Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và phân cấp tài khóa đến xung đột về đất đai – thực nghiệm dữ liệu bảng tại 19 tỉnh Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (986.44 KB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM

NGÔ MINH DUY

TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ PHÂN CẤP TÀI
KHÓA ĐẾN XUNG ĐỘT VỀ ĐẤT ĐAI –
THỰC NGHIỆM DỮ LIỆU BẢNG TẠI 19
TỈNH VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
*****

NGÔ MINH DUY

TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ PHÂN CẤP TÀI
KHÓA ĐẾN XUNG ĐỘT VỀ ĐẤT ĐAI –
THỰC NGHIỆM DỮ LIỆU BẢNG TẠI 19
TỈNH VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số:8340201
Hướng đào tạo: hướng ứng dụng


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS DIỆP GIA LUẬT

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nguyên cứu của cá nhân tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học và tận tâm của PGS.TS.Diệp Gia Luật.
Các số liệu, thống kê được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực. Tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
HỌC VIÊN

Ngô Minh Duy.


MỤC LỤC
Trang phụ bìa.
Lời cam đoan.
Mục lục.
Danh mục các cụm từ viết tắt.
Danh mục các bảng.
Tóm tắt.
Abstract
Mở đầu.
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÂN CẤP TÀI KHÓA, VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ XUNG ĐỘT ĐẤT ĐAI
1.1. Cơ sở lý thuyết về FDI, phân cấp tài khóa và xung đột đất đai

1.1.1. Lý thuyết về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.2. Lý thuyết về phân cấp tài khóa.
1.1.3. Lý thuyết về xung đột đất đai
1.2. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ phân cấp tài khóa, FDI xung đột
đất đai
1.2.1. Mối quan hệ phân cấp tài khóa và FDI
1.2.2. Mối quan hệ phân cấp tài khóa và xung đột đất đai
1.2.3. Mối quan hệ FDI và xung đột đất đai
1.2.4. Mối quan hệ phân cấp tài khóa, FDI và xung đột đất đai
1.3. Lược khảo các nghiên cứu trước
1.3.1. Các nghiên cứu nước ngoài
1.3.2. Các nghiên cứu trong nước.
1.4. Kết luận chương 1.
CHƯƠNG 2:
TÌNH HÌNH PHÂN CẤP TÀI KHÓA, NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ XUNG ĐỘT ĐẤT ĐAI TẠI VIỆT NAM,
GIAI ĐOẠN TỪ 2012-2016
2.1. Thực trạng nguồn FDI tại Việt Nam
2.1.1. Đánh giá về nguồn vốn FDI
2.1.2. Nguyên nhân
2.2. Thực trạng phân cấp tài khóa tại Việt Nam
2.2.1. Khung pháp lý về phân cấp tài khóa
2.2.2. Về phân cấp nguồn thu
2.2.3. Về phân cấp nhiệm vụ chi
2.2.4. Về trách nhiệm giải trình tài khóa của chính quyền địa phương
2.3. Thực trạng về xung đột đất đai tại Việt Nam
2.3.1. Cơ sở hình thành giá đất và bồi thường.
2.3.2. Chính sách và pháp luật về khiếu nại tố cáo, tiếp công dân ở nước ta
2.3.3. Khiếu nại tố cáo về Đất đai


1
4

4
4
8
10
12
12
13
16
17
19
19
22
24
26

26
26
28
29
29
30
30
31
32
32
34
34



CHƯƠNG 3:
MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu
3.1.1. Mô hình lý thuyết
3.1.2. Mô tả các biến trong mô hình
3.2. Mô tả dữ liệu.
3.3. Phương pháp ước lượng
CHƯƠNG 4:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TÁC ĐỘNG NGUỒN
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI, PHÂN CẤP TÀI KHÓA
VỚI XUNG ĐỘT ĐẤT ĐAI

38

4.1. Kiểm định mô hình
4.1.1. Kiểm định các biến trong mô hình nghiên cứu
4.1.2. Kết quả kiểm định mô hình
4.1.3. Các kiểm định chi tiết.
4.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu
CHƯƠNG 5:
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
5.1. Kết luận nghiên cứu.
5.2. Khuyến nghị chính sách.
5.2.1. Tăng cường trách nhiệm giải trình và tính công khai minh bạch
5.2.2. Đối quản lý quản lý dự án FDI, quỹ đất công và bảng giá đất
5.3. Kết luận chung

44

44
47
48
54
55

Tài liệu tham khảo

38
38
39
40
43
44

55
55
55
56
57


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
FDI (Foreign Direct Investment) đầu tư trực tiếp nước ngoài.
WTO (World Trade Organization) Tổ chức thương mại thế giới.
OECD (Organization for Economic Cooperation and Development) Tổ chức Hợp
tác và Phát triển kinh tế.
MNE: các công ty vừa và nhỏ.
GDP (Gross Domestic Product): tổng sản phẩm nội địa.
EU: Liên minh châu âu.

XDCB : Xây dựng cơ bản.
NSTW: Ngân sách Trung ương.
NSĐP: Ngân sách địa phương.
NSNN: Ngân sách nhà nước.
HĐND: Hội đồng nhân dân.


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng

Nội Dung

Trang

1.1

Tổng vốn FDI đăng ký năm 2017 và lũy kế đến năm

16-17

2017.
2.1

Thống kê về số dự án và vốn FDI đăng ký từ năm

26

2010 – 2017.
2.2


Thống kê về số dự án, vốn FDI còn hiệu lực theo đối

27

tác đầu tư đến ngày 31/12/2017.
2.3

Thống kê về số dự án, vốn FDI còn hiệu lực theo địa

27

phương đến ngày 31/12/2017.
2.4

Bảng tổng hợp Tỉ lệ khiếu nại lĩnh vực đất đai nhà ở

35

các cơ quan chính phủ.
2.5

Bảng tổng hợp số đơn khiếu nại, tố cáo lĩnh vực đất

35

đai nhà ở các cơ quan chính phủ năm 2016-2017.
3.1

Mô tả các biến và kỳ vọng dấu trong mô hình.


40

3.2

Các tỉnh trong mẫu nghiên cứu.

41

3.3

Thống kê mô tả các biến trong mô hình.

42

4.1

Ma trận tương quan các biến trong mô hình.

45

4.2.

Kiểm định VIF.

46

4.3

Kết quả kiểm định Wooldridge.


46

4.4

Kết quả hồi quy POLS, FEM, REM.

