ĐỘNG LỰ C 3.0
− 4 −
ĐÂU LÀ ĐỘNG LỰC
VÀ NHU CẦU CỦA CON
NGƯỜI?
rong quản trị học hiện đại, việc xác định được động cơ,
động lực của con người trong công việc giữ vai trò quan
trọng và là bài toán then chốt của quản trị nhân sự.
Hơn một
thế kỷ qua, các nhà khoa học đã rất nỗ lực đưa ra nhiều lý
thuyết, giải thích về động lực của con người.
Trước tiên có thể kể đến Sigmund Freud − người tìm ra
nhu cầu, động lực và phân tích hành vi của con người với
lý thuyết “X”. Ông cho rằng bản chất con người là lười
biếng. Con người ghét lao động và bởi vậy luôn tìm
cách
trốn tránh làm việc. Con người không có tham vọng, không
đưa ra bất kỳ sáng kiến nào và tìm cách né tránh mọi trách
nhiệm. Tất cả những gì con người muốn là sự an toàn
cho
bản thân và không phải làm bất cứ điều gì. Do vậy, con
người cần được thưởng, cần bị ép buộc, cần bị cảnh cáo và
bị phạt. Đây chính là triết lý “cây gậy
và củ cà rốt” trong
quản lý. Nếu lý thuyết này có giá trị thì nhà quản lý sẽ phải
liên tục quản thúc chặt chẽ nhân viên của mình − những
người mà họ không thể tin tưở
ng và cộng tác. Trong bầu
T
Lờ i tự a
− 5 −
không khí ngột ngạt như vậy, đối với cả người quản lý và
người bị quản lý, không có bất kỳ cơ hội nào cho thành
công hay sáng tạo cả.
Hoàn toàn trái ngược với Freud,
Douglas McGregor
(1906‐1964) − giáo sư về quản trị của Trường Kinh doanh
Sloan tại Đại học MIT − lại tin rằng con người luôn muốn
học hỏi và đó là hành vi thuộc về bản chất
của nhân loại,
nhờ đó, họ tự xây dựng tính kỷ luật và tự phát triển. Lý
thuyết Y này cho rằng con người không coi trọng phần
thưởng thể hiện bằng tiền bạc mà coi
trọng quyền tự do
được đương đầu với khó khăn và thách thức. Công việc
của người quản lý là “chắp cánh” cho ước nguyện tự phát
triển và hướng chúng theo nhu cầu chung c
ủa tổ chức là
hiệu quả và năng suất tối đa.
Liệu điều này có quá lý tưởng để có thể trở thành hiện
thực không? Với một số người, điều này có thể được hiểu
rằng, lý thuyết quản trị “Y” đồng nghĩa với quản lý lỏng
lẻo và chậm chạp. Điều này không đúng và phần chứng
minh nằm trong chiếc “pudding”, bởi giá trị của lý thuy
ết
này đã được khẳng định tại Mỹ cũng như nhiều nơi khác.
Để có được kết quả tốt nhất, nhân sự được lựa chọn cẩn
trọng và hình thành các nhóm đồng nhất. Người lãnh đạo
tài ba của nhóm có thể “biến mất” trong các cuộc họp của
nhóm và những thành viên còn lại có thể thảo luận thoải
mái về các vấn đề, qua đó, giúp họ chọn lọc
và “chuẩn bị”
cho sự xuất hiện một lãnh đạo mới. Người lãnh đạo không
còn thèm muốn quyền lực nữa. Từng thành viên được tự
do phát triển, và thậm chí thích thú quan sát quá
trình phát
ĐỘNG LỰ C 3.0
− 6 −
triển và hiện thực hoá các ý tưởng cá nhân khác trong
nhóm như thể của chính họ. Kết quả là tất cả mọi người, và
tất cả các tổ chức, đều được hưởng lợi.
Tuy nhiên,
ngày nay, lý thuyết đang chiếm ưu thế trong
quản trị học là Lý thuyết “Z” của Abraham Maslow (1908‐
1970) − được thế giới biết đến qua mô hình nổi tiếng Tháp
nhu cầu và được coi là cha đẻ
của tâm lý học nhân văn. Tháp
nhu cầu của Maslow được đưa ra vào năm 1943 trong bài
viết
A Theory of Human Motivation
và là một trong những lý
thuyết quan trọng nhất của quản trị kinh doanh; đặc biệt là
các ứng dụng cụ thể trong quản trị nhân sự và quản trị
marketing.
Đây là một thay đổi hoàn
toàn mới kể từ lý thuyết “X”
của Freud. Maslow bác bỏ hoàn toàn các cơ sở tăm tối và
xám xịt của Freud. Ông mang đến một không khí trong
lành, cởi mở, tràn đầy ánh nắng và
thân ái. Ông được coi
là nhân vật dựng lên chủ nghĩa nhân văn hay lực lượng
thứ ba với luận điểm rằng bản chất của con người là tốt
đẹp, ít nhất, là
khi sinh ra, rồi sau đó, có thể họ dần đánh
mất các đức tính tốt đẹp của mình.
