Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Đo lường lạm phát kỳ vọng và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát kỳ vọng tại Việt Nam : Luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
--------------

VŨ BẢO VÂN

ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT KỲ VỌNG
VÀ PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN LẠM PHÁT KỲ VỌNG
TẠI VIỆT NAM

1


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp.Hồ Chí Minh – Năm 2013

2


Mục lục
Tóm tắt
1.

Giới thiệu .............................................................................................. 1

1.1

Bối cảnh lạm phát tại Việt nam .......................................................... 1


1.2

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ........................................................... 3

2.

Khung lý thuyết về lạm phát kỳ vọng và tổng quan các kết quả
nghiên cứu về lạm phát kỳ vọng .......................................................... 5

2.1

Khung lý thuyết về lạm phát kỳ vọng ................................................ 5

2.2

Các phương pháp đo lường lạm phát kỳ vọng ................................ 13

2.2.1

Phương pháp khảo sát .......................................................................... 13

2.2.2

Phương pháp đo lường trên cở sở thị trường tài chính ........................ 14

2.2.3

Phương pháp đo lường bằng mô hình định lượng ............................... 15

2.3


Tổng quan các kết quả nghiên cứu về lạm phát kỳ vọng ................ 15

2.3.1

Mô hình hình thành lạm phát kỳ vọng .................................................. 15

2.3.2

Các thức hình thành lạm phát kỳ vọng ................................................. 16

2.3.3

Độ trễ của lạm phát kỳ vọng ................................................................. 17

2.3.4

Các nhân tố vĩ mô tác động đến lạm phát kỳ vọng ............................... 18
Cerisola & Gelos (2005) ....................................................................... 18
Patra & Partha Ray (2010) .................................................................... 20

3.

Phương pháp nghiên cứu. .................................................................. 23

3.1

Mô hình nghiên cứu ............................................................................ 23

3.1.1


Đo lường lạm phát kỳ vọng bằng mô hình ARIMA ............................ 23


3.1.2

Kiểm định các nhân tố tác động đến lạm phát kỳ vọng bằng mô hình
vec-tơ tự hồi quy – VAR ..................................................................... 25

3.2

Dữ liệu nghiên cứu .............................................................................. 29

4.

Nội dung và kết quả nghiên cứu ........................................................ 31

4.1

Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu ............................................ 32

4.2

Kiểm định tính nhân quả của các biến số ......................................... 32

4.3

Kết quả mô phỏng chuỗi lạm phát kỳ vọng từ chuỗi lạm phát quá
khứ tại Việt Nam bằng mô hình ARIMA ........................................ 33


4.4

Kết quả kiểm định các nhân tố tác động đến lạm phát kỳ vọng tại
Việt Nam bằng mô hình VAR ............................................................ 35

4.4.1

Kiểm định độ trễ tối ưu của mô hình VAR........................................... 35

4.4.2

Kết quả kiểm định từ mô hình VAR ..................................................... 36

4.4.3

Kết quả phân tích mô hình phản ứng đẩy và phân rã phương sai ......... 37

5.

Kết luận ................................................................................................ 42

Tài liệu tham khảo
Phụ lục


Danh mục hình.
Hình 1.

Tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam và các quốc gia khác 2000 – 2009


Hình 2.

Đường cong Philips ngắn hạn và dài hạn

Hình 3.

Sự hình thành lạm phát kỳ vọng theo Ranyard và đồng sự (2008)

Hình 4.

Đóng góp của mỗi nhân tố trong việc neo lạm phát kỳ vọng tại Brazil

Hình 5.

Lạm phát kỳ vọng được mô phỏng từ mô hình ARIMA

Hình 6.

Mức độ tác động của các biến đến lạm phát kỳ vọng tại Việt Nam qua
phân tích mô hình hàm phản ứng đẩy

Hình 7.

Mức độ tác động của các biến đến lạm phát kỳ vọng tại Việt Nam qua
phân tích kết quả phân rã phương sai.

Danh mục bảng.
Bảng 1.

Kiểm định tính dừng của các biến nghiên cứu


Bảng 2.

Kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các biến

Bảng 3.

Kết quả lược đồ tự tương quan và tương quan riêng phần

Bảng 4.

Kết quả hồi quy mô hình ARIMA(0,0,4)từ chuỗi lạm phát thực tế.

Bảng 5.

Kết quả hồi quy mô hình ARIMA từ chuỗi lạm phát thực tế.

Bảng 6.

Kết quả kiểm định phần dư của mô hình ARIMA

Bảng 7.

Kết quả kiểm định độ trễ tối ưu của mô hình VAR

Bảng 8.

Kết quả kiểm định từ mô hình VAR

Bảng 9.


Kết quả kiểm định phân rã phương sai


Danh mục từ viết tắt
NHTW

Ngân hàng trung ương

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

TCTK

Tổng cục thống kê

IMF

International monetary Fund – Quỹ tiền tệ thế giới

ADB

Asian development bank – NH phát triển Châu Á Thái Bình Dương

IFS

International foundation for science –Tổ chức khoa học quốc tế

REER


Real effective exchange rate – Tỷ giá thực hiệu lực

CPI

Consumer price index – Chí số giá tiêu dùng

GDP

Gross domestic product –Tổng sản lượng quốc nội

NAIRU

Non- Accelerating Inflation Rate of Unemployment – Tỷ lệ thất
nghiệp không gia tăng lạm phát (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên)

VAR

Vector autoregression – Mô hình tự hồi quy véc-tơ

ARIMA

Autoregressive Integrated Moving Average–Mô hình tự hồi qui tích
hợp trung bình trượt

ADF

Kiểm định Augmented Dickey – Fuller

AIC


Akaike information Criterion – Kiểm định Akaike

SC

Schwarz Information Criterion – Kiểm định Schwarz

ACF

Auto correlation Function - Hàm tự tương quan

PACF

Partial autocorrelation function - Hàm tự tương quan từng phần


Tóm tắt.
Nội dung của bài nghiên cứu này tập trung vào vấn đề lạm phát kỳ vọng tại Việt
Nam. Với các kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn này góp phần làm sáng tỏ
hơn một số vấn đề đáng chú ý như sau: Cách thức đo lường lạm phát kỳ vọng tại
Việt Nam? Những nhân tố nào tác động đến lạm phát kỳ vọng tại Việt Nam?
Mức độ tác động của các nhân nhân tố đến kỳ vọng lạm phát như thế nào? Kỳ
vọng lạm phát đóng vai trò như thế nào trong việc hoạch định các chính sách
kinh tế vĩ mô nói chung và lạm phát nói riêng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có thể dùng mô hình trung bình trượt tự hồi quy
(ARIMA) để mô phỏng chuỗi lạm phát kỳ vọng từ chuỗi lạm phát quá khứ. Dựa
trên chuỗi lạm phát kỳ vọng được tạo ra, luận văn đã sử dụng mô hình véc-tơ tự
hồi quy (VAR) để kiểm định 6 nhân tố tác động đến lạm phát kỳ vọng tại Việt
Nam: lạm phát quá khứ, lỗ hổng sản lượng, tỷ giá thực hiệu lực, lãi suất thực, giá
dầu và giá gạo.