47

4.5

Bảng kết quả kiểm định Breusch-Pagan.

48

4.6

Kết quả kiểm định Hausman.

49

4.7

Kết quả hồi quy FEM và REM khi có độ trễ.

50

4.8

Kết quả mô hình GMM.


51


TÓM TẮT
Sau 30 năm đón nhận dòng vốn FDI, Việt Nam đã ghi nhận nhiều mặt tích cực
như tốc độ tăng trưởng cao, nguồn nhân lực được cải thiện, tỷ lệ thất nghiệp thấp…
Tuy nhiên, song hành cùng việc tăng trưởng kinh tế cao đó là việc gia tăng các bất ổn
xã hội đặc biệt là xung đột liên quan đến đất đai.Nhiều ý kiến cho rằng, việc thu hồi
đất với giá thấp để thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất đáp ứng nhu cầu về
cơ sở vật chất nhằm thu hút dòng vốn FDI đã làm mức độ đô thị hóa tại nhiều địa
phương gia tăng nhanh chóng. Cộng hưởng với việc chạy đua chính sách ưu đãi dành
cho nhóm các doanh nghiệp FDI đã thúc đẩy các tranh chấp, xung đột về đất đai ngày
càng một gia tăng giữa người dân với chính quyền địa phương, hay thậm chí các tranh
chấp dân sự về đất đai cũng gia tăng. Do đó, trong tình hình mới, địa phương công
tác là địa phương có tiến trình đô thị hóa nhanh, thu hút FDI nhiều trong thời gian
tới, cho nên cần thiết phải thực hiện nghiên cứu để có giải pháp quản lý tốt, nhằm
mục đích phải triển kinh tế địa phương bền vững, nhưng cũng ổn định đời sống người
dân, an ninh trật tự, công bằng xã hội.
Bài Luận sử dụng dữ liệu Bảng tại 19 tỉnh bao gồm các tỉnh Đông Nam Bộ,
Tây Nam Bộ và tỉnh Bình Thuận để xem xét tác động của FDI và phân cấp tài khóa
đến xung đột đất đai tại 19 tỉnh phía Nam, và từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách
giải quyết xung đột này.
Với các kết quả thu được từ sử dụng mô hình ước OLS, FEM và mô hình
GMM để kiểm định, Bài luận đã chỉ ra được một mối liên hệ gián tiếp của FDI và
phân cấp tài khóa đến xung đột đất đai tại 19 tỉnh. Trên cơ sở đó, tác giả bước đầu
đưa ra các khuyến nghị chính sách về việc gia tăng việc giám sát, nhất là của HĐND
và việc giải trình, đây là yếu tố bắt buộc khi chúng ta gia tăng sự phân cấp cho chính
quyền cấp dưới. Bên cạnh đó, bài luận cũng đề nghị nên gia tăng không gia tự chủ
của chính quyền địa phương về bảng giá đất trên cơ sở giám sát của người dân. Đồng
thời thay đổi cách tinh tiền thuế trong một giao dịch về đất đai nên được tính theo

bảng giá đất cấp tỉnh.Từ khóa: Xung đột đất đai, phân cấp tài khóa, FDI.
Từ khóa: Xung đột đất đai, Phân cấp tài khóa, FDI.


ABSTRACT
After 30 years of receiving FDI inflows, Vietnam has recorded many positive
aspects such as high growth rate, improved human resources, low unemployment rate
... However, along with the high economic growth is the increase in social unrest,
especially conflicts related to land. Many people said that the acquisition of land at
low prices to establish industrial parks and export processing zones to meet the
demand for facilities to attract FDI has increased rapidly the level of urbanization in
many localities. Resonance with the rush of preferential policies for FDI enterprises
has led to an increasing number of conflicts, land conflicts between people and local
authorities, or even civil disputes. Therefore, in the new situation, the working
localities are localities with rapid urbanization process, attracting a lot of FDI in the
coming time, so it is necessary to conduct research to have a good management
solution, in order to The goal is to develop the local economy sustainably, but also to
stabilize the lives of the people, security, social order and justice.
The essay uses Table data in 19 provinces including Southeast, Southwest and
Binh Thuan to examine the impact of FDI and fiscal decentralization on land conflicts
in 19 southern provinces, and thereby making these policy recommendations for
conflict resolution.
With the results obtained using the OLS, FEM and GMM estimation models for
testing, the paper pointed out an indirect linkage of FDI and fiscal decentralization to
land conflicts in 19 provinces. On that basis, the author initially made policy
recommendations on increased oversight, especially of the People's Council and
accountability, which is a must when we increase decentralization to the subordinate
government. In addition, the essay also recommends increasing the autonomy of local
authorities on land price lists based on people's supervision. Also change the way tax
money is calculated in a land transaction should be calculated according to the

provincial land price list.
Key words: Land conflicts, fiscal decentralization, FDI.


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề nghiên cứu
Từ nhiều thập kỷ trước, nhà kinh tế học Paul Samuelson đã đưa ra lý thuyết
“vòng lẫn quẩn của sự chậm phát triển và cú huých từ bên ngoài” và để phá vỡ
vòng lẫn quẩn này, nhất là tại các nước đang phát triển, thì phải có sự đầu tư từ
nước ngoài. Một trong các dòng vốn nước ngoài đã và đang khẳng định vai trò của
mình đó là dòng vốn FDI. Đặc biệt hơn đây còn là một luồng vốn tương đối ổn
định, do FDI dựa trên quan điểm dài hạn về thị trường, triển vọng tăng trưởng và
không tạo ra nợ cho chính phủ. Bên cạnh đó, FDI còn giúp khuếch tán công nghệ
tại nước tiếp nhận; giúp phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm; giúp mở rộng thị
trường, thúc đẩy xuất khẩu và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tại Việt Nam, sau 30 năm đón nhận dòng vốn FDI (1988 – 2018), đã ghi nhận
nhiều mặt tích cực như tốc độ tăng trưởng cao, nguồn nhân lực được cải thiện, tỷ
lệ thất nghiệp thấp… Tuy nhiên, song hành cùng việc tăng trưởng kinh tế cao đó
là việc gia tăng các bất ổn xã hội đặc biệt là xung đột liên quan đến đất đai. Cụ
thể, theo thống kê, tổng số vụ việc khiếu nại các cơ quan hành chính nhà nước đã
tiếp nhận và giải quyết trong các năm từ 2004 đến 2012 là: 528.401/612.115 vụ
việc đạt 86%, trong số đó, hằng năm, khiếu nại hành chính liên quan đến đất đai
luôn chiếm khoảng 70%.
Nhiều ý kiến cho rằng, việc thu hồi đất với giá thấp để thành lập các khu công
nghiệp, khu chế xuất đáp ứng nhu cầu về cơ sở vật chất nhằm thu hút dòng vốn
FDI đã làm mức độ đô thị hóa tại nhiều địa phương gia tăng nhanh chóng. Cộng
hưởng với việc chạy đua chính sách ưu đãi dành cho nhóm các doanh nghiệp FDI
đã thúc đẩy các tranh chấp, xung đột về đất đai ngày càng một gia tăng giữa người

