm 2014 về tiêu chuẩn công chứng viên thì “Công dân Việt Nam thường trú tại

Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các
tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm công chứng viên: (1) Có bằng cử
nhân luật; (2) Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan,
tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật; (3) Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công
chứng quy định tại Điều 9 của Luật này hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề
công chứng quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật này; (4) Đạt yêu cầu kiểm tra
kết quả tập sự hành nghề công chứng; (5) Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công
chứng”.
Như vậy, để có thể trở thành công chứng viên thì họ cần tham dự một khóa đào
tạo nghề công chứng trong thời gian 12 tháng hoặc tham gia khóa bồi dưỡng kỹ
năng hành nghề công chứng và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng trong 03
tháng đối với trường hợp được miễn đào tạo nghề công chứng. Sau khi được cấp
giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc giấy chứng nhận
bồi dưỡng nghề công chứng phải tập sự hành nghề tại một tổ chức hành nghề công
chứng. Thời gian tập sự hành nghề công chứng là 12 tháng đối với người có giấy
chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng và 06 tháng đối với người có
giấy chứng nhận bồi dưỡng nghề công chứng. Khi hết thời gian tập sự, phải báo
cáo kết quả tập sự có nhận xét của công chứng viên hướng dẫn và xác nhận của tổ
chức hành nghề công chứng nhận tập sự gửi đến Sở Tư pháp nơi mình đã đăng ký
tập sự. Sau đó, phải tham dự tiếp kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng.
Người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng được cấp giấy
chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành nghề công chứng. Lúc này, mới đủ tiêu
chuẩn để trở thành công chứng viên và có quyền đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ
nhiệm mình trở thành công chứng viên.
20


2.2. Trình tự, thủ tục công chứng
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 40 và Khoản 1, Điều 41 Luật Công chứng
năm 2014 thì thành phần các giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ yêu cầu công chứng gồm:

- Phiếu yêu cầu công chứng;
- Dự thảo hợp đồng, giao dịch (nếu có);
- Bản sao giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng;
- Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ
thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng
ký quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan
đến tài sản đó.
- Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy
định phải có.
Những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng là những tình tiết, sự kiện
không phải chứng minh đảm bảo cho văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; hợp
đồng, giao dịch sau khi được công chứng sẽ có giá trị thi hành đối với các bên
tham gia. Nên căn cứ theo Điều 46, Luật Công chứng năm 2014 về lời chứng của
công chứng viên, đã quy định: “Lời chứng của công chứng viên đối với hợp đồng,
giao dịch phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công chứng, họ, tên công chứng viên, tên
tổ chức hành nghề công chứng; chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch
hoàn toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp
đồng, giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội, chữ ký hoặc
dấu điểm chỉ trong hợp đồng, giao dịch đúng là chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của
người tham gia hợp đồng, giao dịch; trách nhiệm của công chứng viên đối với lời
chứng; có chữ ký của công chứng viên và đóng dấu của tổ chức hành nghề công
chứng”. Các quy định như vậy là phù hợp, thể hiện đúng bản chất của công chứng
nội dung; đồng thời qua đó xác định cụ thể trách nhiệm của công chứng viên đối
với việc công chứng. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy do chỉ căn cứ vào giấy tờ
chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng nên nhiều trường hợp công chứng viên
đã công chứng hợp đồng mà đối tượng của hợp đồng không có thực hoặc có thực
nhưng không phù hợp với giấy tờ. Ví dụ như trường hợp người yêu cầu công
21



chứng xuất trình giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở ghi nhận
là nhà cấp bốn nhưng trên thực tế ngôi nhà đó đã được xây dựng thêm dẫn đến hiện
trạng, kết cấu nhà đã bị thay đổi so với trên giấy chứng nhận.
2.3. Lưu trữ hồ sơ công chứng
Chế độ lưu trữ hồ sơ công chứng được quy định tại Điều 64, Luật Công chứng
năm 2014 theo đó thì: “Tổ chức hành nghề công chứng phải bảo quản chặt chẽ,
thực hiện biện pháp an toàn đối với hồ sơ công chứng. Bản chính văn bản công
chứng và các giấy tờ khác trong hồ sơ công chứng phải được lưu trữ ít nhất là 20
năm tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng; trường hợp lưu trữ ngoài trụ sở
thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của Sở Tư pháp. Trong trường hợp cơ quan
nhà nước có thẩm quyền có yêu cầu bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công
chứng phục vụ cho việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án liên quan đến việc đã công chứng thì tổ chức hành nghề công chứng có
trách nhiệm cung cấp bản sao văn bản công chứng và các giấy tờ khác có liên
quan. Việc đối chiếu bản sao văn bản công chứng với bản chính chỉ được thực
hiện tại tổ chức hành nghề công chứng nơi đang lưu trữ hồ sơ công chứng. Việc kê
biên, khám xét trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng phải thực hiện theo quy
định của pháp luật và có sự chứng kiến của đại diện Sở Tư pháp hoặc đại diện tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên tại địa phương”. Văn bản công
chứng là căn cứ chứng minh sự phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ dân sự của người đã yêu cầu công chứng đối với các tài sản, lợi ích của
mình, đồng thời cũng là căn cứ để chứng minh việc công chứng viên có lỗi hay
không có lỗi trong việc xảy ra thiệt hại cho các chủ thể đã tham gia ký kết hợp
đồng. Trên thực tế, các khiếu kiện, tranh chấp về các hợp đồng, giao dịch đã được
ký kết giữa các bên chủ thể có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, không hạn định. Nếu tại
thời điểm xảy ra tranh chấp mà văn bản công chứng hoặc các giấy tờ trong hồ sơ
công chứng đã được tiêu hủy theo sự cho phép của pháp luật thì sẽ không còn
chứng cứ để chứng minh hợp đồng giao dịch đó có phù hợp với pháp luật và đạo
đức xã hội không, người công chứng viên chứng nhận hợp đồng, giao dịch đó có
thực sự không có lỗi với thiệt hại xảy ra cho các bên chủ thể hay không.

22


×