Dựa trên phân tích kết quả mô hình VAR, mô hình phản ứng đẩy và kết quả phân
rã phương sai, kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố tác động mạnh nhất đến lạm
phát kỳ vọng chính là độ trễ của chính nó (lạm phát kỳ vọng), kế đến là lạm phát
trong quá khứ và giá dầu là hai yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến lạm phát kỳ
vọng. Lỗ hổng sản lượng, tỷ giá thực hiệu lực cũng tác động đến lạm phát kỳ
vọng nhưng không thực sự mạnh mẽ, các yếu tố còn lại (lãi suất thực, giá gạo)
tác động không đáng kể. Bên cạnh đó kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, một
sự gia tăng của lạm phát quá khứ, cú sốc giá dầu, lỗ hổng sản lượng, tỷ giá thực
hiệu lực, lãi suất thực và cú sốc giá dầu sẽ dẫn đến sự gia tăng của lạm phát kỳ
vọng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy sức ì của lạm phát tại Việt Nam là rất lớn (xu
hướng back-looking), điều này thể hiện qua mức độ và sự tác động dai dẵn của
lạm phát quá khứ đến lạm phát kỳ vọng tại Việt Nam trong thời gian qua. Bên
cạnh đó kết quả nghiên cứu cũng cho thấy lạm phát kỳ vọng khá nhạy trước


thông tin giá cả của giá xăng - dầu,vì vậy Chính phủ cần xem xét điều chỉnh giá
các mặt hàng cơ bản (giá xăng dầu) một cách thận trọng và có lộ trình phù hợp
nhằm tránh gây ra các cú sốc cho thị trường và khiến cho lạm phát kỳ vọng biến
động quá mạnh, đặc biệt là khi điều chỉnh tăng giá.
Căn cứ vào tình hình lạm phát thực tế của Việt Nam trong thời gian qua cũng
như căn cứ vào kết quả nghiên cứu đạt được cho thấy, một sự gia tăng lãi có thể
gây tác động không mong muốn đến lạm phát kỳ vọng, hay nói cách khác là làm
gia tăng lạm phát kỳ vọng trong ngắn hạn. Điều này là do cơ chế điều hành lãi
suất tại Việt Nam chưa được thống nhất, cơ cấu tín dụng doanh nghiệp chiếm tỷ
trọng cao và lãi suất là biến số hết sức quan trọng đối với các chủ thể kinh tế,
nhất là sẽ làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp, tác động đến mục tiêu tăng
trưởng của nền kinh tế. Vì vậy Chính phủ cần thận trọng khi sử dụng công cụ này
trong điều hành chính sác vĩ mô.
Hơn nữa, kết quả nghiên cứu cũng hàm ý rằng việc neo và kiểm soát lạm phát kỳ

vọng đóng vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định các chính sách vĩ mô của
Chính phủ. Chỉ khi lạm phát kỳ vọng được kiểm soát tốt thì các chính sách vĩ mô
mới phát huy hết tác dụng vốn có của nó và ngược lại. Vì vậy các nhà họach định
cần xác định,phân tích chính xác các yếu tốc tác động đến lạm phát kỳ vọng
trong từng thời kỳ để đưa ra các giải pháp cho phù hợp.


- 1-

1. Giới thiệu
1.1 Bối cảnh lạm phát tại Việt Nam
Việt Nam đã trải qua giai đoạn siêu lạm phát trong nửa cuối những năm 1980 với
tỷ lệ lạm phát trên 300%/năm và trên 50%/năm đầu những năm 1990. Lúc này,
các chính sách chống lạm phát có ý nghĩa quan trọng chiến lược tại Việt Nam.
NHNN đã phải tích cực thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ và giữ cho tỷ giá
USD/VND cố định hoàn toàn. Trước những giải pháp hữu hiệu và kịp thời này
thì tình hình lạm phát đã được cải thiện đáng kể, xuống gần 10% năm 1995. Từ
những năm 1996 – 2003 tỷ lệ lạm phát bình quân được duy trì trong khoảng 3%
– 5% mỗi năm và khá tiệm cận với tỷ lệ lạm phát của các nước trong khu vực.

Hình 1: Tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam và các quốc gia khác giai đoạn 2000 – 2009
Nguồn : Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành (2011)
Tuy nhiên, sau giai đoạn ổn định này thì lạm phát có xu hướng gia tăng trở lại và
ngày một phức tạp hơn. Khởi đầu là năm 2004 với tỷ lệ lạm phát 9.5%, cao hơn
rất nhiều so với mục tiêu 6% mà chính phủ đặt ra. Năm 2005 là 8,4% so với mục
tiêu đề ra là dưới 6.5%. Và kể từ giai đoạn này lạm phát tại Việt Nam luôn ở mức
cao và khá xa so với tỷ lệ lạm phát của các nước trong khu vực. Sự trở lại của


- 2lạm phát trong giai đoạn này chủ yếu là do gia tăng cung tiền và mở rộng tín

dụng của NHNN nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế sau khi nền kinh tế có dấu
hiệu chững lại vào năm 2000.
Trước tình hình này, NHNN vẫn tiếp tục sử dụng biện pháp thắt chặt tiền tệ và
giữ cho tỷ giá gần như cố định. Nhưng thành công đã không lặp lại vì tỷ lệ lạm
phát sau khi giảm nhẹ vào năm 2006 còn 6,6% đã tăng mạnh tới 12,57% năm
2007 và lên tới 19,95% năm 2008. Cuối năm 2008 đầu năm 2009 khủng hoảng
kinh tế toàn cầu nổ ra và những hậu quả của nó đã kéo theo tỷ lệ lạm phát Việt
Nam xuống còn 6,88% trong năm 2009. Tuy nhiên tỷ lệ này không giữ được lâu,
năm 2010 lạm phát lại tăng mạnh trở lại ở mức 11,75% so với mục tiêu đề ra là
7-8% và tỷ lệ lạm phát năm 2011 là 18,13% so với mục tiêu đề ra là 15% bất
chấp hàng loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát mà chính phủ đã đưa ra. Có
nhiều nguyên nhân để giải thích cho sự gia tăng mạnh mẽ của lạm phát trong giai
đoạn này tuy nhiên có một nguyên nhân khá mới mẻ đó là “lòng tin” của người
dân vào các chính sách của chính phủ đang giảm dần hay nói cách khác là “kỳ
vọng lạm phát” của người dân vẫn tăng cao bất chấp mọi nỗ lực kiềm chế lạm
phát của chính phủ. Chính vì điều này mà các biện pháp can thiệp của chính phủ
nhằm kiềm chế lạm phát trong giai đoạn này đã không phát huy tác dụng như
mong đợi và để lại những hậu quả không như mong muốn.
Nhìn chung khi lạm phát tăng cao tại Việt Nam thì các giải pháp đưa ra hầu hết
tập trung vào việc thắt chặt tiền tệ và bỏ qua (hoặc xem xét chưa thích đáng) các
nhân tố quan trọng khác. Như chúng ta đã biết, Chính sách tiền tệ thắt chặt là
một giải pháp trong ngắn hạn đồng thời chi phí cơ hội lớn (do phải đánh đổi bằng
tăng trưởng), đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế vừa “chập chững” thoát khỏi
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Vì vậy trong giai đoạn này chính sách tiền
tệ thắt chặt đã góp phần kiềm chế được sự gia tăng của lạm phát trong ngắn hạn
nhưng về dài hạn thì vẫn chưa giải quyết được triệt để đã làm cho lạm phát ngày
càng nghiêm trọng hơn tại Việt Nam.