dân với chính quyền địa phương, hay thậm chí các tranh chấp dân sự về đất đai
cũng gia tăng.
Tiếp cận vấn đề này từ các nghiên cứu cho thấy mối liên kết giữa FDI và tăng
trưởng là nhân quả và FDI thúc đẩy tăng trưởng thông qua thị trường tài chính (L


2

Alfaro, A Chanda, S Kalemli-Ozcan, 2004). Borensztein và cộng sự (1998) chỉ ra
rằng FDI có thể được coi là một trong những phương tiện truyền tải chính tiên tiến
công nghệ đến các nước đang phát triển… Tuy nhiên, Cao và các cộng sự, (2010)
chỉ ra rằng chính phủ có xu hướng đưa ra giá đất thấp để thu hút nguồn vốn FDI.
Do đó, trong tình hình mới, địa phương công tác là địa phương có tiến trình đô
thị hóa nhanh, thu hút FDI nhiều trong thời gian tới, cho nên cần thiết phải thực
hiện nghiên cứu để có giải pháp quản lý tốt, nhằm mục đích phải triển kinh tế địa
phương bền vững, nhưng cũng ổn định đời sống người dân, an ninh trật tự, công
bằng xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục tiêu chung là tìm ra có hay không mối quan hệ tác động của FDI và phân
cấp tài khóa đến xung đột đất đai tại các địa phương ở Việt Nam, và khuyến nghị
chính sách giải quyết xung đột này.
Để trả lời được câu hỏi trên đề tài nghiên cứu sẽ làm rõ các vấn đề sau:
- FDI, phân cấp tài khóa tác động như thế nào đến xung đột đất đai?
- Việc cạnh tranh giữa các tỉnh do phân cấp tài khóa có làm gia tăng xung đột
đất đai hay không?
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu này xem xét tác động của FDI và phân cấp tài khóa đến xung đột
đất đai tại 19 tỉnh phía Nam, bao gồm các tỉnh Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ và
tỉnh Bình Thuận do có sự đồng nhất về khu vực kinh tế và là các tỉnh có nguồn
vốn FDI đầu tư chiếm tỷ trọng đáng kể và đây là các địa phương này thuộc khu

vực quản lý của cơ quan thanh tra chính phủ khu vực III.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Ở bài nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và
sử dụng mô hình ước OLS, REM,FEM và mô hình GMM để kiểm định.


3

5. Ý nghĩa nghiên cứu:
Bài luận đã chỉ ra được một mối liên hệ gián tiếp của FDI và phân cấp tài khóa
đến xung đột đất đai tại 19 tỉnh. Trên cơ sở đó, tác giả bước đầu đưa ra các khuyến
nghị chính sách về việc gia tăng việc giám sát, nhất là của HĐND và việc giải
trình, đây là yếu tố bắt buộc khi chúng ta gia tăng sự phân cấp cho chính quyền
cấp dưới. Bên cạnh đó, bài luận cũng đề nghị nên gia tăng không gia tự chủ của
chính quyền địa phương về bảng giá đất trên cơ sở giám sát của người dân. Đồng
thời thay đổi cách tiến tiền thuế trong một giao dịch về đất đai nên được tính theo
bảng giá đất cấp tỉnh, việc này sẽ tạo động lực cho chính quyền địa phương đưa
ra bảng giá đất sát với thị trường và giúp người dân sẽ trung thực hơn trong việc
ký kết hợp đồng giao dịch về quyền sử dụng đất.
6. Kết cấu luận văn
Bài luận văn gồm 5 chương:
Chương 1 sẽ giới thiệu về cơ sở lý thuyết, các mối quan hệ của các thành tố và
lươt khảo các nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây về vấn đề xung đột đất
đai.
Chương 2 sẽ nêu lên tình hình phân cấp tài khóa, nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài và xung đột đất đai tại việt nam.
Chương 3 sẽ giới thiệu về mô hình nghiên cứu và dữ liệu của bài nghiên cứu.
Chương 4 sẽ nêu ra kết quả và luận giải kết quả của mô hình.
Chương 5 từ kết quả thu được của mô hình, luận văn nêu lên khuyến nghị và
các mặt còn hạn chế, hướng nghiên cứu tiếp theo.



4

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÂN CẤP TÀI KHÓA, VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ XUNG ĐỘT ĐẤT ĐAI
1.1.

Cơ sở lý thuyết về FDI, phân cấp tài khóa và xung đột đất đai

1.1.1. Lý thuyết về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.1.1. Khái niệm về FDI
Theo tổ chức thương mại thế giới WTO định nghĩa FDI (Foreign Direct
Investmen) vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng
với quyền quản lý tài sản đó. Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD):
Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ
kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp, mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc
quản lý doanh nghiệp. Có các mục đầu tư như:
+ Thành lập hoặc mở rộng một Doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn
quyền quản lý của chủ đầu tư.
+ Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.
+ Tham gia vào một doanh nghiệp mới.
+ Cấp tín dụng dài hạn (>5 năm).
Tuy nhiên, định nghĩa được nhiều sử dụng nhiều nhất là của Quỹ tiền tệ quốc
tế IMF(1997): FDI là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi
ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác
nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự
doanh nghiệp.

Để có một cái nhìn khái quát về FDI, chúng ta có thể lược khảo một vài định nghĩa
của các nhà nghiên cứu như:
Khái niệm ban đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được coi là sự phát
triển từ lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế và ban đầu bắt nguồn từ kinh tế
học. Việc giải thích FDI bắt nguồn từ lý thuyết về lợi thế so sánh của Ricardo.