Maslow chủ yếu quan tâm tới ý nghĩa và tầm quan
trọng trong công việc của con người, ông
cho rằng “lao
động sẽ xua đuổi ba con quỷ khủng khiếp nhất − sự buồn
tẻ, sự đồi bại, và sự nghèo đói”. Nhà hiền triết vĩ đại
Yajnavalkya đã giải thích rằng lao động tốt bi
ến con người
thành thiên thần, cũng như quỷ sứ làm các điều tội lỗi.
Nhân cách của mỗi con người là tổng hợp các hành vi và
việc làm của anh ta và chỉ có lao độ
ng mới giải thoát con
Lờ i tự a
− 7 −
người khỏi cái chết. Đây có lẽ chính là bản chất của lý
thuyết trật tự về nhu cầu do Maslow đề xướng.
Lý thuyết của Maslow về động lực của con người, trên
thực t
ế, có cùng cơ sở với lý thuyết “Y” của McGregor.
Theo Maslow, về căn bản, nhu cầu của con người được
chia làm hai nhóm chính: nhu cầu cơ bản (basic needs) và
nhu cầu bậc cao
(meta needs). Nhu cầu cơ bản liên quan
đến các yếu tố sinh lý của con người như mong muốn có
đủ thức ăn, nước uống, được ngủ nghỉ... Những nhu cầu
cơ bản này đều không th
ể thiếu vì nếu con người không
được đáp ứng đủ những nhu cầu này, họ sẽ không tồn tại
được nên họ sẽ đấu tranh để có được và tồn tại trong cuộc
sống hàng ngày. Các nhu cầu
cơ bản của con người xếp
theo trật tự từ thấp đến cao, theo Maslow gồm: nhu cầu
vật lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu được yêu thương, nhu
cầu được kính trọng, nhu cầu
tự hoàn thiện.
Hành vi của con người chịu sự chi phối của các nhu
cầu chưa được thoả mãn và con người luôn đòi hỏi nhiều
hơn. Khi một nhu cầu được thoả mãn, con
người lại khát
khao nhu cầu cao hơn. Do đó, đây là một chuỗi các hoạt
động liên tục trong đó, con người miệt mài hoàn thiện qua
quá trình tự phát triển.
Giai đoạn cao nhấ
t của quá trình tự hoàn thiện được
đặc trưng bởi tính chính trực, tinh thần trách nhiệm, tính
khoan dung, tính giản dị và tự nhiên. Các cá nhân trong
quá trình tự hoàn thiện tập trung vào các
vấn đề ngoại lai
với chính bản thân họ. Sứ mệnh của anh ta để bảo vệ nhân
loại rất đơn giản nhưng không dễ thực hiện: “Lao động
ĐỘNG LỰ C 3.0
− 8 −
chăm chỉ và cam kết thực hiện tốt nhất công việc mà số
phận kêu gọi bạn thực hiện, hoặc bất kỳ nhiệm vụ quan
trọng nào cần thực hiện.”
Tiếp
nối những nghiên cứu của các lý thuyết gia tên tuổi
trước đây, Daniel Pink lại có những tìm tòi mới của ông về
động cơ và động lực của con người. Trong cuốn sách
các
bạn cầm trên tay, xã hội, được ví như máy tính, cũng có
những hệ điều hành – tức là một bộ gồm các chỉ dẫn và tiêu
chuẩn vô hình làm nền tảng cho mọ
i hoạt động. Hệ điều
hành đầu tiên của loài người – động lực 1.0 – có nội dung
cơ bản là sự sinh tồn. Hệ điều hành thứ hai − tức động lực
2.0 − được xây dựng xung quanh
những phần thưởng và sự
trừng phạt ngoại vi. Hệ điều hành này hoạt động tốt đối
với những công việc đơn điệu thường ngày của thế kỷ XX.
Nhưng sang thế kỷ XXI, Độ
ng lực 2.0 không còn tỏ ra
tương thích với cách chúng ta bố trí sắp xếp những việc
mình làm, cách chúng ta nghĩ về những việc mình làm, và
cách chúng ta thực hiện những công vi
ệc đó nữa. Chính
những lý do đó đã dẫn đến sự ra đời của động lực 3.0.
Động lực 2.0 phụ thuộc vào và đồng thời cũng là tác
nhân nuôi dưỡng hành vi Loại X – t
ức hành vi được khích
lệ bởi những khao khát ngoại vi hơn là những khao khát
nội tại; nó cũng không liên quan nhiều tới sự thoải mái tự
thân của một hành động mà liên
quan tới các phần thưởng
bên ngoài, vốn là “miếng mồi” nhử hoạt động. Trong khi
đó, Động lực 3.0 – tức sự cách tân cần thiết giúp bôi trơn
hoạt động kinh doanh trong thế kỷ
XXI – lại phụ thuộc vào
và nuôi dưỡng hành vi Loại I. Hành vi Loại I ít chú trọng
tới các phần thưởng bên ngoài mà một hoạt động mang lại,