- 3Trước bối cảnh đó, việc xác định chính xác các nguyên nhân gây ra lạm phát từ

đó đưa ra các giải pháp phù hợp là một vấn đề rất hệ trọng tại Việt Nam. Thời
gian qua có rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về nội dung này như:
Camen (2006), Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành (2010),... Tuy
nhiên hầu hết các tác giả đã bỏ qua hoặc chưa xem xét thích đáng tác động của
nhân tố kỳ vọng lạm phát (Expectation inflation) hoặc chưa đưa ra các đánh giá
mang tính định lượng liên quan đến kỳ vọng lạm phát. Trong khi đó các nghiên
cứu thực nghiệm từ các nên kinh tế phát triển Anh, Mỹ, Đức....đến các quốc gia
mới nổi như Brazil, Ấn độ ...đều cho thấy tầm quan trọng của kỳ vọng lạm phát.
Đây làm một nhân tố cực kỳ quan trọng việc dự báo và kiểm soát lạm phát tại các
quốc gia, Bên cạnh đó việc đánh giá thích đáng vai trò của kỳ vọng lạm phát sẽ
giúp ích rất nhiều trong việc thực thi các chính sách vĩ mô của chính phủ.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Thời gian qua, vấn đề lạm phát lại nổi lên và trở thành tâm điểm tại các quốc gia
đặc biệt là các thị trường mới nổi nói chung và Việt Nam nói riêng. Việc giữ lạm
phát ổn định, vừa phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đồng thời ổn định
kinh tế vĩ mô luôn là mục tiêu hàng đầu. Tại mỗi quốc gia khác nhau thì các nhân
tố gây ra lạm phát cũng như cách thức hình thành lạm phát đều có những nét đặc
thù riêng. Tuy nhiên trong các nghiên cứu thực nghiệm từ các nền kinh tế phát
triển Anh, Mỹ, Đức....đến các quốc gia mới nổi như Brazil, Ấn độ ...đều cho thấy
tầm quan trọng của nhân tố “lạm phát kỳ vọng”, đây làm một nhân tố cực kỳ
quan trọng việc dự báo và kiểm soát lạm phát tại các quốc gia. Nhận thấy được
tầm quan trọng của vấn đề trên vì vậy mục tiêu đề tài là tập trung vào việc “Đo
lường lạm phát kỳ vọng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát kỳ vọng
tại Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2010, từ đó đưa ra các kiến nghị trong việc
kiểm soát lạm phát tại Việt Nam”. Giải quyết mục tiêu nghiên cứu của đề tài
nhằm làm rõ các câu hỏi sau đây:
(i)

Những nhân tố nào ảnh hưởng đến lạm phát kỳ vọng tại Việt Nam?



- 4(ii)

Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến lạm phát kỳ vọng tại Việt Nam
như thế nào?

Để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu trên luận văn được tiến hành qua các nội
dung quan trọng như sau:
Đầu tiên, luận văn sẽ trình bày sơ lược các khung lý thuyết quan trọng liên quan
đến lạm phát kỳ vọng như: đường cong Philips, đường cong Philips hiệu chỉnh,
lý thuyết kỳ vọng hợp lý, nội dung trường phái Keynes mới, các phương pháp đo
lường lạm phát kỳ vọng.
Thứ 2, luận văn sẽ tổng kết các kết quả nghiên cứu có liên quan đến lạm phát kỳ
vọng như: mô hình, cách thức hình thành lạm phát kỳ vọng, độ trễ lạm phát kỳ
vọng và tập trung vào các nghiên cứu “các nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát kỳ
vọng” thông qua hai bài nghiên cứu của Cerisola và Gelos (2005), Patra và
Partha Ray (2010).
Thứ 3, dựa vào các kết quả đạt được từ các các nghiên cứu trước đây, luận văn
chọn ra được phương pháp đo lường lạm phát kỳ vọng tại Việt Nam thông qua
mô hình ARIMA (trung bình trượt tự hồi quy) dựa trên số liệu lạm phát quá khứ.
Bên cạnh đó dựa vào các kết quả nghiên cứu đạt được luận văn xác định được 6
nhân tố tác động đến lạm phát kỳ vọng tại Việt Nam
Thứ 4, dự trên chuỗi lạm phát kỳ vọng được tạo ra từ mô hình ARIMA, luận văn
sử dụng mô hình VAR (Vec-tơ tự hồi quy) để kiểm định mức độ tác động của 6
nhân tố đến lạm phát kỳ vọng tại Việt Nam. Dựa trên phân tích kết quả mô hình
VAR, kết quả hàm phản ứng đẩy và phân ra phương sai luận văn sẽ làm rõ hơn
vai trò tác động của từng nhân tố.
Cuối cùng, luận văn tổng kết lại các kết quả đạt được và kiến nghị một số vấn đề
trong quản lý lạm phát tại Việt Nam.



- 5-

2.

Khung lý thuyết về lạm phát kỳ vọng và
tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây

2.1

Khung lý thuyết về lạm phát kỳ vọng.

Năm 1958 từ những bằng chứng thực nghiệm, William Philips, một nhà kinh tế
người Newzealand, trong một bài nghiên cứu với tựa đề: “The Relation between
Unemployment and the Rate of Change of Money Wage Rates in the United
Kingdom, 1861-1957” đăng trên tạp chí Economica, đã mô tả mối quan hệ ngược
chiều giữa sự thay đổi tiền lương và thất nghiệp trong nền kinh tế Anh giai đoạn
1861 – 1957. Không lâu sau đó, mối quan hệ tương tự cũng được tìm thấy ở các
quốc gia khác và năm 1960, Paul Samuelson và Robert Solow, hai nhà kinh tế
người Anh, đã trình bày “Đường cong Philips” của nước Mỹ từ 1935 tới 1959
trong một bài báo đăng trên American Economic Review. Ngoài việc sử dụng dữ
liệu nước Mỹ thay vì dữ liệu nước Anh, họ còn đo lường tỷ lệ lạm phát giá cả
(thay vì tỷ lệ lạm phát tiền lương như của Philips) và họ tìm thấy một mối quan
hệ ngược chiều giữa lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp.
Mối quan hệ ngược chiều này kết hợp cùng với lý thuyết về tiền lương, tiêu
dùng, lãi suất và thất nghiệp của Keynes (1936) đã dẫn tới nhiều gợi ý chính sách
quan trọng vào thời điểm đó. Keynes cho rằng chi tiêu của hộ gia đình tùy thuộc
vào thu nhập khả dụng kỳ vọng, và chi tiêu hay đầu tư của doanh nghiệp thì phụ
thuộc vào kỳ vọng của chủ doanh nghiệp về tình hình kinh tế trong tương lai.