5

Năm 1933, Heckscher-Ohlin đã đưa ra lý thuyết được coi là trụ cột cho sự phát
triển của khái niệm chuyển động vốn quốc tế cho thương mại quốc tế do sự đa dạng
của tài nguyên nguồn lực giữa các quốc gia. Và nó dựa trên lý thuyết về lợi thế so
sánh của David Ricardo, bằng cách dự đoán các mô hình thương mại và sản xuất dựa
trên yếu tố nguồn lực của một khu vực giao dịch. Mô hình về cơ bản nói rằng các
quốc gia sẽ xuất khẩu các sản phẩm sử dụng các yếu tố sản xuất mà quốc gia mình
lợi thế nên có chi phí thấp và nhập khẩu các hàng hóa mà nếu quốc gia phải tự sản
xuất thì phải sử dụng các yếu tố khan hiếm hơn nên sẽ có giá cao hơn.
MacDougall (1960), Kemp (1964) nhận thấy luồng vốn đầu tư sẽ chuyển dịch
từ nước có lãi xuất thấp (chi phí vốn thấp) sang nước có lãi xuất cao cho đến khi đạt
trạng thái cân bằng. Một vài nhà nghiên cứu tiêu biểu cũng cố cho lý thuyết này như
của Jasay (1960), Aliber (1970).
Lý thuyết này được các nhà kinh tế thừa nhận vào năm 1950, tuy nhiên, sau
đó lý thuyết trở nên thiếu ổn định khi tỷ suất đầu tư của Mỹ giảm đi đến mức thấp
hơn tỷ suất trong nước, nhưng dòng vốn FDI từ Mỹ đến các nước khác vẫn tăng liên
tục. Mô hình trên không giải thích được hiện tượng vì sao một số nước đồng thời có
dòng vốn chảy vào, có dòng vốn chảy ra.
Khái niệm thứ hai về FDI đó là lý thuyết thị trường độc quyền của Stephen
Herbert Hymer (nghiên cứu năm 1960, xuất bản năm 1976) và Kindleberger (1969),
họ tin rằng phải có sự không hoàn hảo trong thị trường hàng hóa hoặc các yếu tố sản
xuất để xuất hiện dòng vốn FDI. Hymer (1976) chỉ ra rằng các công ty đa quốc gia

phải đối mặt với nhiều hạn chế vì họ là “người nước ngoài”. Chúng bao gồm chi phí
thu thập thông tin do sự khác biệt về văn hóa và ngôn ngữ; chi phí đối xử ít thuận lợi
hơn của chính phủ các nước sở tại.... Do đó, các công ty đa quốc gia sẽ có được phải
có lợi thế cạnh tranh (ví dụ: lợi thế của nước sở tại, sản phẩm sáng tạo, kỹ năng quản
lý, bằng sáng chế, v.v.) để bù đắp những nhược điểm này.
Ở Việt Nam, luật đầu tư năm 2005 định nghĩa FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu
tư. Nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp


6

khác để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật nhà nước. Vậy có thể hiểu,
FDI theo Luật đầu tư năm 2005 là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn đầu tư vào
Việt Nam bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư theo quy định của luật nhà nước.
1.1.1.2. Vai trò của FDI
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng
vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa
qua. Các nghiên cứu gần đây của Freeman (2000), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003),
Nguyễn Mại (2004) đều rút ra nhận định chung rằng khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này
góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh
tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá), đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao
động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi
mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có tác động tích cực
tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các

dự án FDI, tạo ra kênh truyền tác động tràn tích cực hữu hiệu.
FDI tác động tới tăng trưởng kinh tế thông qua nhiều kênh khác nhau. Theo cách
tiếp cận hẹp, tác động đối với tăng trưởng của FDI thường được thông qua kênh đầu
tư và gián tiếp thông qua các tác động tràn. Theo cách tiếp cận rộng, FDI gây áp lực
buộc nước sở tại phải nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia mà trước hết là cải thiện
môi trường đầu tư, qua đó làm giảm chi phí giao dịch cho các nhà đầu tư nước ngoài,
tăng hiệu suất của vốn và rốt cuộc là tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Một
số ý kiến còn cho rằng FDI có thể làm tăng đầu tư trong nước thông qua tăng đầu tư
của các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là những doanh nghiệp trong nước cung
cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp FDI hoặc tiêu thụ sản phẩm từ các doanh nghiệp


7

FDI. Đồng thời, các chính sách cải thiện cơ sở hạ tầng của chính phủ nhằm thu hút
nhiều vốn FDI hơn cũng thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước hình thành và phát
triển. Tiêu biểu như, nghiên cứu của Kokko (1994) chỉ ra mối quan hệ tương quan
thuận giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở Mê-hi-cô. Tác động tích cực của FDI tới tăng
trưởng cũng được kiểm định trong nghiên cứu của Kumar và Pradhan (2002) sử dụng
số liệu hỗn hợp cho 107 nước đang phát triển trong thời kỳ 1980-1999. L Alfaro, A
Chanda, S Kalemli-Ozcan,(2004) cung cấp bằng chứng rằng liên kết giữa FDI và tăng
trưởng là nhân quả và FDI thúc đẩy tăng trưởng thông qua thị trường tài chính.
(Borensztein và cộng sự, 1998) chỉ ra rằng FDI có thể được coi là một trong những
phương tiện truyền tải chính tiên tiến công nghệ đến các nước đang phát triển.
Trái lại cũng có một số ý kiến lo ngại về tác động tiêu cực của FDI, như việc thu
hồi đất với giá thấp để thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất đáp ứng nhu cầu
về cơ sở vật chất nhằm thu hút dòng vốn FDI đã làm mức độ đô thị hóa tại nhiều địa
phương gia tăng nhanh chóng. Cộng hưởng với việc chạy đua chính sách ưu đãi dành
cho nhóm các doanh nghiệp FDI đã thúc đẩy các tranh chấp, xung đột về đất đai ngày
càng một gia tăng giữa người dân với chính quyền địa phương, hay thậm chí các tranh

chấp dân sự về đất đai cũng gia tăng. Cao và các cộng sự (2010) chỉ ra rằng chính
phủ có xu hướng đưa ra giá đất thấp để thu hút nguồn vốn FDI.
Bên cạnh đó, sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn FDI có thể gây cạnh tranh
khốc liệt với các doanh nghiệp trong nước mà phần thua thiệt thường là các doanh
nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp trong nước bị mất thị trường, mất lao động có
kỹ năng và vì vậy có thể dẫn đến phá sản. Ngoài ra, vốn FDI có thể làm cho đầu tư
trong nước bị thu hẹp do nhiều doanh nghiệp bị mất cơ hội đầu tư họăc đầu tư không
hiệu quả do trình độ công nghệ thấp kém, vốn ít. Điều này xảy ra khi xuất hiện tác
động lấn át đầu tư của doanh nghiệp FDI. Như trong nghiên cứu của Mencinger
(2003) về vai trò của FDI tới tăng trưởng của 8 nước chuyển đổi ở Đông Âu sử dụng
số liệu hỗn hợp cho thời kỳ 1994-2001 lại chỉ ra rằng FDI làm giảm khả năng bắt kịp
về tăng trưởng của các nước này với EU. Nguyên nhân có thể là do quy mô nhỏ của
các nền kinh tế này và FDI quá tập trung vào thương mại và tài chính nên đã làm