Ngoài ra, Keynes cùng nhiều nhà kinh tế thuộc trường phái Keynes khi đó còn
trình bày những cách thức mà các chính sách của Chính phủ có thể tác động tới
tổng cầu và từ đó tác động lên tổng sản lượng và mức nhân dụng trong điều kiện
không vượt quá giới hạn sản xuất với niềm tin về một mối quan hệ ngược chiều
bền vững giữa tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp như đường cong Philips nêu ra. Họ
cho rằng chính sách của Chính phủ sẽ thể hiện một sự đánh đổi giữa tỷ lệ thất
nghiệp và lạm phát. Chính phủ có thể dùng chính sách tài khóa hoặc tiền tệ hoặc
cả hai để kích thích kinh tế đạt tới một mức tổng cầu nhất định, dẫn tới tăng GDP


- 6và giảm tỷ lệ thất nghiệp, chấp nhận một mức lạm phát cao hơn và xem đó như
một chi phí để có được tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp thấp.
Tuy nhiên, trong những năm 1970s và đầu những năm 1980s, các nhà kinh tế bắt
đầu nghi ngờ những kết luận từ đường cong Philips khi chứng kiến tỷ lệ lạm phát
và tỷ lệ thất nghiệp đều cao trong giai đoạn này. Friedman (1968) và Phelps
(1967) đã tấn công ý tưởng của đường cong Philips. Friedman cho rằng có tới 2
đường cong Philips: đường cong Philips trong ngắn hạn (SRPC – Short-Run
Philips Curve) và đường cong Philips trong dài hạn (LRPC – Long Run Philips
Curve). Theo đó đường cong Philips ngắn hạn sẽ có dạng dốc xuống, đường cong
Phillips dài hạn có dạng là một đường thẳng đứng song song với trục tung (tỷ lệ
lạm phát). Giải thích cho vấn đề này Friedman đưa ra khái niệm “thất nghiệp tự
nhiên” theo đó khi thi trường lao động cân bằng thì vẫn có thất nghiệp, đây là
dạng thất nghiệp tự nguyện. Vì vậy khi nền kinh tế cân bằng thì lạm phát bằng
“0”, nhưng tỷ lệ thất nghiệp vẫn là con số dương (thất nghiệp tự nhiên). Trong
ngắn hạn khi chính phủ dùng các biện pháp để kéo tỷ lệ thất nghiệp xuống (bằng
cách tác động vào tổng cung) dẫn đến lạm phát gia tăng. Trong khi lạm phát
tăng, tiền lương danh nghĩa không đổi dẫn đến tiền lương thực giảm vì vậy giảm
nguồn cung lao động (hay tự nguyện thất nghiệp) vì vậy kéo tỷ lệ thất nghiệp
tăng trở lại. Tập hợp các điểm tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và các
mức tỷ lệ lạm phát liên tục bị đẩy lên cao tạo thành một đường thẳng đứng.

Đường này được gọi là đường Phillips dài hạn hay còn gọi là đường NAIRU
(Non- Accelerating Inflation Rate of Unemployment).
Trước lập luận trên, Friedman cho rằng luôn luôn có sự đánh đổi trong ngắn hạn
giữa tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp nhưng sẽ không có sự đánh đổi trong dài
hạn.Về dài hạn, người làm công sẽ tính toán đến lạm phát và trong hợp đồng lao
động tiền lương sẽ tăng ở mức gần bằng lạm phát kỳ vọng và ngoài ra, ông cho
rằng lạm phát kỳ vọng giai đoạn tiếp theo sẽ bằng tỷ lệ lạm phát của những năm
trước đó. Đây là giả định về “kỳ vọng thích nghi” của Friedman. Kỳ vọng thích
nghi là cách thức các chủ thể kinh tế mong đợi về tương lai chỉ dựa vào các
thông tin quá khứ. Nghiên cứu của Friedman không chỉ giới thiệu 2 dạng đường


- 7cong Philips mà còn mở ra một khía cạnh kinh tế vĩ mô “lý thuyết kỳ vọng”. Đó
là kỳ vọng của người dân về các sự kiện kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các kết quả
kinh tế.
Cùng với Friedman, Phelps (1967) đã cải biên đường cong Philip thành đường
cong Philips điều chỉnh với kỳ vọng lạm phát được đưa vào xem xét. Phelps cho
rằng khi kỳ vọng lạm phát tăng, đường cong Philips ngắn hạn sẽ dịch chuyển
sang phải và lúc này sẽ xảy ra tình trạng vừa có lạm phát cao vừa có thất nghiệp
cao. Hơn nữa, đường cong Philips trong dài hạn sẽ thẳng đứng. Hiệu quả chính
sách của Chính phủ lúc bấy giờ sẽ phụ thuộc vào kỳ vọng của người dân. Nếu kỳ
vọng lạm phát người dân cao, chính sách kích thích kinh tế sẽ chỉ mang lại lạm
phát cao hơn mà không làm giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Đường cong Phillips dài hạn
Tỷ lệ
Lạm phát

B

C


A

Đường cong Phillips ngắn hạn mới

Đường cong Phillips ngắn hạn

Tỷ lệ thất nghiệp

Hình 2: Đường cong Philips ngắn hạn và dài hạn
Tuy đã có nhiều đóng góp vào việc giải thích kỳ vọng tác động như thế nào đến
nền kinh tế, ý tưởng của Friedman và Phelps vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Các
nhà kinh tế khác tranh luận rằng kỳ vọng của công chúng phức tạp hơn rất nhiều,
không chỉ dựa trên những thông tin trong quá khứ mà còn xét đến cả những xu
hướng trong tương lai. Từ hạn chế đó, “lý thuyết kỳ vọng hợp lý” ra đời và được
phát triển bởi Muth (1961). Lý thuyết được xây dựng trên kỳ vọng hợp lý còn
được gọi là lý thuyết cổ điển mới.


- 8Kỳ vọng hợp lý là kỳ vọng mà các chủ thể kinh tế tạo thành dựa trên kinh
nghiệm quá khứ và dự đoán của họ về những tác động ở hiện tại và tương lai của
chính sách và các sự kiện kinh tế. Một khác biệt cơ bản giữa kỳ vọng thích nghi
và kỳ vọng hợp lý là tốc độ mà kỳ vọng lạm phát thay đổi. Kỳ vọng thích nghi
dựa trên thông tin quá khứ nên thay đổi chậm hơn kỳ vọng hợp lý do các chủ thể
kinh tế phải chờ thông tin hiện tại trở thành thông tin quá khứ thì họ mới thay đổi
kỳ vọng.
Lý thuyết cổ điển mới đưa ra 2 giả định quan trọng để xem xét trong bối cảnh
nếu như chính sách được dự đoán và khi chính sách không được dự đoán: (i) Kỳ
vọng là hợp lý và (ii) Lương và giá cả thì linh hoạt. Nếu như chính sách không
được dự đoán ví dụ như khi FED bất ngờ mua chứng khoán chính phủ dẫn tới

tăng tổng cung tiền và tổng cầu, các chủ thể kinh tế sẽ mất cảnh giác và mức giá
kỳ vọng của người dân không thay đổi ngay lập tức. Điều này trong ngắn hạn tỷ
lệ lạm phát và thất nghiệp sẽ có sự đánh đổi và về dài hạn khi người dân đã dự
đoán được lạm phát cao, lúc này họ sẽ yêu cầu một mức tăng lương tương ứng
dẫn tới không có sự đánh đổi lạm phát và thất nghiệp trong dài hạn. Nếu như
chính sách được dự đoán, lúc này người lao động sẽ ngay lập tức dự đoán được
giá cả sẽ tăng và do đó họ đòi một tỷ lệ tăng tương ứng của tiền lương. Kết quả là
sẽ không có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp cả trong ngắn hạn và dài
hạn. Điều này ngụ ý là trong những điều kiện nhất định cụ thể là chính sách được
dự đoán chính xác, kỳ vọng là hợp lý và giá cả cùng với tiền lương linh hoạt, cả 2
chính sách tài khóa và tiền tệ dùng để kích thích kinh tế đều không có hiệu quả
trong ngắn hạn (không làm tăng được GDP thực lẫn giảm tỷ lệ thất nghiệp).
Tranh luận này được gọi là “Mệnh đề Chính sách Vô Hiệu - Policy
Ineffectiveness Proposition (PIP)”.
Tuy nhiên những giả định của “lý thuyết kỳ vọng hợp lý” cụ thể như mọi người
có kỳ vọng đồng nhất, hợp lý và có khả năng dự đoán chính sách ....liệu có phù
hợp với thực tại hay không? Chúng ta sẽ xem xét các nghiên cứu thực nghiệm để
trả lời cho câu hỏi này.


- 9Nghiên cứu của Mankiw và đồng sự (2003) đã dùng bộ dữ liệu khảo sát để kiểm
tra sự tồn tại của giả định kỳ vọng hợp lý. Kết quả quan sát trên dữ liệu kỳ vọng
trong năm tới cho thấy, khoảng phân vị của tỷ lệ lạm phát kỳ vọng của người tiêu
dùng là từ 0 đến 5% và đuôi của phân phối khá dài với 5% người tiêu dùng kỳ
vọng giảm phát và khoảng 10% cho rằng lạm phát sẽ ở mức 10%. Trong khi đó,
đối với các nhà kinh tế khoảng phân vị biến động ở mức 1,5% đến 3% và ít hơn
2% người trả lời dự báo về giảm phát. Tỷ lệ lạm phát cao nhất được các nhà kinh
tế dự báo là hơn 3% (khoảng 5% số câu trả lời). Kết quả này cho thấy một sự
khác biệt khá rõ trong kỳ vọng của người tiêu dùng và các chuyên gia trong lĩnh
vực kinh tế – không giống với những gì giả định về kỳ vọng hợp lý đưa ra

Nghiên cứu của Pfajfa và Zakelj (2009) đã nghiên cứu cách thức thiết lập kỳ
vọng lạm phát trên các chủ thể là cựu sinh viên và sinh viên hiện tại của trường
đại học Tilbug – Hà Lan. Nghiên cứu cho thấy rằng kỳ vọng là không đồng nhất
và tồn tại ở năm dạng khác nhau: hợp lý, thích nghi, tiếp thu mang tính thích
nghi, xu hướng ngoại suy và thông tin cứng nhắc. Kết quả kiểm định trên dữ liệu
khảo sát cho thấy có 40% chủ thể có kỳ vọng gần hợp lý, 35% mang xu hướng
ngoại suy, 5% là kỳ vọng thích nghi và 20% còn lại sử dụng mô hình tiếp thu
thích nghi và thông tin cứng nhắc. Hơn nữa, các chủ thể không sử dụng cùng một
mô hình trong các giai đoạn khác nhau. Nghiên cứu ở Anh của Mitchell và
Weale (2007) chỉ ra chỉ có 40% người được khảo sát đưa ra kỳ vọng gần hợp lý
so với 60% người được khảo sát còn lại.
Nghiên cứu của Blanchflower và MacCoille (2009) đã sử dụng số liệu từ việc
khảo sát thực tế của NHTW Anh nhằm kiểm tra tác động của nhân khẩu học đối
với việc thiết lập kỳ vọng. Kết quả nghiên cứu cho thấy quá trình thiết lập kỳ
vọng phụ thuộc nhiều vào trình độ học vấn, lứa tuổi, giới tính, thu nhập và vùng
địa lý. Trong đó, khả năng dự báo chính xác cao hơn đối với nam giới, người có
sở hữu nhà, người có trình độ văn hóa tốt, người giàu và những người sống ở
phía Đông Nam nước Anh. Không những kỳ vọng của người dân là không đồng
nhất mà đôi khi còn thể hiện sự lệch lạc do tính lạc quan hoặc bi quan quá mức
của họ. Do đó các dự báo sẽ bị lệch theo hướng quá tin tưởng hoặc ngược lại