8

giảm tác động tràn về năng suất trong các ngành kinh tế nói chung. FDI cũng không
nhất thiết tăng áp lực cạnh tranh do các đối thủ cạnh tranh của nước nhận đầu tư hầu
hết là mới và nhỏ, do vậy dễ bị đẩy ra khỏi cuộc chơi.
1.1.2. Lý thuyết về phân cấp tài khóa.
Sau thời kỳ đổi mới (1986), Việt Nam đã đẩy mạnh việc phân cấp quản lý kinh
tế bao trùm nhiều lĩnh vực: quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển; ngân sách
nhà nước; đất đai, tài nguyên; doanh nghiệp nhà nước; hoạt động sự nghiệp, dịch vụ
công; và tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức. Chính phủ kỳ vọng rằng chính sách phân
cấp sẽ giúp phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Vậy phân cấp là gì?
Phân cấp được hiểu là một quá trình chuyển giao trách nhiệm và quyền hạn từ
chính quyền trung ương cho chính quyền địa phương hay khu vực tư nhân (World

Bank, 2001). Tùy thuộc vào các chức năng cụ thể được chuyển từ các cơ quan chính
quyền trung ương, có ba loại phân cấp chính: Phân cấp hành chính chuyển trách
nhiệm về thủ tục hành chính; phân cấp chính trị đại biểu quyền bầu cử và lập pháp
cho chính quyền địa phương; phân cấp tài chính chuyển cả nguồn lực và trách nhiệm
tài trợ cho các dịch vụ của chính phủ cho chính quyền địa phương. Ở một số quốc gia
đang tiến hành chuyển đổi hệ thống kinh tế như Việt Nam, phân cấp còn bao hàm sự
chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm từ chính quyền trung ương cho các doanh
nghiệp nhà nước và cho thị trường. Các hình thức phân cấp này có đặc điểm chung
là đều bắt đầu với sự minh định lại vai trò của nhà nước, để trên cơ sở đó tiến hành
phân định quyền hạn và trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, giữa nhà nước với thị
trường, và giữa khu vực nhà nước với khu vực tư nhân và khu vực dân sự.
Phân cấp tài khóa liên quan đến sự phân phối nguồn lực công giữa chính quyền
trung ương và chính quyền địa phương trong đó nhấn mạnh hai vấn đề cơ bản là sự
phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chi (Davey, 2003). Theo Hanai và Huyen (2004),
phân cấp tài khóa có thể định nghĩa là sự phân công trách nhiệm và quyền hạn, cũng
như lợi ích, giữa các cấp khác nhau của chính quyền về quản lý và thực hiện ngân


9

sách. Có thể nói phân cấp ngân sách là trọng tâm của mọi biện pháp phân cấp. Mỗi
đơn vị phân cấp chỉ có thể độc lập thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp khi họ có
đủ các nguồn lực cần thiết và có quyền đưa ra các quyết định chi tiêu. Bốn nội dung
trọng tâm của phân cấp ngân sách bao gồm
(i) chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm chi tiêu;
(ii) chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm thu ngân sách;
(iii) chuyển giao ngân sách từ trung ương cho địa phương và điều tiết ngân
sách từ địa phương về trung ương;
(iv) quy định về khả năng đi vay và phát hành nợ của chính quyền địa phương.
Nghiên cứu của Mello và Barenstein (2001) sử dụng dữ liệu bảng của 78 quốc

gia từ năm 1980 đến năm 1992 đã cho thấy sự phân cấp tài khóa và quản trị công có
tác động tích cực đến tăng trường kinh tế. Bằng chứng thực nghiệm về tác động tích
cực của phân cấp tài khóa cũng được tìm thấy tại Pasikan trong hai giai đoạn 19712005 và 1972-2009 (Malik và cộng sự, 2005).Với bộ dữ liệu của 28 tỉnh tại Trung
Quốc trong giai đoạn từ 1970 đến 1993, Lin và Liu (2000) cũng tìm thấy kết quả
tương tự.
Các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm ủng hộ việc phân cấp tài khóa đều
cho rằng nhờ ở gần dân hơn so với chính quyền trung ương, chính quyền địa phương
có thông tin tốt hơn về nhu cầu và ý muốn của người dân, đồng thời thấu hiểu hơn
những điều kiện đặc thù của địa phương. Vì vậy, chính quyền địa phương có thể đáp
ứng nhanh hơn và hiệu quả hơn trước các yêu cầu của người dân so với chính quyền
trung ương (Ebel & Yilmaz, 2002). Ngược lại, vì người dân ở gần chính quyền địa
phương nên tiếng nói của họ sẽ có tác động trực tiếp đến chính quyền địa phương
trong quá trình sử dụng ngân sách nhà nước, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm
giải trình (Dabla, 2006). Hơn nữa, việc thúc đẩy phân cấp tài khóa không những thúc
đẩy cải thiện hiệu quả Pareto mà còn giảm sự bất bình đẳng về kinh tế giữa các địa
phương (Ezcurra & Pasucal, 2008)
Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc phân cấp tài khóa cũng có những điểm rủi ro
đáng phải lưu ý, đặc biệt là khi phân cấp tài khóa quá mạnh mẽ (Morgan, 2002).