- 10(dân chúng Anh trở nên quá lạc quan về tương lai khi thu nhập của họ gia tăng và
ngược lại)
Song song với các kết quả thực nghiệm, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những lý
do để giải thích tại sao thuyết kỳ vọng hợp lý lại không phù hợp. Nghiên cứu của
Blanchflower và MacCoille (2009) đã tóm tắt ba nguyên nhân chính của kỳ vọng
không đồng nhất là: (i) các chủ thể dùng các mô hình khác nhau; (ii) tập hợp
thông tin khác nhau; (iii) khả năng xử lý thông tin khác nhau. Kỳ vọng hợp lý có
thể không bị bác bỏ bởi lý do các chủ thể dựa theo các quy luật bất định một cách

mù quáng; mà bởi vì nó không đáng để họ đầu tư vào các mô hình phức tạp. Kỳ
vọng là không thống nhất một cách hợp lý theo sự tối ưu hóa lợi ích của từng cá
nhân.
Nghiên cứu của Sims (2009) đưa ra khái niệm sự thiếu chú ý hợp lý để giải thích
lý do mà con người không sử dụng tất cả thông tin hoàn toàn miễn phí. Khái
niệm được sử dụng để bác bỏ hai giả định của lý thuyết kỳ vọng hợp lý là phân
phối xác suất đồng nhất và khả năng thu thập – xử lý thông tin tối ưu của chủ thể
kinh tế. Tác giả cho rằng, ngay cả các thông tin miễn phí trên mạng cũng được
truyền tải một cách hạn chế và phụ thuộc vào nhiều nhân tố đối với người sử
dụng. Do đó, tồn tại một sự hạn chế về mặt sử dụng tối ưu các thông tin. Bên
cạnh đó, các chủ thể hợp lý cũng có một sự chậm chạp, nhiễu và gián đoạn trong
các dự báo của họ. Vì vậy, “lý thuyết thiếu chú ý hợp lý” cho rằng có một sự
khác biệt về quan điểm của các chủ thể, dựa theo cách mà mỗi chủ thể tối đa hóa
lợi ích và phương pháp mà họ xử lý thông tin.
Một lý giải khác là dựa trên mô hình tiếp thu. Mô hình tiếp thu (learning) cho ta
thấy sự không thực tế của giả định kỳ vọng hợp lý, thay vào đó các chủ thể sẽ
thực hiện các suy luận mang tính thống kê các thông số không chắc chắn về sự
phát triển của nền kinh tế. Kết quả thực nghiệm của Orphanides và Williams
(2003) cho thấy hiện diện của sự tiếp thu đã làm gia tăng độ nhạy của kỳ vọng
lạm phát và cấu trúc kỳ hạn của lãi suất trước các cú sốc kinh tế. Kỳ vọng lạm
phát ít nhạy cảm hơn khi lạm phát mục tiêu được áp dụng, điều này thể hiện


- 11được lợi ích của việc neo giữ kỳ vọng lạm phát có liên kết chặt chẽ với thành
công của NHTW trong việc truyền đạt các mục tiêu.
Đứng trước việc lý thuyết kỳ vọng đã bộc lộ những khiếm khuyết và không phù
hợp với thực tế, không ngạc nhiên khi các nhà nghiên cứu kinh tế đã tìm cách bổ
sung, hoàn thiện và phát triển những mô hình mới có khả năng diễn giải thực tại
chính xác hơn. Trường phái “Keynes mới - New Keynesian” ra đời vào cuối thập
niên 70, trường phái Keynes mới hệ thống lại và xây dựng nền tảng vi mô cho

các lý thuyết về kỳ vọng trước đây, thay đổi một số biến quan trọng trong đó
đáng kể nhất là thay thế biến số thất nghiệp thành “Lỗ hổng sản lượng - output
gap”. Lỗ hổng sản lượng là sự khác biệt giữa GDP thực và GDP tiềm năng (GDP
thực – GDP tiềm năng). Nếu lỗ hổng sản lượng là một số dương thì được gọi là
lỗ hổng lạm phát và chỉ ra tăng trưởng của tổng cầu vượt quá tổng cung và có
thể tạo ra lạm phát, nếu lỗ hổng sản lượng là một số âm thì được gọi là lỗ hổng
suy thoái và có thể gây ra giảm phát.
Nội dung về trường phái Keynes mới được trình bày trong nghiên cứu này chủ
yếu tham khảo từ Kapinos (2009): A New Keynesian Workbook và trong khuôn
khổ bài nghiên cứu này chỉ nêu ra các kết quả nghiên cứu chính mà không trình
bày chi tiết các mô hình định lượng. Trường phái Keynes mới bắt đầu với mô
hình tĩnh (static) mô tả mối quan hệ giữa 3 nhân tố vĩ mô: lãi suất danh nghĩa, lỗ
hổng sản lượng và lạm phát.Tương ứng với 3 nhân tố là sự thay đổi của 3 đường
kinh tế cơ bản: IS - mô tả hành vi của hộ gia đình, AS (tổng cung) - thể hiện
quyết định định giá của các doanh nghiệp và MR (quy luật tiền tệ) - thể hiện
chính sách tiền tệ của NHTW. Khi có một cú sốc cung hay cú sốc cầu, các đường
kinh tế này thay đổi (dịch chuyển lên trên hoặc xuống dưới). Để đối phó với các
cú sốc, NHTW sẽ sử dụng công cụ lãi suất để đáp ứng mục tiêu giữ tỷ lệ lạm
phát ở mức mong muốn và duy trì lỗ hổng sản lượng không đổi. Taylor đã đề
xuất: NHTW nên gia tăng lãi suất danh nghĩa cao hơn 1% khi lạm phát gia tăng
1% (Taylor Principal).
Mở rộng mô hình tĩnh ban đầu, yếu tố kỳ vọng được đưa vào phương trình với
những giả định quan trọng. Ban đầu, kỳ vọng được giả định là hướng về quá khứ


- 12(backward – looking), các đối tượng kinh tế hình thành kỳ vọng khi quan sát
trạng thái cân bằng lạm phát trong quá khứ. Mô hình này không chỉ cho thấy
trạng thái cân bằng trong ngắn hạn khi phản ứng ngay lập tức với các cú sốc mà
còn có thể cho thấy động thái điều chỉnh của nền kinh tế đến một trạng thái cân
bằng dài hạn. Ví dụ khi NHTW tăng lãi suất danh nghĩa để chống lạm phát, tỷ lệ

lạm phát trong ngắn hạn sẽ giảm xuống và khi người dân quan sát tỷ lệ lạm phát
giảm họ sẽ kỳ vọng lạm phát sẽ tiếp tục giảm hay ít nhất là ổn định trong tương
lai. Điều này tạo ra một môi trường vĩ mô ổn định dẫn đến các doanh nghiệp gia
tăng sản xuất làm gia tăng tổng cung và kéo theo lạm phát tiếp tục giảm. Trong
một số trường hợp cực đoan, ở một số nước phát triển có thể gây ra giảm phát.
Không đồng tình với giả định kỳ vọng hướng về quá khứ, Woodford (2003) cùng
với nhiều nhà nghiên cứu khác đã đưa ra giả định kỳ vọng hướng về tương lai Forward – looking. Lý thuyết này phát biểu rằng con người có thể dự đoán lạm
phát trong tương lai dựa trên rất nhiều biến số từ những thông tin có sẵn và nhất
là mức độ tín nhiệm của NHTW. Từ giả định của mình, lý thuyết đã xem xét các
điều kiện cân bằng trong ngắn hạn lẫn dài hạn và cho rằng NHTW ngoài những
biện pháp truyền thống như tăng lãi suất, tăng dự trữ bắt buộc,…thì NHTW có
thể kiểm soát lạm phát kỳ vọng để chống lạm phát. Ví dụ như mặc dù tỷ lệ lạm
phát hiện tại là cao nhưng với mức độ tín nhiệm cao, NHTW có thể đơn giản cam
kết rằng sẽ làm mọi cách để chống lạm phát mà không cần đưa ra hành động cụ
thể nào. Việc này sẽ giữ lạm phát kỳ vọng dài hạn của công chúng ổn định và từ
đó doanh nghiệp, người dân vẫn yên tâm gia tăng sản xuất, tiêu dùng. Kết quả là
tác động của lạm phát cao trong hiện tại sẽ được giảm thiểu.
Trong thời gian gần đây, trường phái Keynes mới đã tìm cách kết hợp cả hai giả
định: kỳ vọng hướng về quá khứ và kỳ vọng hướng về tương lai và đưa ra mô
hình đường cong Philips kết hợp của trường phái Keynes mới (Hybrid New
Keynesian Philips Curve). Clarida và đồng sự (1999) đã phát triển một mô hình
cấu trúc sử dụng dữ liệu theo quý từ quý 1 năm 1960 tới quý 4 năm 1997 cho
phép xem xét một tỷ lệ các công ty dùng hành vi hướng về quá khứ để thiết lập
giá cả. Ngoài ra, Clarida cho rằng công chúng bao gồm những người hướng về


- 13tương lai và những người nhìn về quá khứ và từ các hệ số hồi quy mà các tác giả
kiểm định hành vi nào chiếm ưu thế hơn. Kết quả là hành vi kỳ vọng vào tương
lai chiếm ưu thế hơn hành vi kỳ vọng vào quá khứ qua các bằng chứng thực
nghiệm (hành vi thiết lập giá từ góc nhìn quá khứ không có ý nghĩa thống kê

định lượng). Trong bài nghiên cứu, 2 tác giả còn kiểm tra sự tương quan chéo
giữa 3 yếu tố:lạm phát, lỗ hổng sản lượng và thu nhập người lao động (một đại
diện cho chi phí biên). Kết quả ước lượng cho thấy chi phí đơn vị lao động thực
chiếm ưu thế hơn lỗ hổng sản lượng khi ước lượng đường cong Philips mới. Lỗ
hổng sản lượng dẫn tới lạm phát hơn là ngược lại. Bên cạnh đó, các tác giả còn
cho thấy chi phí đơn vị lao động thực tương quan mạnh mẽ với lạm phát.
Sự phát triển trong lý luận về lạm phát kỳ vọng đã làm rõ và chứng minh thuyết
phục vai trò của lạm phát kỳ vọng trong việc phân tích nguyên nhân, diễn biến
lạm phát và đưa ra các gợi ý hết sức quan trọng cho những người hoạch định
chính sách. NHTW giờ đây phải xem việc kiểm soát và neo tốt lạm phát kỳ vọng
của công chúng là một trong những ưu tiên hàng đầu khi thực hiện công việc
điều hành chính sách tiền tệ của mình. Để có thể làm được việc đó là không hề dễ
dàng và đỏi hỏi phải biết được kỳ vọng lạm phát được hình thành như thế nào?
Đó sẽ là nội dung tiếp theo trong bài nghiên cứu.

2.2 Các phương pháp đo lường lạm phát kỳ vọng.
2.2.1 Đo lường trên cơ sở khảo sát.
Đây là một phương pháp khá phổ biến trong đo lường lạm phát kỳ vọng, có 2 đối
tượng chính thường được dùng để khảo sát kỳ vọng lạm phát đó là: (i) khảo sát
hộ gia đình và các doanh nghiệp (ii) khảo sát những chuyên gia dự báo. Cả hai
phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, tuy nhiên nhìn chung
có những hạn chế sau đây: (1) Chi phí khảo sát tốn kém do cỡ mẫu lớn và thời
gian khảo sát dài; (2) Có sự không đồng nhất trong các mẫu khảo sát vì vậy có
thể gây ra nhiều khó khăn cũng như sai số trong việc đo lường; (3) Khi thời gian
khảo sát tương đồi dài thì các câu trả lời trong các cuộc khảo sát có thể bị những
sự kiện xung quanh tác động vì vậy xảy ra các lỗi đo lường trong quá trình khảo


- 14sát; (4) Việc khảo sát (đặc biệt là khảo sát các hộ gia đình) không được thực hiện
thường xuyên nên tạo ra bộ dữ liệu với tần số tương đối thấp.

2.2.2 Đo lường trên cơ sở thị trường tài chính
Một phương pháp khác để đo lường kỳ vọng lạm phát đó là dựa vào “cơ sở của
thị trường tài chính” hay các sản phẩm tài chính phòng ngừa lạm phát (trái phiếu
điều chỉnh theo lạm phát - TIPS, các sản phẩm phái sinh như inflation swap,…).
Phương pháp này đòi hỏi nhiều giả định mới vì vậy làm cho mức độ chính xác
của báo cáo giảm đi đáng kể. Tuy nhiên phương pháp này lại bộc lộ được nhiều
ưu điểm so với với phương pháp khảo sát truyền thống như : (1) Nguồn dữ liệu
phong phú trong thị trường tài chính có thể cung cấp những quan sát kịp thời về
kỳ vọng lạm phát. Do thị trường có khả năng xử lý được một số lượng lớn và
thường xuyên các thông tin kinh tế; (2) Cách đo lường này cho ước lượng chệch
lệch gần như rất thấp do những người tham gia thị trường thường có được thông
tin tốt hơn và phân tích một cách chuẩn xác hơn.
Ở các thị trường tài chính phát triển, Việc đo lường kỳ vọng lạm phát ngắn hạn
thường dựa trên những hợp đồng hoán đổi ngắn hạn có phòng ngừa lạm phát
(thông qua swap spread), trong khi đó kỳ vọng lạm phát dài hạn thường được đo
bằng các loại trái phiếu chính phủ hay các sản phẩm phái sinh dài hạn.
Việc đo lường lạm phát kỳ vọng dựa trên sự khác biệt giữa tỷ suất trái phiếu
(yield) phòng ngừa lạm phát với tỷ suất danh nghĩa của trái phiếu thông thường
có cùng kỳ hạn, hay còn gọi là tỷ lệ lạm phát ngang giá. Về cơ bản, tỷ lệ lạm phát
ngang giá trong các sản phẩm tài chính phòng ngừa lạm phát có thể phân tích
thành ba thành phần: (i) lạm phát kỳ vọng trong kỳ hạn còn lại của trái phiếu; (ii)
phần bù rủi ro lạm phát và (iii) phần bù thanh khoản. Khó khăn lớn nhất là làm
thế nào để tính toán được kỳ vọng lạm phát khi mà nó bị gắn vào tỷ suất sinh lợi
của các sản phẩm tài chính này trong khi phần bù rủi ro lại không ổn định theo
thời gian do còn bị tác động bởi các nhân tố khác và giá cả những sản phẩm tài
chính này trong một thời kỳ nhất định có thể bị định giá sai do cung cầu biến
động.