10

Trước hết, đó là việc gia tăng bất bình đẳng về tài chính giữa các địa phương do việc
thu thuế không tương xứng với quy mô chi tiêu của địa phương. Hai là, việc gia tăng
phân cấp có thể tăng rủi ro trong quản lý nguồn lực địa phương (ADB, 2004). Nghiên
cứu của Roden (2002) cho rằng phân cấp tài khóa là tiêu cực, đặc biệt là ở các quốc
gia đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi. Ông lập luận rằng các vấn đề
thường đi kèm với phân cấp là thâm hụt ngân sách, tham nhũng, tác động của các
nhóm lợi ích, gia tăng bất bình đẳng và cuối cùng là nền kinh tế giảm tăng trưởng.
Mello (2000) khẳng định thất bại của việc phân cấp tài khóa là do thành kiến về thâm

hụt tài khóa và quản trị công yếu kém, không đáp ứng các yêu cầu cơ bản của chính
sách phi tập trung hóa. Nghiên cứu tại Nigeria của Philip và Isah (2012) cũng cho
thấy phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi có tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
Đối với nền kinh tế Việt Nam, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thì quá
trình phân cấp chi ngân sách đã xuất hiện những hạn chế như: quá trình phân cấp tràn
lan, thiếu quy hoạch và phân tán dẫn đến chi tiêu quá nhiều gây thâm hụt ngân sách;
chất lượng quy hoạch kém dẫn tới kém hiệu quả trong đầu tư công, tính minh bạch
và trách nhiệm giải trình thấp (Vũ Thành Tự Anh, 2012). Chính điều này đã dẫn đến
xuất hiện hiện tượng đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân, làm giảm tăng trưởng kinh tế
trong những năm gần đây (Tô Trung Thành và Nguyễn Chí Dũng, 2011).
1.1.3. Lý thuyết về xung đột đất đai
Đất đai đang ngày trở nên khan hiếm do sự gia tăng dân số và do nhu cầu sử
dụng đất của mỗi cá nhân đang ngày càng gia tăng. Thật vậy, đất đai là thứ mà Bogale
và các cộng sự gọi là tài nguyên cơ bản nhất (Bogale và các cộng sự, 2006). Xung
đột đất đai xảy ra là do sự mâu thuẫn giữa nhu cầu sử dụng đất hiện tại với quan điểm
về việc sử dụng và quản lý quỹ đất trong tương lai của các cơ quan quản lý (O’Neill
& Walsh, 2000). Cốt lõi của nhiều xung đột thực tế là do đất đai cũng như xã hội luôn
thay đổi liên tục. Những thay đổi sử dụng đất được thúc đẩy bởi các đổi mới xã hội,
thể chế và công nghệ là những nguồn xung đột quan trọng nhất (Brown & Raymond,
2014; Ianos và cộng sự, 2012; Torre và cộng sự, 2006). Mối quan tâm ngày càng tăng
về môi trường, phát triển bền vững và sự phát triển đô thị cũng như mối quan tâm về


11

điều kiện môi trường sống của con người đã dẫn đến nhiều mối quan tâm hơn về xung
đột sử dụng đất (Haase và cộng sự, 2014; Torre và cộng sự, 2014).
Xung đột sử dụng đất được định nghĩa là các tình huống trong đó các bên liên
quan của các thành phần có lợi ích không tương thích liên quan đến việc sử dụng một
thửa đất nhất định (Von der Dunk và cộng sự, 2011). Thường xảy ra xung đột khi các

cá nhân tham gia vào việc phản đối dự án khỏi bị hiện thực hóa, nhưng cũng có khi
mọi người trở nên tích cực vì họ đánh giá lại các tác động có lợi/hại của dự án (Joerin
và cộng sự, 2010). Do đó, hầu hết các tranh chấp sử dụng đất phát sinh từ lợi ích cá
nhân. Bên cạnh đó, xung đột cũng có thể nảy sinh về những ý tưởng sự phát triển
trong tương lai của một khu vực.
Tuy nhiên, nếu xét theo một khía cạnh khác, xung đột đất đai không phải hoàn
toàn là tiêu cực. Xung đột có thể là chất xúc tác cho những cải tiến trong quản trị đất
đai và đổi mới trong tư duy quản lý, cũng như giúp phát hiện hoặc thậm chí là ngăn
chặn thói quen quan liêu (Forester, 2013; Griggs và cộng sự, 2014).
Hầu hết các nước phát triển đều được trang bị khung pháp lý điều chỉnh quyền
sở hữu, sử dụng đất và tìm cách phối hợp sử dụng theo cách giảm thiểu khả năng xảy
ra xung đột (Hersperger và cộng sự., 2014). Hơn nữa, có nhiều nghiên cứu về các kỹ
thuật để quản lý các bất đồng về tài nguyên và môi trường, bao gồm xung đột sử dụng
đất (Brody và cộng sự, 2004). Đàm phán xung đột, còn được gọi là hòa giải hoặc giải
quyết, được khái niệm hóa như các phương pháp và quy trình liên quan đến việc tạo
điều kiện kết thúc hòa bình của xung đột thường bằng cách tham gia đàm phán tập
thể.
Tại Việt Nam, xung đột đất đai gia tăng nhanh chóng từ năm 1994, khi Nhà
nước bắt đầu thực hiện chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các
chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư từ nước ngoài. Từng bước,
chính sách đất đai ngày càng cởi mở hơn để thu hút đầu tư nhất là đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài (FDI). Từ năm 1994 đến năm 2004, Nhà nước vẫn sử dụng chính sách
“Nhà nước thu hồi đất“ để giao cho mọi loại đầu tư được Nhà nước phê duyệt. Đó
cũng là nguồn căn của xung đột đất đai.


12

Từ năm 2004 đến nay, khi Luật Đất đai 2003, 2013 được ban hành thì cơ chế
Nhà nước thu hồi đất được được hạn chế phạm vi áp dụng chỉ cho những dự án vì lợi

ích quốc gia, lợi ích công cộng, quốc phòng, an ninh và các dự án có ý nghĩa kinh tế
lớn. Tuy nhiên, trên thực tế các chủ đầu tư vẫn có nhiều cách để “lách luật“ với sự
ủng hộ của chính quyền địa phương, có thể vì mục tiêu kêu gọi đầu tư cho địa phương
và cũng có thể liên quan đến nham nhũng.
Hệ quả của chính sách mở rộng đầu tư công nghiệp hóa, đô thị hóa đã làm cho
nền kinh tế Việt Nam có tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao, cả công nghiệp và dịch vụ
đều tăng trưởng khá tốt. Tuy nhiên, quá trình này cũng tạo sự gia tăng vấn đề tham
nhũng trong quản lý địa phương và khiếu kiện tập thể của những người mất đất. Tiêu
biểu là việc thu hồi đất sai thẩm quyền, không đúng chủ trương tại Khu đô thị Thủ
Thiêm, Tp Hồ Chí Minh khiến người dân khiếu kiện suốt 20 năm và chính quyền
Thành phố Hồ Chí Minh vẫn đang tìm cách khắc phục.
1.2.

Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ phân cấp tài khóa, FDI xung đột đất đai

1.2.1. Mối quan hệ phân cấp tài khóa và FDI
Theo lý thuyết, việc phân cấp, nhất là phân cấp tài khóa sẽ mở ra không gian
để chính quyền địa phương có thể phát huy thế mạnh của mình. Chính quyền địa
phương sẽ tận dụng tốt hơn lợi thế so sánh của địa phường mình để thu hút dòng vốn
FDI như cơ sở hạ tầng, quy hoạch, tính liên kết vùng…Trong nghiên cứu của mình
nhóm tác giả Diệp Gia Luật, Bùi Duy Tùng (2016) đã tìm thấy bằng chứng cho thấy
phân cấp tài khóa có tác động tích cực và ảnh hưởng đáng kể đến thu hút dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài khi kiểm tra mối quan hệ của phân cấp tài khóa và tăng
trưởng kinh tế của 62 tỉnh thành Việt Nam từ năm 2005 đến 2016.
Tuy nhiên, Cao và các cộng sự (2010) chỉ ra rằng chính phủ có xu hướng đưa
ra giá đất thấp để thu hút nguồn vốn FDI, điều này lại trở thành con dao hai lưỡi khi
tạo ra một cuộc đua về ưu đãi, nhất là ưu đãi về đất đai ở Việt Nam. Nguyên nhân là
do phân cấp ở Việt Nam không cân đối trên ít nhất hai khía cạnh. Thứ nhất là các nội
dung khác nhau của phân cấp không song hành với nhau, và do vậy không những
không tạo ra tác dụng cộng hưởng mà còn hạn chế hiệu quả của phân cấp. Chẳng hạn



13

như phân cấp về quản lý đất đai (đặc biệt là liên quan đến chuyển đổi mục đích sử
dụng đất) và quản lý FDI. Trong một chừng mực nào đó, phân cấp tài khóa đã diễn
ra khá mạnh mẽ, song lại không được đi kèm với phân cấp chính trị. Điều này có
nghĩa là không gian tự quyết của địa phương được mở rộng, nhưng cơ chế để buộc
chính quyền địa phương hành động thực sự vì lợi ích của người dân địa phương không
được cải thiện một cách tương ứng. Kết quả là không gian tự chủ rộng rãi hơn này có
thể bị lạm dụng, thậm chí đi ngược lại lợi ích của một bộ phận dân chúng địa phương.
Tiêu biểu đó là phong trào “xé rào” trong ưu đãi đầu tư FDI của 32 tỉnh - thành phố
trong giai đoạn 2001-2005 trong bối cảnh phân cấp quản lý FDI đang tiếp tục được
đẩy mạnh (Vũ Thành Tự Anh, Lê Viết Thái, và Võ Tất Thắng (2007)). Cụ thể là các
tỉnh này đã đưa ra những ưu đãi trái hoặc vượt quá khuôn khổ chính quyền trung
ương quy định cho các nhà đầu tư, đặc biệt là trong các khu công nghiệp. Trước tình
hình này, chính phủ đã ra lệnh chấm dứt ngay lập tức các ưu đãi đầu tư trái quy định
mà 32 tỉnh đang áp dụng. Nhiều bộ, trong đó có Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính, Bộ Tư pháp, Bộ Thương mại, Bộ Tài nguyên Môi trường, và Văn phòng Chính
phủ đã tham gia vào việc ban hành Quyết định này. Quyết định của Thủ tướng cũng
đã yêu cầu UBND của tất cả 64 tỉnh thành phải báo cáo về tất cả các vi phạm trong
các quy định về ưu đãi đầu tư. 32 tỉnh xé rào ngoài ra còn được yêu cầu phải báo cáo
về các biện pháp mà họ đã thực hiện để khắc phục những vi phạm đã mắc phải. Mặc
dù hạn nộp báo cáo là ngày 01/03/ 2006, nhưng cho đến ngày 2/8/2006, vẫn còn 22
tỉnh chưa nộp. Trong số 42 tỉnh đã nộp báo cáo, một số tỉnh báo cáo một cách chiếu
lệ về những biện pháp khắc phục mà không hề đưa ra một danh sách các vi phạm như
chính quyền trung ương đã yêu cầu. Ví dụ này cho thấy mức độ tuân thủ của chính
quyền địa phương đối với quyết định của chính quyền trung ương (còn gọi là trách
nhiệm giải trình lên trên) là rất hạn chế.
1.2.2. Mối quan hệ phân cấp tài khóa và xung đột đất đai

Việc phân cấp tài khóa sẽ tác động đến xung đột đất đai ở thái cực:
-

Tác động tích tích cực:


14

Việc phân cấp tài khóa, trong cả phân cấp thu và phân cấp chi ngân sách, đều
có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế địa phương (Diệp Gia Luật, Nguyễn Đào
Anh (2019).
Về phân cấp chi, việc gia tăng phân cấp tài khóa cho địa phương sẽ giúp chính
quyền địa phương sử dụng nguồn lực tốt hơn do ở gần dân hơn, hiểu được nhu cầu
của người dân hơn chính quyền trung ương. Do đó, chính quyền địa phương có thể
đáp ứng nhanh hơn và hiệu quả hơn trước các yêu cầu của người dân so với chính
quyền trung ương (Ebel & Yilmaz, 2002). Ngược lại, vì người dân ở gần chính quyền
địa phương nên tiếng nói của họ sẽ có tác động trực tiếp đến chính quyền địa phương
trong quá trình sử dụng ngân sách nhà nước, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm
giải trình (Dabla, 2006) từ đó giúp hạn chế các xung đột xã hội sảy ra, trong đó có
xung đột về đất đai.
Về phân cấp thu, phân cấp tài chính khuyến khích chính quyền địa phương
đầu tư vào cơ sở hạ tầng để gia tăng cơ sở thuế, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, phân cấp tài khóa đang khuyến khích chính quyền cấp tỉnh tại Việt Nam
khai thác tốt hơn về tìm lực của mình. Một trong số đó là nguồn thu từ đất đai. Điều
này sẽ bắt buộc chính quyền phải nâng cao việc quản trị, nhất là quản trị về đất công.
Điển hình là việc yêu cầu các đơn vị sự nghiệp của TP Hồ Chí Minh phải thực hiện
đấu giá khi sử dụng đất công cho mục đích liên doanh – liên kết. Từ đó, giúp chống
thất thu cho ngân sách và chính quyền địa phương sẽ có đủ nguồn lực để thực hiện
các chính sách đầu tư, an sinh xã hội góp phần cải thiện đời sống của người dân và
giảm được các xung đột phát sinh.