- 152.2.3


Đo lường trên cơ sở mô hình định lượng

Phương pháp này hiện nay còn khá mới mẻ và chỉ được trình bày trong một số
bài nghiên cứu nhất định. Nhược điểm lớn nhất trong cách tiếp cận này là phải sử
dụng khá nhiều giả định, đòi hỏi nguồn dữ liệu lớn và kết quả thu được phụ thuộc
đáng kể vào mô hình được chọn. Tuy nhiên đối với những nước chưa có một hệ
thống khảo sát đáng tin cậy và thị trường tài chính chưa phát triển như Việt Nam,
cách tiếp cận này cùng với một số giả định hợp lý sẽ rất hữu ích và có thể chấp
nhận được. Bài nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp thiên về tính toán này để tạo
ra chuỗi lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam và sẽ được mô tả chi tiết hơn trong phần
mô hình của bài nghiên cứu.

2.3

Tổng quan các kết quả nghiên cứu về lạm phát kỳ vọng.

2.3.1

Mô hình hình thành kỳ vọng lạm phát

Ranyard và đồng sự (2008) đã phác thảo một sơ đồ diễn giải cơ chế và tác nhân
dẫn đến sự hình thành về kỳ vọng lạm phát.
Dựa vào sơ đồ cho thấy, lạm phát kỳ vọng được hình thành dưới tác động của
nhận thức và thái độ về lạm phát từ những dự đoán kinh tế (economics forecast)
của các chuyên gia, công bố chính sách của Chính phủ, phát ngôn của NHTW,
các khuếch đại mang tính chất xã hội từ các kênh truyền thông và truyền miệng.
Ngoài ra, nhận thức về lạm phát còn chịu tác động trực tiếp từ tình hình biến
động giá cả và thu nhập. Những yếu tố bên trên không chỉ tác động đến kỳ vọng
trong tương lai mà chính bản thân các yếu tố này cũng bị ảnh hưởng bởi kỳ vọng

trong quá khứ được lưu giữ trong giai đoạn hiện tại.


- 16-

Môi trường kinh tế xã hội
The socio-economic environment
Áp lực thị trường lên thu nhập
Market forces on income

Sự khếch đại xã hội
Social amplification

Các dự báo kinh tế
Economic forecasts

Cá thể
The individual

Tổng các mức thu nhập
General income levels

Thu nhập các nhân
Personal income

Sự kỳ vọng
Expectations
Hành vi
Behaviour


Thay đổi giá cả
Price changes/Inflation

Sự nhận thức
Perceptions

Quan điểm
Attitudes

Áp lực thị trường lên giá
Market forces on prices

Hình 3: Sự hình thành lạm phát kỳ vọng theo Ranyard và đồng sự (2008)
2.3.2

Cách thức hình thành lạm phát kỳ vọng.

Nghiên cứu của Galati và đồng sự (2008) chỉ ra rằng lạm phát kỳ vọng được hình
thành dưới 3 dạng như sau:
Thứ 1, trong điều kiện các chủ thể kinh tế có đầy đủ kiến thức, thông tin về nền
kinh tế và các mục tiêu được công bố của NHTW, các chủ thể kinh tế sẽ xây
dựng mức kỳ vọng của mình dựa trên những thông tin được cập nhật liên tục, vì
vậy kỳ vọng của họ sẽ rất nhạy cảm với các cú sốc, những thông tin hay sự kiện
bất ngờ của nền kinh tế.
Thứ 2, người dân sẽ dựa vào những quy tắc kinh nghiệm đơn giản để đưa ra mức
dự báo về lạm phát. Có 2 hình thức chủ yếu về quy tắc này: dựa vào dữ liệu lạm
phát quá khứ hoặc xem kỳ vọng của mình bằng với mục tiêu mà NHTW công bố.
Các chủ thể kinh tế sẽ lựa chọn một trong hai hoặc cả hai dựa trên độ tin cậy và
sự chính xác của từng hình thức trong quá khứ nhất là mức tín nhiệm của
NHTW.



- 17Thứ 3, công chúng sẽ dựa vào thông tin có sẵn (truyền thông hay truyền miệng)
và thông tin thu được từ các chủ thể khác. Cách thức này rất dễ bị nhiễu và lệch
lạc do tâm lý đám đông, bầy đàn. Tỷ trọng tương đối giữa các thông tin này sẽ
tùy thuộc vào sự sẵn có và độ tin cậy của nguồn dữ liệu.
2.3.3

Độ trễ của lạm phát kỳ vọng.

Nghiên cứu của Windram (2007) cho rằng sự tác động của những nhân tố xã hội
– kinh tế tới nhận thức và từ nhận thức tác động tới kỳ vọng là có độ trễ nhất
định, khi nền kinh tế xuất hiện các cú sốc thì phải mất một khoảng thời gian để
kỳ vọng lạm phát thay đổi. Tốc độ thay đổi tùy thuộc vào: độ dài của cú sốc,
phản ứng chính sách của NHTW và cách thức tạo lập kỳ vọng lạm phát. Do vậy,
từ ý tưởng này NHTW nên phản ứng và thực hiện những biện pháp quyết liệt,
hiệu quả ngay khi cú sốc xảy ra để bình ổn tâm lý thị trường nhằm giữ cho kỳ
vọng lạm phát dài hạn của công chúng ổn định. Có như vậy thì việc kéo tỷ lệ lạm
phát về mức mục tiêu sẽ dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Nghiên cứu của Mankiw và đồng sự (2003) cho rằng tốc độ thay đổi kỳ vọng còn
phụ thuộc vào tốc độ thông tin được truyền đi. Tác giả cho rằng thông tin được
truyền đi một cách rất chậm chạp hoặc thậm chí còn bị mất mát khi tới công
chúng (thông tin bất cân xứng). Điều này làm cho phản ứng của công chúng bị
lệch về thời gian, kém chính xác và không đồng nhất làm xuất hiện hiện tượng
phân tán kỳ vọng lạm phát trong công chúng.
Nghiên cứu của Blanchflower và Maccoille (2009) cho rằng mặc dù cơ chế hình
thành kỳ vọng thì tương đối giống nhau tuy nhiên mỗi cá nhân lại có kỳ vọng lạm
phát tương đối khác nhau. Điểm khác nhau này phụ thuộc vào giới tính, địa vị,
trình độ học vấn, nghề nghiệp và thậm chí cả vị trí địa lý nơi đối tượng khảo sát
sinh sống. Bên cạnh đó, thì trong một số điều kiện nhất định, tình trạng thất

nghiệp cao của nền kinh tế cũng khiến chất lượng dự báo giảm, do người lao
động bị giảm khả năng mặc cả về tiền lương và họ sẽ đưa mối quan tâm về lạm
phát xuống hàng thứ yếu.


×