-

Về mặt tiêu cực:

+ Thứ nhất, Việc phân cấp tài chính cũng làm tăng áp lực lên chính quyền địa
phương để tăng doanh thu. Với doanh thu thuế không đủ, họ sẽ phụ thuộc nhiều hơn
vào tài chính đất đai để trang trải chi tiêu (Nitikin, Shen, Zou, 2012). Áp lực tăng thu
nhập và khuyến khích thu hút vốn từ đó dẫn đến việc gia tăng thu hồi đất và cuối
cùng có thể dẫn đến xung đột với người bị thu hồi đất (Cao 2008). Một phương pháp
đang được chính quyền địa phương áp dụng đó là thu hồi đất từ nông dân và xây dựng


15

các khu công nghiệp, khu chế xuất cho các nhà đầu tư thuê lại với giá thấp. Điều này
sẽ giúp thu hút được các nhà đầu tư, do lợi thế về chi phí, đặc biệt là các nhà đầu tư
nước ngoài. Trong nhiều trường hợp, chi phí thu hồi và chuẩn bị đất ở các khu công
nghiệp có thể cao hơn nhiều so với doanh thu cho thuê dẫn đến giá đền bù cho nông
dân chỉ có thể được giữ ở mức thấp để cân bằng ngân sách.
+ Thứ hai, Việc phân cấp nhưng không đi kèm với yêu cầu giải trình sẽ dẫn
đến vấn nạn tham nhũng. Roden (2002) lập luận rằng các vấn đề thường đi kèm với
phân cấp là thâm hụt ngân sách, tham nhũng, tác động của các nhóm lợi ích, gia tăng
bất bình đẳng và cuối cùng là nền kinh tế giảm tăng trưởng. Do đó, để phân cấp một
cách hiệu quả và công bằng thì phân cấp phải được thực hiện cùng với các điều kiện
về minh bạch thông tin, tiếng nói, trách nhiệm giải trình, nguồn lực, và quy mô. Và
để đo lường về tính minh bạch, trách nhiệm giải trình chúng ta có thể sử dụng Chỉ số
hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) như một công cụ để đánh giá
khá tốt. Chỉ số PAPI được đo lường ở Việt Nam từ năm 2010 và nó đã cho thấy mức
độ minh bạch về thông tin rất thấp. Chẳng hạn như trong cả hai năm 2010 và 2011,
có tới khoảng một phần ba số người được phỏng vấn chưa từng nghe đến khẩu hiệu

“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, mặc dù khẩu hiệu này đã được nói đi nói
lại nhiều lần từ Đại hội Đảng VI năm 1986 đến nay. Với tính giải trình không cao,
lúc này, các quyết sách của chính quyền sở tại sẽ không vì lợi ích của toàn xã hội nữa.
Chính điều này sẽ gây ra sự nghi ngờ của người dân đối với các quyết định của chính
quyền địa phương nhất là các quyết định về thu hồi đất. Ngoài ra, việc phân cấp cho
chính quyền thực hiện việc thu hồi đất với diện tích lớn để xây dựng các khu công
nghiệp, nhưng lại xây dựng phương án bồi thường, phương án tái định cư cho người
dân không hợp lý cũng gây ra mâu thuẫn của người dân với chính quyền địa phương.
Với giá đền bù quá thấp như hiện nay, người bị thu hồi đất - nhất là đất nông nghiệp
- không đủ khả năng để tái đầu tư, dẫn đến không đảm bảo được sinh kế, buộc lòng
họ phải đáu tranh và dẫn đến khiếu nại kéo dài.
+ Thứ ba, việc phân cấp tài khóa giúp thúc đẩy phát triển kinh tế cũng có mặt
không tốt, đó là vấn đề đô thị hóa quá nhanh. Khi việc đô thị hóa nhanh sẽ thúc đẩy


16

nhu cầu về nhà ở. Giá của bất động sản ngày một gia tăng cũng là một trong những
nguyên nhân xảy ra xung đột về đất đai.
1.2.3. Mối quan hệ FDI và xung đột đất đai
Thực tiễn đã cho thấy, nguồn vốn FDI đi nào nước ta chủ yếu tập trung tại lĩnh
vực Công nghiệp chế biến, chế tạo và Hoạt động Kinh doanh bất động sản (chiếm
76%), cụ thể, chỉ riêng trong năm 2017 tổng số vốn FDI đăng ký đầu tư vào lĩnh vực
bất động sản là 8,253 tỷ USD chiếm 23% trên tổng số vốn FDI đăng ký, và lũy kế
các dự án còn hiệu lực đến năm 2017 thì lĩnh vực Bất động sản cũng chiếm đến 17%
với 53,2 tỷ USD.(bảng 1.1)
Bảng 1.1. Tổng vốn FDI đăng ký năm 2017 và lũy kế đến năm 2017

Đvt: Triệu đô
la

Lĩnh Vực
Tổng số
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Khai khoáng
Công nghiệp chế biến, chế tạo
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước
nóng, hơi nước và điều hoà không khí
Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác
thải, nước thải
Xây dựng
Bán buôn và bán lẻ; sử chữa ô tô, mô tô, xe
máy và xe có động cơ khác
Vận tải, kho bãi
Dịch vụ lưu trú và ăn uống
Thông tin và truyền thông
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
Hoạt động kinh doanh bất động sản
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ
Giáo dục và đào tạo
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội

36.368,6
180,6
26,3
19.378,0
1.817,4

Tổng vốn
đăng ký lũy

kế đến năm
2017
319.613,1
3.521,2
4.876,0
186.514,2
20.820,9

299,8

2.338,5

659,2
1.727,6

10.846,5
6.200,0

440,8
373,8
591,8
34,3
8.253,3
997,0
193,8
79,7
154,1

4.646,7
12.004,2

3.336,5
1.487,8
53.226,0
3.096,3
527,1
759,9
1.867,0

Tổng vốn đăng
ký năm 2017


×